Buổi tập hợp và cầu nguyện của Ca Đoàn Lavang tại Giáo Xứ Đức Mẹ Lavang Houston
Xin bấm vào (link) hàng chữ xanh dưới đây để xem tường trình
Buổi tập hợp và cầu nguyện của Ca Đoàn Lavang tại Giáo Xứ Đức Mẹ Lavang Houston | Facebook | Facebook
Xin bấm vào (link) hàng chữ xanh dưới đây để xem tường trình
Buổi tập hợp và cầu nguyện của Ca Đoàn Lavang tại Giáo Xứ Đức Mẹ Lavang Houston | Facebook | Facebook
Sự Thật "ĐÚNG hay SAI" "CÓ hay KHÔNG"
Thấy trong trang mạng http://www.nguoitinhuu.org/chiase/TrangDo/doidienkhtinhduc.html có bài viết: "ĐỐI DIỆN VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG XÂM PHẠM TÌNH DỤC" rất hay, nhất là câu số 2 như sau:
2. Biết chuyện sai lầm mà im lặng là sai lầm.
Thái độ im lặng che giấu để giữ uy tín cho Giáo Hội là sai lầm. Nó không những khiến chúng ta mang tội đồng lõa mà còn gây ra tổn hại lớn cho Giáo Hội (7). Giám Mục Jaime Soto, địa phận Sacramento, California đã gửi thư cho toàn thể tín hữu trong giáo phận yêu cầu tố cáo ngay những tu sĩ hay viên chức nào có hành vi xâm phạm tình dục. Tôi tin rằng những vị giám mục ở khắp nơi trên nước Mỹ cũng có những lời kêu gọi tương tự. Rõ nghĩa hơn, Giám Mục Allen Vigneron, giáo phận Detroit dạy rằng tố cáo tội lỗi là phương cách tẩy sạch ô uế cho Giáo Hội. Người nói, “Chúng ta phải tiến về phía trước với niềm tin Thiên Chúa không từ bỏ Hội Thánh của Người. Chúa muốn tẩy sạch những tội lỗi ô uế để có cuộc sống mới.” Chúng ta cũng có thể tự trả lời cho câu hỏi: Thiên Chúa muốn tẩy sạch tội lỗi hay muốn bao che tội lỗi?
Xin chuyển bài tố cáo Cha Peter Trần Công Hùng là linh mục thuộc Phụ tỉnh Đa-Minh Việt Nam Hải Ngoại về hành vi tình dục sai trái dưới đây đến quí vị nào biết sự thật "ĐÚNG hay SAI" "CÓ hay KHÔNG" mà báo cho vị chủ chăn của Giáo Phận nơi mình ở để làm sáng tỏ.
Một linh mục gốc Việt ở Calgary, tỉnh bang Alberta bị tố cáo về hành vi tình dục sai trái.
Thursday, 11/10/2018 - 10:04:09
Thấy trong trang mạng http://www.nguoitinhuu.org/chiase/TrangDo/doidienkhtinhduc.html có bài viết: "ĐỐI DIỆN VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG XÂM PHẠM TÌNH DỤC" rất hay, nhất là câu số 2 như sau:
2. Biết chuyện sai lầm mà im lặng là sai lầm.
Thái độ im lặng che giấu để giữ uy tín cho Giáo Hội là sai lầm. Nó không những khiến chúng ta mang tội đồng lõa mà còn gây ra tổn hại lớn cho Giáo Hội (7). Giám Mục Jaime Soto, địa phận Sacramento, California đã gửi thư cho toàn thể tín hữu trong giáo phận yêu cầu tố cáo ngay những tu sĩ hay viên chức nào có hành vi xâm phạm tình dục. Tôi tin rằng những vị giám mục ở khắp nơi trên nước Mỹ cũng có những lời kêu gọi tương tự. Rõ nghĩa hơn, Giám Mục Allen Vigneron, giáo phận Detroit dạy rằng tố cáo tội lỗi là phương cách tẩy sạch ô uế cho Giáo Hội. Người nói, “Chúng ta phải tiến về phía trước với niềm tin Thiên Chúa không từ bỏ Hội Thánh của Người. Chúa muốn tẩy sạch những tội lỗi ô uế để có cuộc sống mới.” Chúng ta cũng có thể tự trả lời cho câu hỏi: Thiên Chúa muốn tẩy sạch tội lỗi hay muốn bao che tội lỗi?
Xin chuyển bài tố cáo Cha Peter Trần Công Hùng là linh mục thuộc Phụ tỉnh Đa-Minh Việt Nam Hải Ngoại về hành vi tình dục sai trái dưới đây đến quí vị nào biết sự thật "ĐÚNG hay SAI" "CÓ hay KHÔNG" mà báo cho vị chủ chăn của Giáo Phận nơi mình ở để làm sáng tỏ.
Một linh mục gốc Việt ở Calgary, tỉnh bang Alberta bị tố cáo về hành vi tình dục sai trái.
Thursday, 11/10/2018 - 10:04:09
CALGARY, Canada - Một linh mục Công giáo ở Calgary, tỉnh bang Alberta đã bị tố cáo có hành vi sai trái về tình dục, xảy ra trong thời gian ông phục vụ ở Vancouver.
Cha Peter Trần Công Hùng là linh mục quản xứ của nhà thờ St. Francis of Assisi, ở trung tâm thành phố Calgary, từ năm 2016 cho đến khi ông bị bãi nhiệm mới đây. Trước đây ông làm cha phó tại Giáo Xứ Thánh Vincent Liêm ở Calgary, từ năm 2003 tới năm 2007, và tại giáo xứ Ascension Parish ở Calgary từ năm 1996 đến 1998.
Ông Trần Công Hùng cũng từng làm cha quản nhiệm tại giáo xứ Edmonton's Queen of Martyrs Parish, từ năm 2007 tới năm 2016, và làm cha phó xứ tại St. Joseph's Parish ở Vancouver, từ năm 1998 đến năm 2003.
Những chi tiết về các cáo buộc đó đều không được biết đến tại thời điểm này. Tuy nhiên giáo phận Calgary nói rằng có những cáo buộc về hành vi sai trái đối với một em vị thành niên và một người lớn.
“Chúng tôi nhận được tin từ Vancouver, nơi mà cáo buộc về sự lạm dụng đã diễn ra; tuy nhiên, linh mục đang làm việc tại Calgary,” Cha Tim Boyle, đại diện cho Giám Mục William McGrattan của Calgary, nói với báo chí ngày thứ Tư, 10 tháng 10, 2018. “Ông ấy đã bị tạm ngưng công tác, và cuộc điều tra đang diễn ra.”
Giám Mục McGrattan nói rằng các giáo xứ nơi linh mục Hùng từng làm việc đều đã được thông báo về những điều cáo buộc đó vào cuối tuần qua.
Giám mục này nói, “Chúng tôi cố gắng thẳng thắn và minh bạch, để nói rằng những cáo buộc này là đáng kể và đáng tin. Tuy vậy vẫn có một cuộc điều tra đang diễn ra, và chúng tôi cần tôn trọng những nạn nhân đã lên tiếng, nhưng cũng có tiến trình đúng đắn ở đó, để cho chúng tôi không vội vàng phán xét một người nào đó là có tội.”
Về các cáo buộc đang được điều tra, Linh Mục Lê Thoại, người giữ chức Chưởng Ấn-Chánh Văn Phòng Giáo Phận Vancouver, cho biết hôm thứ Tư, “Ông ấy đã bảo một nạn nhân hãy ngồi trên đùi ông. Vì ngồi trên đùi có thể đưa đến việc ôm hoặc đụng chạm bằng tay. Đó là lời cáo buộc của nạn nhân. Cô ấy cũng nói rằng hành động hôn cũng cũng xảy ra.”
Cũng theo lời Linh Mục Lê Thoại, cáo buộc thứ hai xuất phát từ một phụ nữ nói rằng “ông ấy đã nắm tay và hôn tay cô ta.”
Hai phụ nữ đã đưa ra các cáo buộc riêng biệt, không cùng một lần.
Linh Mục Lê Thoại cho biết thêm, theo ghi nhận của nhật báo Calgary Herald, “Nạn nhân thứ nhì đã không tự lên tiếng. Tôi nghe về nạn nhân thứ nhì từ người thứ nhất, và tôi liên lạc với cô ta, hỏi về cáo buộc có đúng hay không, thì cô mới nói là chuyện ấy [nắm tay, hôn tay] có xảy ra.”
Linh Mục Lê Thoại cho biết nạn nhân thứ nhất cho biết sự việc xảy ra khi cô còn là vị thành niên. Thế nhưng Linh Mục Trần Công Hùng nói sự việc xảy ra khi cô đã 19 tuổi. “Thế nên chúng tôi chưa biết rõ thời điểm xảy ra sự việc thì nạn nhân được bao nhiều tuổi, vì sự việc xảy ra nhiều năm trước, trí nhớ không rõ lắm.”
Cha Lê Thoại nói rằng giáo phận đã không liên lạc với cảnh sát lúc bấy giờ và không có đơn khởi tố nào được đưa ra.
“Giờ đây nạn nhân là một người lớn,” Linh Mục Lê Thoại cho biết. “Cô ấy không muốn kiện cáo ai. Cô đã được nói về quyền được báo cảnh sát nhưng không từ chối. Cả hai phụ nữ đều từ chối báo cảnh sát.”
Việc tiết lộ này xảy ra khi giáo phận Calgary loan báo việc họ cam kết với một bản phúc trình mới đây của Các Giám Mục Canada về việc lạm dụng, trong lúc xảy ra một vụ bê bối lạm dụng tình dục toàn cầu làm rung chuyển Giáo Hội Công Giáo.
Giám Mục McGrattan nói, “Tôi muốn nhất quyết khẳng định việc tôi cam kết bảo đảm rằng mọi trẻ em và mọi người lớn dễ bị tổn thương đều được an toàn trong giáo phận chúng tôi.”
Giám mục cho biết nạn nhân đó đã không liên lạc với cảnh sát, và cả cảnh sát Calgary lẫn cảnh sát Vancouver đều nói rằng lúc này họ đang điều tra.
Linh mục Boyle nói rằng đã có một vụ kết tội một linh mục ở Calgary, và giáo phận này đang đối phó với ba trường hợp lịch sử, cả ba đều liên quan đến các linh mục đã chết từ đó.
Ông nói rằng giáo hội rất muốn nói chuyện với bất cứ người nào có thông tin về hành vi không phù hợp về phía linh mục Trần Công Hùng.
Cảnh sát Calgary không cho biết họ có điều tra vụ này hay không.
Giáo phận cho biết bất cứ ai có thông tin về hành vi sai trái của linh mục Trần Công Hùng thị hãy liên lạc với cảnh sát Calgary, qua số điện thoại 1-833-547-8360, hoặc với Cha Tim Boyle qua số (403) 330-5923.
http://www.viendongdaily.com/mot-linh-muc-goc-viet-o-bi-to-cao-ve-hanh-vi-tinh-duc-sai-nMnUnYnp.html
St. Francis Assisi‘s Parish
Cha Xứ: Ts. Phêrô Trần Công Hùng, O.P.
Địa chỉ: 211 6 Ave SE, Calgary, AB T2G 0G4, Canada
Website: www.stfranciscalgary.org
Tính từ khi giáo xứ thánh Vinh Sơn Liêm còn là cộng đoàn cho đến hôm nay, giáo xứ đã được quý cha sau đây phụ trách:
§ Cha Dominic Phạm Văn Bảo, O.P: 1978-1981 (quản nhiệm)
§ Cha Giuse Nguyễn Công Lý, O.P: 1981-1997 (Cha xứ)
§ Cha Giuse Nguyễn Ngọc Phi, O.P: 1997-2000 (Cha xứ)
§ Cha Phaolô Trần Trung Dung, O.P: 1999-2009 (Cha xứ).
§ Cha Giuse Vũ Quang Cảnh, O.P: 2009-đến nay (Cha xứ)
§ Cha Giuse Đặng Quốc An, O.P: 2000-2003 (Cha phó)
§ Cha Phêrô Trần Công Hùng, O.P: 2003-2007 (Cha phó) bị tố cáo về hành vi tình dục sai trái
§ Cha J.B. Nguyễn Nghiêu, O.P: 2007-2008 (Cha phó)
§ Cha Đaminh Đinh Minh Tiên, O.P: 2008-2009 (Cha phó)
§ Cha Đaminh Phạm Văn Bảo, O.P: 2009-2012 (Cha phó)
§ Cha Giuse Trần Vĩnh Hà, O.P: 2012-2013 (Cha phó)
§ Cha Micae Nguyễn Trí Phi, O.P: 2013-2015 (Cha phó)
Đọc tiếng Anh xin mở 2 links dưới đây:
http://canadianews.org/vancouver/2018/10/11/451206-allegations-of-sexual-misconduct-made-against-former-vancouver-priest.html
https://www.cbc.ca/listen/shows/the-homestretch/segment/15612855
Chuyện "ĐÚNG hay SAI" "CÓ hay KHÔNG" tại giáo xứ Đức Mẹ La Vang Houston TX
1, "Án lệnh của Tòa Án Harris County, Houston, Texas".
Chuyện này đã xảy ra cách nay 24 năm (1994-2018). Không biết Đức Tổng Giám Mục của Giáo Phận Galveston-Houston TX thời đó xét xử linh mục Nguyễn Hữu Dụ O.P (dòng Đa Minh) nguyên là chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ La Vang Houston TX 1987 - 1994 như thế nào?
Nếu Đức Tổng Giám Mục của Giáo Phận Galveston-Houston TX thời đó biết có "Án lệnh của Tòa Án Harris County, Houston, Texas" mà không điều tra, xét xử thì đây cũng là một tội dấu diếm che đậy.
LINH MỤC NGUYỄN HỮU DỤ (đã qua đời)
Vào ngày 14 tháng 12 năm1994, linh mục Nguyễn Hữu Dụ, sanh ngày 20/3/1920, tại Thái Bình, Bắc Việt, Việt Nam, số điện thoại (713) 999-1672, chánh xứ nhà thờ La Vang, địa chỉ 12311 Old Fulton, Houston, TX 77086 và Bà Nguyễn Thị Vui, sanh ngày 5/10/47, tại Việt Nam, địa chỉ 14902 Chipman, Houston, TX 77060, số điện thoại (713) 454-5913 là: cha Dụ và bà Vui can tội gian dâm THỔI KÈN tại sân đậu xe công cộng. Cha Dụ bị phạt $1000.00 ( một ngàn dollars ), và bà Vui bi phạt $1000.00 ( một ngàn dollars ) bởi Án lệnh của Tòa Án Harris County, Houston, Texas:
* *
*
THE STATE OF TEXAS D.A. LOG NUMBER: 160470
VS. CJIS TRACKING NO: 9001479421-A001
DU HUU NGUYEN SPN: ____01429137____ BY: DSF DA NO: 609
12311 OLD FULTON DOB: AM 3-20-20 AGENCY: HCSO
HOUSTON, TX 77086 DATE PREPARED: 12/4/94 O/R NO: 9412140857
AREST DATE: 12-14-94
NCIC CODE: 5300 02 RELATED CASES: CO-DEF: VUI NGUYEN
MISDEMEANOR CHARGE:
PUBLIC LEWDNESS
CAUSE NO: ________9450613 BAIL: $ 500.00
HARRIS COUNTY PRIOR CAUSE NO:
CRIMINAL COURT AT LAW NO: ____ 1
FIRT SETTING DATE: _____12-21-94
IN THE NAME AND BY AUTHORITY OF THE STATE OF TEXAS
Before me, the undersigned Assistant District Attorney of Harris County, Texas, this day appeared the undersigned affiant, who under oath says that he has good reason to believe and does believe that in Harris County, Texas, DU HUU NGUYEN, hereafter styled the Defendant, on or about DECEMBER 14, 1994, did then and there unlawfully knowingly engage in AN ACT OF DEVIATE SEXUAL INTERCOURSE, to-wit:BY ALLOWING VUI NGUYEN TO PUT HER MOUTH ON HIS GENTALS in public place, namely A PARKING LOT.
AGAINST THE PEACE AND DIGNITY OF THE STATE.
Sworn to and subscribed before me on _ ___December 14, 1994__
___ký tên__ _______ký tên____________________
AFFIANT ASSISTANT DISTRICT ATTORNEY
OF HARRIS COUNTY, TEXAS.
Probable Cause found ________. Capias to issue _____________________________
Date Magistrate, Harris County, Texas
COMPLAINT
FINED
KATHERINE TYRA
DISTRICT CLERK
HARRIS COUNTY TEXAS
94 DEC 14 PM 3:59
BY __ký tên_____________
DEPUTY
Trích Bờ Ảo Vọng, của Lê Trọng Văn, 1996, tr 250-251
( có ký tên và sẽ update nguyên bản án đóng phạt $1000.00)
2, Linh mục Antôn Đào Quang Chính O.P (thuộc Phụ tỉnh Đa-Minh Việt Nam Hải Ngoại) nguyên là chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ La Vang Houston TX 1995 - 2003. Không biết mang tai tiếng gì, và lý do tại sao mà không còn mặc áo chùng trắng của dòng Đa Minh nữa, bây giờ đổi qua áo chùng đen, và hiện nay đang làm mục vụ tại vùng nắng ấm Cali.
http://m.viendongdaily.com/lm-dao-quang-chinh-thuyet-trinh-truoc-cac-quy-chuc-cong-dong-cong-giao-vn-iO39nSHd.html
3, Nghe nói, có Cha cựu chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ La Vang Houston TX, trong thời gian làm chánh xứ đã chuyển cả mấy trăm ngàn đôla về Việt Nam. Không biết số tiền này gửi về để giúp đỡ cho việc truyền giáo của giáo hội Việt Nam hay cho người thân mua nhà cửa.
Xin giáo dân tại giáo xứ Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Lộ Đức và các Giáo Xứ cũng như Cộng Đoàn Việt Nam tại Houston TX cho bà con giáo dân khắp nơi được biết sự thật. Nếu CÓ và ĐÚNG sự thật thì chúng ta cần phải gửi thư lên cho Đức Hồng Y Daniel N. DiNardo là Tổng Giám Mục Galveston-Houston, TX, biết để xem xét và điều tra lại. Hiện nay, Đức Hồng Y Daniel N. DiNardo cũng là Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo tại Hoa Kỳ.
Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật
Cha Peter Trần Công Hùng là linh mục quản xứ của nhà thờ St. Francis of Assisi, ở trung tâm thành phố Calgary, từ năm 2016 cho đến khi ông bị bãi nhiệm mới đây. Trước đây ông làm cha phó tại Giáo Xứ Thánh Vincent Liêm ở Calgary, từ năm 2003 tới năm 2007, và tại giáo xứ Ascension Parish ở Calgary từ năm 1996 đến 1998.
Ông Trần Công Hùng cũng từng làm cha quản nhiệm tại giáo xứ Edmonton's Queen of Martyrs Parish, từ năm 2007 tới năm 2016, và làm cha phó xứ tại St. Joseph's Parish ở Vancouver, từ năm 1998 đến năm 2003.
Những chi tiết về các cáo buộc đó đều không được biết đến tại thời điểm này. Tuy nhiên giáo phận Calgary nói rằng có những cáo buộc về hành vi sai trái đối với một em vị thành niên và một người lớn.
“Chúng tôi nhận được tin từ Vancouver, nơi mà cáo buộc về sự lạm dụng đã diễn ra; tuy nhiên, linh mục đang làm việc tại Calgary,” Cha Tim Boyle, đại diện cho Giám Mục William McGrattan của Calgary, nói với báo chí ngày thứ Tư, 10 tháng 10, 2018. “Ông ấy đã bị tạm ngưng công tác, và cuộc điều tra đang diễn ra.”
Giám Mục McGrattan nói rằng các giáo xứ nơi linh mục Hùng từng làm việc đều đã được thông báo về những điều cáo buộc đó vào cuối tuần qua.
Giám mục này nói, “Chúng tôi cố gắng thẳng thắn và minh bạch, để nói rằng những cáo buộc này là đáng kể và đáng tin. Tuy vậy vẫn có một cuộc điều tra đang diễn ra, và chúng tôi cần tôn trọng những nạn nhân đã lên tiếng, nhưng cũng có tiến trình đúng đắn ở đó, để cho chúng tôi không vội vàng phán xét một người nào đó là có tội.”
Về các cáo buộc đang được điều tra, Linh Mục Lê Thoại, người giữ chức Chưởng Ấn-Chánh Văn Phòng Giáo Phận Vancouver, cho biết hôm thứ Tư, “Ông ấy đã bảo một nạn nhân hãy ngồi trên đùi ông. Vì ngồi trên đùi có thể đưa đến việc ôm hoặc đụng chạm bằng tay. Đó là lời cáo buộc của nạn nhân. Cô ấy cũng nói rằng hành động hôn cũng cũng xảy ra.”
Cũng theo lời Linh Mục Lê Thoại, cáo buộc thứ hai xuất phát từ một phụ nữ nói rằng “ông ấy đã nắm tay và hôn tay cô ta.”
Hai phụ nữ đã đưa ra các cáo buộc riêng biệt, không cùng một lần.
Linh Mục Lê Thoại cho biết thêm, theo ghi nhận của nhật báo Calgary Herald, “Nạn nhân thứ nhì đã không tự lên tiếng. Tôi nghe về nạn nhân thứ nhì từ người thứ nhất, và tôi liên lạc với cô ta, hỏi về cáo buộc có đúng hay không, thì cô mới nói là chuyện ấy [nắm tay, hôn tay] có xảy ra.”
Linh Mục Lê Thoại cho biết nạn nhân thứ nhất cho biết sự việc xảy ra khi cô còn là vị thành niên. Thế nhưng Linh Mục Trần Công Hùng nói sự việc xảy ra khi cô đã 19 tuổi. “Thế nên chúng tôi chưa biết rõ thời điểm xảy ra sự việc thì nạn nhân được bao nhiều tuổi, vì sự việc xảy ra nhiều năm trước, trí nhớ không rõ lắm.”
Cha Lê Thoại nói rằng giáo phận đã không liên lạc với cảnh sát lúc bấy giờ và không có đơn khởi tố nào được đưa ra.
“Giờ đây nạn nhân là một người lớn,” Linh Mục Lê Thoại cho biết. “Cô ấy không muốn kiện cáo ai. Cô đã được nói về quyền được báo cảnh sát nhưng không từ chối. Cả hai phụ nữ đều từ chối báo cảnh sát.”
Việc tiết lộ này xảy ra khi giáo phận Calgary loan báo việc họ cam kết với một bản phúc trình mới đây của Các Giám Mục Canada về việc lạm dụng, trong lúc xảy ra một vụ bê bối lạm dụng tình dục toàn cầu làm rung chuyển Giáo Hội Công Giáo.
Giám Mục McGrattan nói, “Tôi muốn nhất quyết khẳng định việc tôi cam kết bảo đảm rằng mọi trẻ em và mọi người lớn dễ bị tổn thương đều được an toàn trong giáo phận chúng tôi.”
Giám mục cho biết nạn nhân đó đã không liên lạc với cảnh sát, và cả cảnh sát Calgary lẫn cảnh sát Vancouver đều nói rằng lúc này họ đang điều tra.
Linh mục Boyle nói rằng đã có một vụ kết tội một linh mục ở Calgary, và giáo phận này đang đối phó với ba trường hợp lịch sử, cả ba đều liên quan đến các linh mục đã chết từ đó.
Ông nói rằng giáo hội rất muốn nói chuyện với bất cứ người nào có thông tin về hành vi không phù hợp về phía linh mục Trần Công Hùng.
Cảnh sát Calgary không cho biết họ có điều tra vụ này hay không.
Giáo phận cho biết bất cứ ai có thông tin về hành vi sai trái của linh mục Trần Công Hùng thị hãy liên lạc với cảnh sát Calgary, qua số điện thoại 1-833-547-8360, hoặc với Cha Tim Boyle qua số (403) 330-5923.
http://www.viendongdaily.com/mot-linh-muc-goc-viet-o-bi-to-cao-ve-hanh-vi-tinh-duc-sai-nMnUnYnp.html
St. Francis Assisi‘s Parish
Cha Xứ: Ts. Phêrô Trần Công Hùng, O.P.
Địa chỉ: 211 6 Ave SE, Calgary, AB T2G 0G4, Canada
Website: www.stfranciscalgary.org
Tính từ khi giáo xứ thánh Vinh Sơn Liêm còn là cộng đoàn cho đến hôm nay, giáo xứ đã được quý cha sau đây phụ trách:
§ Cha Dominic Phạm Văn Bảo, O.P: 1978-1981 (quản nhiệm)
§ Cha Giuse Nguyễn Công Lý, O.P: 1981-1997 (Cha xứ)
§ Cha Giuse Nguyễn Ngọc Phi, O.P: 1997-2000 (Cha xứ)
§ Cha Phaolô Trần Trung Dung, O.P: 1999-2009 (Cha xứ).
§ Cha Giuse Vũ Quang Cảnh, O.P: 2009-đến nay (Cha xứ)
§ Cha Giuse Đặng Quốc An, O.P: 2000-2003 (Cha phó)
§ Cha Phêrô Trần Công Hùng, O.P: 2003-2007 (Cha phó) bị tố cáo về hành vi tình dục sai trái
§ Cha J.B. Nguyễn Nghiêu, O.P: 2007-2008 (Cha phó)
§ Cha Đaminh Đinh Minh Tiên, O.P: 2008-2009 (Cha phó)
§ Cha Đaminh Phạm Văn Bảo, O.P: 2009-2012 (Cha phó)
§ Cha Giuse Trần Vĩnh Hà, O.P: 2012-2013 (Cha phó)
§ Cha Micae Nguyễn Trí Phi, O.P: 2013-2015 (Cha phó)
Đọc tiếng Anh xin mở 2 links dưới đây:
http://canadianews.org/vancouver/2018/10/11/451206-allegations-of-sexual-misconduct-made-against-former-vancouver-priest.html
https://www.cbc.ca/listen/shows/the-homestretch/segment/15612855
Chuyện "ĐÚNG hay SAI" "CÓ hay KHÔNG" tại giáo xứ Đức Mẹ La Vang Houston TX
1, "Án lệnh của Tòa Án Harris County, Houston, Texas".
Chuyện này đã xảy ra cách nay 24 năm (1994-2018). Không biết Đức Tổng Giám Mục của Giáo Phận Galveston-Houston TX thời đó xét xử linh mục Nguyễn Hữu Dụ O.P (dòng Đa Minh) nguyên là chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ La Vang Houston TX 1987 - 1994 như thế nào?
Nếu Đức Tổng Giám Mục của Giáo Phận Galveston-Houston TX thời đó biết có "Án lệnh của Tòa Án Harris County, Houston, Texas" mà không điều tra, xét xử thì đây cũng là một tội dấu diếm che đậy.
LINH MỤC NGUYỄN HỮU DỤ (đã qua đời)
Vào ngày 14 tháng 12 năm1994, linh mục Nguyễn Hữu Dụ, sanh ngày 20/3/1920, tại Thái Bình, Bắc Việt, Việt Nam, số điện thoại (713) 999-1672, chánh xứ nhà thờ La Vang, địa chỉ 12311 Old Fulton, Houston, TX 77086 và Bà Nguyễn Thị Vui, sanh ngày 5/10/47, tại Việt Nam, địa chỉ 14902 Chipman, Houston, TX 77060, số điện thoại (713) 454-5913 là: cha Dụ và bà Vui can tội gian dâm THỔI KÈN tại sân đậu xe công cộng. Cha Dụ bị phạt $1000.00 ( một ngàn dollars ), và bà Vui bi phạt $1000.00 ( một ngàn dollars ) bởi Án lệnh của Tòa Án Harris County, Houston, Texas:
* *
*
THE STATE OF TEXAS D.A. LOG NUMBER: 160470
VS. CJIS TRACKING NO: 9001479421-A001
DU HUU NGUYEN SPN: ____01429137____ BY: DSF DA NO: 609
12311 OLD FULTON DOB: AM 3-20-20 AGENCY: HCSO
HOUSTON, TX 77086 DATE PREPARED: 12/4/94 O/R NO: 9412140857
AREST DATE: 12-14-94
NCIC CODE: 5300 02 RELATED CASES: CO-DEF: VUI NGUYEN
MISDEMEANOR CHARGE:
PUBLIC LEWDNESS
CAUSE NO: ________9450613 BAIL: $ 500.00
HARRIS COUNTY PRIOR CAUSE NO:
CRIMINAL COURT AT LAW NO: ____ 1
FIRT SETTING DATE: _____12-21-94
IN THE NAME AND BY AUTHORITY OF THE STATE OF TEXAS
Before me, the undersigned Assistant District Attorney of Harris County, Texas, this day appeared the undersigned affiant, who under oath says that he has good reason to believe and does believe that in Harris County, Texas, DU HUU NGUYEN, hereafter styled the Defendant, on or about DECEMBER 14, 1994, did then and there unlawfully knowingly engage in AN ACT OF DEVIATE SEXUAL INTERCOURSE, to-wit:BY ALLOWING VUI NGUYEN TO PUT HER MOUTH ON HIS GENTALS in public place, namely A PARKING LOT.
AGAINST THE PEACE AND DIGNITY OF THE STATE.
Sworn to and subscribed before me on _ ___December 14, 1994__
___ký tên__ _______ký tên____________________
AFFIANT ASSISTANT DISTRICT ATTORNEY
OF HARRIS COUNTY, TEXAS.
Probable Cause found ________. Capias to issue _____________________________
Date Magistrate, Harris County, Texas
COMPLAINT
FINED
KATHERINE TYRA
DISTRICT CLERK
HARRIS COUNTY TEXAS
94 DEC 14 PM 3:59
BY __ký tên_____________
DEPUTY
Trích Bờ Ảo Vọng, của Lê Trọng Văn, 1996, tr 250-251
( có ký tên và sẽ update nguyên bản án đóng phạt $1000.00)
2, Linh mục Antôn Đào Quang Chính O.P (thuộc Phụ tỉnh Đa-Minh Việt Nam Hải Ngoại) nguyên là chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ La Vang Houston TX 1995 - 2003. Không biết mang tai tiếng gì, và lý do tại sao mà không còn mặc áo chùng trắng của dòng Đa Minh nữa, bây giờ đổi qua áo chùng đen, và hiện nay đang làm mục vụ tại vùng nắng ấm Cali.
http://m.viendongdaily.com/lm-dao-quang-chinh-thuyet-trinh-truoc-cac-quy-chuc-cong-dong-cong-giao-vn-iO39nSHd.html
3, Nghe nói, có Cha cựu chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ La Vang Houston TX, trong thời gian làm chánh xứ đã chuyển cả mấy trăm ngàn đôla về Việt Nam. Không biết số tiền này gửi về để giúp đỡ cho việc truyền giáo của giáo hội Việt Nam hay cho người thân mua nhà cửa.
Xin giáo dân tại giáo xứ Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Lộ Đức và các Giáo Xứ cũng như Cộng Đoàn Việt Nam tại Houston TX cho bà con giáo dân khắp nơi được biết sự thật. Nếu CÓ và ĐÚNG sự thật thì chúng ta cần phải gửi thư lên cho Đức Hồng Y Daniel N. DiNardo là Tổng Giám Mục Galveston-Houston, TX, biết để xem xét và điều tra lại. Hiện nay, Đức Hồng Y Daniel N. DiNardo cũng là Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo tại Hoa Kỳ.
Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật
TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM, TIỀN SINH BẤT TỊNH
Các Thầy “Thích Đủ Thứ” đã biến Chuà Chiền Cửa Phật thành các "siêu thị Phật” !!!
Xin chuyển bài viết của Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ để gửi đến Các ông Linh Mục của Công Giáo. Ngày nay các ông sống cũng chỉ biết có Tiền! Tiền! Tiền! Các ông cũng đã biến nhà thờ thành các “siêu thị Mẹ La Vang” !!!
Xin mời xem và chuyển tiếp !!!
TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM,
TIỀN SINH BẤT TỊNH
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Tu hành trong hoàn cảnh kinh tế thị trường hiện nay rất khó. Tu trong xã hội Âu Mỹ với nền kinh tế thực dụng càng khó hơn.
Dịch xây chùa và phấn đấu làm trụ trì của các tu sĩ Việt nam tại các xứ Âu Mỹ đang diễn ra như một chiến trường. Tiền! Tiền! Tiền! trở thành tiếng réo gọi, át tiếng cầu kinh và niệm chú. Các thầy đã biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”. Thầy chưa có chùa thì lo vận động chạy đôn chạy đáo mua đất mua nhà xây chùa dựng tượng. Thầy có chùa rối thì có bao nhiêu là dự án xây dựng để kêu gọi Phật tử đóng góp.
Đồng tiền đã làm cho cửa Thiền thành chợ Trời buôn thần bán thánh.
Không có cách kiếm tiền phàm tục nào ngoài đời mà không có trong các chùa: Xổ số, lô tô, đại nhạc hội, tiệc ăn uống gây quỹ, bán đấu giá, ký sổ cúng dường hàng tháng, mượn vốn không lời… đang trở thành bệnh dịch biến cửa chùa là nơi tôn nghiêm thành nhà hàng bán đồ ăn, biến sân chùa thành sân khấu cho ca sĩ hát hỏng nỉ non uốn éo, biến Phật đài trang nghiêm thành nơi bán và ký gởi tượng Phật. Tất cả những phương tiện hoằng dương chánh pháp thiêng liêng của Phật giáo Đại thừa đang biến thành dịch vụ thương mãi.
Cầu siêu: tiền. Dâng sớ cầu an: tiền. Ma chay, giỗ kỵ: tiền.
Xuống cấp thấp nhất là các thầy thu tiền và bỏ tiền vào túi. Hình ảnh đọa lạc nhất là có những thầy chuyên nghiệp lên sân khấu, cầm micro thay vì nói pháp thì thao thao nói lời thuyết phục vận động xin tiền. Ôi, hồng ân Tam Bảo, long thần hộ pháp làm sao mà tha thứ được.
Những Phật tử mê tín, đầu óc mù mờ u tối đã xem các thầy chùa như Phật thánh. Họ không hiểu rằng đưa phương tiện vật chất vào tay nhà tu là đang làm thay cho ma quỷ tới phá đường tu thanh tịnh của quý thầy. Khi đầu óc đã dính mắc lo nghĩ tới tiền, tới chùa to tượng lớn, tới thế giới màu mè hình tướng thì vô hình chung nhà tu đã không còn an trú trong giới luật.
Đạo Phật Việt Nam đang đi sai đường trầm trọng vì đang lâm vào hai tình trạng cực đoan:* Số các thầy sống ở “cõi trên” thì lo nói toàn những chuyện cao siều huyền hoặc. * Số các thầy đang đoạ lạc vào thám ái thì biến đạo Phật thành mê tín dị đoan để làm phương tiện kiếm tiền.
Thật ra, các thầy ra ngoài giới luật chỉ là nạn nhân. Thủ phạm chính là những người mang danh Phật tử mà không chịu hiểu Phật, đem vật chất làm sa đọa các thầy.
Xin các thầy tỉnh táo lại để khỏi trễ đường tu.
Xin các đạo hữu Phật tử hãy cùng nhau đứng ra xây chùa dựng tượng. Nhưng tuyệt nhiên xin đừng làm xa đọa quý thầy bằng cách đưa tiền, chính là đưa thuốc độc đến cho bậc chân tu.
Đức Phật và Thánh chúng ngày xưa ngày ngày khất thực, chỉ cần có miếng ăn đạm bạc ngày một bữa mà nuôi sống xác thân để thanh tịnh tu hành. Các thầy ngày nay ăn uống có kẻ hầu người hạ, bữa chính bữa phụ thật là đã lạc đường quá xa về xứ Phật.
Đôi điều chân thật nói ra, xin các thầy và Phật tử hoan hỷ suy gẫm.
VP.PHTQ.CANADA
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Các Thầy “Thích Đủ Thứ” đã biến Chuà Chiền Cửa Phật thành các "siêu thị Phật” !!!
Xin chuyển bài viết của Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ để gửi đến Các ông Linh Mục của Công Giáo. Ngày nay các ông sống cũng chỉ biết có Tiền! Tiền! Tiền! Các ông cũng đã biến nhà thờ thành các “siêu thị Mẹ La Vang” !!!
Xin mời xem và chuyển tiếp !!!
TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM,
TIỀN SINH BẤT TỊNH
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Tu hành trong hoàn cảnh kinh tế thị trường hiện nay rất khó. Tu trong xã hội Âu Mỹ với nền kinh tế thực dụng càng khó hơn.
Dịch xây chùa và phấn đấu làm trụ trì của các tu sĩ Việt nam tại các xứ Âu Mỹ đang diễn ra như một chiến trường. Tiền! Tiền! Tiền! trở thành tiếng réo gọi, át tiếng cầu kinh và niệm chú. Các thầy đã biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”. Thầy chưa có chùa thì lo vận động chạy đôn chạy đáo mua đất mua nhà xây chùa dựng tượng. Thầy có chùa rối thì có bao nhiêu là dự án xây dựng để kêu gọi Phật tử đóng góp.
Đồng tiền đã làm cho cửa Thiền thành chợ Trời buôn thần bán thánh.
Không có cách kiếm tiền phàm tục nào ngoài đời mà không có trong các chùa: Xổ số, lô tô, đại nhạc hội, tiệc ăn uống gây quỹ, bán đấu giá, ký sổ cúng dường hàng tháng, mượn vốn không lời… đang trở thành bệnh dịch biến cửa chùa là nơi tôn nghiêm thành nhà hàng bán đồ ăn, biến sân chùa thành sân khấu cho ca sĩ hát hỏng nỉ non uốn éo, biến Phật đài trang nghiêm thành nơi bán và ký gởi tượng Phật. Tất cả những phương tiện hoằng dương chánh pháp thiêng liêng của Phật giáo Đại thừa đang biến thành dịch vụ thương mãi.
Cầu siêu: tiền. Dâng sớ cầu an: tiền. Ma chay, giỗ kỵ: tiền.
Xuống cấp thấp nhất là các thầy thu tiền và bỏ tiền vào túi. Hình ảnh đọa lạc nhất là có những thầy chuyên nghiệp lên sân khấu, cầm micro thay vì nói pháp thì thao thao nói lời thuyết phục vận động xin tiền. Ôi, hồng ân Tam Bảo, long thần hộ pháp làm sao mà tha thứ được.
Những Phật tử mê tín, đầu óc mù mờ u tối đã xem các thầy chùa như Phật thánh. Họ không hiểu rằng đưa phương tiện vật chất vào tay nhà tu là đang làm thay cho ma quỷ tới phá đường tu thanh tịnh của quý thầy. Khi đầu óc đã dính mắc lo nghĩ tới tiền, tới chùa to tượng lớn, tới thế giới màu mè hình tướng thì vô hình chung nhà tu đã không còn an trú trong giới luật.
Đạo Phật Việt Nam đang đi sai đường trầm trọng vì đang lâm vào hai tình trạng cực đoan:* Số các thầy sống ở “cõi trên” thì lo nói toàn những chuyện cao siều huyền hoặc. * Số các thầy đang đoạ lạc vào thám ái thì biến đạo Phật thành mê tín dị đoan để làm phương tiện kiếm tiền.
Thật ra, các thầy ra ngoài giới luật chỉ là nạn nhân. Thủ phạm chính là những người mang danh Phật tử mà không chịu hiểu Phật, đem vật chất làm sa đọa các thầy.
Xin các thầy tỉnh táo lại để khỏi trễ đường tu.
Xin các đạo hữu Phật tử hãy cùng nhau đứng ra xây chùa dựng tượng. Nhưng tuyệt nhiên xin đừng làm xa đọa quý thầy bằng cách đưa tiền, chính là đưa thuốc độc đến cho bậc chân tu.
Đức Phật và Thánh chúng ngày xưa ngày ngày khất thực, chỉ cần có miếng ăn đạm bạc ngày một bữa mà nuôi sống xác thân để thanh tịnh tu hành. Các thầy ngày nay ăn uống có kẻ hầu người hạ, bữa chính bữa phụ thật là đã lạc đường quá xa về xứ Phật.
Đôi điều chân thật nói ra, xin các thầy và Phật tử hoan hỷ suy gẫm.
VP.PHTQ.CANADA
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Thông báo về việc đóng cửa Văn phòng Cáo Thỉnh Viên xin phong thánh cho Cha Trương Bửi Diệp tại GP Orange.
Hoàng Minh 2/26/2017
GP ORANGE - Theo thông báo mới nhất ngày 21/2/2017 của Cha Trần Văn Kiểm, Giám đốc Trung tâm CGVN Giáo phận Orange cho biết như sau:
Ngày 14/2/2017 Đức Cha Kevin W. Vann, Giám Mục GP Orange đã liên lạc với Cha Phêrô Trần Thế Tuyên trong đó Ngài quyết định rằng trong lúc này không thích hợp và không cho phép Cha Phêrô Trần Thế Tuyên thi hành mục vụ trong Địa Phận Orange.
Ngày 20/2/2017, Cha Phêrô Trần Thế Tuyên cũng thông báo là Ngài đã đóng cửa Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên tại Địa Phận Orange và hoàn toàn vâng phục những phán quyết của Đức Giám Mục Giáo Phận Orange.
Hoàng Minh 2/26/2017
GP ORANGE - Theo thông báo mới nhất ngày 21/2/2017 của Cha Trần Văn Kiểm, Giám đốc Trung tâm CGVN Giáo phận Orange cho biết như sau:
Ngày 14/2/2017 Đức Cha Kevin W. Vann, Giám Mục GP Orange đã liên lạc với Cha Phêrô Trần Thế Tuyên trong đó Ngài quyết định rằng trong lúc này không thích hợp và không cho phép Cha Phêrô Trần Thế Tuyên thi hành mục vụ trong Địa Phận Orange.
Ngày 20/2/2017, Cha Phêrô Trần Thế Tuyên cũng thông báo là Ngài đã đóng cửa Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên tại Địa Phận Orange và hoàn toàn vâng phục những phán quyết của Đức Giám Mục Giáo Phận Orange.
Văn phòng Cáo Thỉnh Viên phong thánh cho Cha Trương Bửi Diệp không có phép của TGM Orange
Lm Trần Văn Kiểm 1/29/2017
THÔNG BÁO CỦA TRUNG TÂM Công Giáo VIỆT NAM TẠI GIÁO PHẬN ORANGE
VỀ VIỆC KHÔNG CÓ PHÉP CỦA VĂN PHÒNG CÁO THỈNH VIÊN XIN PHONG THÁNH CHO CHA TRƯƠNG BỬU DIỆP
Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên là văn phòng liên lạc với Tòa Thánh trong việc xin phong thánh nên khi văn phòng này được đặt ở đâu thì phải có phép của vị Giám Mục Địa Phận ở đó. Đặt trường hợp nếu Tòa Thánh liên lạc với Đức Giám Mục Địa Phận Orange, hỏi về Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên nằm trong địa phận của ngài mà ngài không biết gì về sự hiện diện của văn phòng này, thì đây là một việc làm sai luật và là sự xúc phạm tới Đức Giám Mục.
Việc này đã thật sự xảy ra: Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên xin phong thánh cho Cha Trương Bửu Diệp nằm trong Địa Phận Orange đã được cắt băng khánh thành và làm phép vào Thứ Bẩy ngày 7 tháng 1 năm 2017 nhưng chính Đức Giám Mục của địa phận lại hoàn toàn không biết gì về chuyện này. Ngài đã không cho phép và cũng đã không nhận được giấy xin phép. Như thế Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên xin phong thánh cho Cha Trương Bửu Diệp đã không có phép của Đức Giám Mục để có thể hiện diện trong Địa Phận Orange. Khi không có phép thì không thể đưa vào hoạt động.
Một điều nữa chúng ta cũng cần nên biết đó là tất cả những văn phòng hay cơ sở có tên Cha Trương Bửu Diệp Foundation trong Địa Phận Orange này, không thuộc về Trung Tâm Công Giáo và cũng không thuộc về Tòa Giám Mục Orange. Tất cả những văn phòng hay cơ sở mang tên Cha Trương Bửu Diệp này đều ở dưới dạng hoặc hình thức tư nhân, cho nên Giáo Quyền Công Giáo tại Orange không có quyền thẩm phán hoặc thẩm xét trên họ. Nhưng nếu những cơ sở đó, vẫn mang danh là Công Giáo, mà lại làm những điều sai đức tin hoặc phụng vụ… thì Giáo Quyền ở đây sẽ có trách nhiệm và bổn phận phải lên tiếng. Việc này đã xảy ra mấy năm trước đây, khi một cơ sở mang tên Cha Trương Bửu Diệp trong Quận Orange, đã đưa một linh mục Công Giáo ở ngoài địa phận tới để dâng lễ thường xuyên mà không có phép.
Theo thông lệ đã xảy ra trong Giáo Hội là người ta đúc tượng hoặc dựng tượng các bậc đáng kính, chưa được phong thánh, tại một nơi chốn nào đó ở quê hương các vị này, hoặc một nơi nào đó trong địa phận của các vị này, để tôn kính các ngài. Bởi vì chưa được phong thánh, việc làm như thế phải được sự chuẩn nhận của Đức Giám Mục địa phương. Nhưng việc đúc tượng, làm tượng, tạc tượng các vị này, và gởi đi nơi khác, gởi đi khắp nơi, để cổ võ lòng tôn sùng các vị này, có khi còn xin làm phép tượng nữa, thì đó là điều không đúng. Lý do đơn giản là vì các ngài chưa được phong thánh theo quy luật của Giáo Hội mà đã tạc tượng hoặc làm tượng. Một vị Giám Mục Việt Nam đã nói: “Điều này giống như cái cày đặt trước con trâu.” Và nếu tiến trình phong thánh cho các vị này kéo dài thời gian, thì tội nghiệp các ngài phải đứng chờ hơi lâu.
Trừ trường hợp của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hay Thánh Têrêsa thành Calcutta mà chúng ta thường gọi là Mẹ Têrêsa, hoặc một số vị thánh khác nữa, lịch sử đã cho thấy tiến trình phong thánh cũng rất lâu dài. Thí dụ trường hợp Thánh Martinô De Porres cho chúng ta thấy 258 năm sau ngày sinh của ngài, thì ngài mới được phong chân phước và 125 năm sau khi ngài được phong chân phước, lúc đó ngài mới được phong thánh vào năm 1962.
Khi các vị chưa được phong thánh và chúng ta muốn tỏ lòng tôn kính, việc sử dụng hình ảnh của các ngài dưới dạng tranh hoặc ảnh, hoặc một bản khắc khuôn mặt hoặc chân dung các ngài, là chuyện dễ chấp nhận. Còn đúc tượng, làm tượng, tạc tượng phổ biến mọi nơi, đó là điều không nên. Ơn quan trọng nhất mà chúng ta cần cầu khấn với các thánh, và ngay cả với những vị lành thánh chưa được phong thánh những có lẽ đang ở trên thiên quốc, đó là xin các ngài dẫn chúng ta tới với Chúa.
Xin Trân Trọng Thông Báo
Ngày 28/1/2017
LM Trần Văn Kiểm
Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo
Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm 3/21/2016
LTS: Đây là ý kiến của Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh Tâm, quản nhiệm cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Nam Úc, không nhất thiết là quan điểm của VietCatholic.
http://vietcatholic.net/News/Html/181066.htm
Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
21/03/2016
Anh chị em thân mến,
1.Từ năm ngoái 2015 đến nay, một vấn đề làm hoang mang nhiều người trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc, đó là việc vận động tuyên thánh Linh Mục Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Vì thế, tôi viết bài này giúp anh chị em hiểu rõ về sự việc, để khỏi bị lung lạc do nhiều nguồn tin khác nhau.
2.Việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp là do Đức Giám Mục đương nhiệm của Giáo Phận Cần Thơ, Stêphanô Tri Bửu Thiên, bắt đầu. Đức Cha Thiên đã gửi lá thư đề ngày 03/09/2013 để hỏi ý kiến Bộ Tuyên Thánh và đã được chấp thuận về việc thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh. Văn thư chấp thuận được gọi tóm tắt bằng tiếng La Tinh là “NIHIL OBSTAT” đề ngày 31/10/2014, dịch nghĩa là “KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ”. Khi có văn thư chấp thuận như thế, Cha Diệp được liệt vào bậc “Tôi Tớ Chúa” trong tiến trình vận động tuyên thánh.
3.Văn thư của Bộ Tuyên Thánh cho phép Đức Cha Thiên thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, nhưng văn thư không đòi buộc mọi người tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thi hành việc vận động tuyên thánh này. Mỗi người tín hữu Công Giáo đều có tự do của mình để chọn lựa việc làm. Do đó, Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không buộc phải theo văn thư NIHIL OBSTAT về việc vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
4.Sau khi Bộ Tuyên Thánh ra văn thư NIHIL OBSTAT, Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên thuộc Giáo Phận Saint Paul in Alberta, Canada đến Adelaide, Nam Úc và thành lập một hội có tên là Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp vào ngày 22/12/2014. Linh Mục Tuyên và ban điều hành của hội này không bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Họ tự ý thành lập hội này, mà ngay cả Đức Tổng Giám Mục Adelaide cũng không hề hay biết. Việc tự ý thành lập một hội đoàn có tầm ảnh hưởng lên đức tin, tình hiệp thông và sự ổn định của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, mà không thèm bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm địa phương là một hành động không thể chấp nhận được. Đây là một hành vi không công bình và không bác ái đối với người có trách nhiệm và có quyền điều hành Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc.
5.Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp bắt đầu hoạt động công khai với buổi ra mắt vào ngày 24/06/2015 tại hội trường Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu/Nam Úc. Chỉ hơn hai tháng sau, thì những chuyện rắc rối bắt đầu xảy ra, gây nên căng thẳng, hoang mang và chia rẽ trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Ngày 08/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm nhận được một lá thư mạo danh, chửi bới ngài cách nặng nề và đòi buộc ngài từ chức. Đó là những lời gian dối, hiểm độc và vô căn cứ. Sở dĩ gọi là mạo danh vì tác giả sử dụng tên của một người khác để viết thư. Mục đích của kẻ viết thư là để làm gì? Để gây hoang mang và chia rẽ? Để buộc Linh Mục Quản Nhiệm ra đi? Rồi làm gì? Một điều có thể xảy ra là, nếu Linh Mục Quản Nhiệm ra đi và một Linh Mục khác đến phục vụ, thì tác giả lá thư mạo danh và những người liên quan đến lá thư mạo danh đó sẽ khuynh đảo, lôi kéo Linh Mục mới làm theo ý đồ riêng tư của họ. Nếu chuyện đó xảy ra, thì Cộng Đồng sẽ lâm vào cảnh xáo trộn và chia rẽ trầm trọng như đã từng xảy ra nhiều năm trước đây.
6.Ngày 17/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm lại nhận được một điện thư do một kẻ lấy tên là Thi Hoài gửi đến. Nội dung của điện thư này vu cáo rằng Linh Mục Quản Nhiệm chống lại Cha Diệp, trong khi Linh Mục Quản Nhiệm không hề có một điều gì xúc phạm đến vị Linh Mục quá cố này. Lời lẽ trong thư cũng chửi bới và đe dọa tương tự như lá thư mạo danh xuất hiện trước đó hơn một tuần. Chúng ta tự hỏi: “Tác giả Thi Hoài có mối liên hệ mật thiết nào đối với Cha Diệp và những hiện tượng liên quan đến Cha Diệp? Tác giả Thi Hoài có liên quan mật thiết nào với kẻ viết thư mạo danh hơn một tuần trước đó? Kẻ viết thư mạo danh lại có mối liên hệ mật thiết nào với việc vận động tuyên thánh Cha Diệp? Trong khoảng thời gian kế tiếp cho đến bây giờ, cũng có một vài chuyện khác xảy ra nhằm triệt hạ uy tín của Linh Mục Quản Nhiệm và gây khó khăn cho những người cộng tác với ngài để phục vụ Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Những chuyện này cũng biểu lộ một số dấu hiệu có liên quan đến việc vận động tuyên thánh Cha Diệp và kẻ viết thư mạo danh cùng tác giả Thi Hoài được đề cập trên đây.
7.Cộng Đồng Công Công Giáo Việt Nam – Nam Úc sinh hoạt ổn định, an lành, vui vẻ và hiệp thông với nhau trong nhiều năm qua. Nhưng kể từ khi Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp do Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên lập ra, bắt đầu hoạt động công khai tại Adelaide vào ngày 24/6/2015, thì chỉ một thời gian ngắn sau đó là xáo trộn, hoang mang và chia rẽ xảy ra ngay trong Cộng Đồng này. Tại sao lại có sự xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như vậy? Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không gây ra tình trạng này. Chắc chắn Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp cũng không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ. Một phần là vì ngài đã qua đời, và người đã qua đời không làm ra những chuyện này. Phần khác là vì chúng ta tin rằng Cha Phanxicô Xaviê là một Linh Mục thánh thiện. Mà người thánh thiện chắc chắn không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ trong bất cứ cộng đoàn nào. Vậy ai đã gây ra những xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như thế? Câu trả lời là tùy từng cá nhân. Mỗi người hãy cầu nguyện, hãy xét mình, hãy đối diện với lương tâm, với Thiên Chúa, với Đức Mẹ cùng các thiên thần và các thánh, để tìm ra câu trả lời cho chính mình.
8.Việc vận động tuyên thánh Cha Diệp cần phải có văn thư của Đức Giám Mục đương nhiệm Giáo Phận Cần Thơ kêu gọi xin hỗ trợ mới được. Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên đã gửi một văn thư đề ngày 24/10/2012, ủy nhiệm cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo tại Hoa Kỳ để đại diện Giáo Phận Cần Thơ lo việc vận động tuyên thánh Cha Diệp tại Hoa Kỳ. Còn ở Úc thì không có văn thư nào tương tự như thế. Vì vậy, Linh Mục Quản Nhiệm CĐCGVNNU không thể đại diện Giáo Phận Cần Thơ để tự ý thực hiện việc vận động tuyên thánh này.
9.Một mặt, Đức Giám Mục Stêphanô Tri Bửu Thiên bổ nhiệm Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên làm Cáo Thỉnh Viên trong Bản Tuyên Bố ký ngày 20/08/2011, để lo việc vận động tuyên thánh. Mặt khác, Đức Cha Thiên lại ra ủy nhiệm thư ký ngày 24/10/2012 cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ lo việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp tại nơi đây. Nội dung ủy nhiệm thư quy định là tại Hoa Kỳ trách nhiệm và quyền vận động tuyên thánh cho Cha Diệp thuộc về giới lãnh đạo Công Giáo Việt Nam ở quốc gia này. Ủy nhiệm thư không đề cập đến Cha Tuyên. Do đó, chúng ta không biết rõ trách nhiệm và quyền hạn của Cha Tuyên bao quát đến mức độ nào? Trong tình trạng mù mờ như thế, điều khôn ngoan nhất là không nên hành động vội vã, kẻo gây hiểu lầm và tạo ra xáo trộn.
10.Giả sử Đức Cha Thiên có kêu gọi hỗ trợ việc vận động tuyên thánh đi nữa, thì công việc này cũng không nhất thiết đòi hỏi là phải thành lập hội đoàn. Bởi vì việc vận động tuyên thánh có nhiều cách để làm, tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm trong từng địa phương. Theo hoàn cảnh hiện nay, đối với Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, việc lập thêm hội đoàn là điều không cần thiết. Cộng Đồng đã có quá nhiều hội đoàn, mà thành viên của các hội đoàn hầu hết là những khuôn mặt quen thuộc. Những người tham gia hội đoàn này, cũng thường tham gia hội đoàn khác. Có người là thành viên của ba bốn hội đoàn. Vì vậy, khi chúng ta đi họp hội đoàn nào, chúng ta cũng thấy những khuôn mặt quen thuộc đó hiện diện. Cho nên, căn cứ theo hoàn cảnh hiện tại, Cộng Đồng không cần lập thêm hay công nhận thêm một hội đoàn nào khác nữa, ngoại trừ trường hợp rất cần thiết theo phán đoán mục vụ của Linh Mục Quản Nhiệm, thì ngài mới thành lập thêm hội đoàn. Trong mức độ liên quan đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, chúng ta phải coi hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp chỉ là một tổ chức của tư nhân ngoài Cộng Đồng mà thôi. Nói chung, việc thành lập hội đoàn thì mọi người đều có quyền thực hiện, miễn là hợp pháp. Tuy nhiên, khi một hội đoàn nào có liên quan đến đức tin và làm ảnh hưởng tiêu cực đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, thì trách nhiệm và lương tâm mục tử đòi buộc Linh Mục Quản Nhiệm phải có thái độ và hành động xứng hợp để bảo vệ đức tin của giáo dân mình coi sóc.
11.Việc tôn kính một cá nhân mà mình ngưỡng mộ là chuyện tự do của mỗi người. Ai muốn chọn người nào để tôn kính và cách thức nào để tôn kính vị đó thì tùy ý. Việc tôn kính này không buộc ai phải gia nhập hội đoàn hay lập thêm hội đoàn. Nếu ai muốn tôn kính người nào hay lập hội đoàn nào, thì tùy ý, nhưng đừng nên đòi hỏi người khác phải chấp nhận việc tôn kính như mình hay chấp nhận hội đoàn của mình. Mỗi một Linh Mục coi sóc giáo xứ hay điều hành cộng đoàn sắc tộc đều có trách nhiệm và có quyền điều hành giáo xứ hay cộng đoàn của họ. Trách nhiệm điều hành và quyền điều hành bao giờ cũng đi đôi với nhau. Theo lẽ thường, mọi người đều buộc phải tôn trọng trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các vị ấy. Do đó, khi một hay nhiều Linh Mục khách hoặc một nhóm người nào đó không tôn trọng phạm vi trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các Linh Mục coi xứ hoặc các Linh Mục coi sóc cộng đoàn sắc tộc, thì các vị ấy đã vi phạm đức công bình và đức bác ái.
12.Một tín hữu Công Giáo được vận động để tuyên thánh phải trải qua một tiến trình gồm bốn bậc: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (còn gọi là Á Thánh), và Hiển Thánh. Xét tận căn, bốn bậc này đều là Tôi Tớ Chúa cả, nhưng sự khác biệt giữa các bậc như sau: *Tôi Tớ Chúa (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), *Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính, *Tôi Tớ Chúa Chân Phước (còn gọi là Tôi Tớ Chúa Á Thánh), và *Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh. Nói vắn tắt, bốn bậc là: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (Á Thánh), và Hiển Thánh. Cha Diệp đang còn ở trong bậc Tôi Tớ Chúa, nghĩa là Tôi Tớ Chúa đơn giản mà thôi.
13.Trong Giáo Luật, điều 1187 qui định rõ ràng: “Chỉ được phép tôn kính công khai những Tôi Tớ của Thiên Chúa đã được giáo quyền liệt kê vào sổ bộ Chân Phước hay Hiển Thánh.” Điều luật này cho thấy chỉ có Tôi Tớ Chúa Chân Phước và Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh mới được phép tôn kính công khai mà thôi. Còn hai bậc khác là Tôi Tớ Chúa đơn giản và Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính thì chỉ được tôn kính riêng tư. Do đó, khi tôn kính một người nào đang còn ở trong giai đoạn “Tôi Tớ Chúa” (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), thì nguyên tắc căn bản là không nên thực hiện việc tôn kính thái quá khiến cho nhiều người lầm tưởng là vị ấy đã được Giáo Hội tuyên phong Chân Phước hay Hiển Thánh rồi. Ngay cả khi tôn kính Chân Phước hay Hiển Thánh, người tín hữu Công Giáo cũng không nên làm những hành vi sùng bái quá đáng, đến nỗi họ chỉ biết dâng hiến xác hồn cho cá nhân người được sùng kính, mà không còn thiết tha gì đến Thiên Chúa nữa. Một khi hiện tượng này xảy ra, thì việc tôn kính cá nhân đó trở thành một thứ tôn thờ ngẫu thần, tương tự như việc tôn thờ bò vàng của dân Do Thái trong sa mạc (Xuất Hành 32).
14.Khi thiên hạ nói rằng mình được ơn lạ từ vị này vị kia, thì điều đó chưa hẳn là ơn lạ hay phép lạ. Bởi vì chúng ta dựa vào chứng cớ nào để tin? Lời nói của một người hay nhiều người vẫn chưa đủ để chứng minh về ơn lạ hay phép lạ. Những cái gọi là ơn lạ hay phép lạ phải được xét nghiệm theo phương pháp khoa học và phải được Thẩm Quyền của Giáo Hội tuyên bố; bấy giờ người tín hữu Công Giáo mới nên tin là phép lạ.
15.Đức tin của Giáo Hội bắt nguồn từ thời các thánh Tông Đồ và tiếp diễn cho đến nay. Điều cốt yếu là chúng ta đón nhận và sống đức tin do Giáo Hội truyền dạy. Đức tin của chúng ta được nâng đỡ và khích lệ qua việc tôn kính các thánh. Việc tôn kính các thánh có hai mục đích, đó là học theo gương sáng của các ngài và xin các ngài cầu bầu cùng Chúa để Chúa ban ơn cho chúng ta (GLHTCG 828). Trong hai mục đích này, việc học hỏi gương sáng các thánh là điều chính yếu, bởi vì nó giúp chúng ta thăng tiến đời sống để nên thánh như ý Chúa muốn. Chúa Giêsu đã dạy rõ ràng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi tôn kính một vị thánh nào hay một tín hữu Công Giáo nào đang được vận động để được tuyên thánh, thì điểm chính yếu là chúng ta học theo gương sáng của họ. Gương sáng căn bản là: tôn trọng sự thật, công bình và bác ái, để kiến tạo hòa bình. Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô dạy trong bài Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9).
16.Như đã nói trên đây, chúng ta tin rằng Cha Phaxicô Xaviê Trương Bửu Diệp là một vị Linh Mục thánh thiện. Bộ Tuyên Thánh đã chấp thuận cho ngài được vận động để tuyên thánh, nên ngài được gọi là Tôi Tớ Chúa. Tuy nhiên, văn thư NIHIL OBSTAT (nghĩa là: không có gì ngăn trở) của Bộ Tuyên Thánh không đòi buộc mọi tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thực hiện cuộc vận động đó. Mỗi tín hữu đều có tự do của mình để chọn lựa. Nếu chọn lựa vận động tuyên thánh, thì có nhiều phương pháp để thực hiện tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm của từng nơi chốn. Phương pháp vận động tuyên thánh có xứng hợp hay không, thì tùy thuộc sự phán đoán của mỗi tín hữu. Có Chúa biết rõ lòng dạ chúng ta. Mỗi người trong anh chị em cần suy nghĩ để chọn lựa thái độ và lối sống đức tin cho mình. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa Thiên Chúa về mọi việc làm của mình ở trần gian này.
Thân mến chào anh chị em,
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
Quản Nhiệm CĐCGVNNU
20/03/2016
*****************************
Sau khi đọc xong bài "Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?" của Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm, viết ngày 20 tháng 3 năm 2016 và được đăng trong trang mạng http://vietcatholic.net/News/Html/181066.htm ngày 21 tháng 3 năm 2016 , Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật thành thật cám ơn Đức Ông đã viết bài này giúp anh chị em BBT ASST nói riêng, giáo dân Việt Nam nói chung để hiểu rõ về sự việc. BBT ASST có nhận xét như sau:
- Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Mục địa phương tại Việt Nam, các Dòng, các Linh Mục chánh xứ trong nước và ngoại quốc là những chủ chiên, các Ngài thông hiểu và am tường rất rõ về Giáo Luật cũng như các Điều Luật của tiến trình trước khi được Bộ Tuyên Thánh phong thánh cho ai thì cần phải làm những gì, và những gì chưa được phép làm. Nhưng các Ngài đã làm ngơ, hoặc cố tình đứng ra với nhóm con chiên này, đoàn chiên kia để tổ chức những Thánh Lễ giỗ thật vĩ đại, thật linh đình.
- Mới đây có 1 Giáo Xứ ở ngoại quốc, Cha Xứ cho tổ chức Thánh Lễ Giỗ 70 năm của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Trong phần xin TIỀN, không biết đây là ý kiến của Cha Xứ hay của Ban Tổ Chức mà giáo dân phải xếp hàng đi lên chỗ tượng ảnh của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp để bỏ TIỀN vào giỏ. Chưa hết, Cha Xứ còn đứng trước tượng của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp mà đặt hai tay của mình lên đầu của giáo dân nào muốn xin ơn, sau Thánh Lễ lại còn có phần sinh hoạt văn nghệ đặc sắc nữa chứ. không biết trong Giáo Luật cũng như trong các Điều Luật của Bộ Phong Thánh có chỗ nào ghi cho phép khi đang Vận động xin tuyên thánh cho ai, Linh Mục được phép làm những chuyện như thế này không?
Thật sự, nếu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Mục địa phương tại Việt Nam, các Dòng, các Linh Mục chánh xứ trong nước và ngoại quốc mà có trách nhiệm lên tiếng về những sự việc mà Đức Ông viết ra ở trên thì người dân Việt Nam nói chung, người Công Giáo nói riêng sẽ hiểu rõ vấn đề, nhất là sẽ tránh được những kẻ xấu xa lạm dụng lòng tin và tôn kính của chúng ta đối với Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp.
Bởi vì, người dân Việt Nam chúng ta nói chung, giáo dân công giáo nói riêng, khi nghe được những tin tức, hoặc truyền miệng mách bảo với nhau rằng: nơi này, chỗ kia, có Ông Thánh này, Bà Thánh nọ, người này, người kia rất linh thiêng thì thường đổ xô nhau đi tới đó để khấn vái, xin ơn, nhất là trong gia đình nào có người bị bệnh mà hết thuốc chữa, hoặc vv và vv...
Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật
Lm Trần Văn Kiểm 1/29/2017
THÔNG BÁO CỦA TRUNG TÂM Công Giáo VIỆT NAM TẠI GIÁO PHẬN ORANGE
VỀ VIỆC KHÔNG CÓ PHÉP CỦA VĂN PHÒNG CÁO THỈNH VIÊN XIN PHONG THÁNH CHO CHA TRƯƠNG BỬU DIỆP
Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên là văn phòng liên lạc với Tòa Thánh trong việc xin phong thánh nên khi văn phòng này được đặt ở đâu thì phải có phép của vị Giám Mục Địa Phận ở đó. Đặt trường hợp nếu Tòa Thánh liên lạc với Đức Giám Mục Địa Phận Orange, hỏi về Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên nằm trong địa phận của ngài mà ngài không biết gì về sự hiện diện của văn phòng này, thì đây là một việc làm sai luật và là sự xúc phạm tới Đức Giám Mục.
Việc này đã thật sự xảy ra: Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên xin phong thánh cho Cha Trương Bửu Diệp nằm trong Địa Phận Orange đã được cắt băng khánh thành và làm phép vào Thứ Bẩy ngày 7 tháng 1 năm 2017 nhưng chính Đức Giám Mục của địa phận lại hoàn toàn không biết gì về chuyện này. Ngài đã không cho phép và cũng đã không nhận được giấy xin phép. Như thế Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên xin phong thánh cho Cha Trương Bửu Diệp đã không có phép của Đức Giám Mục để có thể hiện diện trong Địa Phận Orange. Khi không có phép thì không thể đưa vào hoạt động.
Một điều nữa chúng ta cũng cần nên biết đó là tất cả những văn phòng hay cơ sở có tên Cha Trương Bửu Diệp Foundation trong Địa Phận Orange này, không thuộc về Trung Tâm Công Giáo và cũng không thuộc về Tòa Giám Mục Orange. Tất cả những văn phòng hay cơ sở mang tên Cha Trương Bửu Diệp này đều ở dưới dạng hoặc hình thức tư nhân, cho nên Giáo Quyền Công Giáo tại Orange không có quyền thẩm phán hoặc thẩm xét trên họ. Nhưng nếu những cơ sở đó, vẫn mang danh là Công Giáo, mà lại làm những điều sai đức tin hoặc phụng vụ… thì Giáo Quyền ở đây sẽ có trách nhiệm và bổn phận phải lên tiếng. Việc này đã xảy ra mấy năm trước đây, khi một cơ sở mang tên Cha Trương Bửu Diệp trong Quận Orange, đã đưa một linh mục Công Giáo ở ngoài địa phận tới để dâng lễ thường xuyên mà không có phép.
Theo thông lệ đã xảy ra trong Giáo Hội là người ta đúc tượng hoặc dựng tượng các bậc đáng kính, chưa được phong thánh, tại một nơi chốn nào đó ở quê hương các vị này, hoặc một nơi nào đó trong địa phận của các vị này, để tôn kính các ngài. Bởi vì chưa được phong thánh, việc làm như thế phải được sự chuẩn nhận của Đức Giám Mục địa phương. Nhưng việc đúc tượng, làm tượng, tạc tượng các vị này, và gởi đi nơi khác, gởi đi khắp nơi, để cổ võ lòng tôn sùng các vị này, có khi còn xin làm phép tượng nữa, thì đó là điều không đúng. Lý do đơn giản là vì các ngài chưa được phong thánh theo quy luật của Giáo Hội mà đã tạc tượng hoặc làm tượng. Một vị Giám Mục Việt Nam đã nói: “Điều này giống như cái cày đặt trước con trâu.” Và nếu tiến trình phong thánh cho các vị này kéo dài thời gian, thì tội nghiệp các ngài phải đứng chờ hơi lâu.
Trừ trường hợp của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hay Thánh Têrêsa thành Calcutta mà chúng ta thường gọi là Mẹ Têrêsa, hoặc một số vị thánh khác nữa, lịch sử đã cho thấy tiến trình phong thánh cũng rất lâu dài. Thí dụ trường hợp Thánh Martinô De Porres cho chúng ta thấy 258 năm sau ngày sinh của ngài, thì ngài mới được phong chân phước và 125 năm sau khi ngài được phong chân phước, lúc đó ngài mới được phong thánh vào năm 1962.
Khi các vị chưa được phong thánh và chúng ta muốn tỏ lòng tôn kính, việc sử dụng hình ảnh của các ngài dưới dạng tranh hoặc ảnh, hoặc một bản khắc khuôn mặt hoặc chân dung các ngài, là chuyện dễ chấp nhận. Còn đúc tượng, làm tượng, tạc tượng phổ biến mọi nơi, đó là điều không nên. Ơn quan trọng nhất mà chúng ta cần cầu khấn với các thánh, và ngay cả với những vị lành thánh chưa được phong thánh những có lẽ đang ở trên thiên quốc, đó là xin các ngài dẫn chúng ta tới với Chúa.
Xin Trân Trọng Thông Báo
Ngày 28/1/2017
LM Trần Văn Kiểm
Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo
Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm 3/21/2016
LTS: Đây là ý kiến của Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh Tâm, quản nhiệm cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Nam Úc, không nhất thiết là quan điểm của VietCatholic.
http://vietcatholic.net/News/Html/181066.htm
Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
21/03/2016
Anh chị em thân mến,
1.Từ năm ngoái 2015 đến nay, một vấn đề làm hoang mang nhiều người trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc, đó là việc vận động tuyên thánh Linh Mục Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Vì thế, tôi viết bài này giúp anh chị em hiểu rõ về sự việc, để khỏi bị lung lạc do nhiều nguồn tin khác nhau.
2.Việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp là do Đức Giám Mục đương nhiệm của Giáo Phận Cần Thơ, Stêphanô Tri Bửu Thiên, bắt đầu. Đức Cha Thiên đã gửi lá thư đề ngày 03/09/2013 để hỏi ý kiến Bộ Tuyên Thánh và đã được chấp thuận về việc thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh. Văn thư chấp thuận được gọi tóm tắt bằng tiếng La Tinh là “NIHIL OBSTAT” đề ngày 31/10/2014, dịch nghĩa là “KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ”. Khi có văn thư chấp thuận như thế, Cha Diệp được liệt vào bậc “Tôi Tớ Chúa” trong tiến trình vận động tuyên thánh.
3.Văn thư của Bộ Tuyên Thánh cho phép Đức Cha Thiên thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, nhưng văn thư không đòi buộc mọi người tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thi hành việc vận động tuyên thánh này. Mỗi người tín hữu Công Giáo đều có tự do của mình để chọn lựa việc làm. Do đó, Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không buộc phải theo văn thư NIHIL OBSTAT về việc vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
4.Sau khi Bộ Tuyên Thánh ra văn thư NIHIL OBSTAT, Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên thuộc Giáo Phận Saint Paul in Alberta, Canada đến Adelaide, Nam Úc và thành lập một hội có tên là Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp vào ngày 22/12/2014. Linh Mục Tuyên và ban điều hành của hội này không bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Họ tự ý thành lập hội này, mà ngay cả Đức Tổng Giám Mục Adelaide cũng không hề hay biết. Việc tự ý thành lập một hội đoàn có tầm ảnh hưởng lên đức tin, tình hiệp thông và sự ổn định của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, mà không thèm bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm địa phương là một hành động không thể chấp nhận được. Đây là một hành vi không công bình và không bác ái đối với người có trách nhiệm và có quyền điều hành Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc.
5.Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp bắt đầu hoạt động công khai với buổi ra mắt vào ngày 24/06/2015 tại hội trường Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu/Nam Úc. Chỉ hơn hai tháng sau, thì những chuyện rắc rối bắt đầu xảy ra, gây nên căng thẳng, hoang mang và chia rẽ trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Ngày 08/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm nhận được một lá thư mạo danh, chửi bới ngài cách nặng nề và đòi buộc ngài từ chức. Đó là những lời gian dối, hiểm độc và vô căn cứ. Sở dĩ gọi là mạo danh vì tác giả sử dụng tên của một người khác để viết thư. Mục đích của kẻ viết thư là để làm gì? Để gây hoang mang và chia rẽ? Để buộc Linh Mục Quản Nhiệm ra đi? Rồi làm gì? Một điều có thể xảy ra là, nếu Linh Mục Quản Nhiệm ra đi và một Linh Mục khác đến phục vụ, thì tác giả lá thư mạo danh và những người liên quan đến lá thư mạo danh đó sẽ khuynh đảo, lôi kéo Linh Mục mới làm theo ý đồ riêng tư của họ. Nếu chuyện đó xảy ra, thì Cộng Đồng sẽ lâm vào cảnh xáo trộn và chia rẽ trầm trọng như đã từng xảy ra nhiều năm trước đây.
6.Ngày 17/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm lại nhận được một điện thư do một kẻ lấy tên là Thi Hoài gửi đến. Nội dung của điện thư này vu cáo rằng Linh Mục Quản Nhiệm chống lại Cha Diệp, trong khi Linh Mục Quản Nhiệm không hề có một điều gì xúc phạm đến vị Linh Mục quá cố này. Lời lẽ trong thư cũng chửi bới và đe dọa tương tự như lá thư mạo danh xuất hiện trước đó hơn một tuần. Chúng ta tự hỏi: “Tác giả Thi Hoài có mối liên hệ mật thiết nào đối với Cha Diệp và những hiện tượng liên quan đến Cha Diệp? Tác giả Thi Hoài có liên quan mật thiết nào với kẻ viết thư mạo danh hơn một tuần trước đó? Kẻ viết thư mạo danh lại có mối liên hệ mật thiết nào với việc vận động tuyên thánh Cha Diệp? Trong khoảng thời gian kế tiếp cho đến bây giờ, cũng có một vài chuyện khác xảy ra nhằm triệt hạ uy tín của Linh Mục Quản Nhiệm và gây khó khăn cho những người cộng tác với ngài để phục vụ Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Những chuyện này cũng biểu lộ một số dấu hiệu có liên quan đến việc vận động tuyên thánh Cha Diệp và kẻ viết thư mạo danh cùng tác giả Thi Hoài được đề cập trên đây.
7.Cộng Đồng Công Công Giáo Việt Nam – Nam Úc sinh hoạt ổn định, an lành, vui vẻ và hiệp thông với nhau trong nhiều năm qua. Nhưng kể từ khi Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp do Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên lập ra, bắt đầu hoạt động công khai tại Adelaide vào ngày 24/6/2015, thì chỉ một thời gian ngắn sau đó là xáo trộn, hoang mang và chia rẽ xảy ra ngay trong Cộng Đồng này. Tại sao lại có sự xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như vậy? Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không gây ra tình trạng này. Chắc chắn Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp cũng không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ. Một phần là vì ngài đã qua đời, và người đã qua đời không làm ra những chuyện này. Phần khác là vì chúng ta tin rằng Cha Phanxicô Xaviê là một Linh Mục thánh thiện. Mà người thánh thiện chắc chắn không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ trong bất cứ cộng đoàn nào. Vậy ai đã gây ra những xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như thế? Câu trả lời là tùy từng cá nhân. Mỗi người hãy cầu nguyện, hãy xét mình, hãy đối diện với lương tâm, với Thiên Chúa, với Đức Mẹ cùng các thiên thần và các thánh, để tìm ra câu trả lời cho chính mình.
8.Việc vận động tuyên thánh Cha Diệp cần phải có văn thư của Đức Giám Mục đương nhiệm Giáo Phận Cần Thơ kêu gọi xin hỗ trợ mới được. Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên đã gửi một văn thư đề ngày 24/10/2012, ủy nhiệm cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo tại Hoa Kỳ để đại diện Giáo Phận Cần Thơ lo việc vận động tuyên thánh Cha Diệp tại Hoa Kỳ. Còn ở Úc thì không có văn thư nào tương tự như thế. Vì vậy, Linh Mục Quản Nhiệm CĐCGVNNU không thể đại diện Giáo Phận Cần Thơ để tự ý thực hiện việc vận động tuyên thánh này.
9.Một mặt, Đức Giám Mục Stêphanô Tri Bửu Thiên bổ nhiệm Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên làm Cáo Thỉnh Viên trong Bản Tuyên Bố ký ngày 20/08/2011, để lo việc vận động tuyên thánh. Mặt khác, Đức Cha Thiên lại ra ủy nhiệm thư ký ngày 24/10/2012 cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ lo việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp tại nơi đây. Nội dung ủy nhiệm thư quy định là tại Hoa Kỳ trách nhiệm và quyền vận động tuyên thánh cho Cha Diệp thuộc về giới lãnh đạo Công Giáo Việt Nam ở quốc gia này. Ủy nhiệm thư không đề cập đến Cha Tuyên. Do đó, chúng ta không biết rõ trách nhiệm và quyền hạn của Cha Tuyên bao quát đến mức độ nào? Trong tình trạng mù mờ như thế, điều khôn ngoan nhất là không nên hành động vội vã, kẻo gây hiểu lầm và tạo ra xáo trộn.
10.Giả sử Đức Cha Thiên có kêu gọi hỗ trợ việc vận động tuyên thánh đi nữa, thì công việc này cũng không nhất thiết đòi hỏi là phải thành lập hội đoàn. Bởi vì việc vận động tuyên thánh có nhiều cách để làm, tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm trong từng địa phương. Theo hoàn cảnh hiện nay, đối với Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, việc lập thêm hội đoàn là điều không cần thiết. Cộng Đồng đã có quá nhiều hội đoàn, mà thành viên của các hội đoàn hầu hết là những khuôn mặt quen thuộc. Những người tham gia hội đoàn này, cũng thường tham gia hội đoàn khác. Có người là thành viên của ba bốn hội đoàn. Vì vậy, khi chúng ta đi họp hội đoàn nào, chúng ta cũng thấy những khuôn mặt quen thuộc đó hiện diện. Cho nên, căn cứ theo hoàn cảnh hiện tại, Cộng Đồng không cần lập thêm hay công nhận thêm một hội đoàn nào khác nữa, ngoại trừ trường hợp rất cần thiết theo phán đoán mục vụ của Linh Mục Quản Nhiệm, thì ngài mới thành lập thêm hội đoàn. Trong mức độ liên quan đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, chúng ta phải coi hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp chỉ là một tổ chức của tư nhân ngoài Cộng Đồng mà thôi. Nói chung, việc thành lập hội đoàn thì mọi người đều có quyền thực hiện, miễn là hợp pháp. Tuy nhiên, khi một hội đoàn nào có liên quan đến đức tin và làm ảnh hưởng tiêu cực đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, thì trách nhiệm và lương tâm mục tử đòi buộc Linh Mục Quản Nhiệm phải có thái độ và hành động xứng hợp để bảo vệ đức tin của giáo dân mình coi sóc.
11.Việc tôn kính một cá nhân mà mình ngưỡng mộ là chuyện tự do của mỗi người. Ai muốn chọn người nào để tôn kính và cách thức nào để tôn kính vị đó thì tùy ý. Việc tôn kính này không buộc ai phải gia nhập hội đoàn hay lập thêm hội đoàn. Nếu ai muốn tôn kính người nào hay lập hội đoàn nào, thì tùy ý, nhưng đừng nên đòi hỏi người khác phải chấp nhận việc tôn kính như mình hay chấp nhận hội đoàn của mình. Mỗi một Linh Mục coi sóc giáo xứ hay điều hành cộng đoàn sắc tộc đều có trách nhiệm và có quyền điều hành giáo xứ hay cộng đoàn của họ. Trách nhiệm điều hành và quyền điều hành bao giờ cũng đi đôi với nhau. Theo lẽ thường, mọi người đều buộc phải tôn trọng trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các vị ấy. Do đó, khi một hay nhiều Linh Mục khách hoặc một nhóm người nào đó không tôn trọng phạm vi trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các Linh Mục coi xứ hoặc các Linh Mục coi sóc cộng đoàn sắc tộc, thì các vị ấy đã vi phạm đức công bình và đức bác ái.
12.Một tín hữu Công Giáo được vận động để tuyên thánh phải trải qua một tiến trình gồm bốn bậc: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (còn gọi là Á Thánh), và Hiển Thánh. Xét tận căn, bốn bậc này đều là Tôi Tớ Chúa cả, nhưng sự khác biệt giữa các bậc như sau: *Tôi Tớ Chúa (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), *Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính, *Tôi Tớ Chúa Chân Phước (còn gọi là Tôi Tớ Chúa Á Thánh), và *Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh. Nói vắn tắt, bốn bậc là: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (Á Thánh), và Hiển Thánh. Cha Diệp đang còn ở trong bậc Tôi Tớ Chúa, nghĩa là Tôi Tớ Chúa đơn giản mà thôi.
13.Trong Giáo Luật, điều 1187 qui định rõ ràng: “Chỉ được phép tôn kính công khai những Tôi Tớ của Thiên Chúa đã được giáo quyền liệt kê vào sổ bộ Chân Phước hay Hiển Thánh.” Điều luật này cho thấy chỉ có Tôi Tớ Chúa Chân Phước và Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh mới được phép tôn kính công khai mà thôi. Còn hai bậc khác là Tôi Tớ Chúa đơn giản và Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính thì chỉ được tôn kính riêng tư. Do đó, khi tôn kính một người nào đang còn ở trong giai đoạn “Tôi Tớ Chúa” (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), thì nguyên tắc căn bản là không nên thực hiện việc tôn kính thái quá khiến cho nhiều người lầm tưởng là vị ấy đã được Giáo Hội tuyên phong Chân Phước hay Hiển Thánh rồi. Ngay cả khi tôn kính Chân Phước hay Hiển Thánh, người tín hữu Công Giáo cũng không nên làm những hành vi sùng bái quá đáng, đến nỗi họ chỉ biết dâng hiến xác hồn cho cá nhân người được sùng kính, mà không còn thiết tha gì đến Thiên Chúa nữa. Một khi hiện tượng này xảy ra, thì việc tôn kính cá nhân đó trở thành một thứ tôn thờ ngẫu thần, tương tự như việc tôn thờ bò vàng của dân Do Thái trong sa mạc (Xuất Hành 32).
14.Khi thiên hạ nói rằng mình được ơn lạ từ vị này vị kia, thì điều đó chưa hẳn là ơn lạ hay phép lạ. Bởi vì chúng ta dựa vào chứng cớ nào để tin? Lời nói của một người hay nhiều người vẫn chưa đủ để chứng minh về ơn lạ hay phép lạ. Những cái gọi là ơn lạ hay phép lạ phải được xét nghiệm theo phương pháp khoa học và phải được Thẩm Quyền của Giáo Hội tuyên bố; bấy giờ người tín hữu Công Giáo mới nên tin là phép lạ.
15.Đức tin của Giáo Hội bắt nguồn từ thời các thánh Tông Đồ và tiếp diễn cho đến nay. Điều cốt yếu là chúng ta đón nhận và sống đức tin do Giáo Hội truyền dạy. Đức tin của chúng ta được nâng đỡ và khích lệ qua việc tôn kính các thánh. Việc tôn kính các thánh có hai mục đích, đó là học theo gương sáng của các ngài và xin các ngài cầu bầu cùng Chúa để Chúa ban ơn cho chúng ta (GLHTCG 828). Trong hai mục đích này, việc học hỏi gương sáng các thánh là điều chính yếu, bởi vì nó giúp chúng ta thăng tiến đời sống để nên thánh như ý Chúa muốn. Chúa Giêsu đã dạy rõ ràng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi tôn kính một vị thánh nào hay một tín hữu Công Giáo nào đang được vận động để được tuyên thánh, thì điểm chính yếu là chúng ta học theo gương sáng của họ. Gương sáng căn bản là: tôn trọng sự thật, công bình và bác ái, để kiến tạo hòa bình. Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô dạy trong bài Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9).
16.Như đã nói trên đây, chúng ta tin rằng Cha Phaxicô Xaviê Trương Bửu Diệp là một vị Linh Mục thánh thiện. Bộ Tuyên Thánh đã chấp thuận cho ngài được vận động để tuyên thánh, nên ngài được gọi là Tôi Tớ Chúa. Tuy nhiên, văn thư NIHIL OBSTAT (nghĩa là: không có gì ngăn trở) của Bộ Tuyên Thánh không đòi buộc mọi tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thực hiện cuộc vận động đó. Mỗi tín hữu đều có tự do của mình để chọn lựa. Nếu chọn lựa vận động tuyên thánh, thì có nhiều phương pháp để thực hiện tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm của từng nơi chốn. Phương pháp vận động tuyên thánh có xứng hợp hay không, thì tùy thuộc sự phán đoán của mỗi tín hữu. Có Chúa biết rõ lòng dạ chúng ta. Mỗi người trong anh chị em cần suy nghĩ để chọn lựa thái độ và lối sống đức tin cho mình. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa Thiên Chúa về mọi việc làm của mình ở trần gian này.
Thân mến chào anh chị em,
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
Quản Nhiệm CĐCGVNNU
20/03/2016
*****************************
Sau khi đọc xong bài "Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?" của Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm, viết ngày 20 tháng 3 năm 2016 và được đăng trong trang mạng http://vietcatholic.net/News/Html/181066.htm ngày 21 tháng 3 năm 2016 , Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật thành thật cám ơn Đức Ông đã viết bài này giúp anh chị em BBT ASST nói riêng, giáo dân Việt Nam nói chung để hiểu rõ về sự việc. BBT ASST có nhận xét như sau:
- Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Mục địa phương tại Việt Nam, các Dòng, các Linh Mục chánh xứ trong nước và ngoại quốc là những chủ chiên, các Ngài thông hiểu và am tường rất rõ về Giáo Luật cũng như các Điều Luật của tiến trình trước khi được Bộ Tuyên Thánh phong thánh cho ai thì cần phải làm những gì, và những gì chưa được phép làm. Nhưng các Ngài đã làm ngơ, hoặc cố tình đứng ra với nhóm con chiên này, đoàn chiên kia để tổ chức những Thánh Lễ giỗ thật vĩ đại, thật linh đình.
- Mới đây có 1 Giáo Xứ ở ngoại quốc, Cha Xứ cho tổ chức Thánh Lễ Giỗ 70 năm của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Trong phần xin TIỀN, không biết đây là ý kiến của Cha Xứ hay của Ban Tổ Chức mà giáo dân phải xếp hàng đi lên chỗ tượng ảnh của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp để bỏ TIỀN vào giỏ. Chưa hết, Cha Xứ còn đứng trước tượng của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp mà đặt hai tay của mình lên đầu của giáo dân nào muốn xin ơn, sau Thánh Lễ lại còn có phần sinh hoạt văn nghệ đặc sắc nữa chứ. không biết trong Giáo Luật cũng như trong các Điều Luật của Bộ Phong Thánh có chỗ nào ghi cho phép khi đang Vận động xin tuyên thánh cho ai, Linh Mục được phép làm những chuyện như thế này không?
Thật sự, nếu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Mục địa phương tại Việt Nam, các Dòng, các Linh Mục chánh xứ trong nước và ngoại quốc mà có trách nhiệm lên tiếng về những sự việc mà Đức Ông viết ra ở trên thì người dân Việt Nam nói chung, người Công Giáo nói riêng sẽ hiểu rõ vấn đề, nhất là sẽ tránh được những kẻ xấu xa lạm dụng lòng tin và tôn kính của chúng ta đối với Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp.
Bởi vì, người dân Việt Nam chúng ta nói chung, giáo dân công giáo nói riêng, khi nghe được những tin tức, hoặc truyền miệng mách bảo với nhau rằng: nơi này, chỗ kia, có Ông Thánh này, Bà Thánh nọ, người này, người kia rất linh thiêng thì thường đổ xô nhau đi tới đó để khấn vái, xin ơn, nhất là trong gia đình nào có người bị bệnh mà hết thuốc chữa, hoặc vv và vv...
Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật
ĐỪNG ẢO TƯỞNG
Lm Ignatiô Trần Ngà
Vào dịp cuối năm, Lu-xi-phe triệu tập đại hội đồng quỷ sứ để kiểm điểm tình hình hoạt động suốt năm qua.
Quỷ già, quỷ cái, quỷ con đều họp mặt đông đủ và báo cáo cho Quỷ Vương Lu-xi-phe biết tình hình cám dỗ của toàn bầy quỷ sứ.
Nói chung, hoạt động cám dỗ không đạt kết quả như chỉ tiêu đã đề ra và tỉ số người phải xuống hoả ngục xem ra không gia tăng đáng kể.
Vì thế, khi bước qua phần hai của chương trình thảo luận, Quỷ Vương Lu-xi-phe kêu gọi hội đồng quỷ hãy đề ra những chiêu thức cám dỗ hữu hiệu hơn, liệu sao để lôi kéo được nhiều linh hồn sa hoả ngục hơn.
Các quỷ tham gia tranh luận sôi nổi, bày ra nhiều mưu chước nhằm làm cho loài người sa vòng tội lỗi. Ý kiến thì nhiều, nhưng chỉ nêu ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Có quỷ đề nghị hãy cám dỗ các bạn trẻ rằng: “Không có Thiên Chúa, không có thiên đàng hoả ngục. Thiên đàng là ảo tưởng do Giáo Hội bày ra để dụ khị loài người; hoả ngục chỉ là sản phẩm do Cha Cố thêu dệt để hù doạ những người yếu bóng vía. Đừng dại dột tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau mà phí cả cuộc đời!”. Mưu chước nầy cũng chưa thuyết phục nên không được đa số chấp nhận.
Có quỷ thì hiến kế nên thuyết phục người ta biết rằng Đức Giêsu chỉ là hạng phàm phu tục tử, Phúc Âm của Ngài gồm toàn những chuyện bịa đặt viển vông…” nhưng rồi ý kiến nầy cũng không được hưởng ứng.
Cuối cùng có lão quỷ già có tiếng là đa mưu túc kế lên tiếng: “Theo tôi, chúng ta nên cám dỗ thế nầy: “có Thiên Chúa, có thiên đàng hoả ngục, có linh hồn, có sự sống đời sau… (mình phải nói như vậy để người ta tin mình đã, rồi ta sẽ thêm) nhưng bạn hãy nhớ rằng: Đời bạn còn dài mà, bạn chưa chết đâu! Vậy hãy vui hưởng lạc thú đời nầy đi! Đợi đến khi già yếu rồi ăn năn sám hối cũng chưa muộn.”
Một tràng pháo tay giòn vang tán thưởng diệu kế của lão quỷ già thâm độc. Thế là hội nghị nhất trí với phương thức cám dỗ được xem là sẽ rất kiến hiệu của lão quỷ già đa mưu.
Hiện nay, hầu như mọi người đều tin theo lời cám dỗ độc hại ấy. Ai cũng tin rằng đời mình còn dài, chưa đến lúc phải ăn năn hối cải. Ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ta sẽ sám hối, sẽ cải thiện cuộc đời, còn hôm nay, thì…
Qua bài trích thư gởi tín hữu Rô-ma trích đọc hôm nay (Rm 13, 11-14) thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy mau quay về với Chúa, hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, đừng mơ tưởng đời còn dài rồi cứ đắm mình trong lạc thú:
“Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.”
Và Lời Chúa trong Tin Mừng cũng kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức vì giờ Chúa đến thật bất ngờ; vì như “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Nếu hôm nay, lúc còn an bình khoẻ mạnh, ta không tưởng gì đến Chúa; đợi đến lúc lâm nguy rồi mới chạy đến với Ngài thì chúng ta xem Chúa có khác gì chiếc phao. Bình thường khi trời quang mây tạnh, mọi sự an lành thì không ai thèm ngó lại chiếc phao, xem nó như cái gì thừa thãi vô tích sự, có thấy nó nằm giữa lối đi thì người ta cũng đá nó sang một bên, không ai thèm đoái hoài. Nhưng khi gặp phong ba bão táp, nguy khốn đến nơi thì tranh nhau giành lấy phao cho bằng được!
Lạy Chúa, Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Thiên Chúa tối cao mà chúng con phải phụng thờ suốt đời, ngay cả bây giờ, chứ không phải là chiếc phao cứu mạng chỉ cần dùng lúc gặp gian nguy khốn khó.
Xin cho chúng con đừng khờ khạo tin rằng đời còn dài, hãy tận hưởng đời và mê đắm trong tội mà lãng quên phần rỗi đời đời của chúng con.
Lm Ignatiô Trần Ngà
Vào dịp cuối năm, Lu-xi-phe triệu tập đại hội đồng quỷ sứ để kiểm điểm tình hình hoạt động suốt năm qua.
Quỷ già, quỷ cái, quỷ con đều họp mặt đông đủ và báo cáo cho Quỷ Vương Lu-xi-phe biết tình hình cám dỗ của toàn bầy quỷ sứ.
Nói chung, hoạt động cám dỗ không đạt kết quả như chỉ tiêu đã đề ra và tỉ số người phải xuống hoả ngục xem ra không gia tăng đáng kể.
Vì thế, khi bước qua phần hai của chương trình thảo luận, Quỷ Vương Lu-xi-phe kêu gọi hội đồng quỷ hãy đề ra những chiêu thức cám dỗ hữu hiệu hơn, liệu sao để lôi kéo được nhiều linh hồn sa hoả ngục hơn.
Các quỷ tham gia tranh luận sôi nổi, bày ra nhiều mưu chước nhằm làm cho loài người sa vòng tội lỗi. Ý kiến thì nhiều, nhưng chỉ nêu ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Có quỷ đề nghị hãy cám dỗ các bạn trẻ rằng: “Không có Thiên Chúa, không có thiên đàng hoả ngục. Thiên đàng là ảo tưởng do Giáo Hội bày ra để dụ khị loài người; hoả ngục chỉ là sản phẩm do Cha Cố thêu dệt để hù doạ những người yếu bóng vía. Đừng dại dột tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau mà phí cả cuộc đời!”. Mưu chước nầy cũng chưa thuyết phục nên không được đa số chấp nhận.
Có quỷ thì hiến kế nên thuyết phục người ta biết rằng Đức Giêsu chỉ là hạng phàm phu tục tử, Phúc Âm của Ngài gồm toàn những chuyện bịa đặt viển vông…” nhưng rồi ý kiến nầy cũng không được hưởng ứng.
Cuối cùng có lão quỷ già có tiếng là đa mưu túc kế lên tiếng: “Theo tôi, chúng ta nên cám dỗ thế nầy: “có Thiên Chúa, có thiên đàng hoả ngục, có linh hồn, có sự sống đời sau… (mình phải nói như vậy để người ta tin mình đã, rồi ta sẽ thêm) nhưng bạn hãy nhớ rằng: Đời bạn còn dài mà, bạn chưa chết đâu! Vậy hãy vui hưởng lạc thú đời nầy đi! Đợi đến khi già yếu rồi ăn năn sám hối cũng chưa muộn.”
Một tràng pháo tay giòn vang tán thưởng diệu kế của lão quỷ già thâm độc. Thế là hội nghị nhất trí với phương thức cám dỗ được xem là sẽ rất kiến hiệu của lão quỷ già đa mưu.
Hiện nay, hầu như mọi người đều tin theo lời cám dỗ độc hại ấy. Ai cũng tin rằng đời mình còn dài, chưa đến lúc phải ăn năn hối cải. Ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ta sẽ sám hối, sẽ cải thiện cuộc đời, còn hôm nay, thì…
Qua bài trích thư gởi tín hữu Rô-ma trích đọc hôm nay (Rm 13, 11-14) thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy mau quay về với Chúa, hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, đừng mơ tưởng đời còn dài rồi cứ đắm mình trong lạc thú:
“Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.”
Và Lời Chúa trong Tin Mừng cũng kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức vì giờ Chúa đến thật bất ngờ; vì như “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Nếu hôm nay, lúc còn an bình khoẻ mạnh, ta không tưởng gì đến Chúa; đợi đến lúc lâm nguy rồi mới chạy đến với Ngài thì chúng ta xem Chúa có khác gì chiếc phao. Bình thường khi trời quang mây tạnh, mọi sự an lành thì không ai thèm ngó lại chiếc phao, xem nó như cái gì thừa thãi vô tích sự, có thấy nó nằm giữa lối đi thì người ta cũng đá nó sang một bên, không ai thèm đoái hoài. Nhưng khi gặp phong ba bão táp, nguy khốn đến nơi thì tranh nhau giành lấy phao cho bằng được!
Lạy Chúa, Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Thiên Chúa tối cao mà chúng con phải phụng thờ suốt đời, ngay cả bây giờ, chứ không phải là chiếc phao cứu mạng chỉ cần dùng lúc gặp gian nguy khốn khó.
Xin cho chúng con đừng khờ khạo tin rằng đời còn dài, hãy tận hưởng đời và mê đắm trong tội mà lãng quên phần rỗi đời đời của chúng con.
Về việc biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”
Là một người Công Giáo, khi đọc bài viết của Tỳ Kheo Thích Chân Tuệ trên trang mạng Ba Cây Trúc nói "Về việc biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật” mà tôi cảm thấy Giáo Hội Công Giáo của chúng tôi ở hải ngoại cũng không thua gì bên Phật Giáo, có khi còn hơn thế nữa. Chẳng hạn mỗi năm Các nhà dòng, các giáo xứ thi đua nhau tổ chức hội chợ mùa này, hội chợ mùa kia, tiệc tết tây xứ người, tiệc tết ta xa xứ nhớ quê hương, nhà hàng này, hội trường kia để gây quĩ xây dựng nhà thờ, trường học, tu viện, nhà giáo xứ cho các cha vv...vv.
Một năm tổ chức nhiều như vậy, không hiểu các Linh Mục còn được bao nhiêu thì giờ để làm mục vụ và đi thăm viếng những người nghèo cô đơn, bệnh tật, hay chỉ có thì giờ đi tới những đại gia, những mạnh thường quân để lo kiếm tiền. Ôi Linh Mục ngày nay là thế đó sao?
Người Công Giáo
Xin đọc bài Về việc biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật” dưới đây.
Về việc biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”
Là một người Công Giáo, khi đọc bài viết của Tỳ Kheo Thích Chân Tuệ trên trang mạng Ba Cây Trúc nói "Về việc biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật” mà tôi cảm thấy Giáo Hội Công Giáo của chúng tôi ở hải ngoại cũng không thua gì bên Phật Giáo, có khi còn hơn thế nữa. Chẳng hạn mỗi năm Các nhà dòng, các giáo xứ thi đua nhau tổ chức hội chợ mùa này, hội chợ mùa kia, tiệc tết tây xứ người, tiệc tết ta xa xứ nhớ quê hương, nhà hàng này, hội trường kia để gây quĩ xây dựng nhà thờ, trường học, tu viện, nhà giáo xứ cho các cha vv...vv.
Một năm tổ chức nhiều như vậy, không hiểu các Linh Mục còn được bao nhiêu thì giờ để làm mục vụ và đi thăm viếng những người nghèo cô đơn, bệnh tật, hay chỉ có thì giờ đi tới những đại gia, những mạnh thường quân để lo kiếm tiền. Ôi Linh Mục ngày nay là thế đó sao?
Người Công Giáo
Xin đọc bài Về việc biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật” dưới đây.
Về việc biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”
GIÁM MỤC ĂN XIN
Trần Mỹ Duyệt
LTS. Bài viết khá hay này của Trần Mỹ Duyệt đã được đăng trong Sứ Mệnh Giáo Dân số 53. Tuy nhiên vào dịp có nhiều tác giả đề cập về đề tài “Giám mục ăn xin,” chúng tôi xin được phổ biến trên TNGD để rộng đường dư luận.
Tôi muốn lấy đầu đề cho bài viết này bằng cụm từ "Giám Mục Ăn Xin". Tôi dùng từ "ăn xin", vì đây chính là lời mà Giám Mục Nguyễn Chí Linh đã công khai dùng để nói về mục đích xuất ngoại của mình, đồng thời so sánh việc làm này với các giám mục khác.
Hôm đó là chiều Thứ Bẩy 21 tháng 4 năm 2007. Trong thánh lễ lúc 8 giờ tối thay Chúa Nhật, tại cộng đoàn Thánh Linh (Holy Spirit) thuộc Giáo Phận Orange County, Giám Mục Nguyễn Chí Linh, Giám Mục Thanh Hóa, kiêm Giám Quản Tông Tòa Phát Diệm, đã chủ tế thánh lễ và giảng thuyết. Tôi đã chăm chú nghe rất kỹ bài giảng của vị giám mục này, không phải vì lòng yêu mến, sốt sắng, cho bằng nghe coi những lời chia sẻ ấy mang ý nghĩa gì.
Bỏ qua những thành kiến và những ảnh hưởng của các quan niệm khác nhau, tôi nhận ra điều này, đó là giám mục Linh ít ra cũng dám nói đụng chạm đến Cộng Sản và chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam. Ngài đã nhắc đi nhắc lại là sau mấy chục năm thống nhất, vậy mà tại giáo phận miền Bắc của ngài rất nhiều em chịp phép thêm sức đã không có lấy một đôi dép để đi. Ngài cũng đã so sánh sự tụt hậu và yếu kém của nền kỹ nghệ, nông nghiệp của Việt Nam khi so sánh với các quốc gia tiên tiến. Nơi các quốc gia tiên tiến việc cấy, gặt, canh tác được dùng bằng sức máy móc, nhưng ở Việt Nam thì vẫn là sức người. Lao động cực nhọc và vất vả. Ngài cũng đã làm cho người nghe thấy mủi lòng khi đề cập đến tình trạng đói khổ đã làm cho một số không ít người phải rời bỏ quê hương ra Hà Nội, vào Sàigon kiếm sống, rồi ở đó đã bị dẫn dắt và lường gạt đi vào con đường sa đọa. Nhất là ngài không ngần ngại nói rõ mục đích xuất ngoại của mình là để "ăn xin" cho giáo phận, nhân danh những người nghèo khổ. Theo ngài, để làm được việc ấy, ngài cũng đã suy nghĩ và phải đi ra khỏi cái sợ sệt, nhút nhát của chính bản thân mình. Và cũng theo ngài, quyết định ăn xin lần này đã có sự suy nghĩ cẩn thận, nhất là sau khi thấy nhiều vị này, vị khác ăn xin đã khấm khá, và ăn nên, làm ra.
GIÁM MỤC ĂN XIN
Những người nghèo khó ăn xin. Những người dân thường ăn xin là chuyện thường tình. Nhưng chuyện khó tin mà có thật là chuyện nhiều vị giám mục đi ăn xin, và hiện tượng này chỉ xẩy ra cho Giáo Hội Việt Nam ở vào thời điểm và thời đại tối tân hiện nay. Đặc biệt hiện tượng này đang nở rộ vào thời gian gần đây, nhất là vào tháng Tư năm 2007. Với nhiều hình thức và danh nghĩa khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng là kiếm tìm sự giúp đỡ tài chánh từ phía những giáo dân Việt Nam ở hải ngoại, cách riêng tại Hoa Kỳ.
Tuy mang danh nghĩa ăn xin, nhưng đây là thành phần những người ăn xin hạng sang, có bằng cấp, và địa vị. Ăn xin không phải đứng ở đầu đường, xó chợ, hoặc những nơi đông người qua lại. Ăn xin không phải cằm giỏ, mũ, nón hay bát. Ăn xin mà có những người khác theo hầu. Chủ sự các buổi phụng vụ, và là khách mời danh dự của các bữa tiệc linh đình, sang trọng. Những hình thức ăn xin này nằm dưới danh nghĩa:
- Thăm viếng thân nhân.
- Thăm viếng đồng hương.
- Chủ tế hay thuyết giảng các đại lễ.
- Làm phép hay thánh hiến nguyện đường, trung tâm.
- Thuyết trình trong các hội nghị.
Và thành phần ăn xin trên gồm hồng y, tổng giám mục, và giám mục.
TÂM LÝ ĂN XIN
Ăn xin vui hay buồn? Ăn xin khổ hay sướng? Đối với phần đông, thì ăn xin chẳng sung sướng và hãnh diện gì. Nhưng cũng không hẳn là thế, và còn tùy vào những hình thức và kiểu cách của người ăn xin.
Gần đây chính quyền Trung Quốc đã ra tay dẹp bỏ tệ nạn ăn xin tại những trung tâm du lịch của họ. Lý do vì người ăn xin thật sự thì ít, mà kẻ lợi dụng thời cơ làm nghề ăn xin thì nhiều. Họ là những tay ăn xin chuyên nghiệp, và ăn xin có bài bản. Chính vì thế, du khách dễ bị trấn lột, và tạo nên một hình ảnh xấu về Trung Quốc vỹ đại dưới con mắt những du khách đang muốn tìm hiểu về quốc gia rộng lớn này.
Cũng mới đây khi đề cập đến chuyện ăn xin, và những kiểu cách ăn xin của Mỹ, cô em gái tôi mới qua chơi cũng đã chia sẻ với tôi, đại khái cô nói rằng ăn xin thì ở đâu mà chả có, ở Việt Nam nghệ thuật ăn xin còn ngầu hơn cả Mỹ nữa là khác. Và cô đã kể cho tôi nghe một câu truyện mà cô là người chứng kiến. Cô nói:
Em nhớ một hôm em đang ở nhà ông nội của các con em, thì có một bà đến nhà xin ăn, bà khóc lóc và kể lể rất thảm thiết rằng chồng bà vừa bị xe đụng gẫy chân nằm trên giường không di chuyển được, đau đớn và khổ sở lắm. Gia đình bà lại đông con, nên bà chỉ xin giúp đỡ chút ít để có tiền chạy chữa cho chồng.
Nhưng khi vừa về đến nhà mình, thì đã thấy bà ấy đang kể lể với mẹ rằng chồng bà bị ung thư phổi ở thời kỳ nguy kịch và có thể chết bất cứ lúc nào. Bà xin giúp đỡ tiền thuốc cho chồng, hoặc ít ra là có chút ít lo việc ma chay nếu như Chúa cất chồng bà về nay mai.
Thấy bà xạo quá, em tức mình nói: "Tôi vừa gặp bà ở nhà bố chồng tôi ít phút trước đây. Ở đó bà đã kể lể rằng chồng bà bị xe đụng gẫy giò, bây giờ bà lại chù ẻo chồng bà về bệnh ung thư tức là làm sao. Bà về đi, lo làm ăn lương thiện may ra Chúa cứu chồng bà và cho ông ấy chóng khỏi chân và lành bệnh ung thư."
Đối với những người ăn xin chuyên nghiệp hoặc như người đàn bà trên đây thì ăn xin rất có lợi và đôi khi vui nữa, vì vừa nhàn không phải làm gì vừa có tiền, lại vừa có được cái cảm giác lừa được người khác. Nhưng ăn xin thật thì không những không vui, mà còn rất tủi hổ.
Một cuộc khảo cứu về tâm lý ăn xin đã được trình chiếu trên hệ thống truyền hình Mỹ gần đây. Người được chọn làm mẫu sau khi đã được hóa trang và trở thành một người ăn xin, đã được đưa đến một địa điểm có đông người qua lại. Toàn cuộc khảo cứu đã được thâu hình. Và sau một ngày ăn xin, người ấy đã tắm rửa sạch sẽ, áo quần đàng hoàng xuất hiện để trả lời cuộc phỏng vấn. Cuốn băng ghi lại buổi ăn xin này được chiếu lại cho thấy trong đó có kẻ cho, người từ chối. Kẻ thông cảm, người khó chịu, nhưng phần đông là không cho và có thái độ dửng dưng. Khảo cứu này đưa đến kết luận ăn xin thật sự không mấy hứng thú và đôi khi gặp nhiều rủi ro bởi những thành phần côn đồ, và những người ác ý.
ĂN XIN KIỂU GIÁM MỤC
Là hồng y, tổng giám mục, và giám mục, cung cách ăn xin cũng khác người. Thí dụ:
- Không phải hóa trang thành bẩn thỉu, lem luốc mà vẻ mặt sáng ngời, uy nghi, đạo mạo.
- Không phải mặc áo quần rách rưới, đầu tóc lôi thôi mà là ăn mặc sang trọng, gọn gàng, sạch sẽ.
- Không đứng đầu đường, xó chợ mà là đứng trên bục cao, chủ sự những nghi lễ trang trọng, hoặc những thành phần thích giả chọn lọc.
- Không thu bạc cắc, bạc lẻ, nhưng là thu tiền trăm, tiền ngàn, hoặc hàng chục ngàn.
- Không bị chê bai, xỉ nhục, nhưng phần lớn được ca tụng và hoan hô.
Hơn thế, còn được nhiều người tỏ ra xót xa khi thấy các ngài không quản ngại đường xá xa xôi và bỏ ra thời giờ vàng ngọc để đến với mình, để yên ủi và nâng đỡ mình.
Nhưng như vừa trình bày trên, không phải hễ ăn xin kiểu giám mục là không gặp rủi ro. Và hễ ăn xin như một vị giám mục là không bị nghi vấn về chủ đích và sự sòng phẳng của cái mà mình đã xin được. Sau đây chỉ là một vài ví dụ:
Giáo dân Maria Goretti "tiếp xúc" với GM Nguyễn Chí Linh
Chúa Nhật 29-4-07, sau khi dâng thánh lễ tại nhà thờ Maria Goretti, San Jose. GM Nguyễn Chí Linh đã ra cuối nhà thờ để tiếp xúc với giáo dân và nhận tiện do giáo dân trao cho, sau khi đã vận động xin giáo dân giúp đỡ tài chánh để xây dựng những cơ sở sinh hoạt cho giáo phận Thanh Hoá.
Khi Ngài vừa ra và đang nhận món tiền đầu tiên (đang cầm tay) thì có 2 nữ giáo dân cầm 2 lá cờ vàng 3 sọc đỏ của VNCH đến "Xin Đức Cha chụp với chúng con một tấm hìn kỷ niệm ngày Quốc Hận 30-4-75, vì ngày đó chúng con bỏ nước ra đi."
Đang vui vẻ bỗng mặt ĐC đanh lại khi thấy là cờ vàng 3 sọc đỏ và tỏ ra rất miễn cưỡng. Một giáo dân thấy vậy nói "Cất cờ đi" thì lập tức có người rất nhiều tiếng phản đối, trong đó có người đang cầm giỏ xin tiền cũng nói "Người ta chỉ xin chụp hình thôi mà."
Một trong 2 giáo nữ giáo dân liền lên tiếng với người đòi cất cờ: "Anh ở phía nào mà anh không biết lá cờ này? Đây là lá cờ chúng ta sống chết để bảo vệ nó."
Ông này (vẻ mặt hung ác đứng bên người đàn bà mang kính trắng) định chụp lá cờ để bẻ, lập tức nữ giáo dân la lên:
- Mày đụng đến lá cờ này, mày biết tay bà, tao sống chết với lá cờ này.
Thấy nguy hiểm ông ta bèn rút lui. Ông khác (bận áo len) đòi gọi police, cũng bị mấy người phản đối, tạo nên cảnh hỗn loạn.
Trong khi đó thì nữ giáo dân kia trình Đức Cha: "Có phải Nguyễn Tấn Dũng sai Đức Cha qua đấy phải không? Đức Cha có biết ngày này là ngày Quốc Hận không? Đức Cha qua đây mở tiệc ăn mừng rồi còn nói xấu các cha tuyên uý của chúng con..."
Thấy không thể nán lại được, mấy linh mục đi theo hộ tống Đức Cha vào trong nhà thờ và đóng cửa lại. Cuộc xin tiền [vắt bò sữa] thất bại gần như hoàn toàn vì chỉ có một người [con bò] cho [sữa] thôi.
Giám Mục Nguyễn Chí Linh đã đi vào nhà thờ, nhưng giáo dân hãy con tụ họp bàn tán. Có nhiều người rất ngạc nhiên không biết những chuyện xẩy ra tại Việt-Nam và lý do các Giám Mục phải sang Hoa Kỳ trong thời điểm này, do đó đã có một số người giải thích. Họ giải thích:"Đức Mẹ của tôi bị đánh tan nát mà các giám mục không ai lên tiếng ủi an. Cực lòng tôi lắm, các Đức Cha qua đây để xin tiền nhưng các ĐC đã không đếm xỉa gì đến nỗi lòng của giáo dân tha phương khi thấy thái độ của các Đức Cha đã im lặng mặc cho Cộng Sản làm gì thì làm."
Thấy vị giáo dân này nói một lúc càng hăng say hùng hồn, những kẻ nịnh hót Giám Mục từ từ rút lui. (Trích: website Tiếng Dân)
Và sau đây là một phần phần trích thuật bài viết: "Lấy Thúng úp Voi' của Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất được phổ biến trênwww.tiengnoigiaodan.net
HY Phạm Minh Mẫn gọi người tỵ nạn là dân tha phương cầu thực. Hiện nay đang lúc các cộng đồng tỵ nạn đau buồn tưởng niệm Quốc Hận 30-4, thì một số các giám mục xênh xang ra nước ngoài. Đón rước um xùm. Tiệc tùng linh đình. Quyên góp ì xèo. Tất cả những chuyện đó gom lại đốt lên một ngọn lửa căm phẫn ngút trời. Không phải chỉ riêng người công giáo căm phẫn, mà có thể nói là toàn thể khối người Việt Nam tỵ nạn CS trên thế giới đều căm phẫn.
Trừ một số rất ít oi con cái bọn CS đi làm ăn ở ngước ngoài, còn đại đa số người Việt Nam sinh sống tại ngoại quốc đều là người tỵ nạn CS. Các ngài không cảm được nỗi đau của những kẻ đánh mất quê hương. Các ngài gọi con chiên là bọn tha phương cầu thực, các ngài có biết con chiên đau đớn và tủi nhục đến cỡ nào không? ......
Con chiên bỏ nhà bỏ cửa trốn ra đi. Người chết ngoài biển. Kẻ gởi thây trên rừng. Các ngài dửng dưng và thản nhiên đứng nhìn không một lời an ủi. Bây giờ những người này tạm có được cuộc sống yên bình dễ thở thì các ngài đổ xô lớp này rồi lớp khác đến xin tiền. Các ngài nghĩ thế nào?
Có những con chiên đã tự ví mình như bò sữa để các ngài đến vắt. Nghe mà đau nhói trong tim. Các ngài đi xin tiền thì cứ nói là xin tiền. Nói đi làm mục vụ để làm gì?
Địa phương nào đã có giáo hội địa phương đó lo vấn đề mục vụ rồi. Nếu thiếu mục vụ thì chắc chắn ở trong nước thiếu chứ ngoài này không thiếu. Xin các ngài yên tâm, đừng lo giáo dân VN ở nước ngoài thiếu người lo mục vụ để tránh trường hợp các đấng bản quyền địa phương buộc lòng phải có hành vi dằn mặt các ngài như mới xẩy ra ở dưới vùng nam California.
Các ngài xin tiền về lo công việc GH là chuyện chính đáng và cần thiết. Nhưng vấn đề là cách xin và cách xài đồng tiền mà các ngài quyên góp được có hợp lý không.
Hình ảnh một đức cha ăn mặc phẩm phục giám mục đứng cuối nhà thờ ngửa tay trước mặt con chiên ông đi qua, bà đi lại xem chừng không đẹp mắt tí nào. Can đảm thiệt. Không sợ người Mỹ cười! Con chiên thấy cảnh này cũng phải cúi gầm mặt mà đi.
- Về Cách Xài Tiền:
Những cách thức xin tiền của các đức cha VN khi sang Mỹ đại loại như trên thì ôi thôi nhiều vô số kể. Kể hoài cũng không hết. Còn cách xài tiền của các ngài thì cũng không phải là ít.
Đức HY Phạm Minh Mẫn sang Mỹ xin tiền lập được một bệnh viện. Nghe đâu cái bệnh viện nay đã được CS quản lý dùm để lo chữa bệnh cho các đồng chí đảng viên. Đổi lại, nhà nước tặng cho Đức HY một cái bằng khen để treo trong nhà cho đẹp mắt. Không biết chuyện này có thực không? Con người mới là vốn quí. Một cái bệnh viện thôi nhằm nhò gì. Nhiều gia đình có con em đổi cả sinh mạng lấy cái bằng liệt sĩ kia mà. Bằng khen cũng đáng lắm chứ?! Đặt tên cho kiểu xài tiền này là kiểu "cốc mò cò xơi". Nên chăng? Đã có bài hát vì tôi là linh mục. Biết đâu rồi sẽ chẳng có nhạc sĩ nào đó cảm tác thành bài vì tôi là hồng y?
Việc làm của đức Hồng Y là việc đáng ca ngợi, nhưng nó cũng nói lên sự ngây thơ của những người tin vào sự thành tâm của CS. Chuyện này cho thấy rõ cái lòng tham vô đáy của CS. Nói chung các vị đi ngoại quốc xin tiền về đều bị CS lột. Không nhiều thì ít. Không cách này thì cách khác. Trường hợp đức Hồng Y gọi là cướp trắng. Nạn cướp trắng hay lột sạch có khi xẩy ra ngay tại phi trường khi các ngài đem tiền về. CS gài bẫy mà toàn bẫy độc. Nạn nhân sau khi bị cướp còn cho là mình may mắn. Đem được tiền về đến nhà phải chia tứ lục với CS là chuyện đương nhiên. Những vị đi xin tiền ai cũng biết thế, nhưng tiền chùa mà. Quí vị đâu có "ke". Dù sao cũng thắng hoặc cùng lắm là huề thôi.
Chuyện đi ngoại quốc xin tiền thì phải nói Đ/C Nguyễn Văn Sang là người nổi tiếng vô địch. Ngài đi khắp năm châu bốn bể. Đi luôn cả dịp lễ Phục Sinh. Đi một vài tháng liền là chuyện thường. Cách xài tiền quyên cúng của ngài cũng lừng danh thế giới CS và cả thế giới tự do nữa. Ngài sắm xế xịn chỉ thua Võ Văn Kiệt. Tòa giám mục Thái Bình được một linh mục nhạc sĩ nổi tiếng sang Mỹ khen là cực kỳ xa hoa. Ngài còn xây nhà thờ chính tòa mới sau khi đập bỏ ngôi thánh đường cũ khá đồ sộ và kiên cố.
Cách ăn xài như thế cho thấy Đ/C Sang là một điển hình của hai khuynh hướng xài tiền kiếm được. Một là làm một cái gì đó để tiếng lại cho người đời sau, và hai là tìm thỏa mãn những đòi hỏi thụ hưởng các tiện nghi hiện đại.
Báo chí đã nói rất nhiều về nạn các linh mục đập bỏ nhà thờ cũ mặc dầu hãy còn xử dụng tốt rồi đi Mỹ xin tiền xây nhà thờ mới. Hiện nay lại mới xuất hiện khuynh hướng các đấng bậc ở bên Mỹ gom bi đem về xứ sở hay làng quê của mình để xây công trình kỷ niệm. Tất cả đều nằm trong mơ ước được để tiếng lại cho đời của các ngài. Đi liền với khuynh hướng để tiếng lại là sự đam mê hưởng thụ vật chất. Bà con về VN kể lại các linh mục xài xe hơi, xe gắn máy đắt tiền hiện nay không phải ít. Còn chuyện sắm giàn nhạc, gắn máy lạnh nhà xứ, xài phone tay v.v. đều là chuyện quá thường.
Tội cho một số các linh mục truyền giáo tại các vùng sâu nghèo nàn. Những vị này thường không có người quen ở ngoại quốc. Có vị chạy vạy dựng lên được một cái "chòi thờ" kín đáo tránh được mưa gió là mừng lắm rồi. Hiện nay mạnh giám mục, giám mục kiếm chác. Mạnh cha xứ, cha xứ xoay xở.
Tình trạng thật là hỗn loạn. Không thấy có vị giám mục nào đề ra sáng kiến. Chẳng hạn như nếu trong một giáo phận, GM gom tất cả mọi thứ tiền quyên góp được về một mối. Rồi ngài phân phối tùy theo tình hình và nhu cầu của từng giáo xứ. Ưu tiên cho các giáo xứ truyền giáo vùng sâu nghèo khó. Cấm chỉ đập bỏ những thánh đường còn xử dụng tốt. Đẹp hơn nữa là có thể giúp đỡ cho những đền chùa miếu mạo chẳng trông nhờ vào đâu được. Được như vậy chắc chắn vừa phát huy tinh thần liên đới trách nhiệm, vừa thắt chặt tình huynh đệ giữa các linh mục trong cùng một giáo phận, tránh được nạn đèn nhà ai nấy rạng lâu nay, lại đỡ được những phí phạm vô bổ. Hơn nữa đến với những đồng bào khác tôn giáo theo cung cách đó, ít nữa người lương cũng nhìn Chúa một cách có thiện cảm hơn.
MỘT VÀI GỢI Ý
Không người con nào cảm thấy hãnh diện và sung sướng khi thấy bố mẹ mình đi ăn xin. Không một Kitô hữu nào thấy hãnh diện và sung sướng khi thấy các chủ chăn mình phải đi ăn xin. Vì không cầm lòng được trước sự ăn xin của các vị chủ chăn mình, và với vai trò một tín hữu xin được đóng góp một vài gợi ý xây dựng:
1. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:
Thiết tưởng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cần nghiêm chỉnh ngồi lại với nhau và cứu xét vấn đề này. Cần phải có một ủy ban nghiên cứu các dự án, và ưu tiên cho những giáo phận cần được nâng đỡ trước. Các vị giám mục cũng nên đưa ra những phương cách thực hiện những dự án ấy như thế nào cho vừa đẹp đẽ, vừa tránh tạo nên những phản ứng bất lợi, cũng như tạo cơ hội cho những chê bai, đàm tiếu.
a) Xây chủng viện, thánh đường, hay sửa sang tòa giám mục: Xin tiền về xây chủng viện, xây tòa giám mục, xây nhà thờ chính toà, hay bất cứ một dự án nào cũng có thể là tốt. Nhưng những việc làm ấy lúc này có phải là một hình thức phô trương, và chối bỏ sự thật không?
Sự thật là tại Việt Nam không có tự do tôn giáo. Sự thật là những hoạt động tôn giáo đều bị kiểm soát. Như vậy, với cái dáng vẻ bề ngoài kia, những chủng viện, những thánh đường nguy nga, những cơ sở tôn giáo được tu sửa và xây cất sẽ hàm ý nói rằng những gì mà các giám mục, những gì mà người khác nói về sự bắt bớ, kiềm chế, và mất tự do tôn giáo tại Việt Nam là không đúng, là sai với sự thật.
Có những nhận xét cho rằng ơn gọi tại Việt Nam lúc này đang nở rộ. Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong dịp viếng thăm Nhật đã hứa sẽ gửi các linh mục Việt Nam qua phục vụ tại các giáo phận Nhật. Dư thừa ơn gọi, và ơn gọi ngày càng đông tại Việt Nam. Nhưng đó có phải là dấu hiệu đáng mừng để mở thêm các chủng viện không?
Có lẽ trong cái hồ hởi về ơn gọi ấy, chúng ta cũng cần phải để ý đến một yếu tố tâm lý và xã hội. Tại một nơi mà cuộc sống quá nghèo khổ, sự khác biệt quá rõ ràng giữa những giáo dân và hàng linh mục, thì việc mơ màng và ao ước được trở thành linh mục chưa hẳn là tiếng Chúa gọi. Khi Chúa Giêsu gọi các tông đồ, các ông đã có cái để từ bỏ: bỏ vợ con, bỏ nhà cửa, và bỏ sở hữu của mình. Nhưng hầu hết các chủng sinh hiện nay tại Việt Nam có gì để bỏ?! Không phải bỏ, mà còn có lợi tại sao không thèm khát!! Nhất nữa, việc làm này lại được lồng vào cái nhãn hiệu tôn giáo đầy cao cả: Dấn thân phục vụ Chúa và các linh hồn.
Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, có thể nói khi một bạn trẻ được chấp nhận vào chủng viện là được chấp nhận đi vào một nếp sống hoàn toàn đổi mới. Chủng viện cao sang, rộng rãi, tiện nghi. Ăn uống đầy đủ. Được học hành. Và nhất là được bảo đảm cho mình một chỗ đứng mới trong xã hội và giáo hội sau này. Trong nhiều trường hợp, sự đổi mới ấy đem lại một ảnh hưởng tâm lý rất mãnh liệt mà theo từ ngữ chuyên môn có thể coi như một post traumatic syndrome. Do ảnh hưởng tâm lý này, người chủng sinh nào đó sẽ cố tạo cho mình một nhân dáng mới, một cung cách mới, và một tâm lý sống mới cho phù hợp với hoàn cảnh và nếp sống mới. Cứ như thế, chủng sinh này quên bẵng cái quá khứ rách nát và nghèo khổ của mình. Hoặc cố tình quên mất nó. Cho đến khi ra làm linh mục thì lối sống ấy, tư tưởng ấy sẽ dẫn người linh mục đến một nơi mà thay vì phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, phục vụ các linh hồn lại chỉ để làm bảo vệ được cái địa vị mà mình đã vất vả để có được.
Và như thế, một chủng viện được xây cất nguy nga, đồ sộ và tiện nghi trong một hoàn cảnh và môi trường xã hội không phù hợp đã đóng góp phần lớn cho những thay đổi nếp sống và tâm lý sống của người linh mục sau này.
b) Xây dựng trường sở, xây dựng bệnh xá, và xây dựng các trung tâm huấn nghệ: Khi được hỏi nếu cần phải xây một thánh đường hay một trường học trước, nếu tôi nhớ không nhầm thì Thánh Giáo Hoàng Piô X trả lời là ngài sẽ xây trường học trước. Bởi vì ở trường học các học sinh được học biết và chỉ cho biết Chúa Giêsu có trong Nhà Tạm, nhờ đó Chúa mới được nhận biết và tôn thờ trong thánh đường.
Xây trường học, xây bệnh viện hay bệnh xá, hoặc một trung tâm huấn nghiệp là những gì mà môi trường xã hội Việt Nam đang rất cần thiết. Và ở những nơi này mọi người có dịp tiếp nhận và gặp gỡ Chúa, cũng như Chúa gặp gỡ con người nhiều hơn ở tòa giám mục hay ở thánh đường.
Biết bao người lương, giáo đang thiếu thốn giáo dục, thiếu thốn sự chăm sóc sức khỏe, và thiếu thốn một lời, một nơi an ủi, hướng dẫn để trở thành người tốt hơn, thay vì chỉ đứng ngoài nhìn tòa giám mục, hoặc nhìn bức tường và tháp chuông nhà thờ!
Tóm lại, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nên có những dự án thiết thực và cần thiết theo nhu cầu ưu tiên của mỗi giáo phận dựa vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước. Những dự án này sẽ được nghiên cứu để làm cách nào có được ngân khoản tài trợ từ các tổ chức và tư nhân hảo tâm của người Việt Nam Hải Ngoại không phân biệt tôn giáo mà không mang tiếng phải xuất ngoại ăn xin, một mặt lại tuyên truyền cho chế độ.
2. Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ:
Liên Đoàn này đã được thành lập và cũng đã có nhiều dự án được thực hiện. Nhưng nếu Liên Đoàn thành lập thêm một ủy ban lấy tên là Ủy Ban Tài Trợ Giáo Hội Mẹ Việt Nam để duyệt xét, và hoặch định kế hoặch tìm nguồn tài trợ cho những dự án mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cậy nhờ thì đó là một hành động và việc làm rất thực tế và đáng khâm phục.
Người Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ rất hãnh diện đã có một Giám Mục người Mỹ gốc Việt, Đức Giám Mục Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange. Với vai trò ấy, và với tiếng nói của ngài trong Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, hay các giám mục địa phương nơi có đông người Công Giáo Việt Nam ở thì những lần quyên góp như vậy chắc không phải là việc khó khăn.
Từ đó, khi một hoặc hai giám mục Việt Nam qua với chương trình, thời khóa biểu, và dự án rõ ràng sẽ không phải đối diện với cái cảnh "dàn chào", hoặc "biểu tình" như đã xẩy ra trước đây. Bởi vì người Công Giáo Việt Nam, nhất là tại Hoa Kỳ đã biết rõ mục đích xuất ngoại của các ngài, và thời khóa biểu. Không phải là thăm viếng mục vụ, hoặc thăm đồng hương, mà rõ ràng là gây quỹ cho một dự án nào đó của Giáo Hội Việt Nam.
Hành động như vậy sẽ tạo nên mối liên lạc mật thiết giữa Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Sẽ không có cảnh mạnh được yếu thua. Giám mục nào có nhiều bà con, thân nhân, hoặc giáo phận nào có nhiều giáo dân gốc thì cứ việc qua "hốt hụi", trong khi đó một giáo mục nào đó không có thân nhân, bà con, và giáo dân của giáo phận gốc ấy lại không nhiều thì đành ngậm đắng nuốt cay.
LỜI NGUYỆN KẾT
"Phúc cho ai có tinh thần nghèo" (Mt 5:3). Nếu một hồng y, tổng giám mục, hay giám mục mà nghèo đến độ phải đi ăn xin thì cũng là điều đáng mừng vì Chúa đã phán như vậy. Nhưng tinh thần nghèo ở đây không chỉ là cái nghèo vật chất, mà còn là một tâm hồn trong sạch, khiêm nhường, đơn sơ và tín thác. Nhất là tín thác và tin tưởng vào Đấng đã gọi mình sống nghèo và rao giảng tinh thần nghèo.
Xin Thần Linh Chúa hướng dẫn và thổi một làn gió mới là tinh thần nghèo Phúc Âm trên Giáo Hội Việt Nam, trên những chủ chăn của chúng con để đừng vì những vật chất bên ngoài mà nhiều người thiện tâm không nhận ra Chúa, và không đến được với Chúa.
Trần Mỹ Duyệt
LTS. Bài viết khá hay này của Trần Mỹ Duyệt đã được đăng trong Sứ Mệnh Giáo Dân số 53. Tuy nhiên vào dịp có nhiều tác giả đề cập về đề tài “Giám mục ăn xin,” chúng tôi xin được phổ biến trên TNGD để rộng đường dư luận.
Tôi muốn lấy đầu đề cho bài viết này bằng cụm từ "Giám Mục Ăn Xin". Tôi dùng từ "ăn xin", vì đây chính là lời mà Giám Mục Nguyễn Chí Linh đã công khai dùng để nói về mục đích xuất ngoại của mình, đồng thời so sánh việc làm này với các giám mục khác.
Hôm đó là chiều Thứ Bẩy 21 tháng 4 năm 2007. Trong thánh lễ lúc 8 giờ tối thay Chúa Nhật, tại cộng đoàn Thánh Linh (Holy Spirit) thuộc Giáo Phận Orange County, Giám Mục Nguyễn Chí Linh, Giám Mục Thanh Hóa, kiêm Giám Quản Tông Tòa Phát Diệm, đã chủ tế thánh lễ và giảng thuyết. Tôi đã chăm chú nghe rất kỹ bài giảng của vị giám mục này, không phải vì lòng yêu mến, sốt sắng, cho bằng nghe coi những lời chia sẻ ấy mang ý nghĩa gì.
Bỏ qua những thành kiến và những ảnh hưởng của các quan niệm khác nhau, tôi nhận ra điều này, đó là giám mục Linh ít ra cũng dám nói đụng chạm đến Cộng Sản và chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam. Ngài đã nhắc đi nhắc lại là sau mấy chục năm thống nhất, vậy mà tại giáo phận miền Bắc của ngài rất nhiều em chịp phép thêm sức đã không có lấy một đôi dép để đi. Ngài cũng đã so sánh sự tụt hậu và yếu kém của nền kỹ nghệ, nông nghiệp của Việt Nam khi so sánh với các quốc gia tiên tiến. Nơi các quốc gia tiên tiến việc cấy, gặt, canh tác được dùng bằng sức máy móc, nhưng ở Việt Nam thì vẫn là sức người. Lao động cực nhọc và vất vả. Ngài cũng đã làm cho người nghe thấy mủi lòng khi đề cập đến tình trạng đói khổ đã làm cho một số không ít người phải rời bỏ quê hương ra Hà Nội, vào Sàigon kiếm sống, rồi ở đó đã bị dẫn dắt và lường gạt đi vào con đường sa đọa. Nhất là ngài không ngần ngại nói rõ mục đích xuất ngoại của mình là để "ăn xin" cho giáo phận, nhân danh những người nghèo khổ. Theo ngài, để làm được việc ấy, ngài cũng đã suy nghĩ và phải đi ra khỏi cái sợ sệt, nhút nhát của chính bản thân mình. Và cũng theo ngài, quyết định ăn xin lần này đã có sự suy nghĩ cẩn thận, nhất là sau khi thấy nhiều vị này, vị khác ăn xin đã khấm khá, và ăn nên, làm ra.
GIÁM MỤC ĂN XIN
Những người nghèo khó ăn xin. Những người dân thường ăn xin là chuyện thường tình. Nhưng chuyện khó tin mà có thật là chuyện nhiều vị giám mục đi ăn xin, và hiện tượng này chỉ xẩy ra cho Giáo Hội Việt Nam ở vào thời điểm và thời đại tối tân hiện nay. Đặc biệt hiện tượng này đang nở rộ vào thời gian gần đây, nhất là vào tháng Tư năm 2007. Với nhiều hình thức và danh nghĩa khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng là kiếm tìm sự giúp đỡ tài chánh từ phía những giáo dân Việt Nam ở hải ngoại, cách riêng tại Hoa Kỳ.
Tuy mang danh nghĩa ăn xin, nhưng đây là thành phần những người ăn xin hạng sang, có bằng cấp, và địa vị. Ăn xin không phải đứng ở đầu đường, xó chợ, hoặc những nơi đông người qua lại. Ăn xin không phải cằm giỏ, mũ, nón hay bát. Ăn xin mà có những người khác theo hầu. Chủ sự các buổi phụng vụ, và là khách mời danh dự của các bữa tiệc linh đình, sang trọng. Những hình thức ăn xin này nằm dưới danh nghĩa:
- Thăm viếng thân nhân.
- Thăm viếng đồng hương.
- Chủ tế hay thuyết giảng các đại lễ.
- Làm phép hay thánh hiến nguyện đường, trung tâm.
- Thuyết trình trong các hội nghị.
Và thành phần ăn xin trên gồm hồng y, tổng giám mục, và giám mục.
TÂM LÝ ĂN XIN
Ăn xin vui hay buồn? Ăn xin khổ hay sướng? Đối với phần đông, thì ăn xin chẳng sung sướng và hãnh diện gì. Nhưng cũng không hẳn là thế, và còn tùy vào những hình thức và kiểu cách của người ăn xin.
Gần đây chính quyền Trung Quốc đã ra tay dẹp bỏ tệ nạn ăn xin tại những trung tâm du lịch của họ. Lý do vì người ăn xin thật sự thì ít, mà kẻ lợi dụng thời cơ làm nghề ăn xin thì nhiều. Họ là những tay ăn xin chuyên nghiệp, và ăn xin có bài bản. Chính vì thế, du khách dễ bị trấn lột, và tạo nên một hình ảnh xấu về Trung Quốc vỹ đại dưới con mắt những du khách đang muốn tìm hiểu về quốc gia rộng lớn này.
Cũng mới đây khi đề cập đến chuyện ăn xin, và những kiểu cách ăn xin của Mỹ, cô em gái tôi mới qua chơi cũng đã chia sẻ với tôi, đại khái cô nói rằng ăn xin thì ở đâu mà chả có, ở Việt Nam nghệ thuật ăn xin còn ngầu hơn cả Mỹ nữa là khác. Và cô đã kể cho tôi nghe một câu truyện mà cô là người chứng kiến. Cô nói:
Em nhớ một hôm em đang ở nhà ông nội của các con em, thì có một bà đến nhà xin ăn, bà khóc lóc và kể lể rất thảm thiết rằng chồng bà vừa bị xe đụng gẫy chân nằm trên giường không di chuyển được, đau đớn và khổ sở lắm. Gia đình bà lại đông con, nên bà chỉ xin giúp đỡ chút ít để có tiền chạy chữa cho chồng.
Nhưng khi vừa về đến nhà mình, thì đã thấy bà ấy đang kể lể với mẹ rằng chồng bà bị ung thư phổi ở thời kỳ nguy kịch và có thể chết bất cứ lúc nào. Bà xin giúp đỡ tiền thuốc cho chồng, hoặc ít ra là có chút ít lo việc ma chay nếu như Chúa cất chồng bà về nay mai.
Thấy bà xạo quá, em tức mình nói: "Tôi vừa gặp bà ở nhà bố chồng tôi ít phút trước đây. Ở đó bà đã kể lể rằng chồng bà bị xe đụng gẫy giò, bây giờ bà lại chù ẻo chồng bà về bệnh ung thư tức là làm sao. Bà về đi, lo làm ăn lương thiện may ra Chúa cứu chồng bà và cho ông ấy chóng khỏi chân và lành bệnh ung thư."
Đối với những người ăn xin chuyên nghiệp hoặc như người đàn bà trên đây thì ăn xin rất có lợi và đôi khi vui nữa, vì vừa nhàn không phải làm gì vừa có tiền, lại vừa có được cái cảm giác lừa được người khác. Nhưng ăn xin thật thì không những không vui, mà còn rất tủi hổ.
Một cuộc khảo cứu về tâm lý ăn xin đã được trình chiếu trên hệ thống truyền hình Mỹ gần đây. Người được chọn làm mẫu sau khi đã được hóa trang và trở thành một người ăn xin, đã được đưa đến một địa điểm có đông người qua lại. Toàn cuộc khảo cứu đã được thâu hình. Và sau một ngày ăn xin, người ấy đã tắm rửa sạch sẽ, áo quần đàng hoàng xuất hiện để trả lời cuộc phỏng vấn. Cuốn băng ghi lại buổi ăn xin này được chiếu lại cho thấy trong đó có kẻ cho, người từ chối. Kẻ thông cảm, người khó chịu, nhưng phần đông là không cho và có thái độ dửng dưng. Khảo cứu này đưa đến kết luận ăn xin thật sự không mấy hứng thú và đôi khi gặp nhiều rủi ro bởi những thành phần côn đồ, và những người ác ý.
ĂN XIN KIỂU GIÁM MỤC
Là hồng y, tổng giám mục, và giám mục, cung cách ăn xin cũng khác người. Thí dụ:
- Không phải hóa trang thành bẩn thỉu, lem luốc mà vẻ mặt sáng ngời, uy nghi, đạo mạo.
- Không phải mặc áo quần rách rưới, đầu tóc lôi thôi mà là ăn mặc sang trọng, gọn gàng, sạch sẽ.
- Không đứng đầu đường, xó chợ mà là đứng trên bục cao, chủ sự những nghi lễ trang trọng, hoặc những thành phần thích giả chọn lọc.
- Không thu bạc cắc, bạc lẻ, nhưng là thu tiền trăm, tiền ngàn, hoặc hàng chục ngàn.
- Không bị chê bai, xỉ nhục, nhưng phần lớn được ca tụng và hoan hô.
Hơn thế, còn được nhiều người tỏ ra xót xa khi thấy các ngài không quản ngại đường xá xa xôi và bỏ ra thời giờ vàng ngọc để đến với mình, để yên ủi và nâng đỡ mình.
Nhưng như vừa trình bày trên, không phải hễ ăn xin kiểu giám mục là không gặp rủi ro. Và hễ ăn xin như một vị giám mục là không bị nghi vấn về chủ đích và sự sòng phẳng của cái mà mình đã xin được. Sau đây chỉ là một vài ví dụ:
Giáo dân Maria Goretti "tiếp xúc" với GM Nguyễn Chí Linh
Chúa Nhật 29-4-07, sau khi dâng thánh lễ tại nhà thờ Maria Goretti, San Jose. GM Nguyễn Chí Linh đã ra cuối nhà thờ để tiếp xúc với giáo dân và nhận tiện do giáo dân trao cho, sau khi đã vận động xin giáo dân giúp đỡ tài chánh để xây dựng những cơ sở sinh hoạt cho giáo phận Thanh Hoá.
Khi Ngài vừa ra và đang nhận món tiền đầu tiên (đang cầm tay) thì có 2 nữ giáo dân cầm 2 lá cờ vàng 3 sọc đỏ của VNCH đến "Xin Đức Cha chụp với chúng con một tấm hìn kỷ niệm ngày Quốc Hận 30-4-75, vì ngày đó chúng con bỏ nước ra đi."
Đang vui vẻ bỗng mặt ĐC đanh lại khi thấy là cờ vàng 3 sọc đỏ và tỏ ra rất miễn cưỡng. Một giáo dân thấy vậy nói "Cất cờ đi" thì lập tức có người rất nhiều tiếng phản đối, trong đó có người đang cầm giỏ xin tiền cũng nói "Người ta chỉ xin chụp hình thôi mà."
Một trong 2 giáo nữ giáo dân liền lên tiếng với người đòi cất cờ: "Anh ở phía nào mà anh không biết lá cờ này? Đây là lá cờ chúng ta sống chết để bảo vệ nó."
Ông này (vẻ mặt hung ác đứng bên người đàn bà mang kính trắng) định chụp lá cờ để bẻ, lập tức nữ giáo dân la lên:
- Mày đụng đến lá cờ này, mày biết tay bà, tao sống chết với lá cờ này.
Thấy nguy hiểm ông ta bèn rút lui. Ông khác (bận áo len) đòi gọi police, cũng bị mấy người phản đối, tạo nên cảnh hỗn loạn.
Trong khi đó thì nữ giáo dân kia trình Đức Cha: "Có phải Nguyễn Tấn Dũng sai Đức Cha qua đấy phải không? Đức Cha có biết ngày này là ngày Quốc Hận không? Đức Cha qua đây mở tiệc ăn mừng rồi còn nói xấu các cha tuyên uý của chúng con..."
Thấy không thể nán lại được, mấy linh mục đi theo hộ tống Đức Cha vào trong nhà thờ và đóng cửa lại. Cuộc xin tiền [vắt bò sữa] thất bại gần như hoàn toàn vì chỉ có một người [con bò] cho [sữa] thôi.
Giám Mục Nguyễn Chí Linh đã đi vào nhà thờ, nhưng giáo dân hãy con tụ họp bàn tán. Có nhiều người rất ngạc nhiên không biết những chuyện xẩy ra tại Việt-Nam và lý do các Giám Mục phải sang Hoa Kỳ trong thời điểm này, do đó đã có một số người giải thích. Họ giải thích:"Đức Mẹ của tôi bị đánh tan nát mà các giám mục không ai lên tiếng ủi an. Cực lòng tôi lắm, các Đức Cha qua đây để xin tiền nhưng các ĐC đã không đếm xỉa gì đến nỗi lòng của giáo dân tha phương khi thấy thái độ của các Đức Cha đã im lặng mặc cho Cộng Sản làm gì thì làm."
Thấy vị giáo dân này nói một lúc càng hăng say hùng hồn, những kẻ nịnh hót Giám Mục từ từ rút lui. (Trích: website Tiếng Dân)
Và sau đây là một phần phần trích thuật bài viết: "Lấy Thúng úp Voi' của Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất được phổ biến trênwww.tiengnoigiaodan.net
HY Phạm Minh Mẫn gọi người tỵ nạn là dân tha phương cầu thực. Hiện nay đang lúc các cộng đồng tỵ nạn đau buồn tưởng niệm Quốc Hận 30-4, thì một số các giám mục xênh xang ra nước ngoài. Đón rước um xùm. Tiệc tùng linh đình. Quyên góp ì xèo. Tất cả những chuyện đó gom lại đốt lên một ngọn lửa căm phẫn ngút trời. Không phải chỉ riêng người công giáo căm phẫn, mà có thể nói là toàn thể khối người Việt Nam tỵ nạn CS trên thế giới đều căm phẫn.
Trừ một số rất ít oi con cái bọn CS đi làm ăn ở ngước ngoài, còn đại đa số người Việt Nam sinh sống tại ngoại quốc đều là người tỵ nạn CS. Các ngài không cảm được nỗi đau của những kẻ đánh mất quê hương. Các ngài gọi con chiên là bọn tha phương cầu thực, các ngài có biết con chiên đau đớn và tủi nhục đến cỡ nào không? ......
Con chiên bỏ nhà bỏ cửa trốn ra đi. Người chết ngoài biển. Kẻ gởi thây trên rừng. Các ngài dửng dưng và thản nhiên đứng nhìn không một lời an ủi. Bây giờ những người này tạm có được cuộc sống yên bình dễ thở thì các ngài đổ xô lớp này rồi lớp khác đến xin tiền. Các ngài nghĩ thế nào?
Có những con chiên đã tự ví mình như bò sữa để các ngài đến vắt. Nghe mà đau nhói trong tim. Các ngài đi xin tiền thì cứ nói là xin tiền. Nói đi làm mục vụ để làm gì?
Địa phương nào đã có giáo hội địa phương đó lo vấn đề mục vụ rồi. Nếu thiếu mục vụ thì chắc chắn ở trong nước thiếu chứ ngoài này không thiếu. Xin các ngài yên tâm, đừng lo giáo dân VN ở nước ngoài thiếu người lo mục vụ để tránh trường hợp các đấng bản quyền địa phương buộc lòng phải có hành vi dằn mặt các ngài như mới xẩy ra ở dưới vùng nam California.
Các ngài xin tiền về lo công việc GH là chuyện chính đáng và cần thiết. Nhưng vấn đề là cách xin và cách xài đồng tiền mà các ngài quyên góp được có hợp lý không.
Hình ảnh một đức cha ăn mặc phẩm phục giám mục đứng cuối nhà thờ ngửa tay trước mặt con chiên ông đi qua, bà đi lại xem chừng không đẹp mắt tí nào. Can đảm thiệt. Không sợ người Mỹ cười! Con chiên thấy cảnh này cũng phải cúi gầm mặt mà đi.
- Về Cách Xài Tiền:
Những cách thức xin tiền của các đức cha VN khi sang Mỹ đại loại như trên thì ôi thôi nhiều vô số kể. Kể hoài cũng không hết. Còn cách xài tiền của các ngài thì cũng không phải là ít.
Đức HY Phạm Minh Mẫn sang Mỹ xin tiền lập được một bệnh viện. Nghe đâu cái bệnh viện nay đã được CS quản lý dùm để lo chữa bệnh cho các đồng chí đảng viên. Đổi lại, nhà nước tặng cho Đức HY một cái bằng khen để treo trong nhà cho đẹp mắt. Không biết chuyện này có thực không? Con người mới là vốn quí. Một cái bệnh viện thôi nhằm nhò gì. Nhiều gia đình có con em đổi cả sinh mạng lấy cái bằng liệt sĩ kia mà. Bằng khen cũng đáng lắm chứ?! Đặt tên cho kiểu xài tiền này là kiểu "cốc mò cò xơi". Nên chăng? Đã có bài hát vì tôi là linh mục. Biết đâu rồi sẽ chẳng có nhạc sĩ nào đó cảm tác thành bài vì tôi là hồng y?
Việc làm của đức Hồng Y là việc đáng ca ngợi, nhưng nó cũng nói lên sự ngây thơ của những người tin vào sự thành tâm của CS. Chuyện này cho thấy rõ cái lòng tham vô đáy của CS. Nói chung các vị đi ngoại quốc xin tiền về đều bị CS lột. Không nhiều thì ít. Không cách này thì cách khác. Trường hợp đức Hồng Y gọi là cướp trắng. Nạn cướp trắng hay lột sạch có khi xẩy ra ngay tại phi trường khi các ngài đem tiền về. CS gài bẫy mà toàn bẫy độc. Nạn nhân sau khi bị cướp còn cho là mình may mắn. Đem được tiền về đến nhà phải chia tứ lục với CS là chuyện đương nhiên. Những vị đi xin tiền ai cũng biết thế, nhưng tiền chùa mà. Quí vị đâu có "ke". Dù sao cũng thắng hoặc cùng lắm là huề thôi.
Chuyện đi ngoại quốc xin tiền thì phải nói Đ/C Nguyễn Văn Sang là người nổi tiếng vô địch. Ngài đi khắp năm châu bốn bể. Đi luôn cả dịp lễ Phục Sinh. Đi một vài tháng liền là chuyện thường. Cách xài tiền quyên cúng của ngài cũng lừng danh thế giới CS và cả thế giới tự do nữa. Ngài sắm xế xịn chỉ thua Võ Văn Kiệt. Tòa giám mục Thái Bình được một linh mục nhạc sĩ nổi tiếng sang Mỹ khen là cực kỳ xa hoa. Ngài còn xây nhà thờ chính tòa mới sau khi đập bỏ ngôi thánh đường cũ khá đồ sộ và kiên cố.
Cách ăn xài như thế cho thấy Đ/C Sang là một điển hình của hai khuynh hướng xài tiền kiếm được. Một là làm một cái gì đó để tiếng lại cho người đời sau, và hai là tìm thỏa mãn những đòi hỏi thụ hưởng các tiện nghi hiện đại.
Báo chí đã nói rất nhiều về nạn các linh mục đập bỏ nhà thờ cũ mặc dầu hãy còn xử dụng tốt rồi đi Mỹ xin tiền xây nhà thờ mới. Hiện nay lại mới xuất hiện khuynh hướng các đấng bậc ở bên Mỹ gom bi đem về xứ sở hay làng quê của mình để xây công trình kỷ niệm. Tất cả đều nằm trong mơ ước được để tiếng lại cho đời của các ngài. Đi liền với khuynh hướng để tiếng lại là sự đam mê hưởng thụ vật chất. Bà con về VN kể lại các linh mục xài xe hơi, xe gắn máy đắt tiền hiện nay không phải ít. Còn chuyện sắm giàn nhạc, gắn máy lạnh nhà xứ, xài phone tay v.v. đều là chuyện quá thường.
Tội cho một số các linh mục truyền giáo tại các vùng sâu nghèo nàn. Những vị này thường không có người quen ở ngoại quốc. Có vị chạy vạy dựng lên được một cái "chòi thờ" kín đáo tránh được mưa gió là mừng lắm rồi. Hiện nay mạnh giám mục, giám mục kiếm chác. Mạnh cha xứ, cha xứ xoay xở.
Tình trạng thật là hỗn loạn. Không thấy có vị giám mục nào đề ra sáng kiến. Chẳng hạn như nếu trong một giáo phận, GM gom tất cả mọi thứ tiền quyên góp được về một mối. Rồi ngài phân phối tùy theo tình hình và nhu cầu của từng giáo xứ. Ưu tiên cho các giáo xứ truyền giáo vùng sâu nghèo khó. Cấm chỉ đập bỏ những thánh đường còn xử dụng tốt. Đẹp hơn nữa là có thể giúp đỡ cho những đền chùa miếu mạo chẳng trông nhờ vào đâu được. Được như vậy chắc chắn vừa phát huy tinh thần liên đới trách nhiệm, vừa thắt chặt tình huynh đệ giữa các linh mục trong cùng một giáo phận, tránh được nạn đèn nhà ai nấy rạng lâu nay, lại đỡ được những phí phạm vô bổ. Hơn nữa đến với những đồng bào khác tôn giáo theo cung cách đó, ít nữa người lương cũng nhìn Chúa một cách có thiện cảm hơn.
MỘT VÀI GỢI Ý
Không người con nào cảm thấy hãnh diện và sung sướng khi thấy bố mẹ mình đi ăn xin. Không một Kitô hữu nào thấy hãnh diện và sung sướng khi thấy các chủ chăn mình phải đi ăn xin. Vì không cầm lòng được trước sự ăn xin của các vị chủ chăn mình, và với vai trò một tín hữu xin được đóng góp một vài gợi ý xây dựng:
1. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:
Thiết tưởng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cần nghiêm chỉnh ngồi lại với nhau và cứu xét vấn đề này. Cần phải có một ủy ban nghiên cứu các dự án, và ưu tiên cho những giáo phận cần được nâng đỡ trước. Các vị giám mục cũng nên đưa ra những phương cách thực hiện những dự án ấy như thế nào cho vừa đẹp đẽ, vừa tránh tạo nên những phản ứng bất lợi, cũng như tạo cơ hội cho những chê bai, đàm tiếu.
a) Xây chủng viện, thánh đường, hay sửa sang tòa giám mục: Xin tiền về xây chủng viện, xây tòa giám mục, xây nhà thờ chính toà, hay bất cứ một dự án nào cũng có thể là tốt. Nhưng những việc làm ấy lúc này có phải là một hình thức phô trương, và chối bỏ sự thật không?
Sự thật là tại Việt Nam không có tự do tôn giáo. Sự thật là những hoạt động tôn giáo đều bị kiểm soát. Như vậy, với cái dáng vẻ bề ngoài kia, những chủng viện, những thánh đường nguy nga, những cơ sở tôn giáo được tu sửa và xây cất sẽ hàm ý nói rằng những gì mà các giám mục, những gì mà người khác nói về sự bắt bớ, kiềm chế, và mất tự do tôn giáo tại Việt Nam là không đúng, là sai với sự thật.
Có những nhận xét cho rằng ơn gọi tại Việt Nam lúc này đang nở rộ. Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong dịp viếng thăm Nhật đã hứa sẽ gửi các linh mục Việt Nam qua phục vụ tại các giáo phận Nhật. Dư thừa ơn gọi, và ơn gọi ngày càng đông tại Việt Nam. Nhưng đó có phải là dấu hiệu đáng mừng để mở thêm các chủng viện không?
Có lẽ trong cái hồ hởi về ơn gọi ấy, chúng ta cũng cần phải để ý đến một yếu tố tâm lý và xã hội. Tại một nơi mà cuộc sống quá nghèo khổ, sự khác biệt quá rõ ràng giữa những giáo dân và hàng linh mục, thì việc mơ màng và ao ước được trở thành linh mục chưa hẳn là tiếng Chúa gọi. Khi Chúa Giêsu gọi các tông đồ, các ông đã có cái để từ bỏ: bỏ vợ con, bỏ nhà cửa, và bỏ sở hữu của mình. Nhưng hầu hết các chủng sinh hiện nay tại Việt Nam có gì để bỏ?! Không phải bỏ, mà còn có lợi tại sao không thèm khát!! Nhất nữa, việc làm này lại được lồng vào cái nhãn hiệu tôn giáo đầy cao cả: Dấn thân phục vụ Chúa và các linh hồn.
Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, có thể nói khi một bạn trẻ được chấp nhận vào chủng viện là được chấp nhận đi vào một nếp sống hoàn toàn đổi mới. Chủng viện cao sang, rộng rãi, tiện nghi. Ăn uống đầy đủ. Được học hành. Và nhất là được bảo đảm cho mình một chỗ đứng mới trong xã hội và giáo hội sau này. Trong nhiều trường hợp, sự đổi mới ấy đem lại một ảnh hưởng tâm lý rất mãnh liệt mà theo từ ngữ chuyên môn có thể coi như một post traumatic syndrome. Do ảnh hưởng tâm lý này, người chủng sinh nào đó sẽ cố tạo cho mình một nhân dáng mới, một cung cách mới, và một tâm lý sống mới cho phù hợp với hoàn cảnh và nếp sống mới. Cứ như thế, chủng sinh này quên bẵng cái quá khứ rách nát và nghèo khổ của mình. Hoặc cố tình quên mất nó. Cho đến khi ra làm linh mục thì lối sống ấy, tư tưởng ấy sẽ dẫn người linh mục đến một nơi mà thay vì phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, phục vụ các linh hồn lại chỉ để làm bảo vệ được cái địa vị mà mình đã vất vả để có được.
Và như thế, một chủng viện được xây cất nguy nga, đồ sộ và tiện nghi trong một hoàn cảnh và môi trường xã hội không phù hợp đã đóng góp phần lớn cho những thay đổi nếp sống và tâm lý sống của người linh mục sau này.
b) Xây dựng trường sở, xây dựng bệnh xá, và xây dựng các trung tâm huấn nghệ: Khi được hỏi nếu cần phải xây một thánh đường hay một trường học trước, nếu tôi nhớ không nhầm thì Thánh Giáo Hoàng Piô X trả lời là ngài sẽ xây trường học trước. Bởi vì ở trường học các học sinh được học biết và chỉ cho biết Chúa Giêsu có trong Nhà Tạm, nhờ đó Chúa mới được nhận biết và tôn thờ trong thánh đường.
Xây trường học, xây bệnh viện hay bệnh xá, hoặc một trung tâm huấn nghiệp là những gì mà môi trường xã hội Việt Nam đang rất cần thiết. Và ở những nơi này mọi người có dịp tiếp nhận và gặp gỡ Chúa, cũng như Chúa gặp gỡ con người nhiều hơn ở tòa giám mục hay ở thánh đường.
Biết bao người lương, giáo đang thiếu thốn giáo dục, thiếu thốn sự chăm sóc sức khỏe, và thiếu thốn một lời, một nơi an ủi, hướng dẫn để trở thành người tốt hơn, thay vì chỉ đứng ngoài nhìn tòa giám mục, hoặc nhìn bức tường và tháp chuông nhà thờ!
Tóm lại, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nên có những dự án thiết thực và cần thiết theo nhu cầu ưu tiên của mỗi giáo phận dựa vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước. Những dự án này sẽ được nghiên cứu để làm cách nào có được ngân khoản tài trợ từ các tổ chức và tư nhân hảo tâm của người Việt Nam Hải Ngoại không phân biệt tôn giáo mà không mang tiếng phải xuất ngoại ăn xin, một mặt lại tuyên truyền cho chế độ.
2. Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ:
Liên Đoàn này đã được thành lập và cũng đã có nhiều dự án được thực hiện. Nhưng nếu Liên Đoàn thành lập thêm một ủy ban lấy tên là Ủy Ban Tài Trợ Giáo Hội Mẹ Việt Nam để duyệt xét, và hoặch định kế hoặch tìm nguồn tài trợ cho những dự án mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cậy nhờ thì đó là một hành động và việc làm rất thực tế và đáng khâm phục.
Người Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ rất hãnh diện đã có một Giám Mục người Mỹ gốc Việt, Đức Giám Mục Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange. Với vai trò ấy, và với tiếng nói của ngài trong Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, hay các giám mục địa phương nơi có đông người Công Giáo Việt Nam ở thì những lần quyên góp như vậy chắc không phải là việc khó khăn.
Từ đó, khi một hoặc hai giám mục Việt Nam qua với chương trình, thời khóa biểu, và dự án rõ ràng sẽ không phải đối diện với cái cảnh "dàn chào", hoặc "biểu tình" như đã xẩy ra trước đây. Bởi vì người Công Giáo Việt Nam, nhất là tại Hoa Kỳ đã biết rõ mục đích xuất ngoại của các ngài, và thời khóa biểu. Không phải là thăm viếng mục vụ, hoặc thăm đồng hương, mà rõ ràng là gây quỹ cho một dự án nào đó của Giáo Hội Việt Nam.
Hành động như vậy sẽ tạo nên mối liên lạc mật thiết giữa Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Sẽ không có cảnh mạnh được yếu thua. Giám mục nào có nhiều bà con, thân nhân, hoặc giáo phận nào có nhiều giáo dân gốc thì cứ việc qua "hốt hụi", trong khi đó một giáo mục nào đó không có thân nhân, bà con, và giáo dân của giáo phận gốc ấy lại không nhiều thì đành ngậm đắng nuốt cay.
LỜI NGUYỆN KẾT
"Phúc cho ai có tinh thần nghèo" (Mt 5:3). Nếu một hồng y, tổng giám mục, hay giám mục mà nghèo đến độ phải đi ăn xin thì cũng là điều đáng mừng vì Chúa đã phán như vậy. Nhưng tinh thần nghèo ở đây không chỉ là cái nghèo vật chất, mà còn là một tâm hồn trong sạch, khiêm nhường, đơn sơ và tín thác. Nhất là tín thác và tin tưởng vào Đấng đã gọi mình sống nghèo và rao giảng tinh thần nghèo.
Xin Thần Linh Chúa hướng dẫn và thổi một làn gió mới là tinh thần nghèo Phúc Âm trên Giáo Hội Việt Nam, trên những chủ chăn của chúng con để đừng vì những vật chất bên ngoài mà nhiều người thiện tâm không nhận ra Chúa, và không đến được với Chúa.
CÔNG DUNG NGÔN HẠNH của LINH MỤC CHÚA KITÔ
Lm. GM Nhân Tài, csjb.
Đức thứ ba:
NGÔN (Ăn nói lịch sự)
Ngôn là lời nói mà chắc chắn là lời nói lịch sự và dễ nghe chứ không khó nghe như có nhiều người đã dùng nó để chọc cười, để chửi hoặc để thoá mạ người khác.
Chúa Giêsu là Ngôi Lời đã làm người, Ngài là Lời của Chúa Cha và lời Ngài nói là Chúa Cha nói, việc Ngài làm là làm theo ý của Chúa Cha, chỉ giảng dạy ba năm nhưng Ngài đã chuẩn bị ba mươi năm trong gia đình Nagiarét; chỉ giảng dạy có ba năm mà Ngài đã giáo huấn và dạy dỗ rất nhiều người tin và theo Ngài, tại sao vậy ? Thưa vì Chúa Giêsu đã nói Lời của Thiên Chúa, đã giảng lời sự thật và nhất là chính Ngài đã sống như lời Ngài giảng.
Linh mục là Chúa Kitô thứ hai được xức dầu tấn phong để trở nên người nói lời của Thiên Chúa, giảng dạy cho mọi người biết và tin theo Tin Mừng của Chúa Giêsu, cho nên lời của linh mục giảng dạy là lời của Thiên Chúa, lời của linh mục nói thì luôn là sự thật và làm mát lòng người nghe, lời linh mục rất có quyền năng khi đọc lời truyền phép bánh miến và rượu nho trở nên Mình và Máu thánh của Chúa Kitô.
Thưa các bạn,
Các bạn nghĩ coi, nếu một người bình thường ăn thô nói tục thì người ta đã chịu không nổi, đôi lúc khinh thường và cho đó là người mất dạy, vô giáo dục, hoặc là những đứa bụi đời lang thang đầu đường xó chợ; còn nếu một linh mục mở miệng ra là chửi thề, ăn nói cộc cằn thô lỗ thì người ta nghĩ như thế nào và nói sao nhỉ ???
Một người vợ dịu dàng và nết na không phải chỉ trong thái độ cử chỉ nhưng cả trong lời nói nữa, lời nói của nàng nhẹ nhàng và reo vang như khúc nhạc khiến cho chồng nàng thích thú yêu thương, lời nói của nàng nhẹ nhàng và rất có hiệu quả khi dạy dỗ bảo ban con cái của mình, bởi vì lời nói nhẹ nhàng thì có sức mạnh hơn cả trăm cái bạt tai...
Ngôn là lời nói, không những nhẹ nhàng dễ nghe, mà còn là lời nói trung thực phát xuất từ trong một tâm hồn hiền lành thật thà và thấm nhuần tinh thần tu đức kính Chúa yêu người.
Linh mục của Chúa Kitô trong vai trò là mẹ của giáo dân, các ngài cũng sẽ luôn hiền lành và nhẹ nhàng trong cách nói năng để dạy dỗ giáo dân của mình, chứ không phải là một dì ghẻ mỗi lần lên toà giảng là hết mắng chửi người này đến phê bình người kia, làm cho con cái (giáo dân) nản lòng nản chí không muốn đi nhà thờ nữa.
1. Ngôn là nói Lời Thiên Chúa.
Linh mục là người được đặt tay để trở thành người phát ngôn chính thức Lời của Chúa, nghĩa là các ngài có bổn phận loan truyền Lời Chúa cho mọi người thuộc mọi dân tộc và mọi quốc gia trên khắp thế giới, đó không những là bổn phận mà còn là sứ mạng cao cả của các linh mục khi các ngài được Giáo Hội –qua Giám Mục- kêu gọi và đặt tay xức dầu thánh hiến.
Cho nên lời của các linh mục luôn là lời đem lại bình an, và động viên người ta yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân.
Được vinh dự là người phát ngôn chính thức Lời của Thiên Chúa, các linh mục cần phải suy tư, đào sâu và sống Lời Chúa để có “chất” mà giảng dạy cho giáo dân nghe và sống Lời Chúa như mình, các ngài là những thầy dạy người ta về chân lí của sự sống đời đời là Chúa Giêsu Kitô, cho nên các ngài không thể lãng phí thời gian vào các bộ phim, hoặc những quyển tiểu thuyết không đem lại ích lợi cho việc đào sâu và thực hành Lời Chúa.
Có một vài linh mục có thói quen tốt một ngày đọc vài hàng tin tức trên báo chí, trên internet để biết tin tức thế giới và Giáo Hội, đọc một quyển sách thiêng liêng và suy gẫm để có chất liệu giảng dạy cho giáo dân, những linh mục này là kì vọng của giáo dân và là niềm hãnh diện cho Giáo Hội, bởi vì nơi các ngài đời sống thánh thiện và tinh thần cầu tiến đã trở thành sức hấp dẫn người khác đến với Chúa Giêsu.
2. Ngôn nơi toà giảng
Toà giảng là nơi công bố và giảng dạy Lời Chúa cho nên nó rất quan trọng, tầm quan trọng này đến mức nào thì các linh mục chắc chắn hiểu rõ hơn những người khác, nó quan trọng đến mức mà Giáo Hội cấm những người không phải là linh mục được giảng trên toà giảng trong khi cử hành thánh lễ, dù họ là tiến sĩ hay là nhà bác học lừng danh thế giới, dù họ là ông tổng thống hay bà bộ trưởng...
Nơi toà giảng, ngôn từ của linh mục thật đặc biệt và cao quý, bởi vì giờ đây không còn phải là lời của các ngài nữa, nhưng là lời của Chúa Thánh Thần nói qua miệng của các ngài, để giáo dân hiểu và sống đúng lời dạy của Thiên Chúa, và nơi đây –toà giảng- Lời Chúa trong bài Tin Mừng được vang ra từ miệng và từ tâm hồn của linh mục, để đến nơi từng tâm hồn của các tín hữu đang hiện diện, và đang lắng nghe Lời Chúa qua vị mục tử của mình; họ hân hoan phấn khởi lắng nghe và suy tư những gì mà linh mục chia sẻ với họ, họ vui mừng vì những thắc mắc trong đời sống đầy lo âu đã được linh mục –qua bài giảng- nói cho họ nghe và họ an tâm tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa cuộc sống của họ...
Đa số giáo dân thời nay đều biết và hiểu rất rõ toà giảng là nơi công bố và giảng dạy Lời Chúa, là nơi mà chính họ đã băn khoăn bức xúc, khi mà không được đến nghe Lời Chúa trong các ngày chủ nhật hoặc là các ngày lễ trọng khác, là nơi mà họ lấy làm tiếc rẽ khi đi lễ trể vì bận công việc nên không được nghe linh mục giảng...
Thế mà có một số linh mục đã lợi dụng toà giảng để nói lời “của mình” cho giáo giáo dân, chứ không nói Lời Chúa cho họ nghe, các ngài đem những nổi bực tức của mình trút lên đầu giáo dân nơi toà giảng, các ngài “giận cá chém thớt” trên toà giảng, lời của các ngài không còn là Lời Chúa nữa bởi vì làm cho giáo dân bực mình, lời của các ngài cũng không còn là lời giáo huấn nữa, nhưng là lời dạy đời thiên hạ, mà thiên hạ đó chính là những giáo dân của mình có người chín mươi tuổi, có người bảy mươi tuổi, có người tuổi đáng cha ông của mình với kinh nghiệm đầy mình, họ nghĩ gì khi nghe những lời dạy đời thiên hạ của một linh mục đáng con cháu của mình, họ sẽ nghĩ rằng: chúng tôi đến đây là để nghe Lời Chúa qua miệng các linh mục là những người thay mặt Chúa, chứ không phải đến đây để nghe dạy đời qua miệng một người chưa từng lăn lộn với đời như chúng tôi...
Ngôn nơi toà giảng là ngôn (lời nói) đã được uốn lưỡi bảy mươi bảy lần bảy, là ngôn đã được suy tư, đã được cầu nguyện và thánh hoá bởi chức thánh nơi bản thân các linh mục, do đó mà ngôn của các ngài cần phải chừng mực, không la lối tại sao các ông các bà không đi lễ, không kể lể là tại sao quý vị không xin lễ cầu hồn cho ông bà cha mẹ, và cũng không khen người này đã dâng cúng cho nhà thờ và cha sở tiền bạc vật chất, người kia thì quanh năm không thấy đi xin lễ và không đóng góp cho nhà thờ.v.v... Tất cả những ngôn từ ấy không phải để nói nơi toà giảng trong thánh lễ –ngày thường hay chủ nhật- bởi vì những ngôn từ ấy không phải của Thánh Thần, và cũng không được uốn lưỡi bảy mươi bảy lần bảy trước khi nói, cho nên nó dễ làm cho giáo dân ngao ngán mà bỏ nhà thờ đi lang thang, kiếm nhà thờ khác để tâm hồn bình an hơn...
Nếu vậy thì, ngôn của các ngài –nơi toà giảng- đã trở thành những ngọn roi tra tấn tâm hồn những người yếu đức tin, làm rát tâm hồn những người ngoan đạo, và làm chảy máu tâm hồn của những người hết lòng yêu mến Giáo Hội Chúa Kitô.
3. Ngôn trong đời thường
Cuộc sống đời thường của mỗi người thì cứ theo thứ tự như sau: ngủ, ăn, làm việc, nghỉ ngơi giải trí, trong bốn việc cần thiết này chỉ có ngủ là không nói mà thôi, ngoài ra thì đều có nhu cầu khơi thông tức là lời nói.
Ăn cũng phải nói,
Làm việc cần phải nói,
Nghỉ ngơi giải trí cũng phải nói.
Các linh mục cũng không ra ngoài cái lệ này, nhưng –xét cho cùng- cuộc sống đời thường của linh mục thì khác rất xa người khác về nội dung, bởi vì linh mục đã được chọn để sống đời tận hiến cách đặc biệt giữa nhân loại, như Chúa Giêsu đã sống giữa dân Do Thái nơi làng Nagiarét vậy, do đó mà các linh mục cần phải cẩn trọng lời nói của mình dù khi ăn, khi làm việc hay khi nghỉ ngơi giải trí, bởi vì chính lời nói của mình sẽ phán xét mình trong ngày Chúa quang lâm.
a. Ngôn khi ăn uống
Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ câu nói của một vị linh mục đáng kính đã nói với chúng tôi : “Mỗi lần cha làm tiệc đãi các linh mục (bổn mạng, sinh nhật) thì không bao giờ cha mời giáo dân cùng dự, ngay cả ban chấp hành của giáo xứ, bởi vì các ngài (linh mục) khi ăn thì uống bia rượu nhiều hơn giáo dân và ăn nói thì ồn ào rất tự do dễ gây gương mù gương xấu cho giáo dân”.
Khi ăn uống có rượu vào thì lời ra, đó là một “quy luật” tự nhiên, nhưng đó là quy luật của người đời bởi vì họ thường cho rằng chỉ có rượu mới giúp họ giải sầu; còn đối với các linh mục nói chuyện khi ăn uống là cả một mẫu mực cho mọi người, có những linh mục khi ăn uống thì nói văng cả thức ăn ra, có linh mục khi ăn uống thì đem chuyện giáo dân này giáo dân nọ ra mà nói giữa đám tiệc, và tệ hơn có một vài linh mục khi ăn uống thì nói liên tu bất tận về mình...
Giáo dân đứng hầu bàn khi linh mục ăn uống là thái độ kính trọng của họ đối với các ngài là đại diện Chúa Kitô, họ trân trọng mời linh mục lên bàn trên rất danh dự, vì chức vụ của các ngài quả là đặc biệt hơn các chức vụ khác của người thế gian, và quan trọng hơn các ngài là người cha dẫn dắt linh hồn của họ. Nhưng có những lúc –chúng ta- những linh mục của Chúa Kitô đã phụ lòng kính trọng của giáo dân dành cho mình, chúng ta coi giáo dân là hạng thứ nên trong bữa tiệc cùng ăn uống với họ, ngôn từ của chúng ta toàn là “dao to búa lớn” lên mặt kẻ cả với họ, kêu người này bằng thằng, xưng người kia là tớ tớ cậu cậu (vai thấp) và có khi cả mày mày tao tao, rất ư là không hợp với lời nói và lối xưng hô của một linh mục. Thân mật và thân tình trong cách gọi như thế giữa đám đông là không đúng, bởi vì có nhiều người ngoại giáo sẽ lấy làm ngạc nhiên khi chúng ta vô phép và bất lịch sự với người lớn tuổi hơn mình...
b. Ngôn trong làm việc.
Việc làm của linh mục đôi khi quá bề bộn và đôi khi cũng thật nhàn hạ, nhưng có việc làm để bận rộn thì có lợi cho đời sống tu trì hơn là rãnh rỗi nhàn hạ.
Vì bận rộn với công việc của giáo xứ, mà đôi khi linh mục cũng có những lời nói không hay khi tiếp xúc với giáo dân. Có những linh mục khi mệt nhọc mà nghe giáo dân hỏi chuyện thì càng bực thêm và có những lời nói gắt gỏng, có những linh mục mà giáo dân không dám đến gần để hỏi chuyện hoặc là chuyện trò thân tình như con cái trong gia đình, bởi vì ngài hay nạt nộ và có khi chê người giáo dân là không biết gì, thế là họ không muốn đến chuyện trò bàn hỏi với linh mục của mình nữa.
Chúa Giêsu bận rộn rất nhiều với công việc giảng dạy và chữa trị đủ các thứ bệnh hoạn cho dân chúng, nhưng chưa bao giờ thấy Ngài gắt gỏng với ai hoặc nói nặng lời với họ, ngoại trừ đối với những người biệt phái kiêu căng coi mình là thầy dạy thiên hạ.
Có những giáo dân thích nghe cha giảng trong nhà thờ chứ không thích hỏi chuyện với ngài (!) vì ngài quá hách trong khi làm việc mục vụ, lời nói của ngài phán ra thì bắt buộc mọi người phải nghe răm rắp dù lời nói ấy không phù hợp với hoàn cảnh của họ và cũng không phù hợp với môi trường sống đạo của họ, có những linh mục độc quyền ra lệnh chứ không muốn bàn hỏi với giáo dân, có những linh mục lớn tiếng khi có giáo dân góp ý cho công việc của mình, có những linh mục thì đỏ mặt tía tai cãi nhau với giáo dân về vấn đề xã hội mà quên mất rằng mình là linh mục của Chúa Kitô chứ không phải là cán bộ nhà nước.
Công việc mục vụ của linh mục không như công việc hành chánh của nhà nước, công việc mục vụ của ngài đòi hỏi trước hết là thinh lặng lắng nghe tiếng Chúa dạy qua hoàn cảnh của giáo xứ và qua cuộc sống của mình, kinh nghiệm cho biết linh mục nào cầu nguyện nhiều hơn thì khi tiếp xúc với giáo dân đều có những lời nói rất tế nhị mà sâu sắc, hoà nhã và thân ái, bởi vì chính các ngài đã hiểu được mình là ai khi cầu nguyện với Chúa và giáo dân là ai khi tiếp xúc với mình : ngài là linh mục của Chúa Kitô và giáo dân là những người đã được Chúa trao cho các ngài dạy dỗ đường nên trọn lành.
Linh mục Chúa Kitô luôn hoà nhã với hết mọi người, lời nói của các ngài luôn phản ảnh tâm hồn vị tha và khiêm tốn, đôi lúc có một chút hài hước đáng yêu để mọi người nhận ra cha sở của mình không phải là một ông quan bệ vệ làm bộ làm tịch với dáng điệu và lời nói của “người bề trên”...
c. Ngôn khi nghỉ ngơi giải trí
Ở ngoại quốc hình như mỗi tuần đều có ngày nghỉ ngơi của cha sở, có giáo phận thì nghỉ ngày thứ hai, có giáo phận thì nghỉ ngày khác trong tuần, và một năm thì được nghỉ một tháng, đó là những nghỉ ngơi có ích cho các linh mục bận rộn với công tác mục vụ trong tuần hoặc trong năm. Tuy nhiên hội dòng của chúng tôi thì không có ngày nghỉ vì đấng tổ phụ của hội dòng –cha Vincent Lebbe- đã dạy: thay đổi công việc là nghỉ ngơi .
Có linh mục lợi dụng ngày nghỉ ngơi của mình để đi leo núi, có linh mục thì tắm biển, có linh mục thì đi thăm bạn bè, và có linh mục thì đọc sách báo viết lách trong ngày nghỉ, tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa ban cho.
Ngôn trong giải trí của linh mục của Chúa Kitô cũng đáng được mọi người để ý, bởi vì có một vài linh mục khi cùng nhau chơi cờ đominô giải trí cũng có những lời lẽ “vượt quá” tầm mức chức vụ của mình, tức là các ngài vì quá hưng phấn trong giải trí nên thốt ra những lời không mấy hay ho chẳng khác chi người đời; cũng có một vài linh mục cùng nhau giải trí đã to tiếng cãi nhau đến mặt đỏ gân xanh nổi lên trên khuôn mặt vốn hiền hoà khả ái của mình, khiến cho giáo dân cười “tủm tỉm” các cha của mình mà cũng như thế...
Nghỉ ngơi giải trí không có nghĩa là buông lỏng con người của mình, giải trí cũng không có nghĩa là thích gì làm nấy mà quên mất mình là Linh mục của Chúa Kitô, nhưng giải trí có nghĩa là thư giản tâm hồn và thân xác sau một tuần, một năm mệt nhọc vì công cuộc mục vụ truyền giáo của mình và lợi dụng kỳ nghỉ để bồi dưỡng thêm tu đức của mình trong những lúc cầu nguyện và giải trí.
Nghỉ ngơi giải trí không có nghĩa là mình hết làm linh mục để rồi ngôn hành như những người ngoài đời, nhưng trong cách nghỉ ngơi giải trí cũng luôn làm nổi bật nét hiền hoà thánh thiện của một linh mục, có một vài linh mục nghỉ ngơi giải trí bằng cách coi phim, coi truyền hình đến nổi gắt gỏng khi có người gọi điện thoại hỏi thăm cha sở, lại có linh mục bực tức vì phải tiếp khách trong ngày nghỉ hàng tuần của mình...
Một người vợ hiền là một người mẹ biết chăm lo cho chồng con và dọn dẹp nhà cửa khi được nghỉ trong tuần, nàng hết sức lợi dụng những ngày nghỉ để chu toàn bổn phận làm vợ và làm mẹ trong gia đình, do đó mà nết na đức hạnh của nàng bay xa và chồng nàng và con cái của nàng rất hãnh diện về nàng.
Cũng vậy, linh mục là hiền thê của Chúa Kitô và của Giáo Hội, ngài cũng là mẹ của các giáo hữu trong giáo xứ của ngài, cho nên dù là đang kỳ nghỉ hay giờ giải trí, dù là xuất ngoại, leo núi hay tắm biển thì tâm hồn của ngài cũng luôn hướng về đoàn con của mình nơi giáo xứ, và lời của ngài lúc này chính là những lời cầu nguyện thiêng liêng và thánh thiện nhất cho con cái của mình, và như thế cuộc nghỉ ngơi giải trí của ngài thật giá trị và trở nên mẫu gương sáng cho mọi người.
4. Ngôn trong đời sống tu đức
Đời sống tu đức của các linh mục thì chắc chắn là trổi vượt hơn giáo dân, bởi vì các ngài là thầy dạy đàng nhân đức cho mọi người, do đó mà đời sống của các ngài luôn trở thành mô phạm phản ảnh trung thực sống đời sống của Chúa Giêsu ngay trước mặt giáo dân tại trần gian này, cho nên thiết nghĩ ngôn (lời nói) trong đời sống tu đức của các linh mục thì khác xa ngôn trong cuộc sống bon chen của giáo dân. Ngôn trong đời sống tu đức chính là...không nói gì cả, nhưng lắng nghe và làm cho đúng điều mà mình đã lắng nghe trong khi cầu nguyện, đó là ngôn phát xuất từ tâm linh đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần nơi các linh mục hiền thê của Chúa Kitô.
a. Ngôn trong thinh lặng.
Linh mục có cái uy của linh mục, cái uy này không phải làm bộ làm tịch mà có, cũng không phải tập tành điệu dáng đi đứng cho nó uy nghi bệ vệ như những vị tướng tá hay những ông quan hống hách, nhưng cái uy của linh mục hệ tại nơi tâm hồn của các ngài.
Có linh mục rất dễ thương đơn sơ với hết mọi người, vậy mà không ai dám hó hé với ngài cái gì cả, bởi vì nơi ngài toát ra vẻ uy nghiêm thánh thiện của linh mục; có linh mục rất ít nói, nhưng khi nói thì ai cũng thích nghe và có thái độ kính trọng bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn, bởi vì nơi ngài phát ra một hấp lực khiến cho người đối diện kính nể. Tại sao vậy ? Thưa vì các ngài dùng tâm hồn để nói.
Dùng tâm hồn để nói tức là im lặng, bởi vì trong thinh lặng người ta dễ dàng nghe được cả những âm thanh nhỏ nhất, cũng vậy, linh mục Chúa Kitô khi thinh lặng suy tư cầu nguyện, thì sẽ thấy và nghe được rất nhiều điều trong giáo xứ, và trong mỗi tâm hồn của con chiên bổn đạo của mình, mà đã nghe và thấy thì chắc chắn lời nói có giá trị và hiệu quả hơn nhiều. Đa số giáo dân thích và yêu mến một linh mục nói ít làm nhiều, hơn là nói nhiều làm ít, bởi vì nói nhiều không phải là “cá tính’ của thiên chức linh mục, nhưng là cá tính của cá nhân người linh mục, cho nên để xứng đáng hơn với thiên chức linh mục cao quý của mình, thì người linh mục càng phải luyện tập cá tính của mình cho phù hợp với chức vụ thánh mà mình đã lãnh nhận, đặc biệt là tính nói nhiều, bởi vì nói nhiều là bày tỏ một tâm hồn khoe khoang và rỗng tuếch. Kinh nghiệm cho thấy người nói nhiều là người ít làm việc và làm không tốt, một linh mục nói nhiều là một linh mục ít cầu nguyện, và dù việc làm của ngài có thành công dưới mắt người đời chăng nữa, nhưng sẽ không bền lâu vì không có nền tảng khiêm tốn và cầu nguyện.
b. Ngôn trong khi giảng dạy.
Giảng dạy đây không những ở trên toà giảng trong thánh lễ, mà ngay cả trong cuộc sống đời thường: khi dạy giáo lý, dạy học chữ ở nhà trường, dạy các lớp khác có liên quan đến đời sống tôn giáo của giáo dân...
Có một vài linh mục khi giảng dạy thì tự khoe khoang mình quá đáng, nên có những lời không được thực tế và không khiêm tốn, có một vài linh mục khi dạy giáo lý hôn nhân cho người sắp làm đám cưới, thì không một chút tế nhị với đôi bạn trẻ với những câu hỏi khiến họ đỏ mặt tía tai; lại có những linh mục khi dạy giáo lý cho trẻ em thì dùng những lời lẽ như đe doạ và thái độ như ông kẹ, làm cho các em có ấn tượng không mấy thiện cảm về cha sở của mình...
Ngôn trong giảng dạy là ngôn từ giáo dục chứ không phải ngôn từ tranh luận, là ngôn từ của con tim hiền hoà chứ không phải là của tra tấn và kiêu căng, cho nên người linh mục của Chúa Kitô như người mẹ hiền dạy dỗ con cái mình nên người, nàng không cáu gắt khi dạy con, nàng cũng chẳng la lối thoá mạ, nhưng với tất cả tình mẫu tử, nàng yêu thương và có khi rơi nước mắt khi dạy dỗ con cái mình.
Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu này được tỏ hiện qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là tình yêu và vì yêu mà chết để tình yêu được thăng hoa và viên mãn, chính Ngài muốn tình yêu này được liên tục thực hiện giữa trần thế cho đến ngày thế mạt, nên đã chọn các linh mục làm những hiền mẫu thay mặt Ngài đem tình yêu đến cho nhân loại, do đó mà các linh mục khi thi hành bổn phận bảo ban dạy dỗ giáo hữu của mình, thì cũng như một bà mẹ hiền với giọng nói hiền hoà và con tim yêu thương trong một tâm hồn khiêm tốn, đó chính là linh mục của Chúa Kitô và người mục tử nhân hiền của giáo dân vậy.
Ngôn (lời nói) của linh mục thì rất có ảnh hưởng trên giáo dân, dù cho ngài là cha sở hay cha phó, hay đang về hưu, dù cho các ngài ở đâu và bất cứ lúc nào cũng đều được giáo dân vâng lời và nể vì, bởi vì với đức tin mà họ đã lãnh nhận, với giáo huấn mà họ đã học được trong Giáo Hội Công Giáo, với đức vâng lời như Chúa Giêsu, họ (giáo dân) luôn luôn coi các ngài như những người thay mặt Thiên Chúa dạy dỗ họ, ban các bí tích ân sủng của Chúa cho họ, cho nên họ luôn yêu mến và kính trọng các linh mục của mình, đó chính là một mẫu gương nhân đức mà chúng ta –linh mục- cần phải noi theo, tại sao ? Thưa, bởi vì có một quan niệm “khó hiểu” nơi một số các linh mục trẻ rằng: mình là linh mục thì cũng giống như các linh mục khác, cho nên tự cho mình ngang hàng với các linh mục đàn anh lớn tuổi, không có ý nể vì các vị đàn anh đáng bậc cha ông ấy của mình, thế là các linh mục trẻ ăn nói ít lễ phép, tự do phê bình các vị lớn tuổi và -có lúc- còn cho mình học cao học giỏi hơn các vị ấy, thậm chí còn phát ngôn rằng: thần học các vị ấy học là xưa rồi không hợp thời và cổ hủ...
Ngôn là đức thứ ba trong “công, dung, ngôn, hạnh” của người con gái có nề nếp gia phong, và cũng là của các linh mục –những hiền thê của Chúa Kitô và của Giáo Hội- có thể nói “công, dung” là tiêu biểu cho cái vẻ bên ngoài, và “ngôn, hạnh” là tiêu biểu cho cái nội tâm bên trong, cho nên người ta có thể nghe lời nói của một linh mục –hoặc của ai đó- thì biết rằng “công lực” tu đức của ngài tu luyện đã đến mức nào rồi vậy.
Lm. GM Nhân Tài, csjb.
Đức thứ ba:
NGÔN (Ăn nói lịch sự)
Ngôn là lời nói mà chắc chắn là lời nói lịch sự và dễ nghe chứ không khó nghe như có nhiều người đã dùng nó để chọc cười, để chửi hoặc để thoá mạ người khác.
Chúa Giêsu là Ngôi Lời đã làm người, Ngài là Lời của Chúa Cha và lời Ngài nói là Chúa Cha nói, việc Ngài làm là làm theo ý của Chúa Cha, chỉ giảng dạy ba năm nhưng Ngài đã chuẩn bị ba mươi năm trong gia đình Nagiarét; chỉ giảng dạy có ba năm mà Ngài đã giáo huấn và dạy dỗ rất nhiều người tin và theo Ngài, tại sao vậy ? Thưa vì Chúa Giêsu đã nói Lời của Thiên Chúa, đã giảng lời sự thật và nhất là chính Ngài đã sống như lời Ngài giảng.
Linh mục là Chúa Kitô thứ hai được xức dầu tấn phong để trở nên người nói lời của Thiên Chúa, giảng dạy cho mọi người biết và tin theo Tin Mừng của Chúa Giêsu, cho nên lời của linh mục giảng dạy là lời của Thiên Chúa, lời của linh mục nói thì luôn là sự thật và làm mát lòng người nghe, lời linh mục rất có quyền năng khi đọc lời truyền phép bánh miến và rượu nho trở nên Mình và Máu thánh của Chúa Kitô.
Thưa các bạn,
Các bạn nghĩ coi, nếu một người bình thường ăn thô nói tục thì người ta đã chịu không nổi, đôi lúc khinh thường và cho đó là người mất dạy, vô giáo dục, hoặc là những đứa bụi đời lang thang đầu đường xó chợ; còn nếu một linh mục mở miệng ra là chửi thề, ăn nói cộc cằn thô lỗ thì người ta nghĩ như thế nào và nói sao nhỉ ???
Một người vợ dịu dàng và nết na không phải chỉ trong thái độ cử chỉ nhưng cả trong lời nói nữa, lời nói của nàng nhẹ nhàng và reo vang như khúc nhạc khiến cho chồng nàng thích thú yêu thương, lời nói của nàng nhẹ nhàng và rất có hiệu quả khi dạy dỗ bảo ban con cái của mình, bởi vì lời nói nhẹ nhàng thì có sức mạnh hơn cả trăm cái bạt tai...
Ngôn là lời nói, không những nhẹ nhàng dễ nghe, mà còn là lời nói trung thực phát xuất từ trong một tâm hồn hiền lành thật thà và thấm nhuần tinh thần tu đức kính Chúa yêu người.
Linh mục của Chúa Kitô trong vai trò là mẹ của giáo dân, các ngài cũng sẽ luôn hiền lành và nhẹ nhàng trong cách nói năng để dạy dỗ giáo dân của mình, chứ không phải là một dì ghẻ mỗi lần lên toà giảng là hết mắng chửi người này đến phê bình người kia, làm cho con cái (giáo dân) nản lòng nản chí không muốn đi nhà thờ nữa.
1. Ngôn là nói Lời Thiên Chúa.
Linh mục là người được đặt tay để trở thành người phát ngôn chính thức Lời của Chúa, nghĩa là các ngài có bổn phận loan truyền Lời Chúa cho mọi người thuộc mọi dân tộc và mọi quốc gia trên khắp thế giới, đó không những là bổn phận mà còn là sứ mạng cao cả của các linh mục khi các ngài được Giáo Hội –qua Giám Mục- kêu gọi và đặt tay xức dầu thánh hiến.
Cho nên lời của các linh mục luôn là lời đem lại bình an, và động viên người ta yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân.
Được vinh dự là người phát ngôn chính thức Lời của Thiên Chúa, các linh mục cần phải suy tư, đào sâu và sống Lời Chúa để có “chất” mà giảng dạy cho giáo dân nghe và sống Lời Chúa như mình, các ngài là những thầy dạy người ta về chân lí của sự sống đời đời là Chúa Giêsu Kitô, cho nên các ngài không thể lãng phí thời gian vào các bộ phim, hoặc những quyển tiểu thuyết không đem lại ích lợi cho việc đào sâu và thực hành Lời Chúa.
Có một vài linh mục có thói quen tốt một ngày đọc vài hàng tin tức trên báo chí, trên internet để biết tin tức thế giới và Giáo Hội, đọc một quyển sách thiêng liêng và suy gẫm để có chất liệu giảng dạy cho giáo dân, những linh mục này là kì vọng của giáo dân và là niềm hãnh diện cho Giáo Hội, bởi vì nơi các ngài đời sống thánh thiện và tinh thần cầu tiến đã trở thành sức hấp dẫn người khác đến với Chúa Giêsu.
2. Ngôn nơi toà giảng
Toà giảng là nơi công bố và giảng dạy Lời Chúa cho nên nó rất quan trọng, tầm quan trọng này đến mức nào thì các linh mục chắc chắn hiểu rõ hơn những người khác, nó quan trọng đến mức mà Giáo Hội cấm những người không phải là linh mục được giảng trên toà giảng trong khi cử hành thánh lễ, dù họ là tiến sĩ hay là nhà bác học lừng danh thế giới, dù họ là ông tổng thống hay bà bộ trưởng...
Nơi toà giảng, ngôn từ của linh mục thật đặc biệt và cao quý, bởi vì giờ đây không còn phải là lời của các ngài nữa, nhưng là lời của Chúa Thánh Thần nói qua miệng của các ngài, để giáo dân hiểu và sống đúng lời dạy của Thiên Chúa, và nơi đây –toà giảng- Lời Chúa trong bài Tin Mừng được vang ra từ miệng và từ tâm hồn của linh mục, để đến nơi từng tâm hồn của các tín hữu đang hiện diện, và đang lắng nghe Lời Chúa qua vị mục tử của mình; họ hân hoan phấn khởi lắng nghe và suy tư những gì mà linh mục chia sẻ với họ, họ vui mừng vì những thắc mắc trong đời sống đầy lo âu đã được linh mục –qua bài giảng- nói cho họ nghe và họ an tâm tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa cuộc sống của họ...
Đa số giáo dân thời nay đều biết và hiểu rất rõ toà giảng là nơi công bố và giảng dạy Lời Chúa, là nơi mà chính họ đã băn khoăn bức xúc, khi mà không được đến nghe Lời Chúa trong các ngày chủ nhật hoặc là các ngày lễ trọng khác, là nơi mà họ lấy làm tiếc rẽ khi đi lễ trể vì bận công việc nên không được nghe linh mục giảng...
Thế mà có một số linh mục đã lợi dụng toà giảng để nói lời “của mình” cho giáo giáo dân, chứ không nói Lời Chúa cho họ nghe, các ngài đem những nổi bực tức của mình trút lên đầu giáo dân nơi toà giảng, các ngài “giận cá chém thớt” trên toà giảng, lời của các ngài không còn là Lời Chúa nữa bởi vì làm cho giáo dân bực mình, lời của các ngài cũng không còn là lời giáo huấn nữa, nhưng là lời dạy đời thiên hạ, mà thiên hạ đó chính là những giáo dân của mình có người chín mươi tuổi, có người bảy mươi tuổi, có người tuổi đáng cha ông của mình với kinh nghiệm đầy mình, họ nghĩ gì khi nghe những lời dạy đời thiên hạ của một linh mục đáng con cháu của mình, họ sẽ nghĩ rằng: chúng tôi đến đây là để nghe Lời Chúa qua miệng các linh mục là những người thay mặt Chúa, chứ không phải đến đây để nghe dạy đời qua miệng một người chưa từng lăn lộn với đời như chúng tôi...
Ngôn nơi toà giảng là ngôn (lời nói) đã được uốn lưỡi bảy mươi bảy lần bảy, là ngôn đã được suy tư, đã được cầu nguyện và thánh hoá bởi chức thánh nơi bản thân các linh mục, do đó mà ngôn của các ngài cần phải chừng mực, không la lối tại sao các ông các bà không đi lễ, không kể lể là tại sao quý vị không xin lễ cầu hồn cho ông bà cha mẹ, và cũng không khen người này đã dâng cúng cho nhà thờ và cha sở tiền bạc vật chất, người kia thì quanh năm không thấy đi xin lễ và không đóng góp cho nhà thờ.v.v... Tất cả những ngôn từ ấy không phải để nói nơi toà giảng trong thánh lễ –ngày thường hay chủ nhật- bởi vì những ngôn từ ấy không phải của Thánh Thần, và cũng không được uốn lưỡi bảy mươi bảy lần bảy trước khi nói, cho nên nó dễ làm cho giáo dân ngao ngán mà bỏ nhà thờ đi lang thang, kiếm nhà thờ khác để tâm hồn bình an hơn...
Nếu vậy thì, ngôn của các ngài –nơi toà giảng- đã trở thành những ngọn roi tra tấn tâm hồn những người yếu đức tin, làm rát tâm hồn những người ngoan đạo, và làm chảy máu tâm hồn của những người hết lòng yêu mến Giáo Hội Chúa Kitô.
3. Ngôn trong đời thường
Cuộc sống đời thường của mỗi người thì cứ theo thứ tự như sau: ngủ, ăn, làm việc, nghỉ ngơi giải trí, trong bốn việc cần thiết này chỉ có ngủ là không nói mà thôi, ngoài ra thì đều có nhu cầu khơi thông tức là lời nói.
Ăn cũng phải nói,
Làm việc cần phải nói,
Nghỉ ngơi giải trí cũng phải nói.
Các linh mục cũng không ra ngoài cái lệ này, nhưng –xét cho cùng- cuộc sống đời thường của linh mục thì khác rất xa người khác về nội dung, bởi vì linh mục đã được chọn để sống đời tận hiến cách đặc biệt giữa nhân loại, như Chúa Giêsu đã sống giữa dân Do Thái nơi làng Nagiarét vậy, do đó mà các linh mục cần phải cẩn trọng lời nói của mình dù khi ăn, khi làm việc hay khi nghỉ ngơi giải trí, bởi vì chính lời nói của mình sẽ phán xét mình trong ngày Chúa quang lâm.
a. Ngôn khi ăn uống
Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ câu nói của một vị linh mục đáng kính đã nói với chúng tôi : “Mỗi lần cha làm tiệc đãi các linh mục (bổn mạng, sinh nhật) thì không bao giờ cha mời giáo dân cùng dự, ngay cả ban chấp hành của giáo xứ, bởi vì các ngài (linh mục) khi ăn thì uống bia rượu nhiều hơn giáo dân và ăn nói thì ồn ào rất tự do dễ gây gương mù gương xấu cho giáo dân”.
Khi ăn uống có rượu vào thì lời ra, đó là một “quy luật” tự nhiên, nhưng đó là quy luật của người đời bởi vì họ thường cho rằng chỉ có rượu mới giúp họ giải sầu; còn đối với các linh mục nói chuyện khi ăn uống là cả một mẫu mực cho mọi người, có những linh mục khi ăn uống thì nói văng cả thức ăn ra, có linh mục khi ăn uống thì đem chuyện giáo dân này giáo dân nọ ra mà nói giữa đám tiệc, và tệ hơn có một vài linh mục khi ăn uống thì nói liên tu bất tận về mình...
Giáo dân đứng hầu bàn khi linh mục ăn uống là thái độ kính trọng của họ đối với các ngài là đại diện Chúa Kitô, họ trân trọng mời linh mục lên bàn trên rất danh dự, vì chức vụ của các ngài quả là đặc biệt hơn các chức vụ khác của người thế gian, và quan trọng hơn các ngài là người cha dẫn dắt linh hồn của họ. Nhưng có những lúc –chúng ta- những linh mục của Chúa Kitô đã phụ lòng kính trọng của giáo dân dành cho mình, chúng ta coi giáo dân là hạng thứ nên trong bữa tiệc cùng ăn uống với họ, ngôn từ của chúng ta toàn là “dao to búa lớn” lên mặt kẻ cả với họ, kêu người này bằng thằng, xưng người kia là tớ tớ cậu cậu (vai thấp) và có khi cả mày mày tao tao, rất ư là không hợp với lời nói và lối xưng hô của một linh mục. Thân mật và thân tình trong cách gọi như thế giữa đám đông là không đúng, bởi vì có nhiều người ngoại giáo sẽ lấy làm ngạc nhiên khi chúng ta vô phép và bất lịch sự với người lớn tuổi hơn mình...
b. Ngôn trong làm việc.
Việc làm của linh mục đôi khi quá bề bộn và đôi khi cũng thật nhàn hạ, nhưng có việc làm để bận rộn thì có lợi cho đời sống tu trì hơn là rãnh rỗi nhàn hạ.
Vì bận rộn với công việc của giáo xứ, mà đôi khi linh mục cũng có những lời nói không hay khi tiếp xúc với giáo dân. Có những linh mục khi mệt nhọc mà nghe giáo dân hỏi chuyện thì càng bực thêm và có những lời nói gắt gỏng, có những linh mục mà giáo dân không dám đến gần để hỏi chuyện hoặc là chuyện trò thân tình như con cái trong gia đình, bởi vì ngài hay nạt nộ và có khi chê người giáo dân là không biết gì, thế là họ không muốn đến chuyện trò bàn hỏi với linh mục của mình nữa.
Chúa Giêsu bận rộn rất nhiều với công việc giảng dạy và chữa trị đủ các thứ bệnh hoạn cho dân chúng, nhưng chưa bao giờ thấy Ngài gắt gỏng với ai hoặc nói nặng lời với họ, ngoại trừ đối với những người biệt phái kiêu căng coi mình là thầy dạy thiên hạ.
Có những giáo dân thích nghe cha giảng trong nhà thờ chứ không thích hỏi chuyện với ngài (!) vì ngài quá hách trong khi làm việc mục vụ, lời nói của ngài phán ra thì bắt buộc mọi người phải nghe răm rắp dù lời nói ấy không phù hợp với hoàn cảnh của họ và cũng không phù hợp với môi trường sống đạo của họ, có những linh mục độc quyền ra lệnh chứ không muốn bàn hỏi với giáo dân, có những linh mục lớn tiếng khi có giáo dân góp ý cho công việc của mình, có những linh mục thì đỏ mặt tía tai cãi nhau với giáo dân về vấn đề xã hội mà quên mất rằng mình là linh mục của Chúa Kitô chứ không phải là cán bộ nhà nước.
Công việc mục vụ của linh mục không như công việc hành chánh của nhà nước, công việc mục vụ của ngài đòi hỏi trước hết là thinh lặng lắng nghe tiếng Chúa dạy qua hoàn cảnh của giáo xứ và qua cuộc sống của mình, kinh nghiệm cho biết linh mục nào cầu nguyện nhiều hơn thì khi tiếp xúc với giáo dân đều có những lời nói rất tế nhị mà sâu sắc, hoà nhã và thân ái, bởi vì chính các ngài đã hiểu được mình là ai khi cầu nguyện với Chúa và giáo dân là ai khi tiếp xúc với mình : ngài là linh mục của Chúa Kitô và giáo dân là những người đã được Chúa trao cho các ngài dạy dỗ đường nên trọn lành.
Linh mục Chúa Kitô luôn hoà nhã với hết mọi người, lời nói của các ngài luôn phản ảnh tâm hồn vị tha và khiêm tốn, đôi lúc có một chút hài hước đáng yêu để mọi người nhận ra cha sở của mình không phải là một ông quan bệ vệ làm bộ làm tịch với dáng điệu và lời nói của “người bề trên”...
c. Ngôn khi nghỉ ngơi giải trí
Ở ngoại quốc hình như mỗi tuần đều có ngày nghỉ ngơi của cha sở, có giáo phận thì nghỉ ngày thứ hai, có giáo phận thì nghỉ ngày khác trong tuần, và một năm thì được nghỉ một tháng, đó là những nghỉ ngơi có ích cho các linh mục bận rộn với công tác mục vụ trong tuần hoặc trong năm. Tuy nhiên hội dòng của chúng tôi thì không có ngày nghỉ vì đấng tổ phụ của hội dòng –cha Vincent Lebbe- đã dạy: thay đổi công việc là nghỉ ngơi .
Có linh mục lợi dụng ngày nghỉ ngơi của mình để đi leo núi, có linh mục thì tắm biển, có linh mục thì đi thăm bạn bè, và có linh mục thì đọc sách báo viết lách trong ngày nghỉ, tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa ban cho.
Ngôn trong giải trí của linh mục của Chúa Kitô cũng đáng được mọi người để ý, bởi vì có một vài linh mục khi cùng nhau chơi cờ đominô giải trí cũng có những lời lẽ “vượt quá” tầm mức chức vụ của mình, tức là các ngài vì quá hưng phấn trong giải trí nên thốt ra những lời không mấy hay ho chẳng khác chi người đời; cũng có một vài linh mục cùng nhau giải trí đã to tiếng cãi nhau đến mặt đỏ gân xanh nổi lên trên khuôn mặt vốn hiền hoà khả ái của mình, khiến cho giáo dân cười “tủm tỉm” các cha của mình mà cũng như thế...
Nghỉ ngơi giải trí không có nghĩa là buông lỏng con người của mình, giải trí cũng không có nghĩa là thích gì làm nấy mà quên mất mình là Linh mục của Chúa Kitô, nhưng giải trí có nghĩa là thư giản tâm hồn và thân xác sau một tuần, một năm mệt nhọc vì công cuộc mục vụ truyền giáo của mình và lợi dụng kỳ nghỉ để bồi dưỡng thêm tu đức của mình trong những lúc cầu nguyện và giải trí.
Nghỉ ngơi giải trí không có nghĩa là mình hết làm linh mục để rồi ngôn hành như những người ngoài đời, nhưng trong cách nghỉ ngơi giải trí cũng luôn làm nổi bật nét hiền hoà thánh thiện của một linh mục, có một vài linh mục nghỉ ngơi giải trí bằng cách coi phim, coi truyền hình đến nổi gắt gỏng khi có người gọi điện thoại hỏi thăm cha sở, lại có linh mục bực tức vì phải tiếp khách trong ngày nghỉ hàng tuần của mình...
Một người vợ hiền là một người mẹ biết chăm lo cho chồng con và dọn dẹp nhà cửa khi được nghỉ trong tuần, nàng hết sức lợi dụng những ngày nghỉ để chu toàn bổn phận làm vợ và làm mẹ trong gia đình, do đó mà nết na đức hạnh của nàng bay xa và chồng nàng và con cái của nàng rất hãnh diện về nàng.
Cũng vậy, linh mục là hiền thê của Chúa Kitô và của Giáo Hội, ngài cũng là mẹ của các giáo hữu trong giáo xứ của ngài, cho nên dù là đang kỳ nghỉ hay giờ giải trí, dù là xuất ngoại, leo núi hay tắm biển thì tâm hồn của ngài cũng luôn hướng về đoàn con của mình nơi giáo xứ, và lời của ngài lúc này chính là những lời cầu nguyện thiêng liêng và thánh thiện nhất cho con cái của mình, và như thế cuộc nghỉ ngơi giải trí của ngài thật giá trị và trở nên mẫu gương sáng cho mọi người.
4. Ngôn trong đời sống tu đức
Đời sống tu đức của các linh mục thì chắc chắn là trổi vượt hơn giáo dân, bởi vì các ngài là thầy dạy đàng nhân đức cho mọi người, do đó mà đời sống của các ngài luôn trở thành mô phạm phản ảnh trung thực sống đời sống của Chúa Giêsu ngay trước mặt giáo dân tại trần gian này, cho nên thiết nghĩ ngôn (lời nói) trong đời sống tu đức của các linh mục thì khác xa ngôn trong cuộc sống bon chen của giáo dân. Ngôn trong đời sống tu đức chính là...không nói gì cả, nhưng lắng nghe và làm cho đúng điều mà mình đã lắng nghe trong khi cầu nguyện, đó là ngôn phát xuất từ tâm linh đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần nơi các linh mục hiền thê của Chúa Kitô.
a. Ngôn trong thinh lặng.
Linh mục có cái uy của linh mục, cái uy này không phải làm bộ làm tịch mà có, cũng không phải tập tành điệu dáng đi đứng cho nó uy nghi bệ vệ như những vị tướng tá hay những ông quan hống hách, nhưng cái uy của linh mục hệ tại nơi tâm hồn của các ngài.
Có linh mục rất dễ thương đơn sơ với hết mọi người, vậy mà không ai dám hó hé với ngài cái gì cả, bởi vì nơi ngài toát ra vẻ uy nghiêm thánh thiện của linh mục; có linh mục rất ít nói, nhưng khi nói thì ai cũng thích nghe và có thái độ kính trọng bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn, bởi vì nơi ngài phát ra một hấp lực khiến cho người đối diện kính nể. Tại sao vậy ? Thưa vì các ngài dùng tâm hồn để nói.
Dùng tâm hồn để nói tức là im lặng, bởi vì trong thinh lặng người ta dễ dàng nghe được cả những âm thanh nhỏ nhất, cũng vậy, linh mục Chúa Kitô khi thinh lặng suy tư cầu nguyện, thì sẽ thấy và nghe được rất nhiều điều trong giáo xứ, và trong mỗi tâm hồn của con chiên bổn đạo của mình, mà đã nghe và thấy thì chắc chắn lời nói có giá trị và hiệu quả hơn nhiều. Đa số giáo dân thích và yêu mến một linh mục nói ít làm nhiều, hơn là nói nhiều làm ít, bởi vì nói nhiều không phải là “cá tính’ của thiên chức linh mục, nhưng là cá tính của cá nhân người linh mục, cho nên để xứng đáng hơn với thiên chức linh mục cao quý của mình, thì người linh mục càng phải luyện tập cá tính của mình cho phù hợp với chức vụ thánh mà mình đã lãnh nhận, đặc biệt là tính nói nhiều, bởi vì nói nhiều là bày tỏ một tâm hồn khoe khoang và rỗng tuếch. Kinh nghiệm cho thấy người nói nhiều là người ít làm việc và làm không tốt, một linh mục nói nhiều là một linh mục ít cầu nguyện, và dù việc làm của ngài có thành công dưới mắt người đời chăng nữa, nhưng sẽ không bền lâu vì không có nền tảng khiêm tốn và cầu nguyện.
b. Ngôn trong khi giảng dạy.
Giảng dạy đây không những ở trên toà giảng trong thánh lễ, mà ngay cả trong cuộc sống đời thường: khi dạy giáo lý, dạy học chữ ở nhà trường, dạy các lớp khác có liên quan đến đời sống tôn giáo của giáo dân...
Có một vài linh mục khi giảng dạy thì tự khoe khoang mình quá đáng, nên có những lời không được thực tế và không khiêm tốn, có một vài linh mục khi dạy giáo lý hôn nhân cho người sắp làm đám cưới, thì không một chút tế nhị với đôi bạn trẻ với những câu hỏi khiến họ đỏ mặt tía tai; lại có những linh mục khi dạy giáo lý cho trẻ em thì dùng những lời lẽ như đe doạ và thái độ như ông kẹ, làm cho các em có ấn tượng không mấy thiện cảm về cha sở của mình...
Ngôn trong giảng dạy là ngôn từ giáo dục chứ không phải ngôn từ tranh luận, là ngôn từ của con tim hiền hoà chứ không phải là của tra tấn và kiêu căng, cho nên người linh mục của Chúa Kitô như người mẹ hiền dạy dỗ con cái mình nên người, nàng không cáu gắt khi dạy con, nàng cũng chẳng la lối thoá mạ, nhưng với tất cả tình mẫu tử, nàng yêu thương và có khi rơi nước mắt khi dạy dỗ con cái mình.
Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu này được tỏ hiện qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là tình yêu và vì yêu mà chết để tình yêu được thăng hoa và viên mãn, chính Ngài muốn tình yêu này được liên tục thực hiện giữa trần thế cho đến ngày thế mạt, nên đã chọn các linh mục làm những hiền mẫu thay mặt Ngài đem tình yêu đến cho nhân loại, do đó mà các linh mục khi thi hành bổn phận bảo ban dạy dỗ giáo hữu của mình, thì cũng như một bà mẹ hiền với giọng nói hiền hoà và con tim yêu thương trong một tâm hồn khiêm tốn, đó chính là linh mục của Chúa Kitô và người mục tử nhân hiền của giáo dân vậy.
Ngôn (lời nói) của linh mục thì rất có ảnh hưởng trên giáo dân, dù cho ngài là cha sở hay cha phó, hay đang về hưu, dù cho các ngài ở đâu và bất cứ lúc nào cũng đều được giáo dân vâng lời và nể vì, bởi vì với đức tin mà họ đã lãnh nhận, với giáo huấn mà họ đã học được trong Giáo Hội Công Giáo, với đức vâng lời như Chúa Giêsu, họ (giáo dân) luôn luôn coi các ngài như những người thay mặt Thiên Chúa dạy dỗ họ, ban các bí tích ân sủng của Chúa cho họ, cho nên họ luôn yêu mến và kính trọng các linh mục của mình, đó chính là một mẫu gương nhân đức mà chúng ta –linh mục- cần phải noi theo, tại sao ? Thưa, bởi vì có một quan niệm “khó hiểu” nơi một số các linh mục trẻ rằng: mình là linh mục thì cũng giống như các linh mục khác, cho nên tự cho mình ngang hàng với các linh mục đàn anh lớn tuổi, không có ý nể vì các vị đàn anh đáng bậc cha ông ấy của mình, thế là các linh mục trẻ ăn nói ít lễ phép, tự do phê bình các vị lớn tuổi và -có lúc- còn cho mình học cao học giỏi hơn các vị ấy, thậm chí còn phát ngôn rằng: thần học các vị ấy học là xưa rồi không hợp thời và cổ hủ...
Ngôn là đức thứ ba trong “công, dung, ngôn, hạnh” của người con gái có nề nếp gia phong, và cũng là của các linh mục –những hiền thê của Chúa Kitô và của Giáo Hội- có thể nói “công, dung” là tiêu biểu cho cái vẻ bên ngoài, và “ngôn, hạnh” là tiêu biểu cho cái nội tâm bên trong, cho nên người ta có thể nghe lời nói của một linh mục –hoặc của ai đó- thì biết rằng “công lực” tu đức của ngài tu luyện đã đến mức nào rồi vậy.
TÁNH PHẬT VÀ TÁNH NGƯỜI …
Có một câu chuyện “ kể để cười ” như thế này:
Một nhà kinh doanh tầm cỡ chẳng may bị tai nạn … Ông ta xiêu vẹo bước đến cửa thiên đàng…và đụng ngay vị giữ cửa: ông thánh Phê-rô …
Dẫn ông ta đến một thảo nguyên mênh mông, cỏ xanh mướt, hàng trăm thiên thần thổi sáo véo von, hàng ngàn người tha thẩn qua lại, thỉnh thoảng lại che miệng ngáp …
Tiếp tục dẫn ông doanh nhân đẳng cấp ấy đi và lọt vào một khu vực hội hè náo nhiệt, điên loạn: mọi người nhảy nhót và sự hoan hỉ hiện rõ trên nét mặt …
Tức thời hai tên quỷ xông đến, xốc nách, lôi ông ta đến một vạc dầu đang sôi sùng sục …
Thánh Phê-rô vừa nói vừa quay lưng bỏ đi …
Chuyện “để cười” ấy mà …
Thế nhưng cái vụ “quảng cáo thôi mà” lại là sự thật hằng ngày – không phải trong cõi đời sau mà ngay trên dương gian này, không phải do thánh Phê-rô giữ cửa thiên đàng, nhưng bởi mọi thứ ma quỷ vây hãm người trần … Trong “truyện để cười” thì người ta nghĩ đến Phê-rô, bởi cái nhiệm vụ giữ chìa khóa của ông, nhưng Phê-rô không bao giờ “quảng cáo” đâu … Trò “quảng cáo” là của lũ khác … Và lũ ấy đang mê hoặc và mê muội cộng đồng con người …với những trò “quảng cáo” … mà từ ngữ nhà đạo thì gọi là cám dỗ … Cám dỗ hay quảng cáo chẳng qua cũng chỉ là một giuộc: phóng đại và cường điệu để tạo hấp dẫn, nhưng thực chất là con số không !!!
Mấy ai dùng xong một chai Rồng Đỏ khoảng 300 ml là có thể bay hết tầng cao nọ đến tầng cao kia để chặn cái xe bắt cóc và giải cứu cô bé mang váy đỏ chét, miệng cười toe toét với chai Rồng Đỏ trên tay …
Mấy ai uống xong một Chai Tăng Lực là có thể vung xích chặn lại được chiếc xe hơi đang tuột dốc hay thét lên trước con cọp đang tấn công, coi nó như chú mèo ngoan trên tay cô bạn gái …
Cậu trai nhà hàng xóm thấy mình cầm loong nước yến bèn lắc đầu mỉm cười: con làm trong Công Ty Yến nên không dám uống ! Sao vậy? Nước đường và mủ trôm không bác à ! May mà còn là mủ trôm … chứ nếu chỉ toàn là bột sắn mì … thì cũng chịu !!!
Quảng cáo là vậy …
Thế nhưng điều tội nghiệp là – dù có rất quen chuyện Quảng Cáo – thì người chuyên Quảng Cáo nhất định cũng sẽ bị lừa … bởi tay “siêu Quảng Cáo” – không phải Phê-rô đâu, nhưng là ma quỷ: chuyên gia phóng đại và cường điệu …
Đi tìm hai chữ Tự Tại … thì rơi vào ý niệm về Tánh Phật và Tánh Người …
Tập tành như thế nào đó để Tánh Phật và Tánh Người hài hòa trong cư xử hằng ngày thì sẽ có sự Tự Tại … Hay nói một cách tuyệt đối hơn là để cho Tánh Phật bao trùm toàn bộ hiện hữu và hoạt động con ngưởi của mình thì sẽ có được sự Tự Tại …
Là con cái của Chúa nhưng cũng vẫn là người trần mắt thịt , trôi nổi giữa cuộc trần tràn đầy những hư thực thực hư, những “quảng cáo” – dù muốn dù không – vẫn phải tìm lấy cho mình sự Tự Tại cần thiết để bình tâm nhìn xem – suy nghĩ – quyết định – hành động … Và sự Tự Tại nơi người con của Chúa chỉ có thể có được khi bản thân biết cố gắng hết sức mình – không phải chỉ để cho Tánh Chúa bao trùm toàn bộ hiện hữu của mình mà là chính Chúa hiện diện nơi mình – chính Chúa nhìn xem – chính Chúa suy nghĩ – chính Chúa quyết định – chính Chúa hành động..
Đấy là lý do Chúa lập bí tích Thánh Thể …
Đấy là lý do Chúa mời gọi chúng ta : Các con hãy cầm lấy mà ăn … Các con hãy cầm lấy mà uống …
Và đấy cũng là lý do chúng ta cố để luôn sẵn sàng đón nhận Mình Máu Thánh Chúa …
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp
Có một câu chuyện “ kể để cười ” như thế này:
Một nhà kinh doanh tầm cỡ chẳng may bị tai nạn … Ông ta xiêu vẹo bước đến cửa thiên đàng…và đụng ngay vị giữ cửa: ông thánh Phê-rô …
- Để ta cho người xem cái này và ngươi sẽ chọn được nơi ở thích hợp với mình …
Dẫn ông ta đến một thảo nguyên mênh mông, cỏ xanh mướt, hàng trăm thiên thần thổi sáo véo von, hàng ngàn người tha thẩn qua lại, thỉnh thoảng lại che miệng ngáp …
- Đây là thiên đàng …
Tiếp tục dẫn ông doanh nhân đẳng cấp ấy đi và lọt vào một khu vực hội hè náo nhiệt, điên loạn: mọi người nhảy nhót và sự hoan hỉ hiện rõ trên nét mặt …
- Đây là hỏa ngục … Ngươi được tự do để chọn …
- Ngài nói sao vậy ? Đương nhiên là tôi chọn hỏa ngục rồi!
Tức thời hai tên quỷ xông đến, xốc nách, lôi ông ta đến một vạc dầu đang sôi sùng sục …
- Gì thế ? Ngài lừa tôi rồi !!! Hòa ngục đâu phải như thế này !!!
- Cảnh ta cho ngươi thấy lúc nãy … chỉ là quảng cáo thôi mà !!!
Thánh Phê-rô vừa nói vừa quay lưng bỏ đi …
Chuyện “để cười” ấy mà …
Thế nhưng cái vụ “quảng cáo thôi mà” lại là sự thật hằng ngày – không phải trong cõi đời sau mà ngay trên dương gian này, không phải do thánh Phê-rô giữ cửa thiên đàng, nhưng bởi mọi thứ ma quỷ vây hãm người trần … Trong “truyện để cười” thì người ta nghĩ đến Phê-rô, bởi cái nhiệm vụ giữ chìa khóa của ông, nhưng Phê-rô không bao giờ “quảng cáo” đâu … Trò “quảng cáo” là của lũ khác … Và lũ ấy đang mê hoặc và mê muội cộng đồng con người …với những trò “quảng cáo” … mà từ ngữ nhà đạo thì gọi là cám dỗ … Cám dỗ hay quảng cáo chẳng qua cũng chỉ là một giuộc: phóng đại và cường điệu để tạo hấp dẫn, nhưng thực chất là con số không !!!
Mấy ai dùng xong một chai Rồng Đỏ khoảng 300 ml là có thể bay hết tầng cao nọ đến tầng cao kia để chặn cái xe bắt cóc và giải cứu cô bé mang váy đỏ chét, miệng cười toe toét với chai Rồng Đỏ trên tay …
Mấy ai uống xong một Chai Tăng Lực là có thể vung xích chặn lại được chiếc xe hơi đang tuột dốc hay thét lên trước con cọp đang tấn công, coi nó như chú mèo ngoan trên tay cô bạn gái …
Cậu trai nhà hàng xóm thấy mình cầm loong nước yến bèn lắc đầu mỉm cười: con làm trong Công Ty Yến nên không dám uống ! Sao vậy? Nước đường và mủ trôm không bác à ! May mà còn là mủ trôm … chứ nếu chỉ toàn là bột sắn mì … thì cũng chịu !!!
Quảng cáo là vậy …
Thế nhưng điều tội nghiệp là – dù có rất quen chuyện Quảng Cáo – thì người chuyên Quảng Cáo nhất định cũng sẽ bị lừa … bởi tay “siêu Quảng Cáo” – không phải Phê-rô đâu, nhưng là ma quỷ: chuyên gia phóng đại và cường điệu …
Đi tìm hai chữ Tự Tại … thì rơi vào ý niệm về Tánh Phật và Tánh Người …
Tập tành như thế nào đó để Tánh Phật và Tánh Người hài hòa trong cư xử hằng ngày thì sẽ có sự Tự Tại … Hay nói một cách tuyệt đối hơn là để cho Tánh Phật bao trùm toàn bộ hiện hữu và hoạt động con ngưởi của mình thì sẽ có được sự Tự Tại …
Là con cái của Chúa nhưng cũng vẫn là người trần mắt thịt , trôi nổi giữa cuộc trần tràn đầy những hư thực thực hư, những “quảng cáo” – dù muốn dù không – vẫn phải tìm lấy cho mình sự Tự Tại cần thiết để bình tâm nhìn xem – suy nghĩ – quyết định – hành động … Và sự Tự Tại nơi người con của Chúa chỉ có thể có được khi bản thân biết cố gắng hết sức mình – không phải chỉ để cho Tánh Chúa bao trùm toàn bộ hiện hữu của mình mà là chính Chúa hiện diện nơi mình – chính Chúa nhìn xem – chính Chúa suy nghĩ – chính Chúa quyết định – chính Chúa hành động..
Đấy là lý do Chúa lập bí tích Thánh Thể …
Đấy là lý do Chúa mời gọi chúng ta : Các con hãy cầm lấy mà ăn … Các con hãy cầm lấy mà uống …
Và đấy cũng là lý do chúng ta cố để luôn sẵn sàng đón nhận Mình Máu Thánh Chúa …
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp
Thánh Hiến Tu Viện Đa-Minh Việt Nam Tại Calgary, Alberta - Canada
2815 – 26thAve S.E.
Calgary, Alberta T2B 0R3
Canada
2815 – 26thAve S.E.
Calgary, Alberta T2B 0R3
Canada
Sơ Lược Hình Thành Phụ Tỉnh Đa Minh Hải Ngoại
(Trích đoạn từ Tập San Chân Lý, Sồ 2, 2014)
1. Ngày 09 tháng 11 năm 1980, Bề Trên Cả Vincent De Cuesnongle ký sắc lệnh đặt cha Nguyễn Công Lý làm Bề Trên tiên khởi của Phụ Tỉnh Thánh Vinh Sơn Liêm tại Calgary, Alberta, Canada
2. Ngày 31 tháng 1 năm 1981, Đức Cha Paul O’Bryen giáo xứ Saint Anne, Calgary cho Cha Phạm Văn Bảo làm chánh xứ. Cha Lý được giao trách nhiệm làm tuyên úy cho cộng đồng người Việt Công Giáo tại Calgary và Phụ tỉnh Đaminh cũng thành hình từ đó.
Cùng với thời gian, nhiều linh mục Đaminh đã quy tụ về Calgary và Phụ Tỉnh mỗi ngày mỗi lớn mạnh.
3. Từ ngày 20 đến 23 tháng 8, 2008, Bề Trên Tổng Quyền Carlos Costa (2001-2010) đã đến kinh lý Phụ Tỉnh và ngài đã nhắc nhở Phụ Tỉnh có quyền thực thi HP#384 thỉnh nguyện Tỉnh Dòng cứu xét để trở thành Phụ Tỉnh miền. Sau cuộc họp BCV Tỉnh Dòng ngày 16-04-2009, cha Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình đã viết văn thư đề ngày 29-04-2009, tuyên bố Phụ TỉnhThánh Vinh Sơn Liêm, Calgary thành Miền Thánh Vinh Sơn Liêm.
4. Các Bề Trên Phụ Tỉnh tính theo thời gian
- Ts. Giuse Nguyễn Công Lý (1981-1987)
- Ts. Đaminh Ngô Hưng Nghĩa (1987-1991)
- Ts. Vinh Sơn Hà Viễn Lự (1991-1999)
- Ts. Phao Lô Trần Trung Dung (1999-2008)
- Ts. Giuse Trần Trung Liêm (2008-2016)
5. Các cơ sở Phụ Tỉnh đã mua và ở trong thời gian qua
- Căn nhà đầu tiên tại 476 Canterberry SW.
- Nhà xứ cạnh nhà thờ xứ Vinh Sơn Liêm; 1985
- Một nhà half dublex, NW. Calgary – bán trước khi dọn về trụ sở mới này
- Một nhà tại Vancouver, Canada, do Mẹ Theresa Calculta trao tặng
- Tu Viện mới này được vẽ và tiến hành từ năm 2000 dưới sự điều hành của Cha Paulus Trần Trung Dung, nhưng vì gặp nhiều trở ngại, công trình tạm hoãn cho tới năm 2008.
- Cha Bề Trên Trần Trung Liêm tiếp nối công trình vào năm 2008. Kiểu mẫu thì giống như trước, chỉ diện tích thì nhỏ hơn. Mãi tới ngày 19 tháng 4 năm 2012, thành phố Calgary cấp giấy phép cho xây cơ sở mới này. Ngày 09 tháng 6 năm 2012, nghi thức Động Thổ đã được thực hiện và công trình chính thức bắt đầu cho đến ngày tạm hoàn thành, 20-21/06/2014.
Xin quý vị tiếp tục cầu ngyện cho anh em Đaminh trong Phụ Tỉnh miền Thánh Vinh Sơn Liêm, để trong tương lai số anh em trong Phụ Tỉnh sẽ đông thêm hầu phục vụ Giáo Hội và xã hội tại Bắc Mỹ ngày càng tích cực hơn.
Biến cố đặc biệt này được tổ chức trong hai ngày, 20-21/6/2014.
1. Đêm Văn Nghệ "Vang Khúc Tri Ân" (20-06)
Để tri ân tất cả những người đã đóng góp cho công trình xây dựng Tu Viện; bằng công sức, tiền của cũng như lời cầu nguyện, đêm văn nghệ “Vang Khúc Tri Ân” được tổ chức tại nhà thờ Holy Trinity vào lúc 7giờ tối ngày 20/06/2014. Với sự hiện diện của Đức Cha Hiếu (GM phó địa phận Toronto), các Cha Dòng Đaminh từ khắp thế giới nhân cơ hội họp mặt Phụ Tỉnh hàng năm, cùng bà con trong Calgary, đạo cũng như đời. Cùng với sự đóng góp của các Cha, các Thầy; anh chị em ca đoàn Trầm Hương; ca sĩ Tóc Tiên; ca sĩ địa phương và đặc biệt phần ngâm thơ của Đức Cha Hiếu đã vang lên khúc ca cảm tạ và lòng tri ân tới tất cả ân nhân.
(Trích đoạn từ Tập San Chân Lý, Sồ 2, 2014)
1. Ngày 09 tháng 11 năm 1980, Bề Trên Cả Vincent De Cuesnongle ký sắc lệnh đặt cha Nguyễn Công Lý làm Bề Trên tiên khởi của Phụ Tỉnh Thánh Vinh Sơn Liêm tại Calgary, Alberta, Canada
2. Ngày 31 tháng 1 năm 1981, Đức Cha Paul O’Bryen giáo xứ Saint Anne, Calgary cho Cha Phạm Văn Bảo làm chánh xứ. Cha Lý được giao trách nhiệm làm tuyên úy cho cộng đồng người Việt Công Giáo tại Calgary và Phụ tỉnh Đaminh cũng thành hình từ đó.
Cùng với thời gian, nhiều linh mục Đaminh đã quy tụ về Calgary và Phụ Tỉnh mỗi ngày mỗi lớn mạnh.
3. Từ ngày 20 đến 23 tháng 8, 2008, Bề Trên Tổng Quyền Carlos Costa (2001-2010) đã đến kinh lý Phụ Tỉnh và ngài đã nhắc nhở Phụ Tỉnh có quyền thực thi HP#384 thỉnh nguyện Tỉnh Dòng cứu xét để trở thành Phụ Tỉnh miền. Sau cuộc họp BCV Tỉnh Dòng ngày 16-04-2009, cha Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình đã viết văn thư đề ngày 29-04-2009, tuyên bố Phụ TỉnhThánh Vinh Sơn Liêm, Calgary thành Miền Thánh Vinh Sơn Liêm.
4. Các Bề Trên Phụ Tỉnh tính theo thời gian
- Ts. Giuse Nguyễn Công Lý (1981-1987)
- Ts. Đaminh Ngô Hưng Nghĩa (1987-1991)
- Ts. Vinh Sơn Hà Viễn Lự (1991-1999)
- Ts. Phao Lô Trần Trung Dung (1999-2008)
- Ts. Giuse Trần Trung Liêm (2008-2016)
5. Các cơ sở Phụ Tỉnh đã mua và ở trong thời gian qua
- Căn nhà đầu tiên tại 476 Canterberry SW.
- Nhà xứ cạnh nhà thờ xứ Vinh Sơn Liêm; 1985
- Một nhà half dublex, NW. Calgary – bán trước khi dọn về trụ sở mới này
- Một nhà tại Vancouver, Canada, do Mẹ Theresa Calculta trao tặng
- Tu Viện mới này được vẽ và tiến hành từ năm 2000 dưới sự điều hành của Cha Paulus Trần Trung Dung, nhưng vì gặp nhiều trở ngại, công trình tạm hoãn cho tới năm 2008.
- Cha Bề Trên Trần Trung Liêm tiếp nối công trình vào năm 2008. Kiểu mẫu thì giống như trước, chỉ diện tích thì nhỏ hơn. Mãi tới ngày 19 tháng 4 năm 2012, thành phố Calgary cấp giấy phép cho xây cơ sở mới này. Ngày 09 tháng 6 năm 2012, nghi thức Động Thổ đã được thực hiện và công trình chính thức bắt đầu cho đến ngày tạm hoàn thành, 20-21/06/2014.
Xin quý vị tiếp tục cầu ngyện cho anh em Đaminh trong Phụ Tỉnh miền Thánh Vinh Sơn Liêm, để trong tương lai số anh em trong Phụ Tỉnh sẽ đông thêm hầu phục vụ Giáo Hội và xã hội tại Bắc Mỹ ngày càng tích cực hơn.
Biến cố đặc biệt này được tổ chức trong hai ngày, 20-21/6/2014.
1. Đêm Văn Nghệ "Vang Khúc Tri Ân" (20-06)
Để tri ân tất cả những người đã đóng góp cho công trình xây dựng Tu Viện; bằng công sức, tiền của cũng như lời cầu nguyện, đêm văn nghệ “Vang Khúc Tri Ân” được tổ chức tại nhà thờ Holy Trinity vào lúc 7giờ tối ngày 20/06/2014. Với sự hiện diện của Đức Cha Hiếu (GM phó địa phận Toronto), các Cha Dòng Đaminh từ khắp thế giới nhân cơ hội họp mặt Phụ Tỉnh hàng năm, cùng bà con trong Calgary, đạo cũng như đời. Cùng với sự đóng góp của các Cha, các Thầy; anh chị em ca đoàn Trầm Hương; ca sĩ Tóc Tiên; ca sĩ địa phương và đặc biệt phần ngâm thơ của Đức Cha Hiếu đã vang lên khúc ca cảm tạ và lòng tri ân tới tất cả ân nhân.
Có lẽ ông bà anh chị em thắc mắc tại sao tổ chức văn nghệ trong nhà thờ thay vì một hội trường nào đó; vừa rộng rãi, vừa thích hợp cho bầu không khí vui tươi! Đúng vậy! BTC đã dự đinh tổ chức văn nghệ ngoài trời, phía sau của Tu Viện nhưng Calgary By Law đã không cho phép vì gây ồn ào cho những người sống chung quanh. Sau đó BTC đã nhờ người đặt một hội trường khoảng 500 chỗ ngồi. Buổi sáng ngày 20/06, người đặt hội trường tới gặp manager để cho ACE vào xếp bàn ghế và chuẩn bị âm thanh cho đêm văn nghệ tối nay, vào lúc 7 giờ tối (chỉ còn 09 tiếng nữa) thì mới vỡ lẽ là book sai “Năm” – thay vì ngày 20/06/2014 thì lại là 20/06/2015! Ôi thôi, chúng tôi không có mặt ở đó nhưng nghĩ ra chắc là khốn đốn lắm.Người đặt chỗ cố nài nỉ nhưng không thành công vì đã có hội đoàn khác mướn rồi.Không còn cách nào khác, cha Đinh Quốc An, Chánh xứ Holly Trinity, cũng là LM ĐaMinh, cho mượn nhà thờ để tổ chức đêm văn nghệ; nên bà con thấy một màn trắng che trước cung thánh. Tuy không được hoàn hảo, rồi mọi việc cũng trôi qua êm đềm.
Trong giờ giải lao, các chị trong đoàn Các Bà Mẹ thuộc xứ Vinh Sơn Liêm phục vụ phần ăn nhẹ cho quan khách và những người tham dự.
Đêm văn nghệ kết thúc vào lúc 10:30pm cùng ngày.
2. Lễ Thánh Hiến Tu Viện (21-06)
Hôm nay ngày 21 tháng 6, 2014, Phụ Tỉnh Đaminh Việt Nam tổ chức ngày Thánh Hiến Tu Viện Đaminh tại Calgary, do Đức Cha Hiếu chủ sự cùng với sự hiện diện của Cha Giám Tỉnh Ngô Sĩ Đình, Cha Phụ Tỉnh Trần Trung Liêm, hai cha phụ tá Bề Trên Tổng Quyền, các cha Dòng Đaminh, các cha trong địa phận Calgary và các Soeur Đaminh đến từ Houston, Texas.
Các cộng đoàn Việt Nam đến từ Edmonton, Lethbridge và cộng đoàn Canadian, giáo xứ Holy Trinity. Ngoài ra còn có cộng đoàn xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Richmond, VA, xứ Đức Mẹ Lộ Đức tại Houston, xứ Đức Mẹ La Vang, Houston, cùng nhiều giáo dân đến từ California.
Thánh lễ bắt đầu vào lúc 10:30 sáng ngày 21-06-2014 tại nguyện đường của Tu Viện.
Cũng thêm một sự việc xảy ra ngoài dự định của BTC. Đáng lẽ Thánh Lễ đại trào Thánh Hiến Tu Viện được tổ chức ngoài trời, sân sau của Tu Viện, nhưng vì phần xây cất chưa xong, đền thờ của Thánh Matino De Pores cũng chưa có và Tháng Sáu (trời mưa không dứt), nên phải tổ chức trong Nguyện Đường (không đủ chỗ ngồi), và vì thế Thánh Lễ kém phần long trọng như mọi người ao ước.
Đêm văn nghệ kết thúc vào lúc 10:30pm cùng ngày.
2. Lễ Thánh Hiến Tu Viện (21-06)
Hôm nay ngày 21 tháng 6, 2014, Phụ Tỉnh Đaminh Việt Nam tổ chức ngày Thánh Hiến Tu Viện Đaminh tại Calgary, do Đức Cha Hiếu chủ sự cùng với sự hiện diện của Cha Giám Tỉnh Ngô Sĩ Đình, Cha Phụ Tỉnh Trần Trung Liêm, hai cha phụ tá Bề Trên Tổng Quyền, các cha Dòng Đaminh, các cha trong địa phận Calgary và các Soeur Đaminh đến từ Houston, Texas.
Các cộng đoàn Việt Nam đến từ Edmonton, Lethbridge và cộng đoàn Canadian, giáo xứ Holy Trinity. Ngoài ra còn có cộng đoàn xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Richmond, VA, xứ Đức Mẹ Lộ Đức tại Houston, xứ Đức Mẹ La Vang, Houston, cùng nhiều giáo dân đến từ California.
Thánh lễ bắt đầu vào lúc 10:30 sáng ngày 21-06-2014 tại nguyện đường của Tu Viện.
Cũng thêm một sự việc xảy ra ngoài dự định của BTC. Đáng lẽ Thánh Lễ đại trào Thánh Hiến Tu Viện được tổ chức ngoài trời, sân sau của Tu Viện, nhưng vì phần xây cất chưa xong, đền thờ của Thánh Matino De Pores cũng chưa có và Tháng Sáu (trời mưa không dứt), nên phải tổ chức trong Nguyện Đường (không đủ chỗ ngồi), và vì thế Thánh Lễ kém phần long trọng như mọi người ao ước.
Trước thánh lễ là nghi thức Thánh Hiến Tu Viện; các Linh Mục và Chủ Tế đi từ Basement lên lầu một và lầu hai, dọc hành lang và tiến ra nguyện đường.
Sau thánh lễ, cha Bề Trên Phụ Tỉnh thân mời Đức Cha, tu sĩ nam nữ, tất cả cộng đoàn tham dự bữa cơm trưa với cùng anh em tu sĩ trong Dòng. Song song là phần phát qùa kỷ niệm: áo sơ mi, mũ, túi xách cho quan khách trước khi chia tay trở về xứ cũ.
Dẫu có những trở ngại trong hai ngày đặc biệt này nhưng mọi việc đều xảy ra dưới sự quan phòng của Chúa, trong tình yêu thương và đoàn kết.Cũng qua sự cầu bầu của thánh Matino De Pores, anh em trong Phụ Tỉnh và cộng đoàn cùng cầu nguyện cho nhau trong tình hiệp nhất.
Cơ sở Tu Viện đã hoàn thành, nào chúng ta hãy mừng vui và tạ ơn.Cầu xin nhiều ơn gọi Đaminh sẽ nẩy mầm và đâm chồi trổ sinh hoa trái cho Giáo Hội, đặc biệt tại Bắc Mỹ này.
Calgary 26-06-2014
Đặng Viết Tính
LINH MỤC VÀ CỦA CẢI TRẦN GIAN
Lm. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.
Gần đây, trên mạng và báo chí có những bài như “Nghề đi tu” hay “Đời sống xa hoa của một giám mục” v.v… Những bài này nhằm phản ánh dư luận của dân chúng về phong thái của những người đi tu, để nhắc nhở cho giới tu hành rằng phải xem xét lại lối sống của mình sao cho đích đáng. Vì thế, thiết tưởng đây là lúc nên đặt lại vấn đề “Linh mục và của cải trần gian” theo các chỉ dẫn của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm họp tại Roma năm 1971. Thời gian tài liệu đó ra đời tính đến nay đã hơn 40 năm, nhưng giá trị và tính thời sự của nó vẫn không thay đổi, vì đó là đề tài cần thiết và lâu lâu cần phải được nhắc lại.
Thật vậy, trong các đòi hỏi phải từ bỏ của Chúa Giê-su đưa ra cho các Tông Đồ, có một đòi hỏi về vật chất, đặc biệt là tiền của (Mc 10,21; Lc, 18,22}. Đó cũng là một đòi hỏi được gửi đến mọi Ki-tô hữu theo tinh thần nghèo khó, nghĩa là gỡ lòng mình cho khỏi dính bén của cải để có thể thanh thản phụng thờ Chúa và quảng đại phục vụ tha nhân. Nghèo khó là một hình thức cam kết dựa vào lòng tin vào Chúa Giê-su và lòng mến dành cho Người. Hình thức này đòi phải có sự thực tập, một sự từ bỏ của cải tương ứng với đời sống và bậc đời của mỗi người theo ơn gọi ki-tô hữu, với tư cách riêng của mỗi cá nhân hay chung của một cộng đoàn thánh hiến. Tinh thần nghèo khó có giá trị đối với mọi người. Mỗi người phải thực hiện theo cách nào đó cho phù hợp với Tin Mừng.
Đức nghèo khó mà Chúa Giê-su yêu cầu các Tông Đồ thực hành là một mạch suối tu đức không vơi cạn. Đức này không dành cho những nhóm đặc biệt mà thôi, vì tinh thần nghèo khó cần cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Thiếu sót trong vấn đề này là đi ngược lại với giáo huấn của Tin Mừng. Tuy nhiên, trung thành với tinh thần này không có nghĩa là phải từ bỏ mọi sở hữu hay bãi bỏ quyển sở hữu cải vật chất đối với các Ki-tô hữu hay các linh mục. Nhiều lần Huấn Quyền đã kết án những ai chủ trương như thế và tìm cách hướng dẫn tư tưởng và hành động theo đường lối thích hợp. Trong nhiều trường hợp phải đứng trước những tình trạng khó khăn, Hội Thánh đã tìm cách vượt qua bằng nhiều hình thức, nhất là bằng cách kêu gọi lòng hảo tâm của các tín hữu để có phương tiện lo việc thờ phượng, hoạt động bác ái, nuôi dưỡng linh mục, làm việc truyền giáo v.v…
Đúc nghèo khó theo Tin Mừng không hề khinh chê của cải trần gian vì những thứ này được ban cho con người là để sống và hợp tác với chương trình sáng tạo của hiên Chúa. Theo Công Đồng Va-ti -ca-nô II, linh mục cũng như mọi Ki-tô hữu, vì có nhiệm vụ ca tụng và tạ ơn, nên phải nhìn nhận và tán dương lòng quảng đại của Cha trên Trời được biểu lộ trong các của cải trần gian (PO 17). Nhưng Công Đồng còn nói thêm là các linh mục đang khi sống ở giữa thế gian phải luôn luôn nhớ rằng mình không thuộc về thế gian này (Ga 17,14-16) và phải gỡ mình ra cho khỏi mọi ràng buộc quá đáng, hầu đạt được một tư thế thiêng liêng thích hợp và quân bình với thế gian và những sự đời (Pastores do vobis 30).
Đó là một vấn đề tế nhị, vì Hội Thánh thi hành sứ vụ giữa thế gian và của cải vật chất là hoàn toàn cần thiết cho con người để được pháttriển. Chúa Giê-su đã không cấm các Tông Đồ nhận các thứ cần thiết cho đời sống ở trần gian. Người cũng xác nhận quyền của các ông khi sai các ông đi rao giảng : “Người ta cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công.” (Lc 10,7; x. Mt 10,10). Thánh Phao-lô cũng nhắc cho tín hữu Co-rin-tô : “Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng (1 Cr 9,14) ; Người được học lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với người dạy dỗ mình.” (Gl 6,6)
Vì thế, các linh mục có của cải vật chất để sử dụng là điều chính đáng, theo lệnh truyền của Chúa và giáo huấn của Hội Thánh (PO 17). Về điểm này, Công Đồng đưa ra những chỉ dẫn cụ thể sau đây :
Trước hết, việc quản trị tài sản chính thức của Hội Thánh phải được bảo dảm theo các luật lệ hiện hành, với sự trợ giúp của các giáo dân thành thạo. Những của cải này phải luôn luôn được sử dụng để lo công việc thờ phượng, bảo đảm cho linh mục một mức sống vừa đủ, yểm trợ các công việc tông đồ, bác ái, đặc biệt giúp người nghèo. Những nguồn lợi do công việc đạo đức hay chức vụ linh mục mang lại phải được dùng, trước hết để bảo đảm đời sống và hoàn thành những bổn phận của đấng bậc mình. Phần còn lại phải dùng để phục vụ Hội Thánh và những công việc bác ái. Phải đặc biệt nhấn mạnh đến điều này là bất cứ một chức vụ nào trong Hội Thánh được trao cho các linh mục và cả các giám mục nữa, không bao giờ được coi đó là một cơ hội để làm giầu cho cá nhân hay gia đình mình. Vì thế, các linh mục chẳng những không được dính bén của cải mà lại còn phải tránh mọi dáng dấp ham muốn và cẩn thận loại bỏ mọi hình thức buôn bán. Tựu trung, nên nhớ rằng trong việc dùng của cải, mọi sự đều phải dựa vào và diễn ra theo ánh sáng của Tin Mừng.
Khi linh mục làm hay quản trị những công việc đời không thuộc phạm vi thiêng thánh hay tôn giáo cũng phải tuân theo nguyên tắc nói trên. Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 tuyên bố rằng bình thường linh mục phải dành toàn thời giờ cho công việc theo chức vụ. Vậy tuyệt đối không được tham gia vào các việc đời và coi đó như mục đích chính. Những công việc này không thể diễn tả cách thỏa đáng trách nhiệm riêng biệt của linh mục. Thượng Hội Đồng cũng đã bày tỏ thái độ và lập trường trước khuynh hướng muốn tục hóa hoạt động của linh mục, muốn linh mục làm một nghề như những người khác ở đời.
Quả thật, có những trường hợp và ở những nơi người ta không biết Chúa Ki-tô, nên cách hữu hiệu nhất để đưa Hội Thánh đến với họ là có những linh mục cùng làm việc, sinh sống như họ và ở giữa họ như Các Linh Mục Thợ chẳng hạn. Lòng quảng đại của những linh mục này thật đánh hoan nghênh. Tuy nhiên, vẫn phải coi chừng vì làm như vậy, linh mục có thể đưa xuống hàng thứ yếu hay loại bỏ thừa tác vụ của mình. Vì mối nguy cơ này như kinh nghiệm chứng tỏ, Công Đồng đòi linh mục nào muốn làm việc lao động như những công nhân, phải được giám mục của mình ưng thuận và cho phép (PO 8). Thượng Hội Đồng 1971 đã đặt ra qui tắc là linh mục làm việc đời phải tùy thuộc giám mục và linh mục đoàn và nếu cần phải xin ý kiến của Hội Đồng Giám Mục (Ench. Vat. IV, 1190).
Đôi khi cũng có những trường hợp như đã xẩy ra trong quá khứ là có những linh mục có năng khiếu và được huấn luyện kỹ, hoạt động trong lãnh vực lao động hay văn hóa nghệ thuật không ăn nhằm gì với công việc đạo. Đây là một trường hợp hết sức đặc biệt và phải theo tiêu chuẩn Thượng Hội Đồng 1971 đã đề ra như mới nói ở trên, nếu muốn trung thành với Tin Mừng và Hội Thánh.
Chúa Giê-su đã sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó. Thánh Phao-lô nhắc bảo chúng ta : “Người vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em.”(2 Cr 8,9). Chính Chúa cũng nói với chàng thanh niên muốn theo mình : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9,57) Những lời này cho thấy một cảnh trơ trụi hoàn toàn, không có chút gì là tiện nghi vật chất. Nhưng không nên vì thế mà vội kết luận Chúa sống trong cảnh bần cùng. Có những đoạn trong Tin Mừng nói Chúa được mời và nhận lời tới nhà những người giầu có (Mt 9,10-11 ; Mc 2,15-16 ; Lc 5,29. 7,36. 19,5-6) cũng như được nhóm phụ nữ trợ giúp về các nhu cầu vật chất. (Lc 8,2-3 ; Mt 27, 55 ; Mc 15,40-41)
Một tinh thần nghèo khó như thế phải được ghi dấu ấn lên cách ăn ở, thái độ, cử chỉ, đời sống và bộ mặt của linh mục là mục tử và người của Chúa. Điều ấy có thể diễn ra bằng một thái độ vô vị lợi, một sự dứt bỏ đối với tiền bạc, một sự từ chối mọi thứ ham muốn trong việc chiếm hữu của cải vật chất, một lối sống đơn sơ, một nơi ở bình thường ai cũng tới được, không có gì xa hoa, đài các.
Kết luận
Chúa Giê-su đã đến rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo hèn bé nhỏ. Linh mục và giám mục phải tránh hết sức những gì có thể đưa mình ra xa người nghèo (PO 17). Ngược lại, nếu tập được cho mình tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng, các vị sẽ đi đến với họ và tim cách chia sẻ giúp đỡ họ về vật chất cũng như tinh thần. Đó là bằng chứng về Chúa Giê-su nghèo khó của những linh mục nghèo và bạn của những người nghèo. Đó là ngọn lửa tình yêu bập bùng cháy lên trong đời sống của hàng giáo sĩ và Hội Thánh. Nó sẽ có sức chiếu giãi và thu phục nhân tâm hơn những gì khác. Nguyên việc linh mục sống đơn sơ bình dị, không ham tiền đã là một bằng chứng quí giá cho việc rao giảng Tin Mừng rồi.
Lm. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.
Gần đây, trên mạng và báo chí có những bài như “Nghề đi tu” hay “Đời sống xa hoa của một giám mục” v.v… Những bài này nhằm phản ánh dư luận của dân chúng về phong thái của những người đi tu, để nhắc nhở cho giới tu hành rằng phải xem xét lại lối sống của mình sao cho đích đáng. Vì thế, thiết tưởng đây là lúc nên đặt lại vấn đề “Linh mục và của cải trần gian” theo các chỉ dẫn của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm họp tại Roma năm 1971. Thời gian tài liệu đó ra đời tính đến nay đã hơn 40 năm, nhưng giá trị và tính thời sự của nó vẫn không thay đổi, vì đó là đề tài cần thiết và lâu lâu cần phải được nhắc lại.
Thật vậy, trong các đòi hỏi phải từ bỏ của Chúa Giê-su đưa ra cho các Tông Đồ, có một đòi hỏi về vật chất, đặc biệt là tiền của (Mc 10,21; Lc, 18,22}. Đó cũng là một đòi hỏi được gửi đến mọi Ki-tô hữu theo tinh thần nghèo khó, nghĩa là gỡ lòng mình cho khỏi dính bén của cải để có thể thanh thản phụng thờ Chúa và quảng đại phục vụ tha nhân. Nghèo khó là một hình thức cam kết dựa vào lòng tin vào Chúa Giê-su và lòng mến dành cho Người. Hình thức này đòi phải có sự thực tập, một sự từ bỏ của cải tương ứng với đời sống và bậc đời của mỗi người theo ơn gọi ki-tô hữu, với tư cách riêng của mỗi cá nhân hay chung của một cộng đoàn thánh hiến. Tinh thần nghèo khó có giá trị đối với mọi người. Mỗi người phải thực hiện theo cách nào đó cho phù hợp với Tin Mừng.
Đức nghèo khó mà Chúa Giê-su yêu cầu các Tông Đồ thực hành là một mạch suối tu đức không vơi cạn. Đức này không dành cho những nhóm đặc biệt mà thôi, vì tinh thần nghèo khó cần cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Thiếu sót trong vấn đề này là đi ngược lại với giáo huấn của Tin Mừng. Tuy nhiên, trung thành với tinh thần này không có nghĩa là phải từ bỏ mọi sở hữu hay bãi bỏ quyển sở hữu cải vật chất đối với các Ki-tô hữu hay các linh mục. Nhiều lần Huấn Quyền đã kết án những ai chủ trương như thế và tìm cách hướng dẫn tư tưởng và hành động theo đường lối thích hợp. Trong nhiều trường hợp phải đứng trước những tình trạng khó khăn, Hội Thánh đã tìm cách vượt qua bằng nhiều hình thức, nhất là bằng cách kêu gọi lòng hảo tâm của các tín hữu để có phương tiện lo việc thờ phượng, hoạt động bác ái, nuôi dưỡng linh mục, làm việc truyền giáo v.v…
Đúc nghèo khó theo Tin Mừng không hề khinh chê của cải trần gian vì những thứ này được ban cho con người là để sống và hợp tác với chương trình sáng tạo của hiên Chúa. Theo Công Đồng Va-ti -ca-nô II, linh mục cũng như mọi Ki-tô hữu, vì có nhiệm vụ ca tụng và tạ ơn, nên phải nhìn nhận và tán dương lòng quảng đại của Cha trên Trời được biểu lộ trong các của cải trần gian (PO 17). Nhưng Công Đồng còn nói thêm là các linh mục đang khi sống ở giữa thế gian phải luôn luôn nhớ rằng mình không thuộc về thế gian này (Ga 17,14-16) và phải gỡ mình ra cho khỏi mọi ràng buộc quá đáng, hầu đạt được một tư thế thiêng liêng thích hợp và quân bình với thế gian và những sự đời (Pastores do vobis 30).
Đó là một vấn đề tế nhị, vì Hội Thánh thi hành sứ vụ giữa thế gian và của cải vật chất là hoàn toàn cần thiết cho con người để được pháttriển. Chúa Giê-su đã không cấm các Tông Đồ nhận các thứ cần thiết cho đời sống ở trần gian. Người cũng xác nhận quyền của các ông khi sai các ông đi rao giảng : “Người ta cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công.” (Lc 10,7; x. Mt 10,10). Thánh Phao-lô cũng nhắc cho tín hữu Co-rin-tô : “Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng (1 Cr 9,14) ; Người được học lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với người dạy dỗ mình.” (Gl 6,6)
Vì thế, các linh mục có của cải vật chất để sử dụng là điều chính đáng, theo lệnh truyền của Chúa và giáo huấn của Hội Thánh (PO 17). Về điểm này, Công Đồng đưa ra những chỉ dẫn cụ thể sau đây :
Trước hết, việc quản trị tài sản chính thức của Hội Thánh phải được bảo dảm theo các luật lệ hiện hành, với sự trợ giúp của các giáo dân thành thạo. Những của cải này phải luôn luôn được sử dụng để lo công việc thờ phượng, bảo đảm cho linh mục một mức sống vừa đủ, yểm trợ các công việc tông đồ, bác ái, đặc biệt giúp người nghèo. Những nguồn lợi do công việc đạo đức hay chức vụ linh mục mang lại phải được dùng, trước hết để bảo đảm đời sống và hoàn thành những bổn phận của đấng bậc mình. Phần còn lại phải dùng để phục vụ Hội Thánh và những công việc bác ái. Phải đặc biệt nhấn mạnh đến điều này là bất cứ một chức vụ nào trong Hội Thánh được trao cho các linh mục và cả các giám mục nữa, không bao giờ được coi đó là một cơ hội để làm giầu cho cá nhân hay gia đình mình. Vì thế, các linh mục chẳng những không được dính bén của cải mà lại còn phải tránh mọi dáng dấp ham muốn và cẩn thận loại bỏ mọi hình thức buôn bán. Tựu trung, nên nhớ rằng trong việc dùng của cải, mọi sự đều phải dựa vào và diễn ra theo ánh sáng của Tin Mừng.
Khi linh mục làm hay quản trị những công việc đời không thuộc phạm vi thiêng thánh hay tôn giáo cũng phải tuân theo nguyên tắc nói trên. Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 tuyên bố rằng bình thường linh mục phải dành toàn thời giờ cho công việc theo chức vụ. Vậy tuyệt đối không được tham gia vào các việc đời và coi đó như mục đích chính. Những công việc này không thể diễn tả cách thỏa đáng trách nhiệm riêng biệt của linh mục. Thượng Hội Đồng cũng đã bày tỏ thái độ và lập trường trước khuynh hướng muốn tục hóa hoạt động của linh mục, muốn linh mục làm một nghề như những người khác ở đời.
Quả thật, có những trường hợp và ở những nơi người ta không biết Chúa Ki-tô, nên cách hữu hiệu nhất để đưa Hội Thánh đến với họ là có những linh mục cùng làm việc, sinh sống như họ và ở giữa họ như Các Linh Mục Thợ chẳng hạn. Lòng quảng đại của những linh mục này thật đánh hoan nghênh. Tuy nhiên, vẫn phải coi chừng vì làm như vậy, linh mục có thể đưa xuống hàng thứ yếu hay loại bỏ thừa tác vụ của mình. Vì mối nguy cơ này như kinh nghiệm chứng tỏ, Công Đồng đòi linh mục nào muốn làm việc lao động như những công nhân, phải được giám mục của mình ưng thuận và cho phép (PO 8). Thượng Hội Đồng 1971 đã đặt ra qui tắc là linh mục làm việc đời phải tùy thuộc giám mục và linh mục đoàn và nếu cần phải xin ý kiến của Hội Đồng Giám Mục (Ench. Vat. IV, 1190).
Đôi khi cũng có những trường hợp như đã xẩy ra trong quá khứ là có những linh mục có năng khiếu và được huấn luyện kỹ, hoạt động trong lãnh vực lao động hay văn hóa nghệ thuật không ăn nhằm gì với công việc đạo. Đây là một trường hợp hết sức đặc biệt và phải theo tiêu chuẩn Thượng Hội Đồng 1971 đã đề ra như mới nói ở trên, nếu muốn trung thành với Tin Mừng và Hội Thánh.
Chúa Giê-su đã sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó. Thánh Phao-lô nhắc bảo chúng ta : “Người vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em.”(2 Cr 8,9). Chính Chúa cũng nói với chàng thanh niên muốn theo mình : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Lc 9,57) Những lời này cho thấy một cảnh trơ trụi hoàn toàn, không có chút gì là tiện nghi vật chất. Nhưng không nên vì thế mà vội kết luận Chúa sống trong cảnh bần cùng. Có những đoạn trong Tin Mừng nói Chúa được mời và nhận lời tới nhà những người giầu có (Mt 9,10-11 ; Mc 2,15-16 ; Lc 5,29. 7,36. 19,5-6) cũng như được nhóm phụ nữ trợ giúp về các nhu cầu vật chất. (Lc 8,2-3 ; Mt 27, 55 ; Mc 15,40-41)
Một tinh thần nghèo khó như thế phải được ghi dấu ấn lên cách ăn ở, thái độ, cử chỉ, đời sống và bộ mặt của linh mục là mục tử và người của Chúa. Điều ấy có thể diễn ra bằng một thái độ vô vị lợi, một sự dứt bỏ đối với tiền bạc, một sự từ chối mọi thứ ham muốn trong việc chiếm hữu của cải vật chất, một lối sống đơn sơ, một nơi ở bình thường ai cũng tới được, không có gì xa hoa, đài các.
Kết luận
Chúa Giê-su đã đến rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo hèn bé nhỏ. Linh mục và giám mục phải tránh hết sức những gì có thể đưa mình ra xa người nghèo (PO 17). Ngược lại, nếu tập được cho mình tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng, các vị sẽ đi đến với họ và tim cách chia sẻ giúp đỡ họ về vật chất cũng như tinh thần. Đó là bằng chứng về Chúa Giê-su nghèo khó của những linh mục nghèo và bạn của những người nghèo. Đó là ngọn lửa tình yêu bập bùng cháy lên trong đời sống của hàng giáo sĩ và Hội Thánh. Nó sẽ có sức chiếu giãi và thu phục nhân tâm hơn những gì khác. Nguyên việc linh mục sống đơn sơ bình dị, không ham tiền đã là một bằng chứng quí giá cho việc rao giảng Tin Mừng rồi.
Mổ xẻ vấn đề khoe-phô-diễn đạo
Khoe-phô-diễn đạo là khoe khoang đạo, phô trương đạo và trình diễn đạo. Khi bàn về một ý niệm hoặc vấn đề gì, thì đều có hai ba chiều: chiều này, chiều nọ và chiều kia. Ngay trong một gia đình cũng có người thế này, người thế nọ, người thế kia.
Đứng trước những giá trị khác nhau của cuộc sống, người ta cần tìm hiểu, phân giải và đánh giá sự vật để lựa chọn, xem người ta phải chọn lựa giá trị nào và lựa chọn thế nào cho phù hợp với lí tưởng đang theo đuổi – đối với người Kitô giáo thì cho hợp với giá trị Phúc Âm -, mặc dầu theo khuynh hướng tự nhiên, người ta muốn lựa chọn khác đi. Lựa chọn của thế hệ hiện tại sẽ ảnh hưởng đến những lựa chọn của những thế hệ tương lai.
Xây cất nhà thờ, hội trường, trung tâm này nọ
Sau bao nhiêu năm bị thời gian sói mòn, thời tiết làm hư hỏng, chiến tranh tàn phá, thêm vào đó còn có những cơ sở tôn giáo bị trưng dụng, thì nhà thờ cần được sửa sang hoặc xây cất lại. Từ khi nền kinh tế được đổi mới, rồi phát triển và có nguồn tài trợ của Việt kiều hải ngoại, thì Giáo Hội cần sửa sang, xây cất lại là điều phải lẽ. Tuy nhiên sau đó người ta thấy có hiện tượng đua đòi xây cất. Ngay cả một số dòng tu với lời khấn nghèo khó cũng xây cất mà không biết có hợp tiêu chuẩn nghèo khó không? Mỗi dòng tu có tiêu chuẩn sống nghèo khác nhau và nhu cầu khác nhau nên người viết chỉ đặt câu hỏi, mà không quyết đoán. Vấn đề đua nhau xây cất đã có những bài viết bàn đến. Theo những bài viết ghi lại thì có nhà thờ còn vững chắc, đã bị đập phá đi để xây cất lại. Có nhà thờ không phải nhà thờ chính toà, mà xây cất lại với lối kiến trúc đồ sộ, chi tiết cầu kì, cổ kính như bên Âu Châu thời Trung Cổ. Có nhà thờ xây cất toàn bằng bêtông giống như kiểu lô cốt. Lại có những nhà thờ xây, không theo tiêu chuẩn xây cất, không phù hợp với nhu cầu giáo dân hoặc người xử dụng. Không những nhà thờ mà còn có cả toà tư dinh ‘giáo chủ’, nhà nguyện toà ‘giáo chủ’, công trường toà ‘giáo chủ’, cũng được xây cất đồ sộ, nguy nga như một cung điện. Nghe nói hôm ăn mừng khánh thành, có những món rất ư là đặc biệt, đem từ xa hơn ngàn cây số tới, mà không ướp đá hay để đông lạnh, khiến nhiều khách được mời gồm cả những vị tai to mặt lớn trong Giáo Hội tưởng bở là của ngon vật lạ, liền xơi vào, nên bị tào tháo đuổi. Không biết có vị nào chạy kịp không, hoặc có vị nào chạy mà không tìm được phòng ẩn náu không? Rồi không biết người nghèo có dám bén bảng tới không?
Chúa Cứu thế sinh ra nơi hang bò lừa nên người nghèo mới dám đến với Chúa đấy. Khi Thánh Phanxicô khó nghèo quì cầu nguyện, nghe tiếng phán bảo: “Hãy xây lại nhà của Ta”. Tưởng là phải xây lại nhà theo nghĩa đen, thánh nhân bèn cho xây lại nhà thờ Thánh Damianô và mấy nhà thờ gần kề. Sau khi làm việc cực nhọc trong việc xây cất, Thánh Phanxicô mới nhận ra phải xây lại nhà của Giáo Hội Chúa, theo ý nghĩa thiêng liêng, trong tâm hồn người tín hữu. Tại sao Đức Phanxicô lại lấy tên của vị thánh này làm danh hiệu cho triều đại Giáo Hoàng của Ngài? Thiết tưởng độc giả đã có câu trả lời.
Xây cất trung tâm hành hương nọ kia để đi hành hương
Theo truyền thống lâu đời của Giáo Hội, thì địa điểm hành hương là nơi được coi là mang dấu thánh tích. Đất Thánh là nơi Đấng Cứu Thế đã giáng sinh, sinh sống, giảng dạy, chịu khổ hình, tử nạn và phục sinh. Toà Thánh La Mã là nơi hai Thánh Phêrô, Phaolô, các thánh tông đồ và hàng ngàn tín hữu tử đạo vì đức tin vào Đấng Cứu thế. Lộ Đức bên Pháp Quốc là nơi Đức Mẹ hiện ra mười tám lần vào năm 1858 với Bernadette, một thiếu nữ nghèo nàn, lại yếu sức khoẻ, mắc bệnh dịch và chứng xuất huyết. Trong những lần hiện ra, Đức Mẹ bảo Bernadette truyền bá sứ điệp: “Cải thiện đời sống và năng cầu nguyện, đặc biệt cầu nguyện theo chuỗi kinh Mân Côi cho người có tội trở lại”. Lần hiện ra thứ mười sáu, Đức Mẹ nói: “Ta là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm (Que Soy Era Immaculada Concepcion)”. Fatima tại Bồ Đào Nha là nơi Đức Mẹ hiện ra năm lần vào năm 1917 với ba em: Lucia (10 tuổi) và hai em họ là Phanxicô (9 tuổi) và Jacinta (7 tuổi) đang chăn cừu trên sườn đồi Cova. Mẹ kêu gọi các em truyền bá việc cầu nguyện, đặc biệt theo chuỗi kinh Mân côi, hoán cải tâm hồn, sám hối tội lỗi, và tôn sùng Trái tim Mẹ. Tại Việt Nam năm 1798, Ðức Mẹ hiện ra ở La Vang để an ủi, khích lệ giáo hữu bị bách hại vì đức tin dưới thời Vua Cảnh Thịnh. Ba sứ điệp Đức Mẹ dạy ở La Vang là: “(1) Các con hãy tin tưởng, hãy vui chịu đau khổ. (2) Mẹ đã nhậm lời các con cầu xin. (3) Từ nay về sau, hễ ai đến kêu xin Mẹ ở nơi đây, họ sẽ được toại nguyện”. Ở một số nơi khác trên thế giới, Đức Mẹ cũng đã hiện ra với những lời nhắn nhủ khác nhau. Lại có những đền thánh là nơi mà ông thánh nọ bà thánh kia được coi là linh thiêng hay làm phép lạ.
Người tín hữu đi hành hương đến những đền thánh, nơi linh thiêng để sùng kính, cầu nguyện, tạ tội, tạ ơn, xin ơn nọ ơn kia như ơn được khỏi bệnh phần xác, phần hồn, phần tâm linh. Họ đến để học hỏi, để xin ơn đổi mới đức tin, đổi mới tâm hồn và đời sống. Đối với họ, hành hương cũng là dịp đi nghỉ hè cho thể xác, tâm trí được thư giãn.
Tuy nhiên, ngày nay khi nói đến hành hương, hình như nhiều người đã lạm dụng từ ngữ hành hương, nghĩa là đi đến một nhà thờ nào đó, không có gì khác biệt hẳn với những nhà thờ khác, ngoài ra chỉ là những nơi thờ phượng và cầu nguyện của giáo phận nọ kia thôi, mà người ta cũng gọi là đi hành hương. Người ta còn tự tác tạo ra những trung tâm hành hương, nghĩa là xây cất trung tâm hành hương để kính Đức Mẹ dưới một tước hiệu nào đó, hoặc để kính ông thánh nọ, bà thánh kia, từ con số không, nghĩa là thiết lập trung tâm hành hương từ đồng không mông quạnh, không có ghi dấu một tác động đức tin nào đã được bày tỏ tại đó, hay một hiện tượng lạ nào đã xẩy ra hoặc ơn huệ nào đã được ban phát tại đó. Có nơi để giới thiệu một trung tâm hành hương tự tạo, người ta còn mời tất cả các vị “giáo chủ” trong Nước đến tham quan. Rồi trong buổi lễ đặt viên đá xây cất, lại mời các vị đến nữa, có cả đại diện vị “Đại Giáo Chủ”. Rồi người ta phao tin năm sau vị “Đại Giáo Chủ” sẽ đến thăm nơi này. Người ta cho quay video buổi lễ hoành tráng đưa lên mạng cho cả cộng đồng mạng trên thế giới có thể coi. Về việc phô trương đạo như vậy trong thời buổi này, nếu không có một thế lực nào đó đứng sau lưng, với một thoả thuận nào đó, thì có làm đươc không? Trong những lễ nghi tôn giáo như vậy mà thấy có sự hiện diện của những nhân vật thế quyền với cả những lời phát biểu chúc mừng của họ nữa.
Làm gì khi không có trung tâm hành hương hay không hợp đề làm trung tâm hành hương.
Sau bao nhiêu năm vì hoàn cảnh chiến tranh, chính trị, xã hội khiến Giáo hội không còn những cơ sở giáo dục để giảng dạy, không những về học vấn, nhưng còn về giáo lí trong đạo và đường lối sống đạo.
Do đó có lẽ nên gọi những trung tâm đền đài mới xây cho cấp giáo phận là trung tâm tĩnh tâm, trung tâm tĩnh huấn, trung tâm cấm phòng, trung tâm hội thảo, trung tâm giáo dục hoặc trung tâm mục vụ, hoặc phối hợp hai từ ngữ kép ghép lại là trung tâm tĩnh huấn-hội thảo thì hợp lí hơn là trung tâm hành hương. Hai từ ngữ kép-ghép này có thể bao hàm nhiều chương trình, nhiều hoạt động mục vụ tại đó. Còn người tín hữu đến đó thì nên coi là đến để tĩnh tâm, huấn luyện, hội họp, thảo luận. Đó là điều hồng y Phạm Đình Tụng đã làm khi còn là Giám mục Bắc Ninh bằng cách đào tạo được một đội ngũ giáo lí viên trong Giáo Phận. Trông ngoại hình thì thấy Hồng Y Tụng không được đẹp trai mấy, nhưng đã có cái nhìn xa, trong thời buổi thiếu vắng hàng linh mục và nữ tu trong Giáo phận.
Người đến trung tâm này có thể ở hai, ba ngày hay cả tuần thay vì sáng đi tối về. Tại đây có thể tổ chức những buổi học hỏi giáo lí, hội thảo, tĩnh tâm cho giáo dân trong giáo xứ, liên giáo xứ, trong giáo phận hoặc liên giáo phận để những người đã đi dự về, gây ảnh hưởng đến người khác như men trong đấu bột. Trong thời gian huấn luyện để học hỏi, đôi khi nên chia nhóm lớn ra thành những nhóm nhỏ để những người nhát gan, hay mắc cở, thiếu tự tin, không quen nói trước công chúng có dịp cho ý kiến và chia sẻ. Có dịp chia sẻ và cho ý kiến, họ mới lên tinh thần, để khi về giáo xứ họ mới cảm thấy tự tin trong việc dạy giáo lí. Tại trung tâm này phải có nhà nguyện đặt Mình Thánh Chúa ngự để tham dự viên đến dự lễ, cầu nguyện và chầu Thánh Thể để xả lòng mình trước Đấng mà họ tôn thờ. Người đến dự cần trả một số tiền nào đó để giúp bảo trì trung tâm này. Tại trung tâm này cần đặt ban điều hành và lập quĩ riêng.
Tại đây hàng Giáo Phảm/Giáo Sĩ cũng nên khuyến khích những giáo dân hiểu biết về giáo lí với khả năng lãnh đạo và có tinh thần trách nhiệm đến huấn luyện những phong trào, hội đoàn giáo dân. Có những phong trào / hội đoàn mà linh mục chỉ nên đóng vai trò tuyên úy và cố vấn để cho giáo dân có dịp lãnh trách nhiệm. Cứ xem giáo dân Công Giáo Đại Hàn đã đang góp phần vào việc truyền giáo và giáo dục của đất nước họ như thế nào. Theo từ điển Bách khoa Toàn Thư Wikipidia, thì vào năm 1603 Công Giáo được môt nhà ngoại giao Cao Li có tên là Yi Gwang-jeong ở Bắc Kinh đem du nhập vào Cao Li (Triều Tiên, Đại Hàn, Hàn Quốc), chứ không phải do hàng giáo sĩ truyền giáo từ ngoại quốc. Đến cuối năm 2012, dân số Công Giáo Hàn Quốc đạt khoảng 5.3 triệu giáo dân. Năm 2000, Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc gửi đi số giáo dân truyền giáo tương đương với số dân Tin Lành Hàn Quốc truyền giáo là hơn 10.000 (mười ngàn) nhà truyền giáo đến hơn 150 quốc gia trên thế giới. Như vậy bao giờ người giáo dân Công Giáo Việt Nam mới theo kịp người giáo dân Công Giáo Hàn Quốc?
Tại những trung tâm tĩnh huấn-hội thảo nên thiết lập hoặc ngăn chia nhà lớn thành những phòng nhỏ, nhà nguyện nhỏ bằng tường bất động hoặc di động cho những nhóm nhỏ, ngay cả cá nhân đến tĩnh tâm, cấm phòng, học hỏi, hội thải suốt năm, thay vì chỉ tổ chức một vài lần trong năm theo số đông cấp giáo phận. Đi một mình hay theo nhóm nhỏ, người ta mới có dịp ở một mình với Chúa, để tạ ơn, tạ tội và xin ơn, hoặc tìm những giờ phút hồi tâm cho tâm hồn lắng đọng thay vì chỉ tổ chức cho những nhóm lớn cấp giáo phận đến cầu nguyện, ca hát lớn tiếng, mà ơn thánh khó gây tác động trong tâm hồn cá nhân được. Giờ phút mà người ta được ơn Trên tác động tâm hồn và biến đổi đời sống là những giờ phút thinh lặng, khi ở một mình với Chúa, có thể trong một góc xó nhà thờ, nhà nguyện nào đó cho tâm hồn lắng đọng thì mới có đáp trả. Để cho tâm hồn lắng đọng, người ta cần những giờ phút tĩnh mịch, không bị ngoại cảnh gồm cả cảnh người chi phối. Khi tâm hồn lắng đọng người ta mới có thể suy tư về thân phận làm người, về những việc sai trái, tội lỗi mà người ta đã làm súc phạm đến Đấng mà họ tôn thờ và súc phạm đến người xung quanh để khơi dậy tâm tình sám hối. Phải nói rằng trong thời đại này và trong hoàn cảnh xã hội hiện tại, người ta phạm rất nhiều thứ tội và cần phải sám hối để xin được ơn thương xót. Năm nay cũng là Năm Thánh lòng Chúa thương xót nữa. Tâm tình sám hối là bước khởi đầu cho tiến trình hoán cải tâm hồn và biến đổi đời sống. Có được tâm tình sám hối, người ta mới cảm thấy nhu cầu cần Chúa và tin Chúa trong con tim thay vì chỉ tin trong đầu óc. Có được tâm tình sám hối, người ta mới cảm thấy vui sống đức tin. Thiên Chúa thường nói với loài người trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng, người ta mới dễ dàng nghe được tiếng Chúa và nghe tiếng lòng mình để đáp trả. Đó là hoa quả thực sự của việc đi tĩnh tâm, cấm phòng.
Đó cũng phải là hoa quả của việc đi hành hương đến những nơi hành hương thực sự, chứ không phải chỉ nhắm việc củng cố một đức tin liên đới, tập thể. Và đó là điều Đức Phanxicô nhấn mạnh khi Ngài “ Bác bỏ quan niệm sai lầm cho rằng trong cuộc hành hương người ta chỉ sống một thứ linh đạo ‘tập thể’ chứ không có tính chất bản thân. ‘Trong thực tế, người hành hương mang trong mình lịch sử riêng, đức tin với những điểm sáng điểm tối của cuộc đời. Mỗi người mang trong con tim ước muốn đặc thù và một kinh nguyện riêng... Đền thánh thực sự là một môi trường ưu tiên để gặp gỡ Thiên Chúa và đụng chạm đến lòng thương xót của Chúa.’ [A].
Tổ chức mừng lễ nọ, kỉ niệm lễ kia
Thấy giáo phận, dòng tu, giáo xứ này tổ chức hành hương, đại hội kính Mẹ dưới những tước hiệu này nọ, mang lại thành qủa - có nơi mang lại rất nhiều thành quả mỗi năm trong vòng nhiều năm -, thì giáo phận, dòng tu, giáo xứ khác cũng tổ chức đại hội kính Mẹ dưới những tước hiệu nọ kia. Có thứ thành quả dễ thấy, còn có thứ thành quả lại khó thấy. Thành quả dễ thấy sẽ làm cho người ta hứng khởi để tiếp tục tổ chức to lớn hơn với hi vọng được thành quả lớn hơn. Điều đó có thể tạo ra sự so sánh và cạnh tranh giữa những dòng tu, giáo xứ và giáo phận. Do đó trước đại hội, người ta thấy ban tổ chức gửi thư mời cả hai, ba vị ‘giáo chủ’ với hi vọng quí Ngài đến, chỉ cần bận áo lễ thụng, đầu đội mũ hàm ếch, một tay chống gậy dài, mặt quay phải rồi quay trái, tay kia giơ cao ban phép lành theo hướng quay của đầu và mặt là đủ, mà có khi không cần phải giảng. Nói đến việc chống gậy, người ta thấy có những vị giáo chủ hơi thấp mà dùng gậy quá dài, nên khi cầm gậy thì tay cứ phải với lên gần đầu gậy. Để cho cân xứng thì đầu gậy phải ngang bằng với đầu người hay cùng lắm ngang bằng với chỏm mũ hàm ếch là vừa. Còn nói đến cách cầm gậy thì cũng có sự khác biệt giữa giáo chủ sở tại và giáo chủ khách đấy. Giáo chủ chủ nhà thì cầm gậy sao cho hướng bẻ cong của đầu gậy hướng về phía giáo dân. Còn giáa chủ khách thì cho hướng bẻ cong của đầu gậy quay về mình. Tuy nhiên giáo dân đâu có phân biệt, và có những giáo chủ cũng không cần để ý đâu..
Rồi trong bao thư gửi đi mời, còn thấy có bao thư hồi đáp với địa chỉ in sẵn. Có khi còn dán tem trước như là nhắm bỏ ra con tép để bắt con tôm. Cũng lạ là trong dịp tổ chức đại hội kính Đức Mẹ mà thấy thế nào cũng phải quảng cáo chương trình văn nghệ và cả văn gừng, mặc dầu dịp này không phải là buổi trình diễn văn nghệ. Theo ban tổ chức thì đây, không phải kiểu văn nghệ bỏ túi với lối hoá trang và trình diễn có vẻ tếu cho vui, nhưng là có ban nhạc sống, thêm vào với mấy hình nữ ca sĩ trẻ đẹp. Nếu gặp mặt trong đời thường thì không biết thế nào, nhưng trông vào hình quảng cáo thì thấy cũng có vẻ trẻ đẹp đấy. Ban nhạc sống và ca sĩ chưa trình diễn mà có hình như là đã diễn rồi. Để nhắm vào giới tham dự viên mạnh thường quân, ban tổ chức còn quảng cáo khách sạn 5 sao nữa đấy. Vậy ban tổ chức cho tổ chức để làm gì? Đã có những linh mục và giáo dân viết trả lời để làm gì rồi. Độc giả cũng đoán được để làm gì rồi.
Những dịp mừng lễ nọ lễ kia đặc biệt của một giáo xứ, một nhà dòng, một giáo phận mà ban tổ chức coi như là dịp mừng của toàn thể tập thể lớn nên cũng mời toàn thể. Mời toàn thể một vài lần đến chung vui thì có thể hiểu được. Còn hàng năm mà gửi giấy mời khách từ ngoài nhà dòng, ngoài giáo xứ, ngoài giáo phận, có thể tạo ra vấn đề với những nhà dòng, giáo xứ, giáo phận khác liên quan đến lợi ích chung của tập thể lớn.. Riêng việc mời người quen biết hay bạn hữu ở ngoài nhà dòng /giáo xứ / giáo phận thì lại là chuyện người ta thường làm, không ai đặt vấn đề. Còn những khách không được mời, mà đến dự thì dĩ nhiên họ cũng phải được đón tiếp rồi.
Thường người ta chỉ tổ chức mừng lớn dịp kỉ niệm 25 năm, 50 năm thành lập giáo xứ. Vậy mà có những giáo xứ còn tổ chức mừng lớn và rất lớn cả dịp 30 năm, 35 năm, 40 năm, 45 năm nữa. Không may có giáo xứ kia báo cáo bị lỗ rất nặng trong dịp mừng giữa 25 năm và 50 năm mặc dầu nghe nói mong có lời lớn.
Giữ đạo theo kiểu khoe-phô-diễn
Trong những buổi tổ chức lễ nọ lễ kia có tầm vóc giáo phận hay cả nước, người ta thấy có vẻ nặng phần trình diễn theo kiểu lễ hội hơn là lễ nghi thờ phượng và cảm tạ. Người ta nhắm vào việc rước sách với kèn tây, trống ta, những màn dâng của lễ, dâng hoa nến với những màn múa, màn vũ có vẻ đẹp mắt. Người tham dự cũng như người coi lại video / youtube chiếu trên màn ảnh thấy vui tai đẹp mắt. Tuy nhiên xem những màn trình diễn như vậy giống như hiện tượng coi pháo bông vậy. Coi pháo bông thì đẹp mắt, nhưng rất mau tàn.
Chẳng hạn trong thánh lễ đồng tế mừng dịp đặc biệt của tập thể Công Giáo VN hải ngoại kia, người ta thấy lễ nghi kéo dài đúng 3 tiếng đồng hồ từ 10 giờ sáng tới 1 giờ trưa với nhiều màn ngoại lệ thêm vào. Chẳng hạn những bài thánh ca trong thánh lễ được lặp đi lặp lại câu chung, còn câu riêng được ca viên thay nhau hát solo. Ca hiệp lễ thì hát đến hai ba bài. Lúc dâng lễ vật lại còn có màn vũ giống như là dâng hoa trong tháng hoa vậy. Phần giới thiệu đầu lễ và cuối lễ thì rất dài dòng văn tự. Khi giới thiệu đến từng nhân vật vị vọng, người giới thiệu còn xin cử toạ một tràng pháo tay cho nhân vật đó, thay vì để cử toạ vỗ thay tự phát, hoặc xin cử toạ kiềm chế để vỗ tay chung một lần vào cuối phần giới thiệu. Có những nhân vật được giới thiệu dùng cơ hội “ngàn năm một thuở” để nói mấy lời, mà lại ra nhiều lời. Cuối cùng lễ cũng đến hồi hạ màn. Khi ra ngoài, người ta nghe lỏm được mấy linh mục cũng như giáo dân than: “Kiến đang bò bụng” rồi. Sánh với lễ Đức Giáo Hoàng Benedictô cử hành tại sân vận động quốc gia ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào năm 2008 thì chỉ kéo dài đúng 2 tiếng đồng hồ mà thôi.
Trong lễ nghi thờ phượng công cộng thì tất cả mọi thừa tác viên thi hành những phần phụng phụng vụ khác nhau phải tâm niệm rằng họ chỉ là dụng cụ để đưa người khác đến với Chúa, chứ không để người khác khen và dừng lại nơi họ vì họ cũng phải tham gia vào việc thờ phượng. Nếu có ai khen tài năng nào của họ khi họ thi hành phần phụng vụ thờ phượng, thì họ cũng như người khen tài năng của họ, phải tâm niệm rằng người khen thực ra là ca tụng Đấng đã ban tài năng cho người thi thố tài năng.
Những tư tưởng trích đăng phê bình những kiểu khoe-phô-diễn đạo.
Nếu có chuyện khoe đạo, thì cũng có những chuyện khoe văn hoá, kinh tế, mĩ thuật, kĩ thuật, và khoa học. Khi mà người ta thấy hoặc cảm thấy mình còn nghèo, không có hay chưa có thực lực, hoặc quốc gia mình còn lạc hậu về kinh tế, kĩ thuật, khoa học, quân sự, thì người ta muốn tổ chức việc nọ chuyện kia cho to lớn, nghĩa là làm cho hơn lên theo luật bù trừ, để bù lại những cái mà người ta chưa có hay còn thua kém. Trái lại khi người ta có thực lực về phưong diện nào đó rồi, người ta lại không cần khoe khoang, phô trương và trình diễn diễn. Những việc làm liên quan đến việc khoe-phô-diễn đã được một số tác giả mổ xẻ trong những bài viết khác nhau sau đây.
Trong một bài viết, linh mục Trần Bình Trọng bình luận về việc tổ chức Đại Lễ 1000 năm Thăng Long như sau: “Vào dịp tổ chức mừng Đại Lể 1000 năm Thăng Long – Hà Nội từ 1-10/10/ 2010, báo chí trong Nước gồm Báo Lao Động (số ra ngày 14/10/2010), báo Công An Nhân Dân (xuất bản 16/10/2010), cũng như ngoài nước và giới blogger đưa ra những nhận xét được tóm gọn bằng những từ ngữ tựu trung như: phô trương, tốn kém, lãng phí, loè loẹt, vụng về, lai căng ‘Tầu’, kéo dài quá đến cả 10 ngày là không thiết thực, không nhắm đến thực tại của cuộc sống người dân nhất là ở miền quê vẫn còn nghèo đói... Có nhà báo nhắc lại kiểu nói của báo chí về việc phô trương là do kết quả của ‘Văn hoá lùn, nên cái gì cũng phải muốn thật to, thật hoành tráng, thật xa xỉ, thật nhiều theo kiểu có bao nhiêu thì phô ra bằng hết’-” [1].
Theo sau, linh mục tác giả viết tiếp: “Rồi đến việc tổ chức Đại Hội Dân Chúa 2010 ngày 21-25/11/2010 mừng Năm Thánh 2010, kỉ niệm 350 năm thiết lập Giáo Phận Đàng Trong và Đàng Ngoài tại Việt Nam năm 1659 và 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam năm 1960 diễn ra có vẻ lớp lang thứ tự theo sát chương trình. Tuy nhiên cũng không thiếu lời phê bình như ‘ồn ào’, đại diện giáo dân thì quá khiêm tốn và những đề tài tham luận lại do đa số hàng giáo phẩm trình bày để học hỏi thì có vẻ cao siêu, xa vời, không thiết thực với giáo dân…
Còn chương trình Đại Lễ bế mạc Năm Thánh tại La Vang 4-6/01/2011 thì lại nhấn mạnh đến hình thức trình diễn, phô trương. Phải chăng kiểu nói ‘văn hoá lùn’ mà báo chí bàn đến trong việc tổ chức Ngàn Năm Thăng Long cũng đã được áp dụng trong việc tổ chức mừng Năm Thánh 2010 tại đây? Người đến dự và người xem Đại Hội Dân Chúa cũng như Đại Lễ bế mạc Năm Thánh trên mạng thấy có vẻ hoành tráng, đẹp mắt, vui tai. Tuy nhiên người ta cũng thấy có vẻ chú tâm đến việc săn đón, chăm sóc thượng khách đạo đời”. [2]
Trong lời bình luận về cách đón tiếp Hồng Y Filoni, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo sang thăm Việt Nam năm 2015, tác giả Gia Vị viết: “Quan sát thấy việc tiếp đón tại những địa phương khác nhau hình như có vẻ săn đón, chăm sóc, nặng vẻ trình diễn và có vẻ khoe đạo với những hội đoàn bận đồng phục đứng làm hàng chào danh dự, với kèn trống, những màn rước sách, che lọng và tặng những bó hoa đẹp mắt, rồi thăm những nhà thờ, những toà nhà mới mẻ và rộng lớn. Nơi có nhiều thì khoe nhiều, nơi có ít khoe ít [3].
Nhận xét về phương diện khác trong bài trên, Gia Vị viết tiếp: “Ý hướng quá quan tâm về việc làm vui lòng khách, cộng với óc vọng ngoại khiến chủ nhà có thể bầy tỏ những cử chỉ săn đón và chăm sóc khách, như có vẻ khép nép và khúm núm mà đương sự có thể không ý thức được chăng? Tuy nhiên người coi có thể cho đó là làm mất sĩ diện dân tộc khi chủ nhà đại diện cho một khối người nào đó”. [4].
Tham dự nghi thức khai mạc Năm Đức Tin của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam ở một giáo phận kia với những toà nhà đồ sộ mới xây cất và lễ nghi khai mạc có vẻ quen thuộc, mà lại lạ lẫm như hồi trống hiệu triệu, TGM Leopoldo Girelli có lời huấn từ: “Niềm tin chân chính không được dừng lại ở những nghi thức bên ngoài, nhưng phải có chiều sâu” [5].
Bình luận về huấn từ của TGM Girelli, tác giả Gia Nhân viết: “ Có lẽ huấn từ này không hẳn như là áp dụng chung cho mọi người Công giáo trên thế giới. Đức TGM đã có dịp quan sát và ghi nhận những lần đến thăm mục vụ hầu hết các giáo phận Việt Nam từ hơn một năm qua - có mấy Giáo phận Ngài đã đến thăm hơn một lần. Chắc TGM Girelli đã chứng kiến những hình ảnh tổ chức tiếp đón Ngài cách rầm rộ cũng như những lần tham dự những buổi lễ long trọng với những nghi thức bên ngoài, nên mới có huấn từ như vậy. Quảng diễn huấn từ của Tổng Giám mục Girelli, người ta cũng có thể nói thêm rằng niềm tin chân chính cần tránh việc giữ đạo hình thức, trình diễn và phô trương cũng như những kiểu giới thiệu bốc thơm nhau quá lố”. [6].
Trong bài phỏng vấn một giám mục khi đề nghị thiết lập giáo phận Hà Tuyên” do Phóng Viên của WHĐ thực hiện, tác giả Gia Nhân có lời bình luận cuối bài phỏng vấn như sau: “Không biết vào thời buổi nào đã nảy sinh ra tiền lệ cho viên chức thuộc cấp bậc lớn nhỏ của Tôn Giáo cũng như cấp bậc lớn nhỏ của Nhà Nước đến chúc Tết và chúc mừng Noel lẫn nhau.. Mà chúc mừng lẫn nhau như vậy đâu phải chỉ bằng lời chúc suông thôi, mà còn phải có gì đi kèm nữa thì người ta mới vui. Nếu làm thủ tục ‘đầu tiên’ mà không đúng kiểu thì sợ rằng không được việc” [7].
Trong Nhật kí Hội Nghị Thường Niên Kì 2 / 2012 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kỳ 3 / 2012, độc giả đọc được Nhật Kí về việc mời các giám mục đại diện các Hội Đồng Giám Mục Á Châu đến dự Hội Nghị khoáng đại của Liên HĐGMAC tháng 11/2012 tại Xuân Lộc và Sài Gòn ghi lại như sau: “Các Đức cha chủ nhà đón tiếp thay mặt HĐGMVN mong muốn tổ chức chuẩn bị thật chu đáo để bày tỏ lòng quý trọng khách, nhưng sao cho không quá sang trọng” [8].
Bình luận về đề nghị tổ chức đón tiếp Hội Đồng Giám Mục Á Châu, tác giả Gia Nhân viết: “Tổ chức một buổi lễ tôn giáo cho sang trọng có hẳn là đem lại lợi ích thiêng liêng cho người tham dự không? Mà sang trọng thì dễ đưa đến việc trình diễn và phô trương đấy. Có lẽ có những giám mục Á Châu sẽ đến dự Liên Hội Đồng GM Châu Á tại Xuân Lộc và Sài Gòn không quen kiểu đón tiếp sang trọng đâu mà phải tổ chức cho sang trọng” [9].
Nghe nói linh mục Ngô Tôn Huấn (LM / NTH) cũng đã viết khá nhiều bài mổ xẻ, phê bình những lạm dụng cũng như những áp dụng ngoài lề lối Phúc âm. Tác giả bài này chỉ có dịp đọc một số bài của LM / NTH, nghĩa là chỉ có dịp ‘văn kì thanh’ mà ‘bất kiến kì hình’, thì thấy linh mục Họ Ngô có lối viết văn bình luận thẳng thừng, dùng kiểu nói bình dân gọi là ‘nói toạc móng heo’ ra. Để đọc những bài viết của linh mục họ Ngô, độc giả có thể vào Google, rồi đánh máy tên của tác giả họ Ngô, sẽ thấy nhiều bài của tác giả họ Ngô viết trên mạng. [10]
Đọc bài những lời của một vị Tổng GM trả lời phỏng vấn của WHĐ và WGPSG, Tác giả Gia Nhân viết: “Xin cám ơn Đức Cha … đã nhắc đến ý niệm ‘Sentire cum Ecclesia’ (Đồng cảm với Giáo hội). Đồng cảm hay thông hiệp với Giáo hội là ý niệm mà mọi thành phần Công giáo: giáo sĩ cũng như giáo dân cần phải có. Thông hiệp là đặc điểm của Giáo hội Công giáo. Những đoàn thể, tổ chức chình trị, xã hội có sự hiệp nhất bằng cách gia nhập, nhưng không có sự thông hiệp. Thông hiệp bao hàm sự hiệp nhất, thông phần và cảm thông bằng tình cảm, bằng ước muốn, bằng lời cầu nguyện, bằng ơn thánh. Chẳng hạn khi gặp chuyện vui, chuyện buồn, gặp điều lo âu hay dấu hi vọng trong Giáo hội thì giáo sĩ cũng như giáo dân đều thông hiệp và cảm thông như thánh Phaolô dạy: ‘Vui với người vui, khóc với người khóc’-” (Rm 12:15). [11].
Trong bài phỏng vấn, Ngài Tổng Giám mục phê bình những người đứng ngoài Giáo Hội mà phê phán, thì Gia Nhân góp ý thêm với Đức Tổng như sau:“Đức Cha lưu ý là ‘Không nên đứng ngoài Giáo Hội mà phê phán vì như vậy là phê phán chính mình’. Tuy nhiên không phải vì thế mà tránh né việc phê phán. Không phải cái gì cũng phê phán, nhưng có những điều cần phải phê phán. Những người phê phán không phải họ ở ngoài Giáo hội, nhưng là những vị giáo sĩ cũng như giáo dân, ở trong Giáo hội, hiệp thông với Giáo hội và quan tâm đến sự phát triển của Giáo hội. Họ không phê phán Giáo Hội, nhưng là phê phán những lời nói hay việc làm sai trái, làm chướng tai gai mắt của những cá nhân trong Giáo hội, gây thiệt hại cho Giáo Hội. Những lời phê phán đó khiến những ai ‘có tật thì giật mình’ mà sửa đổi và giúp người khác xa tránh. Theo Tổng Giám mục …, thì những người ở ngoài Giáo hội mà phê phán là ‘phê phán chính mình’. Như vậy không được phê phán chính mình hay sao? Nếu cần người ta cũng phải tự kiểm thảo và phê phán chính mình nữa, chứ không phải sợ hãi gì đó hay sợ sự thật mà im lặng. Tự kiểm để phê phán chính mình thì mới cải thiện được”.[12].
Chưa hết, Gia Nhân còn viết thêm: “Đức Giáo Hoàng Gioan Phalô II đã nhiều lần (hơn 9 lần) lên tiếng xin lỗi một số nhóm người trên thế giới về những việc làm bất chính / bất công trong quá khứ của Giáo hội hoặc những thành phần trong Giáo Hội. Xin lỗi là công nhận mình có lỗi hoặc người tiền nhiệm hay người thừa hành làm lỗi để được bỏ qua. Nếu không người ta sẽ uẫn ức khiến cho mối liên hệ của những bên liên hệ bị cản trở, không phát triển được”. [13].
Khi nại đến Giáo Hoàng Phanxicô là vị đã nhiều lần phê bình những lạm dụng trong Giáo Hội, ngay cả Giáo triều Roma, Gia Nhân viết thêm: “Giả sử họ biết được ’15 căn bệnh của Giáo Triều Rôma, mà Đức Phanxicô đề cập đến, áp dụng cho cả cấp địa phương là giáo phận, dòng tu nam nữ, giáo xứ, hội đoàn Công Giáo Tiến hành.. chắc lòng kính mến của họ cũng phải giảm xuống nhiều đấy”. [14].
Nếu có ai hỏi tại sao không nói nhỏ (phê bình, phê phán) để ‘đóng cửa bảo nhau’. Thưa rằng nói nhỏ, người ta sẽ bỏ ngoài tai. Phải nói cho người khác nghe, người ta mới lưu ý và người khác mới tránh được vết xe cũ. Theo kinh nghiệm của nhiều người thì “đóng cửa bảo nhau” không có hiệu quả. Phải đem ra ánh sáng, người ta mới giật mình. Trong một quốc gia mà có hơn một đảng phái chính trị - hai hoặc ba hoặc bốn- , thì mỗi đảng phái phải điều chỉnh cương lĩnh của đảng, sao cho dân cảm thấy hấp dẫn và chỉnh đốn đường lối cai trị sao cho vừa lòng dân. Khi có những việc làm bê bối của một đảng phái được thực hiện trong bóng tối, thì đảng kia tìm cách đem ra ánh sáng, để hai đảng cạnh tranh nhau thì xã hội mới tiến được.
Chính Đức Kitô trong Phúc Âm cũng dạy về sự cần thiết của việc phê bình khi người anh em phạm lỗi. Giai đoạn một là sửa riêng người súc phạm, nhằm tránh làm mất mặt đương sự. Giai đoạn hai là gọi hai người làm chứng để thuyết phục phạm nhân. Giai đoạn ba là đưa vấn đề ra trình bày trước cộng đồng tín hữu, để bảo toàn sức khoẻ tâm linh của cá nhân cũng như cộng đoàn (Mt 18:15-16).
Bàn về cái khó của việc phê bình, linh mục Trần Bình Trọng viết trong một bài suy niệm Phúc Âm như sau: “Nếu thời đại mà người ta đang sống là thời đại buông thả thì người ta coi nhẹ việc sửa bảo. Sống trong một văn hoá đề cao chủ nghĩa cá nhân, thì người ta thường không muốn sửa bảo, nhưng để mặc kệ người khác: ‘ai có thân nấy lo’. Sống trong một xã hội mà văn hoá của xã hội đó thiên về nhậy cảm, hoặc sống vào thời đại mà văn hoá của thời đại đó trở nên nhậy cảm, thì việc sửa bảo khó lòng được chấp nhận. Gặp người có tự ái cao, thì người muốn sửa bảo, cũng phải dè dặt khi nói động đến ‘chân tơ kẽ tóc’ của họ, vì sợ họ ‘nổi da gà’ hay ‘rợn tóc gáy’-” [15].
Chưa hết, linh mục họ Trần còn viết thêm: “Một trong những điều khó khăn mà người ta gặp trong việc giao tế hàng ngày là khi phải nói ra cho ai, điều mà họ không muốn nghe. Nếu trong gia đình mà từ nhỏ cha mẹ có khuynh hướng bênh con, thì sau này con cái có thể không muốn chấp nhận lỗi lầm, nhưng tìm cách biện hộ” [16].
Để kết luận, tác giả bài viết này muốn dùng lời nhận xét của tác giả Gia Vị viết về một linh mục đã truyền giáo ở miền Sông Nước nhiều năm, mà không vội vã xây cất nhà thờ như sau: “Về việc khoe đạo thì một linh mục VN kia có lối truyền giáo bình dân ở miền Sông Nước, được giới đàn ông chít khăn mỏ quạ, miệng rít thuốc rê, thở khói ra phì phào qua miệng, qua mũi, qua cả lỗ tai và giới các bà bận quần áo bà ba, trùm khăn ca-rô trên đầu, miệng nhai trầu cau tóm tém, gọi linh mục đó một cách thân tình là: ‘Anh Tám H’. Có lần ‘Anh Tám H’ nhận định trong bài giảng tại một Nhà thờ chính toà của một tổng giáo phận lớn kia thế này: ‘Khoe đạo chỉ khiến cho người ngoài đạo ghét đạo mà thôi’-” [17].
Vậy phải chăng có ai theo đạo mà muốn cho người ta ghét đạo đâu nhỉ?.
Lm Trần Bình Trọng
*****
[A]. G. Trần Đức Anh OP. Đức Thánh Cha đề cao tầm quan trọng của việc hành hương: www.mucvuvanbut.net: Tin Giáo Hôọi hoàn vũ 2016-01-23.
[1]. Lm Trần Bình Trọng. Giữ đạo tại tâm / khép kín hay giữ đạo hình thức / cảm giác: www.mucvuvanbut.net : Bài Viết của tác giả Trang Chủ 2011-11-16.
[2]. Ibid như [1]
[3]. G. Trần Đức Anh, OP. Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo, rất hài lòng về chuyến viếng thăm Việt Nam:www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2015.01-28.
[4]. Ibid như [3]
[5]. WHD. Nghi thức và Thánh lễ khai mạc Năm Đức Tin của Giáo Hội Việt Nam: www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2012-10-16.
[6]. Ibid như [5]
[7]. Phóng Viên WHĐ. Phỏng vấn Đức Cha Gioan Vũ Tất về đề nghị thiết lập giáo phận Hà Tuyên: www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2013-04-13.
[8]. WHĐ. Nhật ký Hội Nghị Thường niên Kỳ II-2012 Hội Đồng GMVN (8-12/10/2012 (kỳ 3): www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2012-10-11.
[9]. Ibid như [8]
[10]. Ngô Tôn Huấn. Để đọc những bài liên quan đến đề tài của bài này của Lm Ngô Tôn Huần, có thể vào Google, rồi đánh máy Ngô Tôn Huấn, Linh Mục Ngô Tôn Huấn, LM PX Ngô Tôn Huấn, Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
[11]. WHĐ. ‘Yêu mến và Phúc âm hoá với nhiệt tình mới’: www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2012-12-27
[12]. Ibid [11]
[13]. Ibid như [11]
[14]. Ibid như [3].
[15]. Trần Bình Trọng. Sửa đổi theo lời Chúa dạy: Chúa Nhật 23 Thường Niên trong Hằng tuần Chúa Nói Với Ta – Ta Đáp Trả Lời Chúa, Năm A. Đăng kí tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kì: J. Trần Bình Trọng. ISBN: 1-932708-20-0. Xuất Bản & Phát Hành: Trần Bình Trọng với sự cộng tác của Nhà Xuất Nản Tin Vui Media & Tuoihoa Publishing. Copyright © 2007.
[16]. Ibid như [15]
[17]. Ibid như [1]
Khoe-phô-diễn đạo là khoe khoang đạo, phô trương đạo và trình diễn đạo. Khi bàn về một ý niệm hoặc vấn đề gì, thì đều có hai ba chiều: chiều này, chiều nọ và chiều kia. Ngay trong một gia đình cũng có người thế này, người thế nọ, người thế kia.
Đứng trước những giá trị khác nhau của cuộc sống, người ta cần tìm hiểu, phân giải và đánh giá sự vật để lựa chọn, xem người ta phải chọn lựa giá trị nào và lựa chọn thế nào cho phù hợp với lí tưởng đang theo đuổi – đối với người Kitô giáo thì cho hợp với giá trị Phúc Âm -, mặc dầu theo khuynh hướng tự nhiên, người ta muốn lựa chọn khác đi. Lựa chọn của thế hệ hiện tại sẽ ảnh hưởng đến những lựa chọn của những thế hệ tương lai.
Xây cất nhà thờ, hội trường, trung tâm này nọ
Sau bao nhiêu năm bị thời gian sói mòn, thời tiết làm hư hỏng, chiến tranh tàn phá, thêm vào đó còn có những cơ sở tôn giáo bị trưng dụng, thì nhà thờ cần được sửa sang hoặc xây cất lại. Từ khi nền kinh tế được đổi mới, rồi phát triển và có nguồn tài trợ của Việt kiều hải ngoại, thì Giáo Hội cần sửa sang, xây cất lại là điều phải lẽ. Tuy nhiên sau đó người ta thấy có hiện tượng đua đòi xây cất. Ngay cả một số dòng tu với lời khấn nghèo khó cũng xây cất mà không biết có hợp tiêu chuẩn nghèo khó không? Mỗi dòng tu có tiêu chuẩn sống nghèo khác nhau và nhu cầu khác nhau nên người viết chỉ đặt câu hỏi, mà không quyết đoán. Vấn đề đua nhau xây cất đã có những bài viết bàn đến. Theo những bài viết ghi lại thì có nhà thờ còn vững chắc, đã bị đập phá đi để xây cất lại. Có nhà thờ không phải nhà thờ chính toà, mà xây cất lại với lối kiến trúc đồ sộ, chi tiết cầu kì, cổ kính như bên Âu Châu thời Trung Cổ. Có nhà thờ xây cất toàn bằng bêtông giống như kiểu lô cốt. Lại có những nhà thờ xây, không theo tiêu chuẩn xây cất, không phù hợp với nhu cầu giáo dân hoặc người xử dụng. Không những nhà thờ mà còn có cả toà tư dinh ‘giáo chủ’, nhà nguyện toà ‘giáo chủ’, công trường toà ‘giáo chủ’, cũng được xây cất đồ sộ, nguy nga như một cung điện. Nghe nói hôm ăn mừng khánh thành, có những món rất ư là đặc biệt, đem từ xa hơn ngàn cây số tới, mà không ướp đá hay để đông lạnh, khiến nhiều khách được mời gồm cả những vị tai to mặt lớn trong Giáo Hội tưởng bở là của ngon vật lạ, liền xơi vào, nên bị tào tháo đuổi. Không biết có vị nào chạy kịp không, hoặc có vị nào chạy mà không tìm được phòng ẩn náu không? Rồi không biết người nghèo có dám bén bảng tới không?
Chúa Cứu thế sinh ra nơi hang bò lừa nên người nghèo mới dám đến với Chúa đấy. Khi Thánh Phanxicô khó nghèo quì cầu nguyện, nghe tiếng phán bảo: “Hãy xây lại nhà của Ta”. Tưởng là phải xây lại nhà theo nghĩa đen, thánh nhân bèn cho xây lại nhà thờ Thánh Damianô và mấy nhà thờ gần kề. Sau khi làm việc cực nhọc trong việc xây cất, Thánh Phanxicô mới nhận ra phải xây lại nhà của Giáo Hội Chúa, theo ý nghĩa thiêng liêng, trong tâm hồn người tín hữu. Tại sao Đức Phanxicô lại lấy tên của vị thánh này làm danh hiệu cho triều đại Giáo Hoàng của Ngài? Thiết tưởng độc giả đã có câu trả lời.
Xây cất trung tâm hành hương nọ kia để đi hành hương
Theo truyền thống lâu đời của Giáo Hội, thì địa điểm hành hương là nơi được coi là mang dấu thánh tích. Đất Thánh là nơi Đấng Cứu Thế đã giáng sinh, sinh sống, giảng dạy, chịu khổ hình, tử nạn và phục sinh. Toà Thánh La Mã là nơi hai Thánh Phêrô, Phaolô, các thánh tông đồ và hàng ngàn tín hữu tử đạo vì đức tin vào Đấng Cứu thế. Lộ Đức bên Pháp Quốc là nơi Đức Mẹ hiện ra mười tám lần vào năm 1858 với Bernadette, một thiếu nữ nghèo nàn, lại yếu sức khoẻ, mắc bệnh dịch và chứng xuất huyết. Trong những lần hiện ra, Đức Mẹ bảo Bernadette truyền bá sứ điệp: “Cải thiện đời sống và năng cầu nguyện, đặc biệt cầu nguyện theo chuỗi kinh Mân Côi cho người có tội trở lại”. Lần hiện ra thứ mười sáu, Đức Mẹ nói: “Ta là Đấng Đầu Thai Vô Nhiễm (Que Soy Era Immaculada Concepcion)”. Fatima tại Bồ Đào Nha là nơi Đức Mẹ hiện ra năm lần vào năm 1917 với ba em: Lucia (10 tuổi) và hai em họ là Phanxicô (9 tuổi) và Jacinta (7 tuổi) đang chăn cừu trên sườn đồi Cova. Mẹ kêu gọi các em truyền bá việc cầu nguyện, đặc biệt theo chuỗi kinh Mân côi, hoán cải tâm hồn, sám hối tội lỗi, và tôn sùng Trái tim Mẹ. Tại Việt Nam năm 1798, Ðức Mẹ hiện ra ở La Vang để an ủi, khích lệ giáo hữu bị bách hại vì đức tin dưới thời Vua Cảnh Thịnh. Ba sứ điệp Đức Mẹ dạy ở La Vang là: “(1) Các con hãy tin tưởng, hãy vui chịu đau khổ. (2) Mẹ đã nhậm lời các con cầu xin. (3) Từ nay về sau, hễ ai đến kêu xin Mẹ ở nơi đây, họ sẽ được toại nguyện”. Ở một số nơi khác trên thế giới, Đức Mẹ cũng đã hiện ra với những lời nhắn nhủ khác nhau. Lại có những đền thánh là nơi mà ông thánh nọ bà thánh kia được coi là linh thiêng hay làm phép lạ.
Người tín hữu đi hành hương đến những đền thánh, nơi linh thiêng để sùng kính, cầu nguyện, tạ tội, tạ ơn, xin ơn nọ ơn kia như ơn được khỏi bệnh phần xác, phần hồn, phần tâm linh. Họ đến để học hỏi, để xin ơn đổi mới đức tin, đổi mới tâm hồn và đời sống. Đối với họ, hành hương cũng là dịp đi nghỉ hè cho thể xác, tâm trí được thư giãn.
Tuy nhiên, ngày nay khi nói đến hành hương, hình như nhiều người đã lạm dụng từ ngữ hành hương, nghĩa là đi đến một nhà thờ nào đó, không có gì khác biệt hẳn với những nhà thờ khác, ngoài ra chỉ là những nơi thờ phượng và cầu nguyện của giáo phận nọ kia thôi, mà người ta cũng gọi là đi hành hương. Người ta còn tự tác tạo ra những trung tâm hành hương, nghĩa là xây cất trung tâm hành hương để kính Đức Mẹ dưới một tước hiệu nào đó, hoặc để kính ông thánh nọ, bà thánh kia, từ con số không, nghĩa là thiết lập trung tâm hành hương từ đồng không mông quạnh, không có ghi dấu một tác động đức tin nào đã được bày tỏ tại đó, hay một hiện tượng lạ nào đã xẩy ra hoặc ơn huệ nào đã được ban phát tại đó. Có nơi để giới thiệu một trung tâm hành hương tự tạo, người ta còn mời tất cả các vị “giáo chủ” trong Nước đến tham quan. Rồi trong buổi lễ đặt viên đá xây cất, lại mời các vị đến nữa, có cả đại diện vị “Đại Giáo Chủ”. Rồi người ta phao tin năm sau vị “Đại Giáo Chủ” sẽ đến thăm nơi này. Người ta cho quay video buổi lễ hoành tráng đưa lên mạng cho cả cộng đồng mạng trên thế giới có thể coi. Về việc phô trương đạo như vậy trong thời buổi này, nếu không có một thế lực nào đó đứng sau lưng, với một thoả thuận nào đó, thì có làm đươc không? Trong những lễ nghi tôn giáo như vậy mà thấy có sự hiện diện của những nhân vật thế quyền với cả những lời phát biểu chúc mừng của họ nữa.
Làm gì khi không có trung tâm hành hương hay không hợp đề làm trung tâm hành hương.
Sau bao nhiêu năm vì hoàn cảnh chiến tranh, chính trị, xã hội khiến Giáo hội không còn những cơ sở giáo dục để giảng dạy, không những về học vấn, nhưng còn về giáo lí trong đạo và đường lối sống đạo.
Do đó có lẽ nên gọi những trung tâm đền đài mới xây cho cấp giáo phận là trung tâm tĩnh tâm, trung tâm tĩnh huấn, trung tâm cấm phòng, trung tâm hội thảo, trung tâm giáo dục hoặc trung tâm mục vụ, hoặc phối hợp hai từ ngữ kép ghép lại là trung tâm tĩnh huấn-hội thảo thì hợp lí hơn là trung tâm hành hương. Hai từ ngữ kép-ghép này có thể bao hàm nhiều chương trình, nhiều hoạt động mục vụ tại đó. Còn người tín hữu đến đó thì nên coi là đến để tĩnh tâm, huấn luyện, hội họp, thảo luận. Đó là điều hồng y Phạm Đình Tụng đã làm khi còn là Giám mục Bắc Ninh bằng cách đào tạo được một đội ngũ giáo lí viên trong Giáo Phận. Trông ngoại hình thì thấy Hồng Y Tụng không được đẹp trai mấy, nhưng đã có cái nhìn xa, trong thời buổi thiếu vắng hàng linh mục và nữ tu trong Giáo phận.
Người đến trung tâm này có thể ở hai, ba ngày hay cả tuần thay vì sáng đi tối về. Tại đây có thể tổ chức những buổi học hỏi giáo lí, hội thảo, tĩnh tâm cho giáo dân trong giáo xứ, liên giáo xứ, trong giáo phận hoặc liên giáo phận để những người đã đi dự về, gây ảnh hưởng đến người khác như men trong đấu bột. Trong thời gian huấn luyện để học hỏi, đôi khi nên chia nhóm lớn ra thành những nhóm nhỏ để những người nhát gan, hay mắc cở, thiếu tự tin, không quen nói trước công chúng có dịp cho ý kiến và chia sẻ. Có dịp chia sẻ và cho ý kiến, họ mới lên tinh thần, để khi về giáo xứ họ mới cảm thấy tự tin trong việc dạy giáo lí. Tại trung tâm này phải có nhà nguyện đặt Mình Thánh Chúa ngự để tham dự viên đến dự lễ, cầu nguyện và chầu Thánh Thể để xả lòng mình trước Đấng mà họ tôn thờ. Người đến dự cần trả một số tiền nào đó để giúp bảo trì trung tâm này. Tại trung tâm này cần đặt ban điều hành và lập quĩ riêng.
Tại đây hàng Giáo Phảm/Giáo Sĩ cũng nên khuyến khích những giáo dân hiểu biết về giáo lí với khả năng lãnh đạo và có tinh thần trách nhiệm đến huấn luyện những phong trào, hội đoàn giáo dân. Có những phong trào / hội đoàn mà linh mục chỉ nên đóng vai trò tuyên úy và cố vấn để cho giáo dân có dịp lãnh trách nhiệm. Cứ xem giáo dân Công Giáo Đại Hàn đã đang góp phần vào việc truyền giáo và giáo dục của đất nước họ như thế nào. Theo từ điển Bách khoa Toàn Thư Wikipidia, thì vào năm 1603 Công Giáo được môt nhà ngoại giao Cao Li có tên là Yi Gwang-jeong ở Bắc Kinh đem du nhập vào Cao Li (Triều Tiên, Đại Hàn, Hàn Quốc), chứ không phải do hàng giáo sĩ truyền giáo từ ngoại quốc. Đến cuối năm 2012, dân số Công Giáo Hàn Quốc đạt khoảng 5.3 triệu giáo dân. Năm 2000, Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc gửi đi số giáo dân truyền giáo tương đương với số dân Tin Lành Hàn Quốc truyền giáo là hơn 10.000 (mười ngàn) nhà truyền giáo đến hơn 150 quốc gia trên thế giới. Như vậy bao giờ người giáo dân Công Giáo Việt Nam mới theo kịp người giáo dân Công Giáo Hàn Quốc?
Tại những trung tâm tĩnh huấn-hội thảo nên thiết lập hoặc ngăn chia nhà lớn thành những phòng nhỏ, nhà nguyện nhỏ bằng tường bất động hoặc di động cho những nhóm nhỏ, ngay cả cá nhân đến tĩnh tâm, cấm phòng, học hỏi, hội thải suốt năm, thay vì chỉ tổ chức một vài lần trong năm theo số đông cấp giáo phận. Đi một mình hay theo nhóm nhỏ, người ta mới có dịp ở một mình với Chúa, để tạ ơn, tạ tội và xin ơn, hoặc tìm những giờ phút hồi tâm cho tâm hồn lắng đọng thay vì chỉ tổ chức cho những nhóm lớn cấp giáo phận đến cầu nguyện, ca hát lớn tiếng, mà ơn thánh khó gây tác động trong tâm hồn cá nhân được. Giờ phút mà người ta được ơn Trên tác động tâm hồn và biến đổi đời sống là những giờ phút thinh lặng, khi ở một mình với Chúa, có thể trong một góc xó nhà thờ, nhà nguyện nào đó cho tâm hồn lắng đọng thì mới có đáp trả. Để cho tâm hồn lắng đọng, người ta cần những giờ phút tĩnh mịch, không bị ngoại cảnh gồm cả cảnh người chi phối. Khi tâm hồn lắng đọng người ta mới có thể suy tư về thân phận làm người, về những việc sai trái, tội lỗi mà người ta đã làm súc phạm đến Đấng mà họ tôn thờ và súc phạm đến người xung quanh để khơi dậy tâm tình sám hối. Phải nói rằng trong thời đại này và trong hoàn cảnh xã hội hiện tại, người ta phạm rất nhiều thứ tội và cần phải sám hối để xin được ơn thương xót. Năm nay cũng là Năm Thánh lòng Chúa thương xót nữa. Tâm tình sám hối là bước khởi đầu cho tiến trình hoán cải tâm hồn và biến đổi đời sống. Có được tâm tình sám hối, người ta mới cảm thấy nhu cầu cần Chúa và tin Chúa trong con tim thay vì chỉ tin trong đầu óc. Có được tâm tình sám hối, người ta mới cảm thấy vui sống đức tin. Thiên Chúa thường nói với loài người trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng, người ta mới dễ dàng nghe được tiếng Chúa và nghe tiếng lòng mình để đáp trả. Đó là hoa quả thực sự của việc đi tĩnh tâm, cấm phòng.
Đó cũng phải là hoa quả của việc đi hành hương đến những nơi hành hương thực sự, chứ không phải chỉ nhắm việc củng cố một đức tin liên đới, tập thể. Và đó là điều Đức Phanxicô nhấn mạnh khi Ngài “ Bác bỏ quan niệm sai lầm cho rằng trong cuộc hành hương người ta chỉ sống một thứ linh đạo ‘tập thể’ chứ không có tính chất bản thân. ‘Trong thực tế, người hành hương mang trong mình lịch sử riêng, đức tin với những điểm sáng điểm tối của cuộc đời. Mỗi người mang trong con tim ước muốn đặc thù và một kinh nguyện riêng... Đền thánh thực sự là một môi trường ưu tiên để gặp gỡ Thiên Chúa và đụng chạm đến lòng thương xót của Chúa.’ [A].
Tổ chức mừng lễ nọ, kỉ niệm lễ kia
Thấy giáo phận, dòng tu, giáo xứ này tổ chức hành hương, đại hội kính Mẹ dưới những tước hiệu này nọ, mang lại thành qủa - có nơi mang lại rất nhiều thành quả mỗi năm trong vòng nhiều năm -, thì giáo phận, dòng tu, giáo xứ khác cũng tổ chức đại hội kính Mẹ dưới những tước hiệu nọ kia. Có thứ thành quả dễ thấy, còn có thứ thành quả lại khó thấy. Thành quả dễ thấy sẽ làm cho người ta hứng khởi để tiếp tục tổ chức to lớn hơn với hi vọng được thành quả lớn hơn. Điều đó có thể tạo ra sự so sánh và cạnh tranh giữa những dòng tu, giáo xứ và giáo phận. Do đó trước đại hội, người ta thấy ban tổ chức gửi thư mời cả hai, ba vị ‘giáo chủ’ với hi vọng quí Ngài đến, chỉ cần bận áo lễ thụng, đầu đội mũ hàm ếch, một tay chống gậy dài, mặt quay phải rồi quay trái, tay kia giơ cao ban phép lành theo hướng quay của đầu và mặt là đủ, mà có khi không cần phải giảng. Nói đến việc chống gậy, người ta thấy có những vị giáo chủ hơi thấp mà dùng gậy quá dài, nên khi cầm gậy thì tay cứ phải với lên gần đầu gậy. Để cho cân xứng thì đầu gậy phải ngang bằng với đầu người hay cùng lắm ngang bằng với chỏm mũ hàm ếch là vừa. Còn nói đến cách cầm gậy thì cũng có sự khác biệt giữa giáo chủ sở tại và giáo chủ khách đấy. Giáo chủ chủ nhà thì cầm gậy sao cho hướng bẻ cong của đầu gậy hướng về phía giáo dân. Còn giáa chủ khách thì cho hướng bẻ cong của đầu gậy quay về mình. Tuy nhiên giáo dân đâu có phân biệt, và có những giáo chủ cũng không cần để ý đâu..
Rồi trong bao thư gửi đi mời, còn thấy có bao thư hồi đáp với địa chỉ in sẵn. Có khi còn dán tem trước như là nhắm bỏ ra con tép để bắt con tôm. Cũng lạ là trong dịp tổ chức đại hội kính Đức Mẹ mà thấy thế nào cũng phải quảng cáo chương trình văn nghệ và cả văn gừng, mặc dầu dịp này không phải là buổi trình diễn văn nghệ. Theo ban tổ chức thì đây, không phải kiểu văn nghệ bỏ túi với lối hoá trang và trình diễn có vẻ tếu cho vui, nhưng là có ban nhạc sống, thêm vào với mấy hình nữ ca sĩ trẻ đẹp. Nếu gặp mặt trong đời thường thì không biết thế nào, nhưng trông vào hình quảng cáo thì thấy cũng có vẻ trẻ đẹp đấy. Ban nhạc sống và ca sĩ chưa trình diễn mà có hình như là đã diễn rồi. Để nhắm vào giới tham dự viên mạnh thường quân, ban tổ chức còn quảng cáo khách sạn 5 sao nữa đấy. Vậy ban tổ chức cho tổ chức để làm gì? Đã có những linh mục và giáo dân viết trả lời để làm gì rồi. Độc giả cũng đoán được để làm gì rồi.
Những dịp mừng lễ nọ lễ kia đặc biệt của một giáo xứ, một nhà dòng, một giáo phận mà ban tổ chức coi như là dịp mừng của toàn thể tập thể lớn nên cũng mời toàn thể. Mời toàn thể một vài lần đến chung vui thì có thể hiểu được. Còn hàng năm mà gửi giấy mời khách từ ngoài nhà dòng, ngoài giáo xứ, ngoài giáo phận, có thể tạo ra vấn đề với những nhà dòng, giáo xứ, giáo phận khác liên quan đến lợi ích chung của tập thể lớn.. Riêng việc mời người quen biết hay bạn hữu ở ngoài nhà dòng /giáo xứ / giáo phận thì lại là chuyện người ta thường làm, không ai đặt vấn đề. Còn những khách không được mời, mà đến dự thì dĩ nhiên họ cũng phải được đón tiếp rồi.
Thường người ta chỉ tổ chức mừng lớn dịp kỉ niệm 25 năm, 50 năm thành lập giáo xứ. Vậy mà có những giáo xứ còn tổ chức mừng lớn và rất lớn cả dịp 30 năm, 35 năm, 40 năm, 45 năm nữa. Không may có giáo xứ kia báo cáo bị lỗ rất nặng trong dịp mừng giữa 25 năm và 50 năm mặc dầu nghe nói mong có lời lớn.
Giữ đạo theo kiểu khoe-phô-diễn
Trong những buổi tổ chức lễ nọ lễ kia có tầm vóc giáo phận hay cả nước, người ta thấy có vẻ nặng phần trình diễn theo kiểu lễ hội hơn là lễ nghi thờ phượng và cảm tạ. Người ta nhắm vào việc rước sách với kèn tây, trống ta, những màn dâng của lễ, dâng hoa nến với những màn múa, màn vũ có vẻ đẹp mắt. Người tham dự cũng như người coi lại video / youtube chiếu trên màn ảnh thấy vui tai đẹp mắt. Tuy nhiên xem những màn trình diễn như vậy giống như hiện tượng coi pháo bông vậy. Coi pháo bông thì đẹp mắt, nhưng rất mau tàn.
Chẳng hạn trong thánh lễ đồng tế mừng dịp đặc biệt của tập thể Công Giáo VN hải ngoại kia, người ta thấy lễ nghi kéo dài đúng 3 tiếng đồng hồ từ 10 giờ sáng tới 1 giờ trưa với nhiều màn ngoại lệ thêm vào. Chẳng hạn những bài thánh ca trong thánh lễ được lặp đi lặp lại câu chung, còn câu riêng được ca viên thay nhau hát solo. Ca hiệp lễ thì hát đến hai ba bài. Lúc dâng lễ vật lại còn có màn vũ giống như là dâng hoa trong tháng hoa vậy. Phần giới thiệu đầu lễ và cuối lễ thì rất dài dòng văn tự. Khi giới thiệu đến từng nhân vật vị vọng, người giới thiệu còn xin cử toạ một tràng pháo tay cho nhân vật đó, thay vì để cử toạ vỗ thay tự phát, hoặc xin cử toạ kiềm chế để vỗ tay chung một lần vào cuối phần giới thiệu. Có những nhân vật được giới thiệu dùng cơ hội “ngàn năm một thuở” để nói mấy lời, mà lại ra nhiều lời. Cuối cùng lễ cũng đến hồi hạ màn. Khi ra ngoài, người ta nghe lỏm được mấy linh mục cũng như giáo dân than: “Kiến đang bò bụng” rồi. Sánh với lễ Đức Giáo Hoàng Benedictô cử hành tại sân vận động quốc gia ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào năm 2008 thì chỉ kéo dài đúng 2 tiếng đồng hồ mà thôi.
Trong lễ nghi thờ phượng công cộng thì tất cả mọi thừa tác viên thi hành những phần phụng phụng vụ khác nhau phải tâm niệm rằng họ chỉ là dụng cụ để đưa người khác đến với Chúa, chứ không để người khác khen và dừng lại nơi họ vì họ cũng phải tham gia vào việc thờ phượng. Nếu có ai khen tài năng nào của họ khi họ thi hành phần phụng vụ thờ phượng, thì họ cũng như người khen tài năng của họ, phải tâm niệm rằng người khen thực ra là ca tụng Đấng đã ban tài năng cho người thi thố tài năng.
Những tư tưởng trích đăng phê bình những kiểu khoe-phô-diễn đạo.
Nếu có chuyện khoe đạo, thì cũng có những chuyện khoe văn hoá, kinh tế, mĩ thuật, kĩ thuật, và khoa học. Khi mà người ta thấy hoặc cảm thấy mình còn nghèo, không có hay chưa có thực lực, hoặc quốc gia mình còn lạc hậu về kinh tế, kĩ thuật, khoa học, quân sự, thì người ta muốn tổ chức việc nọ chuyện kia cho to lớn, nghĩa là làm cho hơn lên theo luật bù trừ, để bù lại những cái mà người ta chưa có hay còn thua kém. Trái lại khi người ta có thực lực về phưong diện nào đó rồi, người ta lại không cần khoe khoang, phô trương và trình diễn diễn. Những việc làm liên quan đến việc khoe-phô-diễn đã được một số tác giả mổ xẻ trong những bài viết khác nhau sau đây.
Trong một bài viết, linh mục Trần Bình Trọng bình luận về việc tổ chức Đại Lễ 1000 năm Thăng Long như sau: “Vào dịp tổ chức mừng Đại Lể 1000 năm Thăng Long – Hà Nội từ 1-10/10/ 2010, báo chí trong Nước gồm Báo Lao Động (số ra ngày 14/10/2010), báo Công An Nhân Dân (xuất bản 16/10/2010), cũng như ngoài nước và giới blogger đưa ra những nhận xét được tóm gọn bằng những từ ngữ tựu trung như: phô trương, tốn kém, lãng phí, loè loẹt, vụng về, lai căng ‘Tầu’, kéo dài quá đến cả 10 ngày là không thiết thực, không nhắm đến thực tại của cuộc sống người dân nhất là ở miền quê vẫn còn nghèo đói... Có nhà báo nhắc lại kiểu nói của báo chí về việc phô trương là do kết quả của ‘Văn hoá lùn, nên cái gì cũng phải muốn thật to, thật hoành tráng, thật xa xỉ, thật nhiều theo kiểu có bao nhiêu thì phô ra bằng hết’-” [1].
Theo sau, linh mục tác giả viết tiếp: “Rồi đến việc tổ chức Đại Hội Dân Chúa 2010 ngày 21-25/11/2010 mừng Năm Thánh 2010, kỉ niệm 350 năm thiết lập Giáo Phận Đàng Trong và Đàng Ngoài tại Việt Nam năm 1659 và 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam năm 1960 diễn ra có vẻ lớp lang thứ tự theo sát chương trình. Tuy nhiên cũng không thiếu lời phê bình như ‘ồn ào’, đại diện giáo dân thì quá khiêm tốn và những đề tài tham luận lại do đa số hàng giáo phẩm trình bày để học hỏi thì có vẻ cao siêu, xa vời, không thiết thực với giáo dân…
Còn chương trình Đại Lễ bế mạc Năm Thánh tại La Vang 4-6/01/2011 thì lại nhấn mạnh đến hình thức trình diễn, phô trương. Phải chăng kiểu nói ‘văn hoá lùn’ mà báo chí bàn đến trong việc tổ chức Ngàn Năm Thăng Long cũng đã được áp dụng trong việc tổ chức mừng Năm Thánh 2010 tại đây? Người đến dự và người xem Đại Hội Dân Chúa cũng như Đại Lễ bế mạc Năm Thánh trên mạng thấy có vẻ hoành tráng, đẹp mắt, vui tai. Tuy nhiên người ta cũng thấy có vẻ chú tâm đến việc săn đón, chăm sóc thượng khách đạo đời”. [2]
Trong lời bình luận về cách đón tiếp Hồng Y Filoni, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo sang thăm Việt Nam năm 2015, tác giả Gia Vị viết: “Quan sát thấy việc tiếp đón tại những địa phương khác nhau hình như có vẻ săn đón, chăm sóc, nặng vẻ trình diễn và có vẻ khoe đạo với những hội đoàn bận đồng phục đứng làm hàng chào danh dự, với kèn trống, những màn rước sách, che lọng và tặng những bó hoa đẹp mắt, rồi thăm những nhà thờ, những toà nhà mới mẻ và rộng lớn. Nơi có nhiều thì khoe nhiều, nơi có ít khoe ít [3].
Nhận xét về phương diện khác trong bài trên, Gia Vị viết tiếp: “Ý hướng quá quan tâm về việc làm vui lòng khách, cộng với óc vọng ngoại khiến chủ nhà có thể bầy tỏ những cử chỉ săn đón và chăm sóc khách, như có vẻ khép nép và khúm núm mà đương sự có thể không ý thức được chăng? Tuy nhiên người coi có thể cho đó là làm mất sĩ diện dân tộc khi chủ nhà đại diện cho một khối người nào đó”. [4].
Tham dự nghi thức khai mạc Năm Đức Tin của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam ở một giáo phận kia với những toà nhà đồ sộ mới xây cất và lễ nghi khai mạc có vẻ quen thuộc, mà lại lạ lẫm như hồi trống hiệu triệu, TGM Leopoldo Girelli có lời huấn từ: “Niềm tin chân chính không được dừng lại ở những nghi thức bên ngoài, nhưng phải có chiều sâu” [5].
Bình luận về huấn từ của TGM Girelli, tác giả Gia Nhân viết: “ Có lẽ huấn từ này không hẳn như là áp dụng chung cho mọi người Công giáo trên thế giới. Đức TGM đã có dịp quan sát và ghi nhận những lần đến thăm mục vụ hầu hết các giáo phận Việt Nam từ hơn một năm qua - có mấy Giáo phận Ngài đã đến thăm hơn một lần. Chắc TGM Girelli đã chứng kiến những hình ảnh tổ chức tiếp đón Ngài cách rầm rộ cũng như những lần tham dự những buổi lễ long trọng với những nghi thức bên ngoài, nên mới có huấn từ như vậy. Quảng diễn huấn từ của Tổng Giám mục Girelli, người ta cũng có thể nói thêm rằng niềm tin chân chính cần tránh việc giữ đạo hình thức, trình diễn và phô trương cũng như những kiểu giới thiệu bốc thơm nhau quá lố”. [6].
Trong bài phỏng vấn một giám mục khi đề nghị thiết lập giáo phận Hà Tuyên” do Phóng Viên của WHĐ thực hiện, tác giả Gia Nhân có lời bình luận cuối bài phỏng vấn như sau: “Không biết vào thời buổi nào đã nảy sinh ra tiền lệ cho viên chức thuộc cấp bậc lớn nhỏ của Tôn Giáo cũng như cấp bậc lớn nhỏ của Nhà Nước đến chúc Tết và chúc mừng Noel lẫn nhau.. Mà chúc mừng lẫn nhau như vậy đâu phải chỉ bằng lời chúc suông thôi, mà còn phải có gì đi kèm nữa thì người ta mới vui. Nếu làm thủ tục ‘đầu tiên’ mà không đúng kiểu thì sợ rằng không được việc” [7].
Trong Nhật kí Hội Nghị Thường Niên Kì 2 / 2012 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kỳ 3 / 2012, độc giả đọc được Nhật Kí về việc mời các giám mục đại diện các Hội Đồng Giám Mục Á Châu đến dự Hội Nghị khoáng đại của Liên HĐGMAC tháng 11/2012 tại Xuân Lộc và Sài Gòn ghi lại như sau: “Các Đức cha chủ nhà đón tiếp thay mặt HĐGMVN mong muốn tổ chức chuẩn bị thật chu đáo để bày tỏ lòng quý trọng khách, nhưng sao cho không quá sang trọng” [8].
Bình luận về đề nghị tổ chức đón tiếp Hội Đồng Giám Mục Á Châu, tác giả Gia Nhân viết: “Tổ chức một buổi lễ tôn giáo cho sang trọng có hẳn là đem lại lợi ích thiêng liêng cho người tham dự không? Mà sang trọng thì dễ đưa đến việc trình diễn và phô trương đấy. Có lẽ có những giám mục Á Châu sẽ đến dự Liên Hội Đồng GM Châu Á tại Xuân Lộc và Sài Gòn không quen kiểu đón tiếp sang trọng đâu mà phải tổ chức cho sang trọng” [9].
Nghe nói linh mục Ngô Tôn Huấn (LM / NTH) cũng đã viết khá nhiều bài mổ xẻ, phê bình những lạm dụng cũng như những áp dụng ngoài lề lối Phúc âm. Tác giả bài này chỉ có dịp đọc một số bài của LM / NTH, nghĩa là chỉ có dịp ‘văn kì thanh’ mà ‘bất kiến kì hình’, thì thấy linh mục Họ Ngô có lối viết văn bình luận thẳng thừng, dùng kiểu nói bình dân gọi là ‘nói toạc móng heo’ ra. Để đọc những bài viết của linh mục họ Ngô, độc giả có thể vào Google, rồi đánh máy tên của tác giả họ Ngô, sẽ thấy nhiều bài của tác giả họ Ngô viết trên mạng. [10]
Đọc bài những lời của một vị Tổng GM trả lời phỏng vấn của WHĐ và WGPSG, Tác giả Gia Nhân viết: “Xin cám ơn Đức Cha … đã nhắc đến ý niệm ‘Sentire cum Ecclesia’ (Đồng cảm với Giáo hội). Đồng cảm hay thông hiệp với Giáo hội là ý niệm mà mọi thành phần Công giáo: giáo sĩ cũng như giáo dân cần phải có. Thông hiệp là đặc điểm của Giáo hội Công giáo. Những đoàn thể, tổ chức chình trị, xã hội có sự hiệp nhất bằng cách gia nhập, nhưng không có sự thông hiệp. Thông hiệp bao hàm sự hiệp nhất, thông phần và cảm thông bằng tình cảm, bằng ước muốn, bằng lời cầu nguyện, bằng ơn thánh. Chẳng hạn khi gặp chuyện vui, chuyện buồn, gặp điều lo âu hay dấu hi vọng trong Giáo hội thì giáo sĩ cũng như giáo dân đều thông hiệp và cảm thông như thánh Phaolô dạy: ‘Vui với người vui, khóc với người khóc’-” (Rm 12:15). [11].
Trong bài phỏng vấn, Ngài Tổng Giám mục phê bình những người đứng ngoài Giáo Hội mà phê phán, thì Gia Nhân góp ý thêm với Đức Tổng như sau:“Đức Cha lưu ý là ‘Không nên đứng ngoài Giáo Hội mà phê phán vì như vậy là phê phán chính mình’. Tuy nhiên không phải vì thế mà tránh né việc phê phán. Không phải cái gì cũng phê phán, nhưng có những điều cần phải phê phán. Những người phê phán không phải họ ở ngoài Giáo hội, nhưng là những vị giáo sĩ cũng như giáo dân, ở trong Giáo hội, hiệp thông với Giáo hội và quan tâm đến sự phát triển của Giáo hội. Họ không phê phán Giáo Hội, nhưng là phê phán những lời nói hay việc làm sai trái, làm chướng tai gai mắt của những cá nhân trong Giáo hội, gây thiệt hại cho Giáo Hội. Những lời phê phán đó khiến những ai ‘có tật thì giật mình’ mà sửa đổi và giúp người khác xa tránh. Theo Tổng Giám mục …, thì những người ở ngoài Giáo hội mà phê phán là ‘phê phán chính mình’. Như vậy không được phê phán chính mình hay sao? Nếu cần người ta cũng phải tự kiểm thảo và phê phán chính mình nữa, chứ không phải sợ hãi gì đó hay sợ sự thật mà im lặng. Tự kiểm để phê phán chính mình thì mới cải thiện được”.[12].
Chưa hết, Gia Nhân còn viết thêm: “Đức Giáo Hoàng Gioan Phalô II đã nhiều lần (hơn 9 lần) lên tiếng xin lỗi một số nhóm người trên thế giới về những việc làm bất chính / bất công trong quá khứ của Giáo hội hoặc những thành phần trong Giáo Hội. Xin lỗi là công nhận mình có lỗi hoặc người tiền nhiệm hay người thừa hành làm lỗi để được bỏ qua. Nếu không người ta sẽ uẫn ức khiến cho mối liên hệ của những bên liên hệ bị cản trở, không phát triển được”. [13].
Khi nại đến Giáo Hoàng Phanxicô là vị đã nhiều lần phê bình những lạm dụng trong Giáo Hội, ngay cả Giáo triều Roma, Gia Nhân viết thêm: “Giả sử họ biết được ’15 căn bệnh của Giáo Triều Rôma, mà Đức Phanxicô đề cập đến, áp dụng cho cả cấp địa phương là giáo phận, dòng tu nam nữ, giáo xứ, hội đoàn Công Giáo Tiến hành.. chắc lòng kính mến của họ cũng phải giảm xuống nhiều đấy”. [14].
Nếu có ai hỏi tại sao không nói nhỏ (phê bình, phê phán) để ‘đóng cửa bảo nhau’. Thưa rằng nói nhỏ, người ta sẽ bỏ ngoài tai. Phải nói cho người khác nghe, người ta mới lưu ý và người khác mới tránh được vết xe cũ. Theo kinh nghiệm của nhiều người thì “đóng cửa bảo nhau” không có hiệu quả. Phải đem ra ánh sáng, người ta mới giật mình. Trong một quốc gia mà có hơn một đảng phái chính trị - hai hoặc ba hoặc bốn- , thì mỗi đảng phái phải điều chỉnh cương lĩnh của đảng, sao cho dân cảm thấy hấp dẫn và chỉnh đốn đường lối cai trị sao cho vừa lòng dân. Khi có những việc làm bê bối của một đảng phái được thực hiện trong bóng tối, thì đảng kia tìm cách đem ra ánh sáng, để hai đảng cạnh tranh nhau thì xã hội mới tiến được.
Chính Đức Kitô trong Phúc Âm cũng dạy về sự cần thiết của việc phê bình khi người anh em phạm lỗi. Giai đoạn một là sửa riêng người súc phạm, nhằm tránh làm mất mặt đương sự. Giai đoạn hai là gọi hai người làm chứng để thuyết phục phạm nhân. Giai đoạn ba là đưa vấn đề ra trình bày trước cộng đồng tín hữu, để bảo toàn sức khoẻ tâm linh của cá nhân cũng như cộng đoàn (Mt 18:15-16).
Bàn về cái khó của việc phê bình, linh mục Trần Bình Trọng viết trong một bài suy niệm Phúc Âm như sau: “Nếu thời đại mà người ta đang sống là thời đại buông thả thì người ta coi nhẹ việc sửa bảo. Sống trong một văn hoá đề cao chủ nghĩa cá nhân, thì người ta thường không muốn sửa bảo, nhưng để mặc kệ người khác: ‘ai có thân nấy lo’. Sống trong một xã hội mà văn hoá của xã hội đó thiên về nhậy cảm, hoặc sống vào thời đại mà văn hoá của thời đại đó trở nên nhậy cảm, thì việc sửa bảo khó lòng được chấp nhận. Gặp người có tự ái cao, thì người muốn sửa bảo, cũng phải dè dặt khi nói động đến ‘chân tơ kẽ tóc’ của họ, vì sợ họ ‘nổi da gà’ hay ‘rợn tóc gáy’-” [15].
Chưa hết, linh mục họ Trần còn viết thêm: “Một trong những điều khó khăn mà người ta gặp trong việc giao tế hàng ngày là khi phải nói ra cho ai, điều mà họ không muốn nghe. Nếu trong gia đình mà từ nhỏ cha mẹ có khuynh hướng bênh con, thì sau này con cái có thể không muốn chấp nhận lỗi lầm, nhưng tìm cách biện hộ” [16].
Để kết luận, tác giả bài viết này muốn dùng lời nhận xét của tác giả Gia Vị viết về một linh mục đã truyền giáo ở miền Sông Nước nhiều năm, mà không vội vã xây cất nhà thờ như sau: “Về việc khoe đạo thì một linh mục VN kia có lối truyền giáo bình dân ở miền Sông Nước, được giới đàn ông chít khăn mỏ quạ, miệng rít thuốc rê, thở khói ra phì phào qua miệng, qua mũi, qua cả lỗ tai và giới các bà bận quần áo bà ba, trùm khăn ca-rô trên đầu, miệng nhai trầu cau tóm tém, gọi linh mục đó một cách thân tình là: ‘Anh Tám H’. Có lần ‘Anh Tám H’ nhận định trong bài giảng tại một Nhà thờ chính toà của một tổng giáo phận lớn kia thế này: ‘Khoe đạo chỉ khiến cho người ngoài đạo ghét đạo mà thôi’-” [17].
Vậy phải chăng có ai theo đạo mà muốn cho người ta ghét đạo đâu nhỉ?.
Lm Trần Bình Trọng
*****
[A]. G. Trần Đức Anh OP. Đức Thánh Cha đề cao tầm quan trọng của việc hành hương: www.mucvuvanbut.net: Tin Giáo Hôọi hoàn vũ 2016-01-23.
[1]. Lm Trần Bình Trọng. Giữ đạo tại tâm / khép kín hay giữ đạo hình thức / cảm giác: www.mucvuvanbut.net : Bài Viết của tác giả Trang Chủ 2011-11-16.
[2]. Ibid như [1]
[3]. G. Trần Đức Anh, OP. Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo, rất hài lòng về chuyến viếng thăm Việt Nam:www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2015.01-28.
[4]. Ibid như [3]
[5]. WHD. Nghi thức và Thánh lễ khai mạc Năm Đức Tin của Giáo Hội Việt Nam: www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2012-10-16.
[6]. Ibid như [5]
[7]. Phóng Viên WHĐ. Phỏng vấn Đức Cha Gioan Vũ Tất về đề nghị thiết lập giáo phận Hà Tuyên: www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2013-04-13.
[8]. WHĐ. Nhật ký Hội Nghị Thường niên Kỳ II-2012 Hội Đồng GMVN (8-12/10/2012 (kỳ 3): www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2012-10-11.
[9]. Ibid như [8]
[10]. Ngô Tôn Huấn. Để đọc những bài liên quan đến đề tài của bài này của Lm Ngô Tôn Huần, có thể vào Google, rồi đánh máy Ngô Tôn Huấn, Linh Mục Ngô Tôn Huấn, LM PX Ngô Tôn Huấn, Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
[11]. WHĐ. ‘Yêu mến và Phúc âm hoá với nhiệt tình mới’: www.mucvuvanbut.net : Tin Giáo Hội Việt Nam 2012-12-27
[12]. Ibid [11]
[13]. Ibid như [11]
[14]. Ibid như [3].
[15]. Trần Bình Trọng. Sửa đổi theo lời Chúa dạy: Chúa Nhật 23 Thường Niên trong Hằng tuần Chúa Nói Với Ta – Ta Đáp Trả Lời Chúa, Năm A. Đăng kí tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kì: J. Trần Bình Trọng. ISBN: 1-932708-20-0. Xuất Bản & Phát Hành: Trần Bình Trọng với sự cộng tác của Nhà Xuất Nản Tin Vui Media & Tuoihoa Publishing. Copyright © 2007.
[16]. Ibid như [15]
[17]. Ibid như [1]
Đừng tưởng
Đừng tưởng cứ núi là cao.. Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu.. Cứ trên là sáng cứ tu là hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên.. Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm.. Không nghe là điếc không trông là mù
Đừng tưởng cứ trọc là sư.. Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của đã sang.. Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây
Đừng tưởng cứ uống là say.. Cứ chân là bước cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ.. Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ mới là tân.. Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh.. Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Đừng tưởng cứ quyết là nên.. Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Đừng tưởng cứ lớn là khôn... Cứ bé là dại, cứ hôn… là chồng
Đừng tưởng giàu hết cô đơn.. Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo
Đừng tưởng cứ gió là mưa.. Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè
Đừng tưởng cứ hạ là ve.. Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn…
Đừng tưởng thu lá sẽ tuôn.. Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.
Đừng tưởng cứ thích là yêu.. Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay
Đừng tưởng vua là anh minh.. Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.
Đừng tưởng đời mãi êm đềm.. Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.
Đừng tưởng cười nói ân cần.. Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.
Đừng tưởng trong lưỡi có đường.. Nói lời ngon ngọt mười phương chết người
Đừng tưởng cứ chọc là cười.. Nhiều khi nói móc biết cười làm sao
Đừng tưởng khó nhọc gian lao.. Vượt qua thử thách tự hào lắm thay
Đừng tưởng cứ giỏi là hay.. Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần
Đừng tưởng nắng gió êm đềm.. Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng
Đừng tưởng góp sức là chung.. Chỉ là lợi dụng lòng tin của người
Đừng tưởng cứ tiến là lên.. Cứ lui là xuống, cứ yên là nằm
Đừng tưởng rằm sẽ có trăng.. Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu
Đừng tưởng cứ khóc là sầu.. Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
Đừng tưởng cứ nghèo là hèn.. Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.
-------------------- ☆☆☆☆☆ --------------------
Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên…!
Nếu thấy ý nghĩa trong cuộc sống bạn hãy chia sẻ cho nhiều người cùng biết.
Tác giả: nhà thơ Bùi Giáng
Đừng tưởng cứ núi là cao.. Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu.. Cứ trên là sáng cứ tu là hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên.. Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm.. Không nghe là điếc không trông là mù
Đừng tưởng cứ trọc là sư.. Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của đã sang.. Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây
Đừng tưởng cứ uống là say.. Cứ chân là bước cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ.. Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ mới là tân.. Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh.. Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Đừng tưởng cứ quyết là nên.. Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Đừng tưởng cứ lớn là khôn... Cứ bé là dại, cứ hôn… là chồng
Đừng tưởng giàu hết cô đơn.. Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo
Đừng tưởng cứ gió là mưa.. Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè
Đừng tưởng cứ hạ là ve.. Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn…
Đừng tưởng thu lá sẽ tuôn.. Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.
Đừng tưởng cứ thích là yêu.. Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay
Đừng tưởng vua là anh minh.. Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.
Đừng tưởng đời mãi êm đềm.. Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.
Đừng tưởng cười nói ân cần.. Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.
Đừng tưởng trong lưỡi có đường.. Nói lời ngon ngọt mười phương chết người
Đừng tưởng cứ chọc là cười.. Nhiều khi nói móc biết cười làm sao
Đừng tưởng khó nhọc gian lao.. Vượt qua thử thách tự hào lắm thay
Đừng tưởng cứ giỏi là hay.. Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần
Đừng tưởng nắng gió êm đềm.. Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng
Đừng tưởng góp sức là chung.. Chỉ là lợi dụng lòng tin của người
Đừng tưởng cứ tiến là lên.. Cứ lui là xuống, cứ yên là nằm
Đừng tưởng rằm sẽ có trăng.. Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu
Đừng tưởng cứ khóc là sầu.. Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
Đừng tưởng cứ nghèo là hèn.. Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.
-------------------- ☆☆☆☆☆ --------------------
Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên…!
Nếu thấy ý nghĩa trong cuộc sống bạn hãy chia sẻ cho nhiều người cùng biết.
Tác giả: nhà thơ Bùi Giáng
Càng Đơn Giản Thì Càng Hạnh Phúc
Càng lớn tuổi dần, con người ta càng tiến dần về sự đơn giản và càng đơn giản thì càng hạnh phúc.
– Sự đơn giản đó là khi người ta không còn thích đến những nhà hàng sang trọng, lộng lẫy để “check-in” một cái cho bằng bạn bằng bè, họ thích ở nhà tự nấu nướng.
– Đó là khi người ta không còn thích đến rạp xem phim để xếp hàng coi cho bằng được một bộ phim đang hot, dư luận đang ồn ào, họ nằm nhà, chọn một bộ phim sau khi xem kỹ nội dung, họ nghiền ngẫm trọn vẹn bộ phim bằng cảm xúc chân thật nhất.
– Đó là khi người ta không còn thích đến những nơi đông đúc để thấy mình lạc lõng, không thích nhiều mình mà tẻ nhạt, họ thích trở về nhà, một mình mà không cô độc, một mình mà yên vui. Với họ, sự đơn giản là sự thanh thản.
– Đó là khi người ta không còn quá bận tâm đến xu hướng, đến sự nổi bật. Thay vì chọn một phong cách lòe loẹt, rườm rà, họ yêu thích sự giản tiện. Không cần cầu kỳ với vòng vèo, với những bộ áo quần hàng hiệu, họ chọn sự tối giản bằng mái tóc xõa, bằng bộ cánh nhã nhặn hợp vóc dáng, với khuôn mặt tươi tắn nhẹ nhàng, với mùi hương tự nhiên, sự quyến rũ mà họ có toát ra từ thần thái và trí tuệ.
– Đó là khi người ta thay vì nói oang oang về bản thân trong đám đông, cố chấp gạt bỏ những cái tôi khác, họ chọn cách lắng nghe, quan sát và ngồi lặng lẽ một mình. Họ dành nhiều nụ cười hơn sự cáu kỉnh, bực tức, họ chọn tha thứ hơn thù hận và cảm thông hơn hờn trách. Họ vui vì họ đã chạm tới sự đơn giản không phải vì sự kỳ vọng cho bản thân mình trở thành một phần đặc biệt của cuộc sống. Trong ánh sáng rực rỡ ngoài kia vẫn luôn có người chọn nép mình khuất sau bóng tối. Vì sự thật thì không sợ ánh sáng không thể chạm đến, vì giản đơn thì trong bóng tối vẫn có thể tỏa sáng để chiếu rọi hạnh phúc của chính mình.
Có bao nhiêu người đã chọn lựa một cuộc sống lặng lẽ, thu mình, không ồn ào, đủ chênh vênh nhưng không cô độc? Có rất nhiều.
Đó là khi con người nhận ra, họ đã đủ trưởng thành để đứng một mình, bình lặng và an nhiên.
Be Ta Sưu tầm
Càng lớn tuổi dần, con người ta càng tiến dần về sự đơn giản và càng đơn giản thì càng hạnh phúc.
– Sự đơn giản đó là khi người ta không còn thích đến những nhà hàng sang trọng, lộng lẫy để “check-in” một cái cho bằng bạn bằng bè, họ thích ở nhà tự nấu nướng.
– Đó là khi người ta không còn thích đến rạp xem phim để xếp hàng coi cho bằng được một bộ phim đang hot, dư luận đang ồn ào, họ nằm nhà, chọn một bộ phim sau khi xem kỹ nội dung, họ nghiền ngẫm trọn vẹn bộ phim bằng cảm xúc chân thật nhất.
– Đó là khi người ta không còn thích đến những nơi đông đúc để thấy mình lạc lõng, không thích nhiều mình mà tẻ nhạt, họ thích trở về nhà, một mình mà không cô độc, một mình mà yên vui. Với họ, sự đơn giản là sự thanh thản.
– Đó là khi người ta không còn quá bận tâm đến xu hướng, đến sự nổi bật. Thay vì chọn một phong cách lòe loẹt, rườm rà, họ yêu thích sự giản tiện. Không cần cầu kỳ với vòng vèo, với những bộ áo quần hàng hiệu, họ chọn sự tối giản bằng mái tóc xõa, bằng bộ cánh nhã nhặn hợp vóc dáng, với khuôn mặt tươi tắn nhẹ nhàng, với mùi hương tự nhiên, sự quyến rũ mà họ có toát ra từ thần thái và trí tuệ.
– Đó là khi người ta thay vì nói oang oang về bản thân trong đám đông, cố chấp gạt bỏ những cái tôi khác, họ chọn cách lắng nghe, quan sát và ngồi lặng lẽ một mình. Họ dành nhiều nụ cười hơn sự cáu kỉnh, bực tức, họ chọn tha thứ hơn thù hận và cảm thông hơn hờn trách. Họ vui vì họ đã chạm tới sự đơn giản không phải vì sự kỳ vọng cho bản thân mình trở thành một phần đặc biệt của cuộc sống. Trong ánh sáng rực rỡ ngoài kia vẫn luôn có người chọn nép mình khuất sau bóng tối. Vì sự thật thì không sợ ánh sáng không thể chạm đến, vì giản đơn thì trong bóng tối vẫn có thể tỏa sáng để chiếu rọi hạnh phúc của chính mình.
Có bao nhiêu người đã chọn lựa một cuộc sống lặng lẽ, thu mình, không ồn ào, đủ chênh vênh nhưng không cô độc? Có rất nhiều.
Đó là khi con người nhận ra, họ đã đủ trưởng thành để đứng một mình, bình lặng và an nhiên.
Be Ta Sưu tầm
7 CHỮ T: THẬT THÀ THẲNG THẮN THƯỜNG THUA THIỆT
Câu nói khá thông dụng ngày nay là: “thật thà thẳng thắn thường thua thiệt.” Nếu thế, phải chăng gian dối dù không hợp tình hợp lý, nhưng lại hợp thực tế? Thế nhưng, thực tế là gì? Nó là cái do con người tạo ra hay nó điều kiện hóa con người?
Trong học đường, thật và giả dễ nhận thấy và thậm chí dễ được chấp nhận, dù được chấp nhận trong vui vẻ hay trong ưu tư.
Một em học sinh cấp hai chia sẻ: Bạn ấy là người thân nhất của em. Khi không hiểu bài, em thường hỏi bạn ấy. Khi thi, bạn chỉ bài cho em. Em rất vui vì được bạn giúp đỡ. Nhờ bạn mà em có thể lên lớp.
Một bạn học sinh cấp ba kể: Mẹ em là giáo viên. Khi coi thi, thấy các bạn học sinh làm bài không nghiêm túc, mẹ chỉ nhắc nhở và thu tài liệu mà không đánh dấu bài. Vì nếu đánh dấu bài, thì thật “bất công” cho các bạn ấy trong hoàn cảnh rối ren của phòng thi. Khi tan thi, xe của mẹ em bị xì hơi.
Một bạn sinh viên sư phạm tâm sự: Mình không phải là sinh viên giỏi. Thấy nhiều bạn khác quay cóp, mình không hài lòng. Đôi khi mình cũng chép bài từ bạn khác khi thi. Nhưng lần nọ, mình quyết định sẽ không chép bài nữa, mình thà trượt còn hơn. Mình thấy hổ thẹn với lương tâm. Mình sẽ làm thầy mà còn gian dối, còn hữu danh vô thực, làm sao có thể hy vọng giúp đỡ trò về kiến thức, về nhân cách sống.
Một bậc phụ huynh, thấy con mình đi ra phòng thi, thì hỏi ngay: Con ơi, thầy cô coi thi hôm nay dễ hay khó?
…
Trong xã hội, thật và giả càng khó lường.
Chị bán hàng nói với khách: anh mua em “để vốn” cho. Thực ra, giá cả gấp nhiều lần giá thật. Phép nhân kiểu này càng dễ gặp và khó thấy trong mặt hàng dược phẩm.
Người ta nói “thuận mua vừa bán” là được, nhưng sự thường, người tiêu dùng là chịu thiệt. Người ta nói “mọi người cùng đồng thuận” để tạo ra các hiệp ước, nhưng sự thường, hiệp ước ấy chỉ có lợi cho một nhóm lợi ích.
Người ta nói, pháp luật nghiêm minh và công bằng, nhưng cái nghiêm minh và công bằng ấy trên giấy nhiều hơn. Ví như luật giao thông, người tham gia giao thông mà biết mọi khoản luật thì “chết liền”.
Có một tiến trình ngược: tìm cách làm cho luật đi vào đời sống, mà không phải là cuộc sống tạo nên luật? Tại sao không? Hơn nữa, những người ở “ngoài luật” thì thế nào? Vấn đề là do luật hay do con người?
Khi thanh toán hóa đơn, người bán hàng chủ động hỏi: anh muốn viết hóa đơn kiểu nào? Cao hơn hay thấp hơn giá thật?
Số tiền “khó tưởng tượng” được đầu tư cho ngành giáo dục, khi bị chất vấn, chỉ được trả lời tỉnh queo là “nhầm lẫn”. Các công trình công cộng, khi không thể nghiệm thu, chỉ được giải thích đơn giản là thiếu tiền, là giải ngân chưa kịp.
Khi hai người va chạm gây ra tai nạn giao thông, thì việc đầu tiên người “sống sót” nghĩ tới không phải là đem người bị nạn đi bệnh viện, mà là “chuồn cho nhanh”.
Như thế, nếu không đặt câu hỏi về con người, về trách nhiệm, thì tương lai tươi sáng cho cá nhân, cho cộng đồng chỉ là thiên đường ảo tưởng mà thôi.
…
Trong gia đình, thật và giả có vẻ “thân quen” hơn.
Cha mẹ ít học có thể thu mình lại trước con cái học nhiều. Có bậc cha mẹ chê bai “mớ lý thuyết” của con cái, và cho rằng, kinh nghiệm trường đời mới quan trọng. Cha mẹ học cao có thể gây sức ép lên định hướng tương lai của con cái, có thể áp đặt tiêu chuẩn và ước mơ của mình lên con cái. Có bậc cha mẹ “bỏ mặc” con cái.
Ngược lại, nhiều người con chê bai cha mẹ quê mùa. Nhiều người con muốn “thoát khỏi vòng tay” của cha mẹ. Nhiều người con muốn “chối bỏ” cha mẹ mình.
Ước gì con người có thể đón nhận nhau hơn, có thể chân thật hơn, tốt lành hơn. Ước mơ chỉ là ước mơ nếu thiếu hành động. Hành động “khẳng định” là biến ước mơ, biến tiềm năng thành hiện thực. Thế nhưng, nếu “khẳng định mình” mà loại trừ người khác, loại trừ cộng đồng, thì thật nguy hiểm. “Tiến bộ” như thế thì tụt lùi là lẽ đương nhiên. Thấy cây mà không thấy rừng, thì con người chỉ là những hòn đảo cô độc. Thấy rừng mà không thấy cây, thì xã hội loài người chỉ là một xã hội vô hồn.
Vinh Sơn Vũ Tứ Quyết, S.J
Câu nói khá thông dụng ngày nay là: “thật thà thẳng thắn thường thua thiệt.” Nếu thế, phải chăng gian dối dù không hợp tình hợp lý, nhưng lại hợp thực tế? Thế nhưng, thực tế là gì? Nó là cái do con người tạo ra hay nó điều kiện hóa con người?
Trong học đường, thật và giả dễ nhận thấy và thậm chí dễ được chấp nhận, dù được chấp nhận trong vui vẻ hay trong ưu tư.
Một em học sinh cấp hai chia sẻ: Bạn ấy là người thân nhất của em. Khi không hiểu bài, em thường hỏi bạn ấy. Khi thi, bạn chỉ bài cho em. Em rất vui vì được bạn giúp đỡ. Nhờ bạn mà em có thể lên lớp.
Một bạn học sinh cấp ba kể: Mẹ em là giáo viên. Khi coi thi, thấy các bạn học sinh làm bài không nghiêm túc, mẹ chỉ nhắc nhở và thu tài liệu mà không đánh dấu bài. Vì nếu đánh dấu bài, thì thật “bất công” cho các bạn ấy trong hoàn cảnh rối ren của phòng thi. Khi tan thi, xe của mẹ em bị xì hơi.
Một bạn sinh viên sư phạm tâm sự: Mình không phải là sinh viên giỏi. Thấy nhiều bạn khác quay cóp, mình không hài lòng. Đôi khi mình cũng chép bài từ bạn khác khi thi. Nhưng lần nọ, mình quyết định sẽ không chép bài nữa, mình thà trượt còn hơn. Mình thấy hổ thẹn với lương tâm. Mình sẽ làm thầy mà còn gian dối, còn hữu danh vô thực, làm sao có thể hy vọng giúp đỡ trò về kiến thức, về nhân cách sống.
Một bậc phụ huynh, thấy con mình đi ra phòng thi, thì hỏi ngay: Con ơi, thầy cô coi thi hôm nay dễ hay khó?
…
Trong xã hội, thật và giả càng khó lường.
Chị bán hàng nói với khách: anh mua em “để vốn” cho. Thực ra, giá cả gấp nhiều lần giá thật. Phép nhân kiểu này càng dễ gặp và khó thấy trong mặt hàng dược phẩm.
Người ta nói “thuận mua vừa bán” là được, nhưng sự thường, người tiêu dùng là chịu thiệt. Người ta nói “mọi người cùng đồng thuận” để tạo ra các hiệp ước, nhưng sự thường, hiệp ước ấy chỉ có lợi cho một nhóm lợi ích.
Người ta nói, pháp luật nghiêm minh và công bằng, nhưng cái nghiêm minh và công bằng ấy trên giấy nhiều hơn. Ví như luật giao thông, người tham gia giao thông mà biết mọi khoản luật thì “chết liền”.
Có một tiến trình ngược: tìm cách làm cho luật đi vào đời sống, mà không phải là cuộc sống tạo nên luật? Tại sao không? Hơn nữa, những người ở “ngoài luật” thì thế nào? Vấn đề là do luật hay do con người?
Khi thanh toán hóa đơn, người bán hàng chủ động hỏi: anh muốn viết hóa đơn kiểu nào? Cao hơn hay thấp hơn giá thật?
Số tiền “khó tưởng tượng” được đầu tư cho ngành giáo dục, khi bị chất vấn, chỉ được trả lời tỉnh queo là “nhầm lẫn”. Các công trình công cộng, khi không thể nghiệm thu, chỉ được giải thích đơn giản là thiếu tiền, là giải ngân chưa kịp.
Khi hai người va chạm gây ra tai nạn giao thông, thì việc đầu tiên người “sống sót” nghĩ tới không phải là đem người bị nạn đi bệnh viện, mà là “chuồn cho nhanh”.
Như thế, nếu không đặt câu hỏi về con người, về trách nhiệm, thì tương lai tươi sáng cho cá nhân, cho cộng đồng chỉ là thiên đường ảo tưởng mà thôi.
…
Trong gia đình, thật và giả có vẻ “thân quen” hơn.
Cha mẹ ít học có thể thu mình lại trước con cái học nhiều. Có bậc cha mẹ chê bai “mớ lý thuyết” của con cái, và cho rằng, kinh nghiệm trường đời mới quan trọng. Cha mẹ học cao có thể gây sức ép lên định hướng tương lai của con cái, có thể áp đặt tiêu chuẩn và ước mơ của mình lên con cái. Có bậc cha mẹ “bỏ mặc” con cái.
Ngược lại, nhiều người con chê bai cha mẹ quê mùa. Nhiều người con muốn “thoát khỏi vòng tay” của cha mẹ. Nhiều người con muốn “chối bỏ” cha mẹ mình.
Ước gì con người có thể đón nhận nhau hơn, có thể chân thật hơn, tốt lành hơn. Ước mơ chỉ là ước mơ nếu thiếu hành động. Hành động “khẳng định” là biến ước mơ, biến tiềm năng thành hiện thực. Thế nhưng, nếu “khẳng định mình” mà loại trừ người khác, loại trừ cộng đồng, thì thật nguy hiểm. “Tiến bộ” như thế thì tụt lùi là lẽ đương nhiên. Thấy cây mà không thấy rừng, thì con người chỉ là những hòn đảo cô độc. Thấy rừng mà không thấy cây, thì xã hội loài người chỉ là một xã hội vô hồn.
Vinh Sơn Vũ Tứ Quyết, S.J
COI CHỪNG… GIẢ!
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN NĂM B
Xung quanh chúng ta tràn ngập hàng giả. Điều đáng sợ, là chúng ta khó có thể phân biệt giữa giả và thật. Càng là hàng giả, bề ngoài mẫu mã càng bắt mắt, càng dễ thu hút thị hiếu… Nó cũng tiếp thị, phô trương rộng rãi. Nó cũng được chào đón trang trọng, được quảng bá rùm ben. Nhưng thực chất, nó là hàng giả. Giả từ trong ra ngoài. Giả từ trên xuống dưới.
Con người cũng có “người giả”, “người thật”. Hãy nghe Chúa Giêsu nói về những thứ giả hiệu ấy: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 38-40).
Với cung giọng tỏ ra khó chịu của mình, Chúa Giêsu tha thiết cảnh báo cái thật, cái giả về lòng đạo đức. Có những con người, cứ nhìn nét “chu chu chấm chấm” của họ, tưởng là họ đạo đức, nhưng thực ra, lòng họ chẳng khác gì nòi rắn độc.
Các kinh sư được Chúa nhắc đến trong Tin Mừng, thuộc hạn người này. Họ đã không dễ dàng lọt qua cặp mắt của Chúa. Đúng hơn, Chúa nhìn thấu lòng dạ họ. Chúa nhìn thấu tâm tư, và lương tâm họ. Chúa cất tiếng cảnh báo mọi người hãy coi chừng, kẻo bị lừa.
Kinh sư là ai? Họ là những người am hiểu Thánh Kinh. Họ là thầy dạy và giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ có chỗ đứng trang trọng trong đời sống tôn giáo Dothái. Họ có những đặc quyền và hưởng những đặc quyền này nơi đền thờ, nơi những phúc lợi từ các sinh hoạt tôn giáo. Họ là người được dân chúng kính trọng. Họ được xem là chuẩn mực cho việc tuân giữ lề luật và giao ước của Thiên Chúa. Họ được quyền dạy bảo và nhắc nhở dân chúng về việc ăn ngay ở lành, tông trọng luật pháp của Thiên Chúa…
Điều đau lòng ở đây là, họ thuộc “hàng giả”. Họ chỉ là những kinh sư “giả hiệu”. Họ trau chuốt bên ngoài, nhưng thiếu hẳn lòng đạo đức bên trong. Họ am hiểu Lời Chúa trong Thánh Kinh, nhưng họ không sống Lời Chúa. Họ dạy người ta giữ lề luật của Chúa, nhưng họ lại coi thường lề luật. Họ không có đời sống cầu nguyện, nên họ trở thành kẻ lừa gạt mọi người. Họ không có tấm lòng cho Thiên Chúa, nên họ trở thành kẻ hưởng lợi bất chính trên những phúc lợi mà mọi người dâng hiến cho Thiên Chúa…
Vì thế, ta có thể xem nội dung Tin Mừng hôm nay, là lời mà Chúa Giêsu chống lại những kẻ đạo đức giả. Hơn thế, Chúa chống lại những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh, là những “kinh sư thời mới”, nhưng giả hiệu.
Hơn ai hết, các nhà lãnh đạo trong Hội Thánh phải xem lại cách sống, cách thể hiện lòng đạo đức, cách mà mình tương quan với mọi người. Chúng ta có “trọng sang khinh bần”? Chúng ta có tìm cách tô vẽ bề ngoài cho “hoành tráng”, cho “lộng lẫy”, nhưng chiều sâu đạo đức, chiều sâu nội tâm bị bỏ quên? Chúng ta tìm những hào nhoáng, tìm những lối “tự xông hương” mình để che đậy khuyết điểm nào đó? Chúng ta ưa những kiểu “xúng xính”, ưa thể hiện mình là “trên” là “nhất”, ưa những “nhãn hiệu”, những “mác” mà trước mặt người đời có thể “cao trọng”, nhưng vô bổ trước mặt Thiên Chúa?
Nếu là người lãnh đạo tinh thần của muôn dân, mà lại “sính” những điều vừa kể, thì không phải chờ đến Chúa Giêsu, nhưng từ ngàn xưa, Lời Chúa trong sách Huấn ca đã cảnh báo: “Hãy cẩn thận, hãy hết sức coi chừng, vì con đang đồng hành với sự suy vong rồi đó” (13, 13).
Trong Tin Mừng theo thánh Mathêô, Chúa Giêsu vạch trần kiểu “sính” ấy: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (7, 15).
Thánh Phaolô còn mắng nặng hơn: “Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì!” (Philip 3, 2).
Đặc biệt, nếu Chúa Giêsu nghiêm khắc chống lại việc tham lam tiền của, thì từ ngàn xưa, sách Gióp đã lên tiếng khuyên dạy: “Hãy coi chừng, đừng để cho mình bị giàu sang mê hoặc hay bị lung lạc vì quà cáp bạc tiền” (36, 18).
Tội nghiệp những người nghèo, vốn đã nghèo, đã bần cùng, càng khốn cùng hơn. Chúa Giêsu lên án thói đạo đức giả và tham lam vô độ ấy: “Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 38-40).
Đừng chỉ là trang bị những hiểu biết, những kiến thức Lời Chúa, nhưng hãy để cho Lời Chúa, giới luật của Chúa, giáo lý của Chúa chi phối, điều khiển tâm hồn mình; chi phối, điều khiển cuộc sống và cách hành xử của mình…
Hãy lắng nghe Lời Chúa. Hãy biết sợ lời thật của Chúa. Tất cả chúng ta hãy tránh xa thói đạo đức giả. Hãy sống thật. Hãy thể hiện lòng thật. Hãy có tấm lòng, chứ đừng chỉ có hình thức. Đừng chỉ chưng diện bên ngoài, những hãy sửa soạn tâm hồn chu đáo.
Nếu không có tấm lòng mà chỉ lo “sơn phết” bên ngoài, chúng ta thật đáng bị xem thường. Chính Lời Thiên Chúa không những ủng hộ mà còn hướng dẫn cho sự bị xem thường ấy: “Nếu nó tự hạ và đi đứng khúm núm, thì con phải cảnh giác và coi chừng; hãy đối xử với nó như người lau gương, và biết rằng rốt cuộc nó sẽ bị lật tẩy” (Hc 12, 11).
Những bậc lãnh đạo trong Hội Thánh, phải biết cảnh giác, biết ngăn ngừa để bản thân khỏi bị lây nhiễm, khỏi bị ảnh hưởng thái độ “kinh sư” mà Chúa từng chỉ trích.
Hãy sống thực tâm, đừng giả hình. Hãy nghe thánh Gioan dạy: “Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng” (2Ga, 1, 8), mà sống thật tốt, và phấn đấu từng ngày nhằm bảo vệ bằng được những điều thiện được Chúa ghi nhận và những phúc lành Chúa ban.
Những bậc lãnh đạo trong Hội Thánh hãy rao giảng Lời Chúa sau khi chính mình đã cố gắng sống Lời Chúa. Họ hãy là người nêu gương tuân giữ lề luật trước khi đòi người khác phải tuân giữ. Họ hãy cúi xuống để thông chia phận người, chứ đừng khoa trương trên môi miệng. Họ hãy là người của muôn người, người giữa muôn người bằng cõi lòng thật tâm muốn đến và muốn sống giữa muôn người. Họ hãy “coi chừng thế gian” (1Ga 2, 1) len lỏi vào cung cách sống, cung cách lãnh đạo của họ.
Trong thực tế đời sống, vẫn có những người, bên ngoài xem ra gồ ghề, xù xì, nhưng lòng họ lại chất chứa sự thiện, chất chứa những nét đáng yêu, chất chứa tình yêu Thiên Chúa.
Thà chúng ta là người gồ ghề, xù xì bên ngoài, nhưng lòng chúng ta, tâm chúng ta là lòng và tâm đầy Chúa, đầy tình yêu của Chúa, hơn là bề ngoài có vẻ trơn láng, sạch sẽ, mà lòng và tâm đầy nhơ nhớp, bẩn thỉu.
Hàng giả, hàng gian, hàng nhái…, không những độc hại, nguy hiểm, mà còn nhẫn tâm, tàn ác, đem cái chết đến cho người nào mua nhầm nó, ăn nhầm nó.
Cũng vậy, “kinh sư”, dù thời xưa hay thời nay mà giả hiệu, thì cũng chỉ là cặn bã độc hại cho những ai mà họ được quyền lãnh đạo.
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN NĂM B
Xung quanh chúng ta tràn ngập hàng giả. Điều đáng sợ, là chúng ta khó có thể phân biệt giữa giả và thật. Càng là hàng giả, bề ngoài mẫu mã càng bắt mắt, càng dễ thu hút thị hiếu… Nó cũng tiếp thị, phô trương rộng rãi. Nó cũng được chào đón trang trọng, được quảng bá rùm ben. Nhưng thực chất, nó là hàng giả. Giả từ trong ra ngoài. Giả từ trên xuống dưới.
Con người cũng có “người giả”, “người thật”. Hãy nghe Chúa Giêsu nói về những thứ giả hiệu ấy: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 38-40).
Với cung giọng tỏ ra khó chịu của mình, Chúa Giêsu tha thiết cảnh báo cái thật, cái giả về lòng đạo đức. Có những con người, cứ nhìn nét “chu chu chấm chấm” của họ, tưởng là họ đạo đức, nhưng thực ra, lòng họ chẳng khác gì nòi rắn độc.
Các kinh sư được Chúa nhắc đến trong Tin Mừng, thuộc hạn người này. Họ đã không dễ dàng lọt qua cặp mắt của Chúa. Đúng hơn, Chúa nhìn thấu lòng dạ họ. Chúa nhìn thấu tâm tư, và lương tâm họ. Chúa cất tiếng cảnh báo mọi người hãy coi chừng, kẻo bị lừa.
Kinh sư là ai? Họ là những người am hiểu Thánh Kinh. Họ là thầy dạy và giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ có chỗ đứng trang trọng trong đời sống tôn giáo Dothái. Họ có những đặc quyền và hưởng những đặc quyền này nơi đền thờ, nơi những phúc lợi từ các sinh hoạt tôn giáo. Họ là người được dân chúng kính trọng. Họ được xem là chuẩn mực cho việc tuân giữ lề luật và giao ước của Thiên Chúa. Họ được quyền dạy bảo và nhắc nhở dân chúng về việc ăn ngay ở lành, tông trọng luật pháp của Thiên Chúa…
Điều đau lòng ở đây là, họ thuộc “hàng giả”. Họ chỉ là những kinh sư “giả hiệu”. Họ trau chuốt bên ngoài, nhưng thiếu hẳn lòng đạo đức bên trong. Họ am hiểu Lời Chúa trong Thánh Kinh, nhưng họ không sống Lời Chúa. Họ dạy người ta giữ lề luật của Chúa, nhưng họ lại coi thường lề luật. Họ không có đời sống cầu nguyện, nên họ trở thành kẻ lừa gạt mọi người. Họ không có tấm lòng cho Thiên Chúa, nên họ trở thành kẻ hưởng lợi bất chính trên những phúc lợi mà mọi người dâng hiến cho Thiên Chúa…
Vì thế, ta có thể xem nội dung Tin Mừng hôm nay, là lời mà Chúa Giêsu chống lại những kẻ đạo đức giả. Hơn thế, Chúa chống lại những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh, là những “kinh sư thời mới”, nhưng giả hiệu.
Hơn ai hết, các nhà lãnh đạo trong Hội Thánh phải xem lại cách sống, cách thể hiện lòng đạo đức, cách mà mình tương quan với mọi người. Chúng ta có “trọng sang khinh bần”? Chúng ta có tìm cách tô vẽ bề ngoài cho “hoành tráng”, cho “lộng lẫy”, nhưng chiều sâu đạo đức, chiều sâu nội tâm bị bỏ quên? Chúng ta tìm những hào nhoáng, tìm những lối “tự xông hương” mình để che đậy khuyết điểm nào đó? Chúng ta ưa những kiểu “xúng xính”, ưa thể hiện mình là “trên” là “nhất”, ưa những “nhãn hiệu”, những “mác” mà trước mặt người đời có thể “cao trọng”, nhưng vô bổ trước mặt Thiên Chúa?
Nếu là người lãnh đạo tinh thần của muôn dân, mà lại “sính” những điều vừa kể, thì không phải chờ đến Chúa Giêsu, nhưng từ ngàn xưa, Lời Chúa trong sách Huấn ca đã cảnh báo: “Hãy cẩn thận, hãy hết sức coi chừng, vì con đang đồng hành với sự suy vong rồi đó” (13, 13).
Trong Tin Mừng theo thánh Mathêô, Chúa Giêsu vạch trần kiểu “sính” ấy: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (7, 15).
Thánh Phaolô còn mắng nặng hơn: “Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì!” (Philip 3, 2).
Đặc biệt, nếu Chúa Giêsu nghiêm khắc chống lại việc tham lam tiền của, thì từ ngàn xưa, sách Gióp đã lên tiếng khuyên dạy: “Hãy coi chừng, đừng để cho mình bị giàu sang mê hoặc hay bị lung lạc vì quà cáp bạc tiền” (36, 18).
Tội nghiệp những người nghèo, vốn đã nghèo, đã bần cùng, càng khốn cùng hơn. Chúa Giêsu lên án thói đạo đức giả và tham lam vô độ ấy: “Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 38-40).
Đừng chỉ là trang bị những hiểu biết, những kiến thức Lời Chúa, nhưng hãy để cho Lời Chúa, giới luật của Chúa, giáo lý của Chúa chi phối, điều khiển tâm hồn mình; chi phối, điều khiển cuộc sống và cách hành xử của mình…
Hãy lắng nghe Lời Chúa. Hãy biết sợ lời thật của Chúa. Tất cả chúng ta hãy tránh xa thói đạo đức giả. Hãy sống thật. Hãy thể hiện lòng thật. Hãy có tấm lòng, chứ đừng chỉ có hình thức. Đừng chỉ chưng diện bên ngoài, những hãy sửa soạn tâm hồn chu đáo.
Nếu không có tấm lòng mà chỉ lo “sơn phết” bên ngoài, chúng ta thật đáng bị xem thường. Chính Lời Thiên Chúa không những ủng hộ mà còn hướng dẫn cho sự bị xem thường ấy: “Nếu nó tự hạ và đi đứng khúm núm, thì con phải cảnh giác và coi chừng; hãy đối xử với nó như người lau gương, và biết rằng rốt cuộc nó sẽ bị lật tẩy” (Hc 12, 11).
Những bậc lãnh đạo trong Hội Thánh, phải biết cảnh giác, biết ngăn ngừa để bản thân khỏi bị lây nhiễm, khỏi bị ảnh hưởng thái độ “kinh sư” mà Chúa từng chỉ trích.
Hãy sống thực tâm, đừng giả hình. Hãy nghe thánh Gioan dạy: “Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng” (2Ga, 1, 8), mà sống thật tốt, và phấn đấu từng ngày nhằm bảo vệ bằng được những điều thiện được Chúa ghi nhận và những phúc lành Chúa ban.
Những bậc lãnh đạo trong Hội Thánh hãy rao giảng Lời Chúa sau khi chính mình đã cố gắng sống Lời Chúa. Họ hãy là người nêu gương tuân giữ lề luật trước khi đòi người khác phải tuân giữ. Họ hãy cúi xuống để thông chia phận người, chứ đừng khoa trương trên môi miệng. Họ hãy là người của muôn người, người giữa muôn người bằng cõi lòng thật tâm muốn đến và muốn sống giữa muôn người. Họ hãy “coi chừng thế gian” (1Ga 2, 1) len lỏi vào cung cách sống, cung cách lãnh đạo của họ.
Trong thực tế đời sống, vẫn có những người, bên ngoài xem ra gồ ghề, xù xì, nhưng lòng họ lại chất chứa sự thiện, chất chứa những nét đáng yêu, chất chứa tình yêu Thiên Chúa.
Thà chúng ta là người gồ ghề, xù xì bên ngoài, nhưng lòng chúng ta, tâm chúng ta là lòng và tâm đầy Chúa, đầy tình yêu của Chúa, hơn là bề ngoài có vẻ trơn láng, sạch sẽ, mà lòng và tâm đầy nhơ nhớp, bẩn thỉu.
Hàng giả, hàng gian, hàng nhái…, không những độc hại, nguy hiểm, mà còn nhẫn tâm, tàn ác, đem cái chết đến cho người nào mua nhầm nó, ăn nhầm nó.
Cũng vậy, “kinh sư”, dù thời xưa hay thời nay mà giả hiệu, thì cũng chỉ là cặn bã độc hại cho những ai mà họ được quyền lãnh đạo.
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG
MỘT NGỌN LÁ CÂY CHE MẮT.
Nước Sở có một người gia cảnh khó khăn.
Đọc trong sách “Chuẩn Nam tử”, được biết lúc con bọ ngựa bắt con ve sầu thì nó ẩn sau ngọn lá, có thể che khuất được thân người, thế là anh ta bèn đi tìm chiếc lá thật.
Anh ta chạy đến dưới một gốc cây quan sát, thì phát hiện có một ngọn lá che khuất con bọ ngựa, bèn đưa tay ngắt ngọn lá ấy xuống, không ngờ chiếc lá sẩy tay rơi xuống đất, nằm lẩn lộn trong những chiếc lá khác không tài nào nhận ra, thế là, anh ta dứt khoát quét tất cả các lá rụng ấy nhét đầy khoảng mấy đấu (thúng).
Sau khi ôm lá về đến nhà, anh ta cầm từng ngọn, từng ngọn lá thay nhau đưa lên che mắt của mình và hỏi vợ:
- “Em nhìn thấy anh không ?”
Mới đầu, vợ nói thật:
- “Có thể nhìn thấy”.
Chồng hỏi cả ngày, vợ không chịu đựng được, bèn nói đùa với chồng:
- “Không nhìn thấy”.
Người ấy rất vui mừng, vội vàng chạy đến nơi chỗ phố xá nhộn nhịp, đưa cao ngọn lá, thản nhiên như không, lấy đồ của người khác ngay trước mặt người ta. Kết quả là anh ta bị túm cổ đưa vào nha huyện.
(Tiếu lâm)
Suy tư 35:
Ngọn lá thì lớn, con bọ ngựa thì nhỏ, chắc chắn là che được nó, chứ ngọn lá làm sao mà che khuất được thân của con người, đúng là chuyện...tiếu lâm.
Vậy mà trên thế gian có những người lấy vải thưa che mắt thánh. Vải thưa là những hành vi đạo đức bên ngoài, những lời nói “thấm nhuần yêu thương”, thái độ khiêm tốn.v.v.. nhưng che giấu bên trong những âm mưu chết người; che mắt thánh là dùng những hành vi như trên để lừa dối mọi người, để che mắt mọi người, làm cho ai cũng cứ tưởng họ là những người đạo đức thánh thiện, nhưng lâu ngày rồi người ta cũng sẽ biết là họ cũng có cái đuôi lừa lòi ra.
Lấy vải thưa che mắt thánh cũng ám chỉ đến những người kiêu ngạo, những người “trong óc não không có gì“ mà luôn tự khoe khoang: tôi thế này, tôi thế nọ, mà không làm được gì cả, rồi cuối cùng cũng lòi ra cái đuôi dốt đặc cán mai. Đúng là chuyện tiếu lâm thời đại.
Cũng có nhiều lúc vì tự ái, tự cao tự đại mà tôi lấy vải thưa che mắt Thiên Chúa, nên mọi người tẩy chay không thèm nhìn mặt tôi nữa; và có khi vì tính tự cao tự đại của tôi mà nhiều tín hữu bỏ nhà thờ, không thèm đến nhà thờ tham gia mọi sinh hoạt tôn giáo.
Một ngọn lá cây nho nhỏ không thể che được thân con người, nhưng một hành vi hoặc một lời nói kiêu ngạo thì có thể trở thành bức tường ngăn cách người ta đến với Thiên Chúa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
Nước Sở có một người gia cảnh khó khăn.
Đọc trong sách “Chuẩn Nam tử”, được biết lúc con bọ ngựa bắt con ve sầu thì nó ẩn sau ngọn lá, có thể che khuất được thân người, thế là anh ta bèn đi tìm chiếc lá thật.
Anh ta chạy đến dưới một gốc cây quan sát, thì phát hiện có một ngọn lá che khuất con bọ ngựa, bèn đưa tay ngắt ngọn lá ấy xuống, không ngờ chiếc lá sẩy tay rơi xuống đất, nằm lẩn lộn trong những chiếc lá khác không tài nào nhận ra, thế là, anh ta dứt khoát quét tất cả các lá rụng ấy nhét đầy khoảng mấy đấu (thúng).
Sau khi ôm lá về đến nhà, anh ta cầm từng ngọn, từng ngọn lá thay nhau đưa lên che mắt của mình và hỏi vợ:
- “Em nhìn thấy anh không ?”
Mới đầu, vợ nói thật:
- “Có thể nhìn thấy”.
Chồng hỏi cả ngày, vợ không chịu đựng được, bèn nói đùa với chồng:
- “Không nhìn thấy”.
Người ấy rất vui mừng, vội vàng chạy đến nơi chỗ phố xá nhộn nhịp, đưa cao ngọn lá, thản nhiên như không, lấy đồ của người khác ngay trước mặt người ta. Kết quả là anh ta bị túm cổ đưa vào nha huyện.
(Tiếu lâm)
Suy tư 35:
Ngọn lá thì lớn, con bọ ngựa thì nhỏ, chắc chắn là che được nó, chứ ngọn lá làm sao mà che khuất được thân của con người, đúng là chuyện...tiếu lâm.
Vậy mà trên thế gian có những người lấy vải thưa che mắt thánh. Vải thưa là những hành vi đạo đức bên ngoài, những lời nói “thấm nhuần yêu thương”, thái độ khiêm tốn.v.v.. nhưng che giấu bên trong những âm mưu chết người; che mắt thánh là dùng những hành vi như trên để lừa dối mọi người, để che mắt mọi người, làm cho ai cũng cứ tưởng họ là những người đạo đức thánh thiện, nhưng lâu ngày rồi người ta cũng sẽ biết là họ cũng có cái đuôi lừa lòi ra.
Lấy vải thưa che mắt thánh cũng ám chỉ đến những người kiêu ngạo, những người “trong óc não không có gì“ mà luôn tự khoe khoang: tôi thế này, tôi thế nọ, mà không làm được gì cả, rồi cuối cùng cũng lòi ra cái đuôi dốt đặc cán mai. Đúng là chuyện tiếu lâm thời đại.
Cũng có nhiều lúc vì tự ái, tự cao tự đại mà tôi lấy vải thưa che mắt Thiên Chúa, nên mọi người tẩy chay không thèm nhìn mặt tôi nữa; và có khi vì tính tự cao tự đại của tôi mà nhiều tín hữu bỏ nhà thờ, không thèm đến nhà thờ tham gia mọi sinh hoạt tôn giáo.
Một ngọn lá cây nho nhỏ không thể che được thân con người, nhưng một hành vi hoặc một lời nói kiêu ngạo thì có thể trở thành bức tường ngăn cách người ta đến với Thiên Chúa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
NHỎ MÀ TO
Có những điều tưởng nhỏ mà hóa to, có những điều tưởng to mà lại nhỏ. Như tục ngữ Việt Nam nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. To hoặc nhỏ cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng, tiêu cực và tích cực. Chuyện nhỏ và to giống như vòng lẩn quẩn, có cái khôi hài mà “thấm thía”.
Trong cộng đồng mạng, người ta có luận về “chuyện nhỏ – to” như thế này:“Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có… có…” (*). Đúng là cười ra nước mắt, cười mà đau, cười mà chẳng vui chút nào! Sao thế nhỉ? Chỉ khổ cho đám “dân đen”, kêu chẳng ai thèm nghe!
Chu kỳ “nhỏ-to” như vậy không chỉ nói tới xã hội, đừng vội cười người kẻo bị người cười, vì trong đó cũng thấy “thấp thoáng” bóng dáng những người có chức vị trong tôn giáo. Dù to hay nhỏ, dù rộng hay hẹp, loại “ô dù” nào cũng đáng sợ. Kiểu nào thì cũng chỉ khổ đám dân đen thấp cổ bé miệng mà thôi!
Tuy nhiên, sự thật mãi mãi là sự thật, và sự thật thường làm chúng ta đau lòng, ngại đối mặt, thế nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ “nên khôn”, vì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32) – Thầy chí thánh Giêsu đã bảo thế.
Trình thuật Ds 11:25-29 cho biết: “Ngày xưa, Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa”. Thần Khí đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài không bao giờ xuất hiện trong dạng hình người – chỉ như Gió, Lửa, Nước, hoặc Bồ Câu – nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động nơi mỗi chúng ta, ngay từ trong ý nghĩ.
Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!”. Ông Giô-suê, con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!”. Nhưng ông Mô-sê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!”.
Được lãnh nhận Thần Khí là điều ai cũng muốn, ông Mô-sê cũng đã mong cho mọi người đều được ơn “nói tiếng lạ” để trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa. Về cơ bản, bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì đều có thiên chức: Ngôn sứ, Tư tế, và Vương giả.
Đây là lĩnh vực thần học, như Công đồng Vatican II đã đề cập trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội (số 10). Đại ý: Thiên chức Tư tế (linh mục là tư tế thừa tác, Kitô hữu là tư tế cộng đồng) là để hiến dâng của lễ cứu độ loài người; Tiên tri (hoặc Ngôn sứ) là để loan báo Tin Mừng Nước Trời; Thiên chức Vương giả (hoặc Vương đế) là để phục vụ dân riêng của Thiên Chúa.
Với mỗi Kitô hữu (dù là giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, giáo dân, thành viên Đạo Binh Đức Mẹ, Lòng Chúa Thương Xót, Phạt Tạ Thánh Tâm, Con Đức Mẹ, Dòng Ba Đa-minh, Cursillo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội đồng Giáo xứ,…), đều được Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em em như những viên đá sống động mà xây lên ngôi đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa dắt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2:5).
Thời gian gần đây, chúng ta thấy xuất hiện phong trào “Sứ Điệp Từ Trời”, hoặc vấn đề “Canh Tân Đặc Sủng Với Ơn Té Ngã Và Nói Tiếng Lạ” mà Lm P.X. Ngô Tôn Huấn đã vài lần đề cập và cảnh báo. Quả thật, nếu chúng ta cứ “chạy đua” theo các “sự lạ” như vậy, coi chừng sẽ hóa thành Tin Lành.
Vì thế, đừng ham “thành tích” hoặc “sự lạ” mà tự làm hại đức tin của chính mình. Phúc đâu chưa thấy mà lại thấy họa! Trừ một số ít các vị thánh có ơn đặc biệt (như Thánh Martin de Porres, Thánh Faustina, Thánh Piô Năm Dấu,…), đa số các thánh đều có cuộc sống bình thường, thậm chí là rất bình thương, không có gì gọi là “lạ”. Vấn đề quan trọng vẫn là sống lòng thương xót để chứng tỏ đức tin vững mạnh và trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng. Ngay như đối với Thánh Gioan XXIII, Thánh Gioan Phaolô II, Chân phước Phaolô VI, Chân phước Têrêsa Calcutta, Bậc đáng kính P.X. Nguyễn Văn Thuận,… là những người vừa sống cùng thời với chúng ta, cuộc đời các ngài không có gì gọi là “sự lạ”, có chăng là cách sống “lạ” – tức là thâm tín, chịu đựng, hy sinh,… vì mến Chúa và yêu người. Ai thực sự được gặp Chúa thì chắc chắn cuộc đời biến đổi hẳn, chứ không “nửa vời” như những người vẫn vỗ ngực tự nhận là được “ơn lạ”, nhưng cách sống của họ không thấy rõ nét biến đổi. Quả là chí lý khi tiền nhân cảnh báo chúng ta: Cẩn tắc vô ưu!
Chắc hẳn tác giả Thánh Vịnh cũng có cuộc sống đời thường như chúng ta, nhưng có cái “lạ” là biết giữ trọn Luật Chúa và nhận thức sâu sắc: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Nhận thức được như vậy thì quyết tâm tuân thủ, không so đo, không tính toán: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh (Tv 19:10).
Tác giả Thánh Vịnh thật là khôn ngoan khi biết tìm kiếm và cầu xin những gì thực sự có lợi cho linh hồn: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽnên vẹn toàn, không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14).
Là Đấng chí tôn, tối thượng, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình đến tột cùng để sẵn sàng coi tội nhân chúng ta là thân hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Chúng ta dành cả đời để tạ ơn Ngài cũng không đủ, chứ nói chi dám năn nỉ Ngài ban cho điều gì nữa. Vì thế, chớ có ngu xuẩn mà ảo tưởng, tự cho mình là “ông kia, bà nọ”, hoặc đòi phải thế nọ, thế kia.
Thánh Giacôbê vừa nhắc nhở vừa cảnh báo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5:1-3).
Giàu sang, lắm của và nhiều tiền, đó không là tội. Nhưng tiền bạc có ma lực khó cưỡng lại, vì thế mà Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Đừng tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người còn tệ hơn giáo dân.
Ví dụ: Gm Tebartz-van Elst “nổi tiếng” là xa hoa hào nhoáng ở Đức, đã chi hơn 31 triệu euro để tu sửa dinh cơ của ông. ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng 10-2014. Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem tiền bạc đã bị tước năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles (Hoa Kỳ) từ ngày 25-6-2015. Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non vài tháng qua vì lem nhem tiền bạc, quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân ông. Và rồi các dịp đặc biệt (lễ, tết,…), Việt Nam cũng đã có giám mục được người ta đến chúc mừng bằng vật chất “béo bở” (không chỉ “phong bì dày” mà “vàng thật”). Thảo nào người ta bảo “tiền là tiên, là Phật,…”. Thật ngu xuẩn đối với những người xếp hàng để được vào gặp “quan lớn” như vậy! Có nên đặt “dấu hỏi LỚN” hay không nhỉ? Quả thật, đáng quan ngại biết bao!
Đó là cách “gian lận” tinh vi, cách xảo thuật “hối lộ”. Có lẽ lúc này mới thực sự thấm thía lời của Thánh Giacôbê: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Muốn có đức tin sống động, không còn cách nào hơn là có đời sống cầu nguyện liên lỉ, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Giacôbê nói thêm: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:4-6). Thật chí lý khi tiền nhân xác định: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cái nào cũng to, cũng khó, nhưng khó nhất vẫn là “tu thân”. Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt tiêu chí “tu thân” lên hàng đầu.
Hãy luôn ghi nhớ lời của Thánh Phaolô: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Và cũng đừng quên lời của Thánh Phêrô:“Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chuyện NHỎ mà lại TO, không hề NHỎ chút nào ráo trọi!
Với những người giàu, Thánh Phaolô đưa ra lời khuyên để Thánh Timôthê truyền đạt lại: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họđừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họphải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1 Tm 17:19). Khác nhau là giàu cái gì, đời này hay đời sau.
Một hôm, chàng trai trẻ Gioan nói với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Gioan hơi bị vô duyên, vì cứ tưởng không ai khác có quyền trừ quỷ. Ảo tưởng! Cái ảo tưởng của Gioan cũng là cái ảo tưởng của nhiều người trong chúng ta ngày nay. Và rồi Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40).
Sau đó, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Chén nước chẳng là gì, chỉ là “chuyện nhỏ”, thế nhưng lại là “chuyện lớn”, chuyện quan trọng, và được Chúa Giêsu “chấm công”. Tất nhiên “việc nhỏ” đó phải được thực hiện với tình yêu thương, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, chứ không vì bất cứ lý do gì khác.
Liên quan vấn đề nhỏ – to, Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất “nặng”, nhưng Ngài nói thật, không hề nói giỡn chơi hoặc hù dọa chi cả. Thiết tưởng rằng trẻ nhỏ ở đây không chỉ là trẻ thơ, trẻ em, hoặc con nít, mà còn là những người chân chất thật thà – dù đã trưởng thành hoặc cao niên.
Và còn hơn thế nữa, vốn dĩ tính thẳng thắn thật thà, Chúa Giêsu nói “mạnh” hơn nữa: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48).
Những lời này đầy “lửa”, có thể thiêu đốt bất cứ người nào, bất cứ lúc nào, và bất cứ nơi nào!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thực hiện những điều bình thường một cách phi thường, làm với tình đồng loại thực sự, mong sao được nên giống Ngài phần nào, vì con biết con rất dễ ảo tưởng. Xin thương xót, định hướng và nâng đỡ con, lạy Chúa! Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO nhưng hiệu quả NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO nhưng lỗi lại NHỎ… Trong đất nước NHỎ có những ông lãnh đạo TO, những ông lãnh đạo TO có cái đầu NHỎ, cái đầu NHỎ nhưng túi tham TO, túi tham TO bởi vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên tác hại TO, tác hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO, quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ nhưng lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ nhưng tổn thất TO, tổn thất TO nhưng báo cáo là NHỎ , báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật vẫn TO. Và… cán bộ TO đi xe NHỎ (xe riêng), cán bộ NHỎ lại đi xe TO (xe đò), ông quan TO thường ở với vợ NHỎ (vợ bé), ông quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả) và ở nhà TO (nhà tập thể)…
Có những điều tưởng nhỏ mà hóa to, có những điều tưởng to mà lại nhỏ. Như tục ngữ Việt Nam nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. To hoặc nhỏ cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng, tiêu cực và tích cực. Chuyện nhỏ và to giống như vòng lẩn quẩn, có cái khôi hài mà “thấm thía”.
Trong cộng đồng mạng, người ta có luận về “chuyện nhỏ – to” như thế này:“Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có… có…” (*). Đúng là cười ra nước mắt, cười mà đau, cười mà chẳng vui chút nào! Sao thế nhỉ? Chỉ khổ cho đám “dân đen”, kêu chẳng ai thèm nghe!
Chu kỳ “nhỏ-to” như vậy không chỉ nói tới xã hội, đừng vội cười người kẻo bị người cười, vì trong đó cũng thấy “thấp thoáng” bóng dáng những người có chức vị trong tôn giáo. Dù to hay nhỏ, dù rộng hay hẹp, loại “ô dù” nào cũng đáng sợ. Kiểu nào thì cũng chỉ khổ đám dân đen thấp cổ bé miệng mà thôi!
Tuy nhiên, sự thật mãi mãi là sự thật, và sự thật thường làm chúng ta đau lòng, ngại đối mặt, thế nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ “nên khôn”, vì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32) – Thầy chí thánh Giêsu đã bảo thế.
Trình thuật Ds 11:25-29 cho biết: “Ngày xưa, Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa”. Thần Khí đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài không bao giờ xuất hiện trong dạng hình người – chỉ như Gió, Lửa, Nước, hoặc Bồ Câu – nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động nơi mỗi chúng ta, ngay từ trong ý nghĩ.
Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!”. Ông Giô-suê, con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!”. Nhưng ông Mô-sê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!”.
Được lãnh nhận Thần Khí là điều ai cũng muốn, ông Mô-sê cũng đã mong cho mọi người đều được ơn “nói tiếng lạ” để trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa. Về cơ bản, bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì đều có thiên chức: Ngôn sứ, Tư tế, và Vương giả.
Đây là lĩnh vực thần học, như Công đồng Vatican II đã đề cập trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội (số 10). Đại ý: Thiên chức Tư tế (linh mục là tư tế thừa tác, Kitô hữu là tư tế cộng đồng) là để hiến dâng của lễ cứu độ loài người; Tiên tri (hoặc Ngôn sứ) là để loan báo Tin Mừng Nước Trời; Thiên chức Vương giả (hoặc Vương đế) là để phục vụ dân riêng của Thiên Chúa.
Với mỗi Kitô hữu (dù là giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, giáo dân, thành viên Đạo Binh Đức Mẹ, Lòng Chúa Thương Xót, Phạt Tạ Thánh Tâm, Con Đức Mẹ, Dòng Ba Đa-minh, Cursillo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội đồng Giáo xứ,…), đều được Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em em như những viên đá sống động mà xây lên ngôi đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa dắt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2:5).
Thời gian gần đây, chúng ta thấy xuất hiện phong trào “Sứ Điệp Từ Trời”, hoặc vấn đề “Canh Tân Đặc Sủng Với Ơn Té Ngã Và Nói Tiếng Lạ” mà Lm P.X. Ngô Tôn Huấn đã vài lần đề cập và cảnh báo. Quả thật, nếu chúng ta cứ “chạy đua” theo các “sự lạ” như vậy, coi chừng sẽ hóa thành Tin Lành.
Vì thế, đừng ham “thành tích” hoặc “sự lạ” mà tự làm hại đức tin của chính mình. Phúc đâu chưa thấy mà lại thấy họa! Trừ một số ít các vị thánh có ơn đặc biệt (như Thánh Martin de Porres, Thánh Faustina, Thánh Piô Năm Dấu,…), đa số các thánh đều có cuộc sống bình thường, thậm chí là rất bình thương, không có gì gọi là “lạ”. Vấn đề quan trọng vẫn là sống lòng thương xót để chứng tỏ đức tin vững mạnh và trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng. Ngay như đối với Thánh Gioan XXIII, Thánh Gioan Phaolô II, Chân phước Phaolô VI, Chân phước Têrêsa Calcutta, Bậc đáng kính P.X. Nguyễn Văn Thuận,… là những người vừa sống cùng thời với chúng ta, cuộc đời các ngài không có gì gọi là “sự lạ”, có chăng là cách sống “lạ” – tức là thâm tín, chịu đựng, hy sinh,… vì mến Chúa và yêu người. Ai thực sự được gặp Chúa thì chắc chắn cuộc đời biến đổi hẳn, chứ không “nửa vời” như những người vẫn vỗ ngực tự nhận là được “ơn lạ”, nhưng cách sống của họ không thấy rõ nét biến đổi. Quả là chí lý khi tiền nhân cảnh báo chúng ta: Cẩn tắc vô ưu!
Chắc hẳn tác giả Thánh Vịnh cũng có cuộc sống đời thường như chúng ta, nhưng có cái “lạ” là biết giữ trọn Luật Chúa và nhận thức sâu sắc: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Nhận thức được như vậy thì quyết tâm tuân thủ, không so đo, không tính toán: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh (Tv 19:10).
Tác giả Thánh Vịnh thật là khôn ngoan khi biết tìm kiếm và cầu xin những gì thực sự có lợi cho linh hồn: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽnên vẹn toàn, không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14).
Là Đấng chí tôn, tối thượng, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình đến tột cùng để sẵn sàng coi tội nhân chúng ta là thân hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Chúng ta dành cả đời để tạ ơn Ngài cũng không đủ, chứ nói chi dám năn nỉ Ngài ban cho điều gì nữa. Vì thế, chớ có ngu xuẩn mà ảo tưởng, tự cho mình là “ông kia, bà nọ”, hoặc đòi phải thế nọ, thế kia.
Thánh Giacôbê vừa nhắc nhở vừa cảnh báo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5:1-3).
Giàu sang, lắm của và nhiều tiền, đó không là tội. Nhưng tiền bạc có ma lực khó cưỡng lại, vì thế mà Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Đừng tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người còn tệ hơn giáo dân.
Ví dụ: Gm Tebartz-van Elst “nổi tiếng” là xa hoa hào nhoáng ở Đức, đã chi hơn 31 triệu euro để tu sửa dinh cơ của ông. ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng 10-2014. Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem tiền bạc đã bị tước năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles (Hoa Kỳ) từ ngày 25-6-2015. Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non vài tháng qua vì lem nhem tiền bạc, quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân ông. Và rồi các dịp đặc biệt (lễ, tết,…), Việt Nam cũng đã có giám mục được người ta đến chúc mừng bằng vật chất “béo bở” (không chỉ “phong bì dày” mà “vàng thật”). Thảo nào người ta bảo “tiền là tiên, là Phật,…”. Thật ngu xuẩn đối với những người xếp hàng để được vào gặp “quan lớn” như vậy! Có nên đặt “dấu hỏi LỚN” hay không nhỉ? Quả thật, đáng quan ngại biết bao!
Đó là cách “gian lận” tinh vi, cách xảo thuật “hối lộ”. Có lẽ lúc này mới thực sự thấm thía lời của Thánh Giacôbê: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Muốn có đức tin sống động, không còn cách nào hơn là có đời sống cầu nguyện liên lỉ, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Giacôbê nói thêm: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:4-6). Thật chí lý khi tiền nhân xác định: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cái nào cũng to, cũng khó, nhưng khó nhất vẫn là “tu thân”. Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt tiêu chí “tu thân” lên hàng đầu.
Hãy luôn ghi nhớ lời của Thánh Phaolô: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Và cũng đừng quên lời của Thánh Phêrô:“Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chuyện NHỎ mà lại TO, không hề NHỎ chút nào ráo trọi!
Với những người giàu, Thánh Phaolô đưa ra lời khuyên để Thánh Timôthê truyền đạt lại: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họđừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họphải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1 Tm 17:19). Khác nhau là giàu cái gì, đời này hay đời sau.
Một hôm, chàng trai trẻ Gioan nói với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Gioan hơi bị vô duyên, vì cứ tưởng không ai khác có quyền trừ quỷ. Ảo tưởng! Cái ảo tưởng của Gioan cũng là cái ảo tưởng của nhiều người trong chúng ta ngày nay. Và rồi Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40).
Sau đó, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Chén nước chẳng là gì, chỉ là “chuyện nhỏ”, thế nhưng lại là “chuyện lớn”, chuyện quan trọng, và được Chúa Giêsu “chấm công”. Tất nhiên “việc nhỏ” đó phải được thực hiện với tình yêu thương, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, chứ không vì bất cứ lý do gì khác.
Liên quan vấn đề nhỏ – to, Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất “nặng”, nhưng Ngài nói thật, không hề nói giỡn chơi hoặc hù dọa chi cả. Thiết tưởng rằng trẻ nhỏ ở đây không chỉ là trẻ thơ, trẻ em, hoặc con nít, mà còn là những người chân chất thật thà – dù đã trưởng thành hoặc cao niên.
Và còn hơn thế nữa, vốn dĩ tính thẳng thắn thật thà, Chúa Giêsu nói “mạnh” hơn nữa: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48).
Những lời này đầy “lửa”, có thể thiêu đốt bất cứ người nào, bất cứ lúc nào, và bất cứ nơi nào!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thực hiện những điều bình thường một cách phi thường, làm với tình đồng loại thực sự, mong sao được nên giống Ngài phần nào, vì con biết con rất dễ ảo tưởng. Xin thương xót, định hướng và nâng đỡ con, lạy Chúa! Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO nhưng hiệu quả NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO nhưng lỗi lại NHỎ… Trong đất nước NHỎ có những ông lãnh đạo TO, những ông lãnh đạo TO có cái đầu NHỎ, cái đầu NHỎ nhưng túi tham TO, túi tham TO bởi vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên tác hại TO, tác hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO, quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ nhưng lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ nhưng tổn thất TO, tổn thất TO nhưng báo cáo là NHỎ , báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật vẫn TO. Và… cán bộ TO đi xe NHỎ (xe riêng), cán bộ NHỎ lại đi xe TO (xe đò), ông quan TO thường ở với vợ NHỎ (vợ bé), ông quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả) và ở nhà TO (nhà tập thể)…
Đức Kitô, Ngài Là Ai?
…Sống trong một xã hội, tiền bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có thể bạn và tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng tìm kiếm câu trả lời…
Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu đã quên mất đi ý nghĩa của danh xưng này. Kitô, chữ Việt Nam hay kristós trong tiếng cổ Hy Lạp, hay mýh, mêsia, trong tiếng cổ Do Thái có nghĩa Đấng [được] Xức Dầu. Vua Saolê và vua Đavít, hai vị vua đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu độ cũng có thể được gọi là Kitô và Mêsia, bởi họ đã từng được Thiên Chúa xức dầu qua bàn tay của ngôn sứ Samuel (1Samuel 9:26-27; 10:1; 16:12-13). Cho nên, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô hay Đấng Mêsia, người tín hữu đang tuyên xưng tôi tin Đức Giêsu chính là Vua [được Xức Dầu]. Bàn về danh từ thần học Kitô, câu hỏi được đặt ra trong bài tiểu luận này, “Đức Kitô, Ngài là ai?”
Do Thái vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên nằm dưới ách thống trị của đế quốc La Mã. Sống trong tình trạng nô lệ, bị kìm kẹp bởi người ngoại bang, dân Do Thái cầu nguyện và chờ đợi Giavê Thiên Chúa sẽ can thiệp, gửi tới Đấng Thiên Sai, hay Đấng Kitô, hay Đấng Mêsia. Đấng Thiên Sai sẽ lãnh đạo dân chúng đánh đuổi người La Mã ra khỏi đất của sữa và mật ong—tương tự như thời Cựu Ước, Giavê Thiên Chúa đã xức dầu phong vương cho Vua Saolê và Vua Đavít, cả hai đã đánh đuổi người Philistine ra khỏi đất hứa. Sau đó cả hai đã thống nhất, xây dựng Do Thái, biến vùng Đất Hứa trở thành cường quốc trong vùng Trung Đông vào thế kỷ thứ 10 và thứ 9 trước Công Nguyên.
Vào một ngày kia, trong vùng đất dân ngoại, kế cận thành Cêsarê Phêlípphê, nằm phía đông bắc của Galilê, Đức Giêsu hỏi các môn đệ một câu hỏi bất ngờ,
— Người ta nói Thầy là ai?
Các môn đệ tranh nhau nhắc lại tên của những vị ngôn sứ trong thời Cựu Ước,
— Người ta nói Thầy là Êlia.
— Có người nói Thầy là tiên tri Giêrêmia,
— Có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả.
Sau khi lắng nghe các môn đệ tranh nhau tường thuật lại những điều người dân đương thời đồn đại về căn tính của mình, Đức Giêsu một lần nữa lại cất tiếng hỏi,
— Vậy [riêng các con], các con nghĩ Thầy là ai?
Phêrô khẳng khái trả lời,
— Thầy là Đức Kitô (Lk 9:20), Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16:13-20).
Qua câu nói này, Phêrô tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Xức Dầu, và nhiệm vụ của Ngài là lãnh đạo dân Do Thái, đánh đuổi người La Mã, giải cứu dân chúng thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang;
…Một vị tu sĩ kể lại, ngày kia trong khi đang dạo chơi trên những con đường tấp nập người của kinh thành Nữu Ước, ông gặp người bạn cố tri từ hồi bên Việt Nam. Sau một vài câu chuyện hàn huyên tâm sự, người bạn nhìn vị tu sĩ e dè hỏi,
— Ông vẫn tin vào Thượng Đế?
Vị tu sĩ đáp,
— Vâng, tôi vẫn tin vào Thiên Chúa.
Tới phiên vị tu sĩ, ông hỏi lại người bạn,
— Còn ông thì sao, ông tin vào ai?
Người bạn móc ví, lôi ra tờ giấy 20$ đô la xanh lè, cười đáp,
— Tôi, tôi tin vào tấm hình này…
Suy Niệm
Ngày xưa, Đức Giêsu đã hỏi các người thân của mình, “Các con nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi đó, ngày hôm nay, Chúa không hỏi các môn đệ của Ngài nữa, nhưng Ngài đang hỏi chúng ta,
— Con nghĩ Thầy là ai?
Sống trong một xã hội, tiền bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có thể tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng tìm kiếm câu trả lời,
— Hình như… Hình như Thầy không còn là nơi con ẩn náu! Hình như Thầy không còn phải là Đấng con kiếm tìm. Hình như Thầy không phải là Thiên Chúa của con nữa, nhưng là tiền, như người bạn của vị tu sĩ trong câu chuyện đã từng khẳng định. Ngày hôm nay, trong một cuộc sống ngập tràn những tiện nghi vật chất, Laptop mỏng dính, IPad Pro, IPhone 6Plus nhẹ tênh, hình như con không còn cảm thấy nhu cầu cần phải có sự hiện hữu của Thầy trong đời sống nữa. Trong một cuộc sống siêu hành tinh, siêu liên mạng, siêu điện tử, và siêu xa lộ, Thầy, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã được con hạ bệ.
Lời Nguyện
Lạy Chúa, một lần nữa, con lại xin lỗi Chúa bởi con đang lúng túng với chính con khi Chúa đang hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?” Xin ban lại cho con một quả tim trong sạch. Xin ban cho con một niềm tin quyết liệt để con không còn phải lúng túng với niềm tin, với chính con trong ngày hôm nay, ngày mai và vào ngày cuối đời khi con đang đứng trước mặt Chúa.
□ Nguyễn Trung Tây
…Sống trong một xã hội, tiền bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có thể bạn và tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng tìm kiếm câu trả lời…
Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu đã quên mất đi ý nghĩa của danh xưng này. Kitô, chữ Việt Nam hay kristós trong tiếng cổ Hy Lạp, hay mýh, mêsia, trong tiếng cổ Do Thái có nghĩa Đấng [được] Xức Dầu. Vua Saolê và vua Đavít, hai vị vua đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu độ cũng có thể được gọi là Kitô và Mêsia, bởi họ đã từng được Thiên Chúa xức dầu qua bàn tay của ngôn sứ Samuel (1Samuel 9:26-27; 10:1; 16:12-13). Cho nên, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô hay Đấng Mêsia, người tín hữu đang tuyên xưng tôi tin Đức Giêsu chính là Vua [được Xức Dầu]. Bàn về danh từ thần học Kitô, câu hỏi được đặt ra trong bài tiểu luận này, “Đức Kitô, Ngài là ai?”
Do Thái vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên nằm dưới ách thống trị của đế quốc La Mã. Sống trong tình trạng nô lệ, bị kìm kẹp bởi người ngoại bang, dân Do Thái cầu nguyện và chờ đợi Giavê Thiên Chúa sẽ can thiệp, gửi tới Đấng Thiên Sai, hay Đấng Kitô, hay Đấng Mêsia. Đấng Thiên Sai sẽ lãnh đạo dân chúng đánh đuổi người La Mã ra khỏi đất của sữa và mật ong—tương tự như thời Cựu Ước, Giavê Thiên Chúa đã xức dầu phong vương cho Vua Saolê và Vua Đavít, cả hai đã đánh đuổi người Philistine ra khỏi đất hứa. Sau đó cả hai đã thống nhất, xây dựng Do Thái, biến vùng Đất Hứa trở thành cường quốc trong vùng Trung Đông vào thế kỷ thứ 10 và thứ 9 trước Công Nguyên.
Vào một ngày kia, trong vùng đất dân ngoại, kế cận thành Cêsarê Phêlípphê, nằm phía đông bắc của Galilê, Đức Giêsu hỏi các môn đệ một câu hỏi bất ngờ,
— Người ta nói Thầy là ai?
Các môn đệ tranh nhau nhắc lại tên của những vị ngôn sứ trong thời Cựu Ước,
— Người ta nói Thầy là Êlia.
— Có người nói Thầy là tiên tri Giêrêmia,
— Có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả.
Sau khi lắng nghe các môn đệ tranh nhau tường thuật lại những điều người dân đương thời đồn đại về căn tính của mình, Đức Giêsu một lần nữa lại cất tiếng hỏi,
— Vậy [riêng các con], các con nghĩ Thầy là ai?
Phêrô khẳng khái trả lời,
— Thầy là Đức Kitô (Lk 9:20), Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16:13-20).
Qua câu nói này, Phêrô tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Xức Dầu, và nhiệm vụ của Ngài là lãnh đạo dân Do Thái, đánh đuổi người La Mã, giải cứu dân chúng thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang;
…Một vị tu sĩ kể lại, ngày kia trong khi đang dạo chơi trên những con đường tấp nập người của kinh thành Nữu Ước, ông gặp người bạn cố tri từ hồi bên Việt Nam. Sau một vài câu chuyện hàn huyên tâm sự, người bạn nhìn vị tu sĩ e dè hỏi,
— Ông vẫn tin vào Thượng Đế?
Vị tu sĩ đáp,
— Vâng, tôi vẫn tin vào Thiên Chúa.
Tới phiên vị tu sĩ, ông hỏi lại người bạn,
— Còn ông thì sao, ông tin vào ai?
Người bạn móc ví, lôi ra tờ giấy 20$ đô la xanh lè, cười đáp,
— Tôi, tôi tin vào tấm hình này…
Suy Niệm
Ngày xưa, Đức Giêsu đã hỏi các người thân của mình, “Các con nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi đó, ngày hôm nay, Chúa không hỏi các môn đệ của Ngài nữa, nhưng Ngài đang hỏi chúng ta,
— Con nghĩ Thầy là ai?
Sống trong một xã hội, tiền bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có thể tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng tìm kiếm câu trả lời,
— Hình như… Hình như Thầy không còn là nơi con ẩn náu! Hình như Thầy không còn phải là Đấng con kiếm tìm. Hình như Thầy không phải là Thiên Chúa của con nữa, nhưng là tiền, như người bạn của vị tu sĩ trong câu chuyện đã từng khẳng định. Ngày hôm nay, trong một cuộc sống ngập tràn những tiện nghi vật chất, Laptop mỏng dính, IPad Pro, IPhone 6Plus nhẹ tênh, hình như con không còn cảm thấy nhu cầu cần phải có sự hiện hữu của Thầy trong đời sống nữa. Trong một cuộc sống siêu hành tinh, siêu liên mạng, siêu điện tử, và siêu xa lộ, Thầy, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã được con hạ bệ.
Lời Nguyện
Lạy Chúa, một lần nữa, con lại xin lỗi Chúa bởi con đang lúng túng với chính con khi Chúa đang hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?” Xin ban lại cho con một quả tim trong sạch. Xin ban cho con một niềm tin quyết liệt để con không còn phải lúng túng với niềm tin, với chính con trong ngày hôm nay, ngày mai và vào ngày cuối đời khi con đang đứng trước mặt Chúa.
□ Nguyễn Trung Tây
TÔI CHỈ LÀ…
Tôi chỉ là tờ giấy
Mà uy lực vô song
Trước tôi, người run rẩy
Đổi giọng, đổi cả lòng.
Tôi chỉ là tờ giấy
Mà khiến đời long đong
Ngược xuôi hai dòng chảy
Mãi kiếm tìm, chờ trông…
Đời đen, tôi tẩy trắng,
Trắng- tôi nhuộm thành đen
Đường cong tôi bẻ thẳng
Lạ biến thành thân quen.
Tôi là một mảnh giấy
Người cao thượng.. bỗng hèn,
Kẻ hèn thành.. ” thượng đế ”
Dù tâm hồn lấm lem..
Ai cho tôi giá trị,
Ai cho tôi quyền năng,
Ai cho tôi tiếng nói,
Ai vì tôi nhọc nhằn ?
Tôi chỉ là mảnh giấy
Thiện, Ác cũng là tôi,
Dù chà tôi dưới đất
Thoáng chốc trèo lên ngôi.
Hỏi trên đời mấy kẻ
Thoát được bàn tay tôi ?
Tôi xua Đời lẫn Đạo
Chạy vào trong luân hồi..
Tôi là một tờ giấy
Đời vui, buồn mênh mông…
Chỉ ai Luôn Tỉnh Thức.
Hết bị tôi quay mòng!
SƯU TẦM
Tôi chỉ là tờ giấy
Mà uy lực vô song
Trước tôi, người run rẩy
Đổi giọng, đổi cả lòng.
Tôi chỉ là tờ giấy
Mà khiến đời long đong
Ngược xuôi hai dòng chảy
Mãi kiếm tìm, chờ trông…
Đời đen, tôi tẩy trắng,
Trắng- tôi nhuộm thành đen
Đường cong tôi bẻ thẳng
Lạ biến thành thân quen.
Tôi là một mảnh giấy
Người cao thượng.. bỗng hèn,
Kẻ hèn thành.. ” thượng đế ”
Dù tâm hồn lấm lem..
Ai cho tôi giá trị,
Ai cho tôi quyền năng,
Ai cho tôi tiếng nói,
Ai vì tôi nhọc nhằn ?
Tôi chỉ là mảnh giấy
Thiện, Ác cũng là tôi,
Dù chà tôi dưới đất
Thoáng chốc trèo lên ngôi.
Hỏi trên đời mấy kẻ
Thoát được bàn tay tôi ?
Tôi xua Đời lẫn Đạo
Chạy vào trong luân hồi..
Tôi là một tờ giấy
Đời vui, buồn mênh mông…
Chỉ ai Luôn Tỉnh Thức.
Hết bị tôi quay mòng!
SƯU TẦM
“BỆNH” GIỐNG NHAU
Con trai con gái hai nhà kết hôn, một bên sui gia mua được cái giường mới tinh xảo đẹp đẽ, trong lòng bèn nghĩ: cái giường đẹp như thế này mà không để cho bên sui gia kia coi thì chết đem chôn theo à ? Thế là ông ta liền giả bộ bị bệnh và nằm trên giường, để cho ông sui gia đến thăm.
Bên sui gia kia cũng vừa may được một cái quần mới và muốn đem đi khoe một vòng, nghe nói sui gia bị bệnh bèn vui vẻ đến thăm.
Ông ta đến nhà sui gia vào ngồi trước giường, cố ý bắt chân tréo lên cao, vắt áo dài lên để cái quần mới lộ ra bên ngoài, sau đó mới mở miệng hỏi:
- “Ông sui bị bệnh gì mà đến nỗi gầy gò trắng nhợt như thế này hử ?”
Ông sui gia giả bệnh vỗ vỗ mép giường nói:
- “Cái “bệnh” chút xíu này của tiểu đệ thì cũng giống như “bệnh” của anh sui ấy mà !” (Tiếu phủ)
Suy tư 47:
“Bệnh khoe” nó cũng lây lan như những bệnh truyền nhiễm khác, và cũng nguy hiễm lắm, không những nguy hiểm cho mình mà còn cho nhiều người khác nữa.
Trong tu đức học, khoe khoang là một bệnh tương cận với kiêu ngạo, và cần phải trị tuyệt căn nơi những tu sĩ nam nữ, để cho họ có sự khiêm nhường càng ngày càng giống Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a hơn.
Trong đời sống đức tin của mình, người Ki-tô hữu cũng cần phải tập tành nhân đức khiêm nhường mới mong trở nên người con thảo của Thiên Chúa, bởi vì không một người cha đạo đức nào thích thấy con mình khoe khoang với mọi người...
Có người khoe khoang cái học hành hiểu biết của mình nên họ thành người khoe chữ; có người khoe khoang tài nghệ của mình nên họ đem chia rẽ đến cho tha nhân; lại có người thích phô trương cái giàu có của mình nên họ trở thành người khoe của...
Khoe khoang là bệnh hay lây của mọi người, nhưng người Ki-tô hữu thì biết chắc rằng: mọi thứ mình có, mọi tài năng mình được đều bởi Thiên Chúa ban cho, cho nên không có gì là phải khoe khoang với mọi người...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
Con trai con gái hai nhà kết hôn, một bên sui gia mua được cái giường mới tinh xảo đẹp đẽ, trong lòng bèn nghĩ: cái giường đẹp như thế này mà không để cho bên sui gia kia coi thì chết đem chôn theo à ? Thế là ông ta liền giả bộ bị bệnh và nằm trên giường, để cho ông sui gia đến thăm.
Bên sui gia kia cũng vừa may được một cái quần mới và muốn đem đi khoe một vòng, nghe nói sui gia bị bệnh bèn vui vẻ đến thăm.
Ông ta đến nhà sui gia vào ngồi trước giường, cố ý bắt chân tréo lên cao, vắt áo dài lên để cái quần mới lộ ra bên ngoài, sau đó mới mở miệng hỏi:
- “Ông sui bị bệnh gì mà đến nỗi gầy gò trắng nhợt như thế này hử ?”
Ông sui gia giả bệnh vỗ vỗ mép giường nói:
- “Cái “bệnh” chút xíu này của tiểu đệ thì cũng giống như “bệnh” của anh sui ấy mà !” (Tiếu phủ)
Suy tư 47:
“Bệnh khoe” nó cũng lây lan như những bệnh truyền nhiễm khác, và cũng nguy hiễm lắm, không những nguy hiểm cho mình mà còn cho nhiều người khác nữa.
Trong tu đức học, khoe khoang là một bệnh tương cận với kiêu ngạo, và cần phải trị tuyệt căn nơi những tu sĩ nam nữ, để cho họ có sự khiêm nhường càng ngày càng giống Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a hơn.
Trong đời sống đức tin của mình, người Ki-tô hữu cũng cần phải tập tành nhân đức khiêm nhường mới mong trở nên người con thảo của Thiên Chúa, bởi vì không một người cha đạo đức nào thích thấy con mình khoe khoang với mọi người...
Có người khoe khoang cái học hành hiểu biết của mình nên họ thành người khoe chữ; có người khoe khoang tài nghệ của mình nên họ đem chia rẽ đến cho tha nhân; lại có người thích phô trương cái giàu có của mình nên họ trở thành người khoe của...
Khoe khoang là bệnh hay lây của mọi người, nhưng người Ki-tô hữu thì biết chắc rằng: mọi thứ mình có, mọi tài năng mình được đều bởi Thiên Chúa ban cho, cho nên không có gì là phải khoe khoang với mọi người...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
Bẩn
Bẩn là dơ, là không sạch, là mất vệ sinh. Bẩn cũng có nhiều dạng và nhiều mức độ: Ô nhiễm môi trường là bẩn, ô nhiễm không khí là bẩn, ô nhiễm thực phẩm là bẩn, ô nhiễm nguồn nước là bẩn, ô nhiễm quản lý là bẩn, ô nhiễm tư tưởng là bẩn, ô nhiễm ánh mắt là bẩn, ô nhiễm lương tâm là bẩn, ô nhiễm giáo dục là bẩn, ô nhiễm âm nhạc là bẩn, ô nhiễm văn chương là bẩn,… Ô nhiễm nào cũng bẩn, cũng xấu, cũng có hại!
Các phương tiện thông tin đại chúng hằng ngày đưa tin về các loại bẩn. Nào là thịt thối, heo siêu nạc; nào là thuốc tăng trọng, cà-phê là đậu nành trộn với hàng chục loại hóa chất; nào là giá làm bằng đậu bẩn, trái cây được kích thích bằng hóa chất; nào là phở chứa phoóc-môn, nước tương (xì dầu) chứa chất 3-MCPD, sữa chứa melamine,… Cơ man nào mà kể. Đó là dạng bẩn thực phẩm gây hại cho cơ thể, có thể sinh ung thư, dẫn đến cái chết!
Chỉ nói riêng về thực phẩm thôi cũng đã thấy có nhiều mối nguy hiểm đe dọa tính mạng con người hằng ngày, tính đến mức từng giây. Dạng bẩn nào cũng nguy hiểm, nhưng dạng bẩn nguy hiểm và độc hại nhất là “lòng người bẩn”, là “lương tâm bẩn”. Tất cả sẽ không bẩn nếu lòng người không nhiễm bẩn, nếu lương tâm trong sạch. Có thể nói rằng mọi thứ bẩn đều bắt nguồn từ “lương tâm bẩn”, vì từ đó dẫn tới nhiều hệ lụy khác!
Lương tâm còn gọi là lương tri. Lương tâm bẩn cũng có nhiều mức độ, từ nhẹ đến nặng: Nói dối, gian lận, tham lam, lừa đảo, hối lộ, tham nhũng, nhiễu nhương, hiếu chiến, bịp bợm, trục lợi, thực dụng, độc ác,… Vĩ nhân Mahatma Gandhi (Ấn Độ) nói: “Với lương tâm, quy luật của số đông không có tác dụng. Có tòa án còn cao hơn tòa án công lý, và đó là tòa án của lương tâm. Nó thay thế cho mọi tòa án khác”.
Aleksandr Solzhenitsyn so sánh: “Công lý là lương tâm, không phải lương tâm cá nhân mà là lương tâm của toàn bộ nhân loại. Những ai nhận thức rõ ràng giọng nói của lương tâm chính mình thường cũng nhận ra giọng nói của công lý”. Còn Jean Jacques Rousseau định nghĩa: “Lương tâm là tiếng nói của linh hồn; dục vọng là tiếng nói của cơ thể”.
Như vậy, vấn đề lương tâm rất quan trọng, vì Voltaire đã nhận định: “Con đường an toàn nhất là không làm gì trái với lương tâm. Với bí mật này, chúng ta có thể hưởng thụ cuộc sống và không sợ chết”.
Walter Lippmann lý giải: “Lương tâm của chúng ta không phải là vật chứa chân lý vĩnh cửu. Nó phát triển cùng với đời sống xã hội của chúng ta, và điều kiện xã hội thay đổi cũng dẫn tới sự thay đổi triệt để về lương tâm”.
Phàm cái gì từ con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ra ô uế. Có thể hiểu “cái từ con người xuất ra” theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Chính Chúa Giêsu xác định: “Những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế; còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế” (Mt 20:18-20).
Hãy cẩn trọng, vì có thể Chúa Giêsu đang lên án chính mỗi chúng ta: “Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt 23:27-28).
Ngoại tại và nội tại đều cần thiết một môi trường trong sạch, không bị ô uế. Văn hào Victor Hugo nói: “Lương tâm là Thiên Chúa hiện diện trong con người”.
Ước gì mỗi chúng ta có thể nói được như văn sĩ trào phúng Mark Twain đã xác định: “Nhờ ơn Chúa mà ở đất nước chúng tôi có ba thứ quý giá không tả nổi: tự do ngôn luận, tự do lương tâm, và sự khôn ngoan để không bao giờ dùng đến cả hai thứ kia”. Ông Mark Twain là văn sĩ trào phúng, khôi hài, nhưng lại rất thật. Nghe ông Mark Twain nói mà phát thèm!
Thánh Phaolô nói về cái bẩn tâm linh: “Anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ sự công chính. Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm, hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em. Trước đây, anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện” (Rm 6:18-19). Dạng bẩn tâm linh còn độc hại hơn mọi dạng bẩn khác, dẫn đến cái chết đời đời. Khủng khiếp quá!
TRẦM THIÊN THU
Bẩn là dơ, là không sạch, là mất vệ sinh. Bẩn cũng có nhiều dạng và nhiều mức độ: Ô nhiễm môi trường là bẩn, ô nhiễm không khí là bẩn, ô nhiễm thực phẩm là bẩn, ô nhiễm nguồn nước là bẩn, ô nhiễm quản lý là bẩn, ô nhiễm tư tưởng là bẩn, ô nhiễm ánh mắt là bẩn, ô nhiễm lương tâm là bẩn, ô nhiễm giáo dục là bẩn, ô nhiễm âm nhạc là bẩn, ô nhiễm văn chương là bẩn,… Ô nhiễm nào cũng bẩn, cũng xấu, cũng có hại!
Các phương tiện thông tin đại chúng hằng ngày đưa tin về các loại bẩn. Nào là thịt thối, heo siêu nạc; nào là thuốc tăng trọng, cà-phê là đậu nành trộn với hàng chục loại hóa chất; nào là giá làm bằng đậu bẩn, trái cây được kích thích bằng hóa chất; nào là phở chứa phoóc-môn, nước tương (xì dầu) chứa chất 3-MCPD, sữa chứa melamine,… Cơ man nào mà kể. Đó là dạng bẩn thực phẩm gây hại cho cơ thể, có thể sinh ung thư, dẫn đến cái chết!
Chỉ nói riêng về thực phẩm thôi cũng đã thấy có nhiều mối nguy hiểm đe dọa tính mạng con người hằng ngày, tính đến mức từng giây. Dạng bẩn nào cũng nguy hiểm, nhưng dạng bẩn nguy hiểm và độc hại nhất là “lòng người bẩn”, là “lương tâm bẩn”. Tất cả sẽ không bẩn nếu lòng người không nhiễm bẩn, nếu lương tâm trong sạch. Có thể nói rằng mọi thứ bẩn đều bắt nguồn từ “lương tâm bẩn”, vì từ đó dẫn tới nhiều hệ lụy khác!
Lương tâm còn gọi là lương tri. Lương tâm bẩn cũng có nhiều mức độ, từ nhẹ đến nặng: Nói dối, gian lận, tham lam, lừa đảo, hối lộ, tham nhũng, nhiễu nhương, hiếu chiến, bịp bợm, trục lợi, thực dụng, độc ác,… Vĩ nhân Mahatma Gandhi (Ấn Độ) nói: “Với lương tâm, quy luật của số đông không có tác dụng. Có tòa án còn cao hơn tòa án công lý, và đó là tòa án của lương tâm. Nó thay thế cho mọi tòa án khác”.
Aleksandr Solzhenitsyn so sánh: “Công lý là lương tâm, không phải lương tâm cá nhân mà là lương tâm của toàn bộ nhân loại. Những ai nhận thức rõ ràng giọng nói của lương tâm chính mình thường cũng nhận ra giọng nói của công lý”. Còn Jean Jacques Rousseau định nghĩa: “Lương tâm là tiếng nói của linh hồn; dục vọng là tiếng nói của cơ thể”.
Như vậy, vấn đề lương tâm rất quan trọng, vì Voltaire đã nhận định: “Con đường an toàn nhất là không làm gì trái với lương tâm. Với bí mật này, chúng ta có thể hưởng thụ cuộc sống và không sợ chết”.
Walter Lippmann lý giải: “Lương tâm của chúng ta không phải là vật chứa chân lý vĩnh cửu. Nó phát triển cùng với đời sống xã hội của chúng ta, và điều kiện xã hội thay đổi cũng dẫn tới sự thay đổi triệt để về lương tâm”.
Phàm cái gì từ con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ra ô uế. Có thể hiểu “cái từ con người xuất ra” theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Chính Chúa Giêsu xác định: “Những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế; còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế” (Mt 20:18-20).
Hãy cẩn trọng, vì có thể Chúa Giêsu đang lên án chính mỗi chúng ta: “Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt 23:27-28).
Ngoại tại và nội tại đều cần thiết một môi trường trong sạch, không bị ô uế. Văn hào Victor Hugo nói: “Lương tâm là Thiên Chúa hiện diện trong con người”.
Ước gì mỗi chúng ta có thể nói được như văn sĩ trào phúng Mark Twain đã xác định: “Nhờ ơn Chúa mà ở đất nước chúng tôi có ba thứ quý giá không tả nổi: tự do ngôn luận, tự do lương tâm, và sự khôn ngoan để không bao giờ dùng đến cả hai thứ kia”. Ông Mark Twain là văn sĩ trào phúng, khôi hài, nhưng lại rất thật. Nghe ông Mark Twain nói mà phát thèm!
Thánh Phaolô nói về cái bẩn tâm linh: “Anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ sự công chính. Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm, hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em. Trước đây, anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện” (Rm 6:18-19). Dạng bẩn tâm linh còn độc hại hơn mọi dạng bẩn khác, dẫn đến cái chết đời đời. Khủng khiếp quá!
TRẦM THIÊN THU
Tà tâm
Lm Vũđình Tường 8/28/2015
Cơ thể con người luôn phải phấn đấu chống lại bệnh tật và các thứ vi khuẩn đầy dẫy trong không gian. Dù thật cẩn thận bạn cũng chỉ có thể tìm được thực phẩm tương đối sạch, tươi nhưng không thể kiếm ra thức ăn, nước uống tinh tuyền, sạch trăm phần. Rất nhiều trường hợp không thể tránh mà phải chấp nhận. Ví dụ như bạn bay chuyến bay dài năm bảy tiếng đồng hồ bạn sẽ phải chia sẻ cùng lượng không khí trong máy bay với hàng trăm người khác. Trong số đó có bao hành khách mang bệnh mỗi lần thở ra hít vào đều xả vào không khí hàng loạt vi trùng. Da tay bạn sờ vào thành ghế, cầm cái li, bắt tay khách hàng, ngồi cùng chiếc ghế trên xe bus. Làm sao có thể bảo đảm da tay của họ cũng sạch sẽ, rửa cẩn thận như tay của bạn. Vì thế cơ thể ta liên tục chống lại vi khuẩn xâm nhập vào từ bên ngoài.
Tà tâm phát sinh từ một tâm hồn bất chính. Tâm hồn bất chính vì tâm hồn đó được nuôi dưỡng bằng những tư tưởng sai trái. Sai trái phát sinh do dục vọng. Dục vọng đây bao gồm lạc thú, danh lợi và tham vọng. Tương tự như vi khuẩn dục vọng không ngưng nghỉ mà luôn tìm cách xâm nhập vào cuộc sống tâm linh của con người. Chúng xâm nhập vào bằng muôn ngả, nghìn cách. Ngưng canh phòng là bị chúng âm thầm tấn công tâm linh ta. Chúng đóng đô trong tâm hồn và lung lạc cách suy nghĩ, phán đoán công chính. Thay vào đó là tư tưởng sai trái. Ta không những trở thành nạn nhân của tư tưởng tà vạy mà còn đứng ra tự bênh vực, biện hộ cho hành động sai trái do tư tưởng lầm lạc hướng dẫn.
Ai cũng biết thực phẩm tốt ăn vào có lợi cho cơ thể, trong khi thực phẩm xấu ăn vào làm hại cơ thể. Cả hai loại thực phẩm này hoàn toàn không ảnh hưởng đến đời sống tâm linh vì thực phẩm nuôi cơ thể không thể nuôi tâm linh. Thực phẩm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh bao gồm sách báo xấu và những dục vọng ta du nhập vào. Hình ảnh xấu tạo cảm xúc, kích thích ngũ quan để từ đó dẫn đến tư tưởng và hành động trái luân thường, đạo lí. Để bênh vực cho những hành động tồi tệ đó người ta tìm cách chỉ trích luân thường là cổ hủ, đạo lí là lỗi thời hầu lấn át tiếng nói lương tâm công chính. Như thế nội chiến xảy ra trong tâm hồn và tư tưởng xấu, tồi tệ đang thắng thế và chính ta đứng ra bảo vệ, bênh vực chúng.
Tư tưởng tốt, hình ảnh tốt, cảm xúc tốt là những thực phẩm tốt cho đời sống tâm linh. Những điều này đến từ Thiên Chúa và giáo huấn của Đức Kitô bởi Ngài là nguồn gốc của thiện hảo, nguồn gốc của mọi sự tốt lành. Đức Kitô không chê trách phong tục tốt lành ông cha truyền lại nhưng Ngài chỉ trích lối giải thích một chiều nhằm mục đích phục vụ nguồn lợi của phe Biệt Phái và Cơ Đốc. Chính lối giải thích xuyên tạc sự thật là điều Đức Kitô chỉ trích và cho biết lối giải thích xuyên tạc trên đến từ một tâm hồn bất chính, một tâm hồn ảnh hưởng bởi thực phẩm hư nát hoành hành, hướng dẫn. Chính những hành động trên gây tác hại cho lối suy nghĩ, phán đoán phản lại công chính và tình yêu Chúa ban. Chính thân nhân họ sẽ trở thành nạn nhân và cộng đồng nhân loại bị ảnh hưởng lây do lối sống bất chính.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm trong sáng hoá tâm hồn, biến con tim nguội lạnh, bất cảm thành con tim biết cảm thông, thanh tẩy con tim hận thù thành con tim biết tha thứ. Ngài ban sự sống cho con tim khô khan, nguội lạnh bởi Ngài là Đấng vừa sáng tạo vừa ban sự sống cho tâm hồn. Tâm hồn nào thuộc về Ngài đều có bình an thực sự trong tâm hồn.
Lm Vũđình Tường 8/28/2015
Cơ thể con người luôn phải phấn đấu chống lại bệnh tật và các thứ vi khuẩn đầy dẫy trong không gian. Dù thật cẩn thận bạn cũng chỉ có thể tìm được thực phẩm tương đối sạch, tươi nhưng không thể kiếm ra thức ăn, nước uống tinh tuyền, sạch trăm phần. Rất nhiều trường hợp không thể tránh mà phải chấp nhận. Ví dụ như bạn bay chuyến bay dài năm bảy tiếng đồng hồ bạn sẽ phải chia sẻ cùng lượng không khí trong máy bay với hàng trăm người khác. Trong số đó có bao hành khách mang bệnh mỗi lần thở ra hít vào đều xả vào không khí hàng loạt vi trùng. Da tay bạn sờ vào thành ghế, cầm cái li, bắt tay khách hàng, ngồi cùng chiếc ghế trên xe bus. Làm sao có thể bảo đảm da tay của họ cũng sạch sẽ, rửa cẩn thận như tay của bạn. Vì thế cơ thể ta liên tục chống lại vi khuẩn xâm nhập vào từ bên ngoài.
Tà tâm phát sinh từ một tâm hồn bất chính. Tâm hồn bất chính vì tâm hồn đó được nuôi dưỡng bằng những tư tưởng sai trái. Sai trái phát sinh do dục vọng. Dục vọng đây bao gồm lạc thú, danh lợi và tham vọng. Tương tự như vi khuẩn dục vọng không ngưng nghỉ mà luôn tìm cách xâm nhập vào cuộc sống tâm linh của con người. Chúng xâm nhập vào bằng muôn ngả, nghìn cách. Ngưng canh phòng là bị chúng âm thầm tấn công tâm linh ta. Chúng đóng đô trong tâm hồn và lung lạc cách suy nghĩ, phán đoán công chính. Thay vào đó là tư tưởng sai trái. Ta không những trở thành nạn nhân của tư tưởng tà vạy mà còn đứng ra tự bênh vực, biện hộ cho hành động sai trái do tư tưởng lầm lạc hướng dẫn.
Ai cũng biết thực phẩm tốt ăn vào có lợi cho cơ thể, trong khi thực phẩm xấu ăn vào làm hại cơ thể. Cả hai loại thực phẩm này hoàn toàn không ảnh hưởng đến đời sống tâm linh vì thực phẩm nuôi cơ thể không thể nuôi tâm linh. Thực phẩm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh bao gồm sách báo xấu và những dục vọng ta du nhập vào. Hình ảnh xấu tạo cảm xúc, kích thích ngũ quan để từ đó dẫn đến tư tưởng và hành động trái luân thường, đạo lí. Để bênh vực cho những hành động tồi tệ đó người ta tìm cách chỉ trích luân thường là cổ hủ, đạo lí là lỗi thời hầu lấn át tiếng nói lương tâm công chính. Như thế nội chiến xảy ra trong tâm hồn và tư tưởng xấu, tồi tệ đang thắng thế và chính ta đứng ra bảo vệ, bênh vực chúng.
Tư tưởng tốt, hình ảnh tốt, cảm xúc tốt là những thực phẩm tốt cho đời sống tâm linh. Những điều này đến từ Thiên Chúa và giáo huấn của Đức Kitô bởi Ngài là nguồn gốc của thiện hảo, nguồn gốc của mọi sự tốt lành. Đức Kitô không chê trách phong tục tốt lành ông cha truyền lại nhưng Ngài chỉ trích lối giải thích một chiều nhằm mục đích phục vụ nguồn lợi của phe Biệt Phái và Cơ Đốc. Chính lối giải thích xuyên tạc sự thật là điều Đức Kitô chỉ trích và cho biết lối giải thích xuyên tạc trên đến từ một tâm hồn bất chính, một tâm hồn ảnh hưởng bởi thực phẩm hư nát hoành hành, hướng dẫn. Chính những hành động trên gây tác hại cho lối suy nghĩ, phán đoán phản lại công chính và tình yêu Chúa ban. Chính thân nhân họ sẽ trở thành nạn nhân và cộng đồng nhân loại bị ảnh hưởng lây do lối sống bất chính.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm trong sáng hoá tâm hồn, biến con tim nguội lạnh, bất cảm thành con tim biết cảm thông, thanh tẩy con tim hận thù thành con tim biết tha thứ. Ngài ban sự sống cho con tim khô khan, nguội lạnh bởi Ngài là Đấng vừa sáng tạo vừa ban sự sống cho tâm hồn. Tâm hồn nào thuộc về Ngài đều có bình an thực sự trong tâm hồn.
KINH CẦU HẰNG NGÀY CHO LINH MỤC
Lạy Chúa là Cha trên trời, - chúng con tạ ơn Cha đã thương ban cho Giáo Hội tại Việt Nam - nhiều linh mục chăm sóc đoàn Dân Chúa. Xin Cha thương gìn giữ và bảo vệ các linh mục - vượt qua đêm tối của gian truân và thử thách. Xin Cha ban ơn đổi mới cho các linh mục - ngày càng trở nên mục tử như lòng Cha mong muốn.
Xin Cha thương ban ơn soi sáng các linh mục biết mở rộng tâm trí đón nhận Lời Chúa, - là Lời ban ánh sáng chân lý và sức sống mới, - là Lời nuôi dưỡng tâm tình, tư tưởng và con tim mục tử của linh mục, - để cuộc đời linh mục toả sáng lòng từ ái bao dung của Vị Mục Tử nhân lành đối với mọi người, - nhất là người nghèo khổ và bị bỏ rơi.
Xin Cha thương ban ơn trợ giúp cho các linh mục – biết luôn gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể, - biết mở rộng con tim tiếp nhận nguồn lực tình yêu hiệp nhất và khiêm tốn phục vụ, - để qua đời sống cùng sứ vụ linh mục, - Dân Chúa cảm nhận Chúa đang đồng hành với họ, - soi đường dẫn lối cho họ đi đến Nguồn Chân Lý tròn đầy, - tiến đến Suối Tình Yêu vô biên và Mạch Sống dồi dào.
Nhờ Lời cầu bầu của Thánh Mẫu La Vang - cùng các thánh Tử đạo Việt Nam - xin Cha thương giúp sức cho các linh mục - biết quy tụ mọi người trong yêu thương và an bình, - chung sức xây dựng Giáo Hội thành muối men và ánh sáng Tin Mừng cứu độ, - cho cộng đồng dân tộc cùng Thế giới hôm nay.
Tác giả: HY. Phạm Minh Mẫn
Lạy Chúa là Cha trên trời, - chúng con tạ ơn Cha đã thương ban cho Giáo Hội tại Việt Nam - nhiều linh mục chăm sóc đoàn Dân Chúa. Xin Cha thương gìn giữ và bảo vệ các linh mục - vượt qua đêm tối của gian truân và thử thách. Xin Cha ban ơn đổi mới cho các linh mục - ngày càng trở nên mục tử như lòng Cha mong muốn.
Xin Cha thương ban ơn soi sáng các linh mục biết mở rộng tâm trí đón nhận Lời Chúa, - là Lời ban ánh sáng chân lý và sức sống mới, - là Lời nuôi dưỡng tâm tình, tư tưởng và con tim mục tử của linh mục, - để cuộc đời linh mục toả sáng lòng từ ái bao dung của Vị Mục Tử nhân lành đối với mọi người, - nhất là người nghèo khổ và bị bỏ rơi.
Xin Cha thương ban ơn trợ giúp cho các linh mục – biết luôn gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể, - biết mở rộng con tim tiếp nhận nguồn lực tình yêu hiệp nhất và khiêm tốn phục vụ, - để qua đời sống cùng sứ vụ linh mục, - Dân Chúa cảm nhận Chúa đang đồng hành với họ, - soi đường dẫn lối cho họ đi đến Nguồn Chân Lý tròn đầy, - tiến đến Suối Tình Yêu vô biên và Mạch Sống dồi dào.
Nhờ Lời cầu bầu của Thánh Mẫu La Vang - cùng các thánh Tử đạo Việt Nam - xin Cha thương giúp sức cho các linh mục - biết quy tụ mọi người trong yêu thương và an bình, - chung sức xây dựng Giáo Hội thành muối men và ánh sáng Tin Mừng cứu độ, - cho cộng đồng dân tộc cùng Thế giới hôm nay.
Tác giả: HY. Phạm Minh Mẫn
CÁI NGAI HAY CÁI GHẾ ?
Điền Phương Thảo
Nếu có cơ hội đến viếng thăm các ngôi thánh đường, đặc biệt là những thánh đường vừa được xây cất trong khoảng thời gian hơn 10 năm trở lại đây, người ta dễ dàng nhận thấy sự hoành tráng, nguy nga trong kiến trúc và các vật dụng trang bị bên trong. Ngoài những tượng đài lộng lẫy nhằm mục đích tôn vinh Đấng Chí Tôn, còn có sự xuất hiện của một vật không kém phần uy nghi nhưng để lại tôn vinh con người đó là ” cái ghế” của dành cho linh mục chủ tế.
Được đặt để ngay trung tâm của mọi tầm nhìn, cái ghế quả là biểu hiện của uy lực với những đường cong uốn lượn được chạm trổ một cách tỉ mĩ, công phu. Sự lộng lẫy, tôn nghiêm trong cảnh quang của cung thánh, cộng hưởng với dáng vẻ uy nghi của chiếc ghế, khiến người ta không thể không liên tưởng đến hình ảnh của những cái ngai giữa chốn hoàng triều.
Dù rất ít, nhưng cũng có một số nhà thờ , chiếc ghế của linh mục chủ tế được đặt khiêm tốn ở một bên hông của cung thánh và được thiết kế cũng rất giản dị. Nghĩa là vị trí và hình thức của chiếc ghế hoàn toàn phụ thuộc vào tính cách của chủ thể sử dụng. Ở một nơi rao giảng Lời của Đấng đến để sống và phục vụ cho những người cùng khổ, một cái ghế sang trọng một cách không cần thiết chỉ là hình chiếu của tính phô trương, chuộng hình thức, óc phong kiến của một số các giáo sĩ, linh mục, tu sĩ tại Việt Nam hiện nay.
Chuyện xưa kể rằng có một ông Vua tỏ ra rất hãnh diện và sung sướng vì mỗi khi ngự trị trên ngai vàng để đăng triều, ông nhìn thấy bá quan văn võ đều cúi rạp mình trước chiếc ngai của ông. Ông cảm thấy tự hào vì mình thật là một bậc hào kiệt xuất chúng khiến mọi người phải cúc cung tận tuỵ như vậy. Ông nghĩ rằng những cái bái lạy đó chắc chắn là dành cho giá trị của chính bản thân ông. Thế rồi khi thời cuộc thay đổi, ” thế gian biến cải vũng nên đồi” khiến ông bị lật đổ xuống khỏi ngai vàng. Trong thân phận của một kẻ hạ dân, không ai muốn dành cho ông ngay cả một câu chào. Trong niềm đắng cay về ” mặn nhạt chua cay” của thế thái nhân tình, ông chua xót nhận ra một điều rằng, hoá ra bấy lâu ông đã tự huyển hoặc về mình, thiên hạ không hề quý trọng giá trị của chính bản thân ông, họ chỉ coi trọng ” cái ghế” và họ sẵn sàng tung hô chúc tụng bất cứ chủ thể nào được đặt để hay sở hữu cái ghế ấy.
Cũng có ý kiến cho rằng những vị ngồi trên những chiếc ghế ấy cũng phải đạt được những điều kiện nhất định về năng lực, đạo đức, vì thế việc họ được có một vị trí trang trọng như thế âu cũng là xứng đáng ? Thế nhưng thật là huyển hoặc khi tin rằng giá trị bản thân mình được nâng cao khi ngự trị trên những chiếc ngai lộng lẫy đó. Nếu đời sống một linh mục mà biết ưu tư chăm sóc đời sống đạo cho giáo dân, thao thức trong từng tư duy của bài gỉảng sao cho mỗi bài giảng là một bữa ăn tinh thần phong phú, bổ dưỡng cho đời sống tinh thần của giáo dân. Làm công tác mục vụ trong tinh thần đạo đức và phục vụ, đồng thời cũng chuyên tâm nghiên cứu học hỏi thêm để làm phong phú đời sống nội tâm trong đức tin thì dù có ngồi trên chiếc ghế gỗ đơn sơ trong nhà thờ, trong cái nhìn của giáo dân, vị ấy vẫn có được một sự tôn trọng và kính mến một cách đích thực.
Vật chất là kết quả của ý thức, có suy nghĩ rồi mới có hành động, vì thế việc thi nhau thiết kế những chiếc ngai trong nhà thờ cũng là kết quả của một não trạng còn vương vấn chủ nghiã phong kiến. Có lẽ điều đó cũng thích hợp trong một giai đoạn xã hội nào đó, nhưng hiện nay, ngay bây giờ thì không. Vì nó sẽ là nguyên nhân tạo ra những tác phong thiếu nhân bản trong giao tế, những khập khiểng trong các mối quan hệ xã hội, không còn thích hợp với đời, với người, và quan trọng nhất là không phù hợp với tinh thần của Phúc Âm.
Ngồi trên một cái ghế uy nghi, tất nhiên đòi hỏi chủ thể sử dụng cũng phải có những cử điệu, phong thái sao cho cũng toát lên một uy lực phù hợp. Điều này quả thật là không cần thiết, nếu không muốn nói là không đúng với tinh thần của một người thay mặt Chúa đón những con chiên đi về nhà Cha của mình. Có người cha nào đón con về nhà của mình với một phong cách xa lạ, kiêu sa như thế không ? Cũng có ý kiến cho rằng việc các tu sĩ, linh mục cần phải giữ một phong cách như thế là để phù hợp với cái nhìn, cái nghĩ xưa nay đã khắc sâu vào trong não trạng của giáo dân ? Linh mục là người thay mặt Chúa, nên họ đóng khung các Ngài vào trong tất cả các giá trị của chức thánh. Thế nhưng, việc giáo dục một đức tin thực sự trưởng thành cho giáo dân vẫn không là điều bất khả thi nếu những người có trách nhiệm giáo huấn thực sự không cố thủ óc phong kiến ? Có câu ” dĩ độc trị độc” , nếu giáo dân đã xem Cha là người của Chúa, lời của Cha là lời của Chúa và linh mục gần như được ơn bất khả ngộ thì tại sao các Ngài không “lợi dụng” ngay sự yêu mến và kính trọng cách cực đoan của không ít giáo dân trong mối tương quan giữa tu sĩ và giáo dân để hướng dẫn họ đến những thay đổi thực sự mang lại lợi ích cho việc rao giảng hồng ân ơn Cứu Độ ? Hay nguyên nhân chính là ở chỗ các Ngài cũng không hề muốn có sự thay đổi ? Và đó cũng là lý do ngày càng có nhiều cái ghế hoành tráng như một cái ngai xuất hiện trên cung thánh
Trong bài “ Đức Phanxicô- 1 năm trên ngai Giáo hoàng” có viết : “Ấn tượng đầu tiên của Giáo hoàng Phanxicô đối với thế giới mà tờ Le Figaro gọi là “fenomena” (hiện tượng phi thường) đó là phong cách gần gũi giản dị, dễ gần dân chúng của vị tân Giáo hoàng. Báo chí đã dành nhiều bài để nói về Giáo hoàng Phanxicô không đi xe Limousine mới, biển ưu tiên của Vatican mà vẫn đi chiếc xe cũ, vẫn ở căn nhà trọ Santa Matta và trực tiếp trả tiền trọ chứ không phải ở biệt thự cao cấp dành cho Giáo hoàng trong Tòa thánh Vatican . Ngài vẫn ở trong khu nhà chung cư 2 phòng, tự đốt lò sưởi trong mùa đông chứ không dùng điều hòa, không ở biệt thự của Tổng Giám mục, vẫn đi xe bus hàng ngày và vẫn tự nấu ăn lấy. Ngày lễ tấn phong Giáo hoàng, ngài từ chối đội vương miện, đeo nhẫn vàng, đi giày đỏ như các vị tiền nhiệm mà vẫn dùng trang phục cũ, chỉ khác chiếc khăn choàng trắng trên vai”. Dù vậy “ Tạp chí Forbes đã xếp Giáo hoàng Phanxicô là nhân vật quyền lực nhất thế giới năm 2013 sau nguyên thủ Nga, Mỹ và Trung Quốc”.
Hai thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của một con người là ngày mình sinh ra và ngày mình chết đi. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn nơi sinh của mình là một máng cỏ nghèo hèn, mà chúng ta đang chiêm ngắm trong đại lễ Giáng Sinh của Ngài hôm nay. Và khi chết, Ngài lại treo mình trên một thập giá gỗ sần sùi, thô kệch. Nhưng máng cỏ hay cây thập tự đều có giá trị tôn kính hơn bất cứ ngai vàng nào trên thế gian này, vì đó đều là biểu tượng của tình yêu. Tất cả những vật mọn hèn thô sơ đó không có giá trị tự thân, nhưng chính Đấng ngự trên những vật ấy đã mặc cho nó một giá trị, làm cho nó trở nên có ý nghĩa. Hang đá Belem được toàn thể nhân loại biết đến và ngày xưa Ba Vua cũng phải tìm đến để phủ phục tôn thờ , hay cây Thập Giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và cái chết cũng là vì có sự ngự trị của Thiên Chúa Tối Cao.
Ước mong sao cái ghế trên cung thánh được trả về đúng với hình thức và ý nghĩa của nó, nhất là để phù hợp với những người đang thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cho Người Nghèo . Đừng để con cháu chúng ta sau này thắc mắc rằng ” vào thời ấy Việt Nam còn trong chế độ phong kiến hay sao mà lại để cái ngai nằm ở trung tâm thánh đường như vậy ?”.
Điền Phương Thảo
Nếu có cơ hội đến viếng thăm các ngôi thánh đường, đặc biệt là những thánh đường vừa được xây cất trong khoảng thời gian hơn 10 năm trở lại đây, người ta dễ dàng nhận thấy sự hoành tráng, nguy nga trong kiến trúc và các vật dụng trang bị bên trong. Ngoài những tượng đài lộng lẫy nhằm mục đích tôn vinh Đấng Chí Tôn, còn có sự xuất hiện của một vật không kém phần uy nghi nhưng để lại tôn vinh con người đó là ” cái ghế” của dành cho linh mục chủ tế.
Được đặt để ngay trung tâm của mọi tầm nhìn, cái ghế quả là biểu hiện của uy lực với những đường cong uốn lượn được chạm trổ một cách tỉ mĩ, công phu. Sự lộng lẫy, tôn nghiêm trong cảnh quang của cung thánh, cộng hưởng với dáng vẻ uy nghi của chiếc ghế, khiến người ta không thể không liên tưởng đến hình ảnh của những cái ngai giữa chốn hoàng triều.
Dù rất ít, nhưng cũng có một số nhà thờ , chiếc ghế của linh mục chủ tế được đặt khiêm tốn ở một bên hông của cung thánh và được thiết kế cũng rất giản dị. Nghĩa là vị trí và hình thức của chiếc ghế hoàn toàn phụ thuộc vào tính cách của chủ thể sử dụng. Ở một nơi rao giảng Lời của Đấng đến để sống và phục vụ cho những người cùng khổ, một cái ghế sang trọng một cách không cần thiết chỉ là hình chiếu của tính phô trương, chuộng hình thức, óc phong kiến của một số các giáo sĩ, linh mục, tu sĩ tại Việt Nam hiện nay.
Chuyện xưa kể rằng có một ông Vua tỏ ra rất hãnh diện và sung sướng vì mỗi khi ngự trị trên ngai vàng để đăng triều, ông nhìn thấy bá quan văn võ đều cúi rạp mình trước chiếc ngai của ông. Ông cảm thấy tự hào vì mình thật là một bậc hào kiệt xuất chúng khiến mọi người phải cúc cung tận tuỵ như vậy. Ông nghĩ rằng những cái bái lạy đó chắc chắn là dành cho giá trị của chính bản thân ông. Thế rồi khi thời cuộc thay đổi, ” thế gian biến cải vũng nên đồi” khiến ông bị lật đổ xuống khỏi ngai vàng. Trong thân phận của một kẻ hạ dân, không ai muốn dành cho ông ngay cả một câu chào. Trong niềm đắng cay về ” mặn nhạt chua cay” của thế thái nhân tình, ông chua xót nhận ra một điều rằng, hoá ra bấy lâu ông đã tự huyển hoặc về mình, thiên hạ không hề quý trọng giá trị của chính bản thân ông, họ chỉ coi trọng ” cái ghế” và họ sẵn sàng tung hô chúc tụng bất cứ chủ thể nào được đặt để hay sở hữu cái ghế ấy.
Cũng có ý kiến cho rằng những vị ngồi trên những chiếc ghế ấy cũng phải đạt được những điều kiện nhất định về năng lực, đạo đức, vì thế việc họ được có một vị trí trang trọng như thế âu cũng là xứng đáng ? Thế nhưng thật là huyển hoặc khi tin rằng giá trị bản thân mình được nâng cao khi ngự trị trên những chiếc ngai lộng lẫy đó. Nếu đời sống một linh mục mà biết ưu tư chăm sóc đời sống đạo cho giáo dân, thao thức trong từng tư duy của bài gỉảng sao cho mỗi bài giảng là một bữa ăn tinh thần phong phú, bổ dưỡng cho đời sống tinh thần của giáo dân. Làm công tác mục vụ trong tinh thần đạo đức và phục vụ, đồng thời cũng chuyên tâm nghiên cứu học hỏi thêm để làm phong phú đời sống nội tâm trong đức tin thì dù có ngồi trên chiếc ghế gỗ đơn sơ trong nhà thờ, trong cái nhìn của giáo dân, vị ấy vẫn có được một sự tôn trọng và kính mến một cách đích thực.
Vật chất là kết quả của ý thức, có suy nghĩ rồi mới có hành động, vì thế việc thi nhau thiết kế những chiếc ngai trong nhà thờ cũng là kết quả của một não trạng còn vương vấn chủ nghiã phong kiến. Có lẽ điều đó cũng thích hợp trong một giai đoạn xã hội nào đó, nhưng hiện nay, ngay bây giờ thì không. Vì nó sẽ là nguyên nhân tạo ra những tác phong thiếu nhân bản trong giao tế, những khập khiểng trong các mối quan hệ xã hội, không còn thích hợp với đời, với người, và quan trọng nhất là không phù hợp với tinh thần của Phúc Âm.
Ngồi trên một cái ghế uy nghi, tất nhiên đòi hỏi chủ thể sử dụng cũng phải có những cử điệu, phong thái sao cho cũng toát lên một uy lực phù hợp. Điều này quả thật là không cần thiết, nếu không muốn nói là không đúng với tinh thần của một người thay mặt Chúa đón những con chiên đi về nhà Cha của mình. Có người cha nào đón con về nhà của mình với một phong cách xa lạ, kiêu sa như thế không ? Cũng có ý kiến cho rằng việc các tu sĩ, linh mục cần phải giữ một phong cách như thế là để phù hợp với cái nhìn, cái nghĩ xưa nay đã khắc sâu vào trong não trạng của giáo dân ? Linh mục là người thay mặt Chúa, nên họ đóng khung các Ngài vào trong tất cả các giá trị của chức thánh. Thế nhưng, việc giáo dục một đức tin thực sự trưởng thành cho giáo dân vẫn không là điều bất khả thi nếu những người có trách nhiệm giáo huấn thực sự không cố thủ óc phong kiến ? Có câu ” dĩ độc trị độc” , nếu giáo dân đã xem Cha là người của Chúa, lời của Cha là lời của Chúa và linh mục gần như được ơn bất khả ngộ thì tại sao các Ngài không “lợi dụng” ngay sự yêu mến và kính trọng cách cực đoan của không ít giáo dân trong mối tương quan giữa tu sĩ và giáo dân để hướng dẫn họ đến những thay đổi thực sự mang lại lợi ích cho việc rao giảng hồng ân ơn Cứu Độ ? Hay nguyên nhân chính là ở chỗ các Ngài cũng không hề muốn có sự thay đổi ? Và đó cũng là lý do ngày càng có nhiều cái ghế hoành tráng như một cái ngai xuất hiện trên cung thánh
Trong bài “ Đức Phanxicô- 1 năm trên ngai Giáo hoàng” có viết : “Ấn tượng đầu tiên của Giáo hoàng Phanxicô đối với thế giới mà tờ Le Figaro gọi là “fenomena” (hiện tượng phi thường) đó là phong cách gần gũi giản dị, dễ gần dân chúng của vị tân Giáo hoàng. Báo chí đã dành nhiều bài để nói về Giáo hoàng Phanxicô không đi xe Limousine mới, biển ưu tiên của Vatican mà vẫn đi chiếc xe cũ, vẫn ở căn nhà trọ Santa Matta và trực tiếp trả tiền trọ chứ không phải ở biệt thự cao cấp dành cho Giáo hoàng trong Tòa thánh Vatican . Ngài vẫn ở trong khu nhà chung cư 2 phòng, tự đốt lò sưởi trong mùa đông chứ không dùng điều hòa, không ở biệt thự của Tổng Giám mục, vẫn đi xe bus hàng ngày và vẫn tự nấu ăn lấy. Ngày lễ tấn phong Giáo hoàng, ngài từ chối đội vương miện, đeo nhẫn vàng, đi giày đỏ như các vị tiền nhiệm mà vẫn dùng trang phục cũ, chỉ khác chiếc khăn choàng trắng trên vai”. Dù vậy “ Tạp chí Forbes đã xếp Giáo hoàng Phanxicô là nhân vật quyền lực nhất thế giới năm 2013 sau nguyên thủ Nga, Mỹ và Trung Quốc”.
Hai thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của một con người là ngày mình sinh ra và ngày mình chết đi. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn nơi sinh của mình là một máng cỏ nghèo hèn, mà chúng ta đang chiêm ngắm trong đại lễ Giáng Sinh của Ngài hôm nay. Và khi chết, Ngài lại treo mình trên một thập giá gỗ sần sùi, thô kệch. Nhưng máng cỏ hay cây thập tự đều có giá trị tôn kính hơn bất cứ ngai vàng nào trên thế gian này, vì đó đều là biểu tượng của tình yêu. Tất cả những vật mọn hèn thô sơ đó không có giá trị tự thân, nhưng chính Đấng ngự trên những vật ấy đã mặc cho nó một giá trị, làm cho nó trở nên có ý nghĩa. Hang đá Belem được toàn thể nhân loại biết đến và ngày xưa Ba Vua cũng phải tìm đến để phủ phục tôn thờ , hay cây Thập Giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và cái chết cũng là vì có sự ngự trị của Thiên Chúa Tối Cao.
Ước mong sao cái ghế trên cung thánh được trả về đúng với hình thức và ý nghĩa của nó, nhất là để phù hợp với những người đang thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cho Người Nghèo . Đừng để con cháu chúng ta sau này thắc mắc rằng ” vào thời ấy Việt Nam còn trong chế độ phong kiến hay sao mà lại để cái ngai nằm ở trung tâm thánh đường như vậy ?”.
LÃNH ĐẠO
Cha bố (nghĩa phụ) nói với cha con (nghĩa tử) là đừng có xin cha phó hay cha phụ tá khi không cần thiết, cha con hỏi tại sao, cha bố nói:
- “Bởi vì khi con xin nhiều cha phó hay cha phụ tá thì có hai tình huống không tốt: một là giáo dân sẽ nói con không có năng lực làm việc mới xin cha phó về chứ không phải là con nhiều việc, để khoe khoang với giáo dân là con có nhiều cha phó cho oai; hai là con sẽ sinh ra lười biếng làm việc và khoán trắng cho cha phó hay cha phụ tá, để con rảnh rỗi kiếm cớ đi hành hương chỗ này, đi tham quan nơi nọ, hôm nay bận việc này, ngày mai bận việc kia, ngày mốt đi ăn với đại gia.v.v.v...Rồi các cha phó ta thán với nhau sinh ra bất mãn, giáo dân lâu ngày cũng biết và họ sẽ không coi trọng con đâu”.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Cha bố (nghĩa phụ) nói với cha con (nghĩa tử) là đừng có xin cha phó hay cha phụ tá khi không cần thiết, cha con hỏi tại sao, cha bố nói:
- “Bởi vì khi con xin nhiều cha phó hay cha phụ tá thì có hai tình huống không tốt: một là giáo dân sẽ nói con không có năng lực làm việc mới xin cha phó về chứ không phải là con nhiều việc, để khoe khoang với giáo dân là con có nhiều cha phó cho oai; hai là con sẽ sinh ra lười biếng làm việc và khoán trắng cho cha phó hay cha phụ tá, để con rảnh rỗi kiếm cớ đi hành hương chỗ này, đi tham quan nơi nọ, hôm nay bận việc này, ngày mai bận việc kia, ngày mốt đi ăn với đại gia.v.v.v...Rồi các cha phó ta thán với nhau sinh ra bất mãn, giáo dân lâu ngày cũng biết và họ sẽ không coi trọng con đâu”.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Bụt Nhà Không Thiêng
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
-Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật
Dương Phủ hỏi: Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó.
Dương Phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính cha mẹ ở trong nhà…
Bụt Nhà Không Thiêng, Thánh Thần Người Không Linh. Quả thật Ông Cha thời xưa có tầm nhận xét thật là chính sát. Điển hình như trong thế hệ ngày nay, chúng ta vẫn còn thấy có những tập thể luôn luôn mang Thánh Quan Thầy, Đấng Tổ Phụ của mình ra phô trương trong các xóm phường.
Việc tưởng nhớ ngày sáng lập dòng của một tập thể nào đó phải nên làm trong một phạm vy có tính cách là một nhà dòng tưởng nhớ và ghi ơn đấng sáng lập. Đừng nên lợi dụng thời điểm để khoe khoang và phơi bày trước quần chúng rằng Đấng Tổ Phụ mình linh thiêng hơn, tốt lành hơn và quan trọng hơn.
Hãy cùng làm gương cho nhau, cùng khuyến khích nhau đề cao đời sống tâm linh. Đức Chúa Trời, Đức Phật hoặc Đức Thánh đang ở trong nhà mọi người. Nội tâm của từng cá nhân là ngôi nhà cao quý nhất để đón nhận Thượng Đế của mình.
Thầy Phó Giòm
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
-Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật
Dương Phủ hỏi: Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó.
Dương Phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính cha mẹ ở trong nhà…
Bụt Nhà Không Thiêng, Thánh Thần Người Không Linh. Quả thật Ông Cha thời xưa có tầm nhận xét thật là chính sát. Điển hình như trong thế hệ ngày nay, chúng ta vẫn còn thấy có những tập thể luôn luôn mang Thánh Quan Thầy, Đấng Tổ Phụ của mình ra phô trương trong các xóm phường.
Việc tưởng nhớ ngày sáng lập dòng của một tập thể nào đó phải nên làm trong một phạm vy có tính cách là một nhà dòng tưởng nhớ và ghi ơn đấng sáng lập. Đừng nên lợi dụng thời điểm để khoe khoang và phơi bày trước quần chúng rằng Đấng Tổ Phụ mình linh thiêng hơn, tốt lành hơn và quan trọng hơn.
Hãy cùng làm gương cho nhau, cùng khuyến khích nhau đề cao đời sống tâm linh. Đức Chúa Trời, Đức Phật hoặc Đức Thánh đang ở trong nhà mọi người. Nội tâm của từng cá nhân là ngôi nhà cao quý nhất để đón nhận Thượng Đế của mình.
Thầy Phó Giòm
ĐỒNG TIỀN THỊ PHI
Lm Jos Tạ duy Tuyền
Có người bảo rằng: “Thiên hạ ồn ào đều vì lợi mà đến, thiên hạ náo nhiệt cũng vì lợi mà đi”. Thực vậy, nhìn vào xã hội với những ồn ào, náo nhiệt chúng ta sẽ thấy điều gì? Thưa, chúng ta sẽ thấy sự náo nhiệt được hình thành bởi kẻ có tiền đến đó để xài tiền và kẻ không có tiền đến đó để kiếm tiền. Có thể nói ở thế gian chỉ có hai loại người: Một là kẻ kiếm tiền. Hai là kẻ xài tiền. Hai loại người này đã làm thành một xã hội đầy những thị phi, và vui buồn, sướng khổ cuộc đời cũng từ đó mà ra!
Hôm nay Chúa lại bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Nhưng xem ra có mấy ai thanh thoát được với tiền bạc trần gian. Ai cũng cần tiền. Ai cũng tích góp. Ai cũng tìm cơ hội để có tiền, để giầu có. Có mấy ai sống mà không dắt lưng cho mình ít tiền để làm vốn, để phòng khi trái gió trở trời?
Ở nơi này nơi kia vẫn nghe nói có cha này cha nọ chỉ lo đi kiếm tiền mà bỏ bê giáo xứ. Ở nơi này nơi kia vẫn còn đó những người đi truyền giáo thì không lo chỉ lo đi lấy lòng người giầu có để trục lợi cho bản thân. Ở nơi này nơi kia giáo xứ cũng tan nát vì đồng tiền thiếu minh bạch dẫn đến kiện cáo, đố kỵ với nhau.
Nhưng đó chỉ là những gợn sóng nhỏ vẫn lăn tanh trong lòng Giáo hội. Giáo hội vẫn còn nhiều những con người sống nghèo khó để cho mọi người và vì mọi người. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống khó nghèo như người nghèo, để sống cứu đời cho người nghèo và vì người nghèo.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Một điều mà ai cũng biết là tham thì thâm. Lòng tham sẽ trói buộc con người trong ích kỷ chỉ để thu vén. Lòng tham sẽ làm cho con người ra đê tiện, tiểu nhân và tầm thường. Người ta kể rằng: Người Ấn Độ làm lồng bắt khỉ thường để thức ăn vào trong. Khỉ thò tay vào để lấy thức ăn, chỉ cần nắm được thì không thể nào lấy tay ra được. Nếu muốn lấy được tay ra chỉ có thể bỏ lại thức ăn. Khỉ đã thò tay nắm được thức ăn thì không muốn bỏ ra.
Khỉ không chấp nhận việc từ bỏ, còn con người thì sao?
Đáng tiếc là con người vẫn còn nhiều thứ khó từ bỏ, thế nên vẫn chết trong lòng tham như loài khỉ!
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu con người sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen
Lm Jos Tạ duy Tuyền
Có người bảo rằng: “Thiên hạ ồn ào đều vì lợi mà đến, thiên hạ náo nhiệt cũng vì lợi mà đi”. Thực vậy, nhìn vào xã hội với những ồn ào, náo nhiệt chúng ta sẽ thấy điều gì? Thưa, chúng ta sẽ thấy sự náo nhiệt được hình thành bởi kẻ có tiền đến đó để xài tiền và kẻ không có tiền đến đó để kiếm tiền. Có thể nói ở thế gian chỉ có hai loại người: Một là kẻ kiếm tiền. Hai là kẻ xài tiền. Hai loại người này đã làm thành một xã hội đầy những thị phi, và vui buồn, sướng khổ cuộc đời cũng từ đó mà ra!
Hôm nay Chúa lại bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Nhưng xem ra có mấy ai thanh thoát được với tiền bạc trần gian. Ai cũng cần tiền. Ai cũng tích góp. Ai cũng tìm cơ hội để có tiền, để giầu có. Có mấy ai sống mà không dắt lưng cho mình ít tiền để làm vốn, để phòng khi trái gió trở trời?
Ở nơi này nơi kia vẫn nghe nói có cha này cha nọ chỉ lo đi kiếm tiền mà bỏ bê giáo xứ. Ở nơi này nơi kia vẫn còn đó những người đi truyền giáo thì không lo chỉ lo đi lấy lòng người giầu có để trục lợi cho bản thân. Ở nơi này nơi kia giáo xứ cũng tan nát vì đồng tiền thiếu minh bạch dẫn đến kiện cáo, đố kỵ với nhau.
Nhưng đó chỉ là những gợn sóng nhỏ vẫn lăn tanh trong lòng Giáo hội. Giáo hội vẫn còn nhiều những con người sống nghèo khó để cho mọi người và vì mọi người. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống khó nghèo như người nghèo, để sống cứu đời cho người nghèo và vì người nghèo.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Một điều mà ai cũng biết là tham thì thâm. Lòng tham sẽ trói buộc con người trong ích kỷ chỉ để thu vén. Lòng tham sẽ làm cho con người ra đê tiện, tiểu nhân và tầm thường. Người ta kể rằng: Người Ấn Độ làm lồng bắt khỉ thường để thức ăn vào trong. Khỉ thò tay vào để lấy thức ăn, chỉ cần nắm được thì không thể nào lấy tay ra được. Nếu muốn lấy được tay ra chỉ có thể bỏ lại thức ăn. Khỉ đã thò tay nắm được thức ăn thì không muốn bỏ ra.
Khỉ không chấp nhận việc từ bỏ, còn con người thì sao?
Đáng tiếc là con người vẫn còn nhiều thứ khó từ bỏ, thế nên vẫn chết trong lòng tham như loài khỉ!
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu con người sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen
TẠI SAO GIÁO HỘI CẦN PHẢI KHÓ NGHÈO ĐỂ RAO GIẢNG TIN MỪNG CÁCH THUYẾT PHỤC HƠN?
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những người chỉ biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên khinh thường mọi giá tri tinh thần trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm. Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời, thì khó nghèo lại là một nhân đức cần phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.
Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam mê về tiền bạc và của cải vật chất, tôn tờ khoái lạc (hedonism) khiến dửng dưng – hay lãnh cảm (numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng nhân đạo..
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.
Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo đói, sống vất vưởng trên hè phố ở các đô thị lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú, tỉ phú không hề quan tâm đến họ. Chính quyền liên bang cũng như tiểu bang , cho đến nay, vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria…vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! (Irak và Afghanistan)
Trước thực trạng nói trên của Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng, đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa nơi những người xấu số này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.
Đức Thánh Cha nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8:9)
Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thực hành phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa , “Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28).
Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau:
“ cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion) một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.
Tại sao phải sống khó nghèo?
Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu, Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở các bệnh viện. Nghĩa là không “lý tưởng thiếu thực tế” để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.
Nhưng điều quan trọng nhất là phải có nhân đức khó nghèo và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ. (Mt 5:3; Lc 6 : 20)
Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới về phần xác như đã nói ở trên mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm chóng qua ở đời này đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến không còn chú tâm vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.
Người tông đồ mà không có nhân đức khó nghèo, không khinh chê tiền bạc và của cải vật chất, thì không thể rao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có và không sống tinh thần khó nghèo thực sự mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Mặt khác, sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố, trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.
Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ – nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con trồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20)
Thử hỏi Chúa có đóng kịch “khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không?
Ai dám nói là có? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành lời Chúa để đi tìm và “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt 6: 20)
Nếu người tông đồ mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng, thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe.. Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và xa tránh hay chống lại những cám dỗ về tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi, bon chen để được về những xứ giầu, không chịu đi coi những xứ nghèo ở thôn quê, cũng như không muốn dâng lễ với bổng lễ ( mass stipends) thấp , thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu cho ai được.Và nhiên hậu, cũng sẽ không hơn gì bọn Biệt phái và luật sĩ xưa kia, là những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.”( Mt 23: 4).
Như thế, không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.
Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại xe đắt tiền như Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ cao.. thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì “con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.
Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh, coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.
Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, tách mình ra khỏi làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cá nhân. Có như thế thì mới có thể thi hành có hiệu quả sứ mệnh thiêng liêng của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa , Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe , lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. (1 Cr 2 : 9 )
Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí chóng qua ở trần gian này , thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác được.
Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này, không hề phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc , danh vọng và của cải vật chất hư hèn mà chỉ cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi. Lại nữa, không có giáo sĩ và tu sĩ nào có lời khấn sang giầu mà chỉ có lời khấn khó nghèo mà thôi. Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quý sang giầu đích thực. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi.” (Mc 10: 21)
Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ- bước đi qua bóng tối đen thui của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ, thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi.
Chúa nói: “ai có tai nghe thì nghe” (Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những người chỉ biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên khinh thường mọi giá tri tinh thần trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm. Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời, thì khó nghèo lại là một nhân đức cần phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.
Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam mê về tiền bạc và của cải vật chất, tôn tờ khoái lạc (hedonism) khiến dửng dưng – hay lãnh cảm (numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng nhân đạo..
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.
Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo đói, sống vất vưởng trên hè phố ở các đô thị lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú, tỉ phú không hề quan tâm đến họ. Chính quyền liên bang cũng như tiểu bang , cho đến nay, vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria…vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! (Irak và Afghanistan)
Trước thực trạng nói trên của Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng, đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa nơi những người xấu số này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.
Đức Thánh Cha nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8:9)
Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thực hành phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa , “Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28).
Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau:
“ cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion) một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.
Tại sao phải sống khó nghèo?
Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu, Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở các bệnh viện. Nghĩa là không “lý tưởng thiếu thực tế” để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.
Nhưng điều quan trọng nhất là phải có nhân đức khó nghèo và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ. (Mt 5:3; Lc 6 : 20)
Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới về phần xác như đã nói ở trên mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm chóng qua ở đời này đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến không còn chú tâm vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.
Người tông đồ mà không có nhân đức khó nghèo, không khinh chê tiền bạc và của cải vật chất, thì không thể rao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có và không sống tinh thần khó nghèo thực sự mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Mặt khác, sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố, trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.
Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ – nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con trồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20)
Thử hỏi Chúa có đóng kịch “khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không?
Ai dám nói là có? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành lời Chúa để đi tìm và “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt 6: 20)
Nếu người tông đồ mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng, thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe.. Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và xa tránh hay chống lại những cám dỗ về tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi, bon chen để được về những xứ giầu, không chịu đi coi những xứ nghèo ở thôn quê, cũng như không muốn dâng lễ với bổng lễ ( mass stipends) thấp , thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu cho ai được.Và nhiên hậu, cũng sẽ không hơn gì bọn Biệt phái và luật sĩ xưa kia, là những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.”( Mt 23: 4).
Như thế, không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.
Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại xe đắt tiền như Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ cao.. thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì “con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.
Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh, coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.
Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, tách mình ra khỏi làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cá nhân. Có như thế thì mới có thể thi hành có hiệu quả sứ mệnh thiêng liêng của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa , Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe , lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. (1 Cr 2 : 9 )
Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí chóng qua ở trần gian này , thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác được.
Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này, không hề phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc , danh vọng và của cải vật chất hư hèn mà chỉ cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi. Lại nữa, không có giáo sĩ và tu sĩ nào có lời khấn sang giầu mà chỉ có lời khấn khó nghèo mà thôi. Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quý sang giầu đích thực. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi.” (Mc 10: 21)
Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ- bước đi qua bóng tối đen thui của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ, thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi.
Chúa nói: “ai có tai nghe thì nghe” (Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)
KHI LINH MỤC CŨNG LÀ MỘT CÁI NGHỀ
Mẹ Đốp
Bất cứ những ai đã mang trên mình một tôn giáo thì người đó có quyền tin vào những giá trị mà chính tôn giáo đến và mê hoặc chính mình. Và có thể nhiều người sẽ phản đối ý kiến của cá nhân tôi nhưng tôi xem đó như một nghĩa vụ mà những tín đồ vâng phục phải thực hiện trong suốt cuộc đời của chính mình. Tôi cũng xin nói rằng, tin vào một tôn giáo khác hoàn toàn với việc tin vào chính những người vẫn được xem là người đại diện cho tôn giáo; họ là những chức sắc được phía giáo hội các tôn giáo giao phó trách nhiệm thực hành đạo, làm sống đạo nhưng những gì họ làm chưa chắc đã đại diện cho những giá trị tốt đẹp cho chính tôn giáo đó. Tuy nhiên, có một thực tế là đang có một sự đánh đồng hết sức ấu trĩ như thế, một bộ phận tín đồ đang xem chính những lời nói, hành động của chính những vị chức sắc ấy là hiện thân của giáo lý, giáo luật mà không biết rằng, không phải hoàn toàn họ là chức sắc chân chính. Bộ phận người này xem cái danh phận của mình trong giáo hội cũng là một cái nghề; ở đó họ tự thân nên, biết làm gì để sinh lợi, để có thể sản sinh ra vật chất như nhiều nghề nghiệp khác trong xã hội.... Có thể xem đó là một khoảng tối mà không phải ai cũng có thể nhận ra, ý thức được.
Câu chuyện về một vị Linh mục người Việt tại Mỹ đối mặt với trốn thuế, lừa đảo được báo chí nước này đưa tin là một ví dụ. Tôi tin chắc rằng, trước khi mọi sự gian dối, phạm đạo của vị Linh mục có tên là Hiền kia được phanh phui và đem ra ánh sáng, không ai dám nghi ngờ về tư cách của con người này; bởi, với 55 tuổi đời, 20 năm làm Linh mục tại một giáo xứ và từng giữ nhiều cương vị quan trọng trong bộ máy giáo hội tại địa phương (ông này từng giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm Công giáo Việt Nam), vị Linh mục này đủ sức chinh phục và cảm hóa những sự ngờ vực của những ai hướng về mình. Và câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao với việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật nhà nước Mỹ trong thời gian lâu như thế và cả việc ông này lợi dụng việc điều hành một quỹ từ thiện để tư lợi cá nhân (vi phạm giáo lý, giáo luật đạo Thiên chúa) nhưng việc phát hiện lại hết sức chậm trễ? Liệu rằng, vị Linh mục gốc Việt này có một sự may mắn thường tình tại chính cái nơi Luật pháp được thực thi tương đối triệt để hay chính lòng tin, sự trao gửi vô điều kiện của những tín đồ là điều kiện để một kẻ xem Linh mục cũng là một nghề có thể "phá đạo" và làm giảm uy tín của tôn giáo này tại đây?
Xem thêm: http://www.voatiengviet.com/content/linh-muc-goc-viet-o-hoa-ky-doi-mat-voi-toi-tron-thue-va-lua-dao/2734508.html
Rõ ràng, tín đồ đạo Thiên chúa có một yếu tố mà không ít các tôn giáo trên thế giới (trừ đạo Hồi) có được chính là tính sùng bái chính tôn giáo của mình và suy cho cùng đó chính là điều mà bất cứ tôn giáo nào cũng muốn vươn tới. Vậy nhưng, coi trọng sự phát triển của một tôn giáo không thể không nói đến sự phát triển chung của xã hội bởi, chính các tôn giáo được hình thành từ sự bế tắc, bất lực của con người trong cuộc sống; hay nói cách khách, các tôn giáo sinh ra để hóa giải chính cuộc sống và chúng ta cũng không thể cho hành động, việc làm bị phát giác của vị Linh mục tại giáo xứ San Jose trong hơn 20 năm qua là góp phần xây dựng, hóa giải cuộc sống. Cho nên, có một thực tế được đặt ra qua câu chuyện này là liệu rằng, việc tin vào một tôn giáo, thực hành đạo giáo qua những vị chức sắc đã đủ chưa hay nó mới là một kênh để những tín đồ làm sống chính đời sống đạo của chính mình.
Bản thân người viết từng được sống, được xem và chứng kiến không ít những câu chuyện xung quanh đời sống tôn giáo (thiên chúa giáo) tại Việt Nam thì thấy rằng: Xem ra cái cách sùng đạo của người Việt trong nước không khác là mấy so với những tín hữu người Việt dưới sự chăn dắt của vị Linh mục được nói ở trên. Họ tin và làm theo kiểu một chiều mà không hề có bất cứ một sự phản biện. Họ chỉ biết vâng phục và làm theo mà không mảy may biết rằng, có thể họ đang thực hiện một sứ vụ trái với pháp luật nước sở tại và có thể rơi vào cảnh lao lý.... Dường như, rất hiếm, rất ít những phản biện, những cái nhìn suy lý đúng - sai trước những điều những vị chức sắc kia nói. Đây cũng là lí do để giải thích tại sao ở Việt Nam có không ít những vụ việc dù biết đó là sai, là không đúng nhưng vì đức tin, vì đức vâng lời mà những tín hữu thiên chúa giáo dám xả thân và thậm chí họ còn cho đó là một cách dâng hiến cho chính tôn giáo của mình.... Tìm hiểu kỹ hơn về điều này, người viết được biết ở Việt Nam chỉ có các chức sắc mới được tiếp cận Kinh Thánh (Tân và Cữu ước) và các bộ giáo luật một cách đầy đủ, có hệ thống và nguyên bản nhất tại các trường đào tạo Linh mục của các giáo phận. Ngoài ra, các chức việc (có nơi thì gọi là Ban Hành giáo, có nơi gọi là Hội đồng mục vụ) và các giáo dân bình thường hầu như không được tiếp cận cụ thể, chi tiết và nguyên bản như thế. Những điều họ biết, họ nghe và đưa vào thực hành đạo đơn giản được các vị Linh mục kia truyền giải và họ cũng chỉ biết tiếp cận một chiều, họ cũng không có quyền đặt ra câu hỏi là tại sao thế? tại sao không phải thế này, thế kia? Chính quyền năng mà giáo hội cố áp đặt xuống đã biến những tín đồ của họ trở thành những người chỉ biết vâng phục một chiều!
Có một chi tiết khiến tôi cũng rất lưu tâm là theo bản cáo trạng được công tố viên đưa ra thì "Các công tố viên đầu tuần này nói rằng ông Nguyễn Minh Hiền đã nạp các tấm séc đóng góp của các giáo dân vào tài khoản ngân hàng riêng và không khai báo hơn 1 triệu đôla thu nhập cho Sở Thuế vụ.
Ông Hiền đã làm linh mục tại giáo xứ trên trong hơn 20 năm qua, và nắm giữ nhiều vị trí, trong đó có Giám đốc Trung tâm Công giáo Việt Nam.
Theo cáo trạng, từ năm 2005 tới 2008, ông Hiền đã yêu cầu các giáo dân đóng góp cho trung tâm này, nhưng sau đó lại nạp ít nhất 14 tấm séc tổng cộng 19 nghìn đôla vào tài khoản cá nhân.
Vị linh mục 55 tuổi còn không khai thuế 1,1 triệu đôla thu nhập cá nhân cho Sở Thuế Vụ trong khoảng thời gian từ năm 2008 tới 2011'.
Thử tìm hiểu về điều này mới biết quyền năng của một Linh mục không được thực hành trong việc đóng góp, nghĩa là việc đóng góp bao nhiêu, đóng góp khi nào và hình thức đóng góp chỉ được thực thi khi có sự đồng ý bằng văn bản của người đứng đầu giáo phận - Giám mục giáo phận. Vậy nhưng, Linh mục tên Hiền này đã tự cá nhân mình yêu cầu các tín đồ đóng góp và đây cũng là nguyên do khiến ông này bị cáo buộc là trốn thuế và lừa đảo như đã nói ở trên.
Liên hệ việc này với đời sống đạo Thiên chúa trong nước thì việc này cũng tương tự. Rất nhiều tín đồ đạo Thiên chúa, nhất là nơi đời sống kinh tế gặp khó khăn đã kêu lay về những khoản đóng góp mà chính Linh mục Quản xứ là người khởi xướng và kêu gọi. Và thử nghĩ rằng, với những nghĩa vụ với nhà nước vốn dĩ đã là quá sức đối với những người dân nghèo thì họ sẽ sống ra sao nếu các khoản đóng góp từ giáo hội cứ luôn thúc bách họ. Việc xây dựng nhà thờ tại các họ đạo đã cần kíp chưa trong khi đời sống của người dân còn quá nghèo và như chia sẻ của một vị Linh mục (xin được dấu tên) thì trong Kinh Thánh Thiên chúa cũng nói rằng (xin được diễn nôm): đạo của Ngài cốt ở đức tin và lòng thành chứ không phải là nơi thờ tự hoành tráng, nguy nga. Việc một vị Linh mục nào đó khi gặp những người đồng đạo luôn miệng khoe công tích về xây dựng nhà thờ nên chăng cũng nên xem lại.
Xin được bàn thêm nội dung này ở những bài viết tiếp theo.
Mẹ Đốp
Bất cứ những ai đã mang trên mình một tôn giáo thì người đó có quyền tin vào những giá trị mà chính tôn giáo đến và mê hoặc chính mình. Và có thể nhiều người sẽ phản đối ý kiến của cá nhân tôi nhưng tôi xem đó như một nghĩa vụ mà những tín đồ vâng phục phải thực hiện trong suốt cuộc đời của chính mình. Tôi cũng xin nói rằng, tin vào một tôn giáo khác hoàn toàn với việc tin vào chính những người vẫn được xem là người đại diện cho tôn giáo; họ là những chức sắc được phía giáo hội các tôn giáo giao phó trách nhiệm thực hành đạo, làm sống đạo nhưng những gì họ làm chưa chắc đã đại diện cho những giá trị tốt đẹp cho chính tôn giáo đó. Tuy nhiên, có một thực tế là đang có một sự đánh đồng hết sức ấu trĩ như thế, một bộ phận tín đồ đang xem chính những lời nói, hành động của chính những vị chức sắc ấy là hiện thân của giáo lý, giáo luật mà không biết rằng, không phải hoàn toàn họ là chức sắc chân chính. Bộ phận người này xem cái danh phận của mình trong giáo hội cũng là một cái nghề; ở đó họ tự thân nên, biết làm gì để sinh lợi, để có thể sản sinh ra vật chất như nhiều nghề nghiệp khác trong xã hội.... Có thể xem đó là một khoảng tối mà không phải ai cũng có thể nhận ra, ý thức được.
Câu chuyện về một vị Linh mục người Việt tại Mỹ đối mặt với trốn thuế, lừa đảo được báo chí nước này đưa tin là một ví dụ. Tôi tin chắc rằng, trước khi mọi sự gian dối, phạm đạo của vị Linh mục có tên là Hiền kia được phanh phui và đem ra ánh sáng, không ai dám nghi ngờ về tư cách của con người này; bởi, với 55 tuổi đời, 20 năm làm Linh mục tại một giáo xứ và từng giữ nhiều cương vị quan trọng trong bộ máy giáo hội tại địa phương (ông này từng giữ chức vụ Giám đốc Trung tâm Công giáo Việt Nam), vị Linh mục này đủ sức chinh phục và cảm hóa những sự ngờ vực của những ai hướng về mình. Và câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao với việc thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật nhà nước Mỹ trong thời gian lâu như thế và cả việc ông này lợi dụng việc điều hành một quỹ từ thiện để tư lợi cá nhân (vi phạm giáo lý, giáo luật đạo Thiên chúa) nhưng việc phát hiện lại hết sức chậm trễ? Liệu rằng, vị Linh mục gốc Việt này có một sự may mắn thường tình tại chính cái nơi Luật pháp được thực thi tương đối triệt để hay chính lòng tin, sự trao gửi vô điều kiện của những tín đồ là điều kiện để một kẻ xem Linh mục cũng là một nghề có thể "phá đạo" và làm giảm uy tín của tôn giáo này tại đây?
Xem thêm: http://www.voatiengviet.com/content/linh-muc-goc-viet-o-hoa-ky-doi-mat-voi-toi-tron-thue-va-lua-dao/2734508.html
Rõ ràng, tín đồ đạo Thiên chúa có một yếu tố mà không ít các tôn giáo trên thế giới (trừ đạo Hồi) có được chính là tính sùng bái chính tôn giáo của mình và suy cho cùng đó chính là điều mà bất cứ tôn giáo nào cũng muốn vươn tới. Vậy nhưng, coi trọng sự phát triển của một tôn giáo không thể không nói đến sự phát triển chung của xã hội bởi, chính các tôn giáo được hình thành từ sự bế tắc, bất lực của con người trong cuộc sống; hay nói cách khách, các tôn giáo sinh ra để hóa giải chính cuộc sống và chúng ta cũng không thể cho hành động, việc làm bị phát giác của vị Linh mục tại giáo xứ San Jose trong hơn 20 năm qua là góp phần xây dựng, hóa giải cuộc sống. Cho nên, có một thực tế được đặt ra qua câu chuyện này là liệu rằng, việc tin vào một tôn giáo, thực hành đạo giáo qua những vị chức sắc đã đủ chưa hay nó mới là một kênh để những tín đồ làm sống chính đời sống đạo của chính mình.
Bản thân người viết từng được sống, được xem và chứng kiến không ít những câu chuyện xung quanh đời sống tôn giáo (thiên chúa giáo) tại Việt Nam thì thấy rằng: Xem ra cái cách sùng đạo của người Việt trong nước không khác là mấy so với những tín hữu người Việt dưới sự chăn dắt của vị Linh mục được nói ở trên. Họ tin và làm theo kiểu một chiều mà không hề có bất cứ một sự phản biện. Họ chỉ biết vâng phục và làm theo mà không mảy may biết rằng, có thể họ đang thực hiện một sứ vụ trái với pháp luật nước sở tại và có thể rơi vào cảnh lao lý.... Dường như, rất hiếm, rất ít những phản biện, những cái nhìn suy lý đúng - sai trước những điều những vị chức sắc kia nói. Đây cũng là lí do để giải thích tại sao ở Việt Nam có không ít những vụ việc dù biết đó là sai, là không đúng nhưng vì đức tin, vì đức vâng lời mà những tín hữu thiên chúa giáo dám xả thân và thậm chí họ còn cho đó là một cách dâng hiến cho chính tôn giáo của mình.... Tìm hiểu kỹ hơn về điều này, người viết được biết ở Việt Nam chỉ có các chức sắc mới được tiếp cận Kinh Thánh (Tân và Cữu ước) và các bộ giáo luật một cách đầy đủ, có hệ thống và nguyên bản nhất tại các trường đào tạo Linh mục của các giáo phận. Ngoài ra, các chức việc (có nơi thì gọi là Ban Hành giáo, có nơi gọi là Hội đồng mục vụ) và các giáo dân bình thường hầu như không được tiếp cận cụ thể, chi tiết và nguyên bản như thế. Những điều họ biết, họ nghe và đưa vào thực hành đạo đơn giản được các vị Linh mục kia truyền giải và họ cũng chỉ biết tiếp cận một chiều, họ cũng không có quyền đặt ra câu hỏi là tại sao thế? tại sao không phải thế này, thế kia? Chính quyền năng mà giáo hội cố áp đặt xuống đã biến những tín đồ của họ trở thành những người chỉ biết vâng phục một chiều!
Có một chi tiết khiến tôi cũng rất lưu tâm là theo bản cáo trạng được công tố viên đưa ra thì "Các công tố viên đầu tuần này nói rằng ông Nguyễn Minh Hiền đã nạp các tấm séc đóng góp của các giáo dân vào tài khoản ngân hàng riêng và không khai báo hơn 1 triệu đôla thu nhập cho Sở Thuế vụ.
Ông Hiền đã làm linh mục tại giáo xứ trên trong hơn 20 năm qua, và nắm giữ nhiều vị trí, trong đó có Giám đốc Trung tâm Công giáo Việt Nam.
Theo cáo trạng, từ năm 2005 tới 2008, ông Hiền đã yêu cầu các giáo dân đóng góp cho trung tâm này, nhưng sau đó lại nạp ít nhất 14 tấm séc tổng cộng 19 nghìn đôla vào tài khoản cá nhân.
Vị linh mục 55 tuổi còn không khai thuế 1,1 triệu đôla thu nhập cá nhân cho Sở Thuế Vụ trong khoảng thời gian từ năm 2008 tới 2011'.
Thử tìm hiểu về điều này mới biết quyền năng của một Linh mục không được thực hành trong việc đóng góp, nghĩa là việc đóng góp bao nhiêu, đóng góp khi nào và hình thức đóng góp chỉ được thực thi khi có sự đồng ý bằng văn bản của người đứng đầu giáo phận - Giám mục giáo phận. Vậy nhưng, Linh mục tên Hiền này đã tự cá nhân mình yêu cầu các tín đồ đóng góp và đây cũng là nguyên do khiến ông này bị cáo buộc là trốn thuế và lừa đảo như đã nói ở trên.
Liên hệ việc này với đời sống đạo Thiên chúa trong nước thì việc này cũng tương tự. Rất nhiều tín đồ đạo Thiên chúa, nhất là nơi đời sống kinh tế gặp khó khăn đã kêu lay về những khoản đóng góp mà chính Linh mục Quản xứ là người khởi xướng và kêu gọi. Và thử nghĩ rằng, với những nghĩa vụ với nhà nước vốn dĩ đã là quá sức đối với những người dân nghèo thì họ sẽ sống ra sao nếu các khoản đóng góp từ giáo hội cứ luôn thúc bách họ. Việc xây dựng nhà thờ tại các họ đạo đã cần kíp chưa trong khi đời sống của người dân còn quá nghèo và như chia sẻ của một vị Linh mục (xin được dấu tên) thì trong Kinh Thánh Thiên chúa cũng nói rằng (xin được diễn nôm): đạo của Ngài cốt ở đức tin và lòng thành chứ không phải là nơi thờ tự hoành tráng, nguy nga. Việc một vị Linh mục nào đó khi gặp những người đồng đạo luôn miệng khoe công tích về xây dựng nhà thờ nên chăng cũng nên xem lại.
Xin được bàn thêm nội dung này ở những bài viết tiếp theo.
NGHỀ NÀO KIẾM TIỀN DỄ?
Là những người Công Giáo, cũng như một số Tôn Giáo bạn từ trong nước Việt Nam đến Hải Ngoại. Nhất là sau biến cố đau thương 30 tháng 4 năm 1975. Không ai mà không biết đến người Mẹ thứ hai của chúng ta đó là ĐỨC MẸ LA VANG. Thật vậy, hiện nay có rất nhiều nhà thờ Việt Nam ở Hải Ngoại lấy tước hiệu là ĐỨC MẸ LA VANG.
Chúng ta thấy có hiện tượng TRĂM HOA ĐUA NỞ ở rất nhiều nhà Dòng, Giáo Xứ Việt Nam tại Hải Ngoại, mỗi năm Bề Trên các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức kính Đức Mẹ La Vang tại địa phương mình đang làm Mục Vụ với những cái tên thật kêu, thật nổ như ĐẠI HỘI này…..! ĐẠI HỘI kia……! HÀNH HƯƠNG này……! HÀNH HƯƠNG nọ…….! Song song với những bích chương quảng cáo thật rầm rộ trên những truyền thông, truyền hình, báo chí là có những Đức Cha này, Đức Cha kia, Linh Mục này, Linh Mục nọ, Thuyết Trình viên này, thuyết trình viên kia, dàn Ca Sĩ của trung tâm nổi tiếng này, trung tâm nổi tiếng kia. Chúa, Mẹ, Các Thánh, thức ăn, sổ số được rao bán thật náo nhiệt. (Không biết có náo loạn không?) Không những thế lại còn những lều đạo đức để xin khấn ơn này, xin khấn ơn nọ, lều bảo trợ này, lều bảo trợ kia. TIỀN TIỀN TIỀN vào như nước.
Không biết những SỐ TIỀN của giáo dân khi đi đến những nhà lều xin khấn, Giáo Xứ và Giáo Phận địa phương có được hưởng SỐ TIỀN này không? Hay các Cha Xứ và nhà Dòng lấy hết. Nghe nói SỐ TIỀN xin khấn này nhiều nhiều nhiều lắm....Không dưới 5 con SỐ. Quá Trời.
XIN HỎI: Có thật sự các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức những Đại Hội này, Hành Hương kia tại địa phương mình đang làm Mục Vụ để con dân từ muôn phương qui tụ về bên Đức Mẹ La Vang cảm tạ Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta muôn ơn lành. Hay chỉ vì thấy nhà Dòng này tổ chức thành công quá, Dòng tôi không chịu thua cũng phải tổ chức. Giáo Xứ này tổ chức kiếm được nhiều TIỀN nhỉ. Tại sao Giáo Xứ ta lại ngồi khoanh tay.
Thời buổi KIM TIỀN ngày nay. Người dân Việt Nam ta có câu ví von:
KHÔNG NGHỀ NÀO KIẾM TIỀN DỄ BẰNG NGHỀ CỦA MẤY ÔNG LINH MỤC.
Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại
Là những người Công Giáo, cũng như một số Tôn Giáo bạn từ trong nước Việt Nam đến Hải Ngoại. Nhất là sau biến cố đau thương 30 tháng 4 năm 1975. Không ai mà không biết đến người Mẹ thứ hai của chúng ta đó là ĐỨC MẸ LA VANG. Thật vậy, hiện nay có rất nhiều nhà thờ Việt Nam ở Hải Ngoại lấy tước hiệu là ĐỨC MẸ LA VANG.
Chúng ta thấy có hiện tượng TRĂM HOA ĐUA NỞ ở rất nhiều nhà Dòng, Giáo Xứ Việt Nam tại Hải Ngoại, mỗi năm Bề Trên các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức kính Đức Mẹ La Vang tại địa phương mình đang làm Mục Vụ với những cái tên thật kêu, thật nổ như ĐẠI HỘI này…..! ĐẠI HỘI kia……! HÀNH HƯƠNG này……! HÀNH HƯƠNG nọ…….! Song song với những bích chương quảng cáo thật rầm rộ trên những truyền thông, truyền hình, báo chí là có những Đức Cha này, Đức Cha kia, Linh Mục này, Linh Mục nọ, Thuyết Trình viên này, thuyết trình viên kia, dàn Ca Sĩ của trung tâm nổi tiếng này, trung tâm nổi tiếng kia. Chúa, Mẹ, Các Thánh, thức ăn, sổ số được rao bán thật náo nhiệt. (Không biết có náo loạn không?) Không những thế lại còn những lều đạo đức để xin khấn ơn này, xin khấn ơn nọ, lều bảo trợ này, lều bảo trợ kia. TIỀN TIỀN TIỀN vào như nước.
Không biết những SỐ TIỀN của giáo dân khi đi đến những nhà lều xin khấn, Giáo Xứ và Giáo Phận địa phương có được hưởng SỐ TIỀN này không? Hay các Cha Xứ và nhà Dòng lấy hết. Nghe nói SỐ TIỀN xin khấn này nhiều nhiều nhiều lắm....Không dưới 5 con SỐ. Quá Trời.
XIN HỎI: Có thật sự các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức những Đại Hội này, Hành Hương kia tại địa phương mình đang làm Mục Vụ để con dân từ muôn phương qui tụ về bên Đức Mẹ La Vang cảm tạ Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta muôn ơn lành. Hay chỉ vì thấy nhà Dòng này tổ chức thành công quá, Dòng tôi không chịu thua cũng phải tổ chức. Giáo Xứ này tổ chức kiếm được nhiều TIỀN nhỉ. Tại sao Giáo Xứ ta lại ngồi khoanh tay.
Thời buổi KIM TIỀN ngày nay. Người dân Việt Nam ta có câu ví von:
KHÔNG NGHỀ NÀO KIẾM TIỀN DỄ BẰNG NGHỀ CỦA MẤY ÔNG LINH MỤC.
Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại
Khi linh mục biết nhảy “cha cha cha"! (Kỳ Hai)
Biết Văn
Đời sống bao tháng ngày còn lại,
e ngại những cơn mưa đời sẽ làm lòng con úa phai (sẽ làm lòng con úa phai).
Lời Chúa là ánh sáng soi trên đường dài, là gió thổi dẫn đưa con thuyền đến nơi, trót đời con đây nhỏ bé, trót đời xin dâng tiến Ngài.
(Con chỉ là tạo vật - Phanxicô)
Đời sống tận hiến theo ơn gọi của các linh mục không lẽ dễ dàng phai nhạt với những năm tháng mà các ngài làm ngôn sứ hay phục vụ cho cộng đoàn dân Chúa? Hay sự nhạt phai đó chính là mọi chước cám dỗ của Satan mà điển hình là tiền bạc và dục vọng?!!
Tôi không nghiêm khắc nhằm so sánh đời sống của linh mục làm việc mục vụ với các linh mục khổ tu hay ẩn tu. Nhưng ít ra các linh mục phải biết vai trò mình đang làm gì: mục vụ, ẩn tu hay khổ tu mà trung thành với xứ vụ này và trung thành với lời khấn của họ. Đặc biệt hơn nữa là các “ngài” đừng quá “tham, sân, si” để làm trò hề cho mọi người xem, và làm xấu đi hình ảnh “Chúa Giêsu linh mục”.
Chúa Giêsu ngày xưa cũng không tránh khỏi mọi sự ghen ghét, dèm pha, và mưu hại thì các linh mục ngày nay cũng vậy, dễ dàng bị soi mói, để nhằm bôi xấu và đánh phá Giáo Hội của Chúa từ mọi phía. Sự tục hóa của các linh mục sau những “Thánh lễ mở tay”, “Thánh lễ bổn mạng”, “Thánh lễ ngân khánh” hay “Thánh lễ kim khánh” …v.v.. ngoài tổ chức rình rang ở giáo xứ, cộng đoàn, các vị còn bồi thêm là tổ chức kéo nhau ra nhà hàng với mấy chục bàn với đủ các món ăn, thức uống; cả băng nhạc, ca sĩ để mà chúc mừng, rồi “cha, cha, cha…”, rồi “con, con, con…” rồi phong thư trao tay xem như mình xứng đáng được hưởng lợi vì ơn gọi làm linh mục.
Không lẽ các linh mục lại tự tục hóa lấy mình vì tiền hay mua đòi danh lợi “hư không” mà đánh mất bản chất thiêng liêng mà Chúa đã gọi họ giữa bao nhiêu người? Hay các linh mục cảm thấy mình thật sự xứng đáng trong vai trò “ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” (Mc 10,43) nên tự cao, tự đại mà lãnh nhận sự chúc tụng đó? Hay các linh mục lại trơ trẽn đổ thừa là để làm vui lòng các tín hữu, hay hòa hợp với anh em Kitô hữu muốn kỷ niệm cho các linh mục và chấp nhận tổ chức rình rang như thế cho tăng thêm công lao của mình!
Ngay từ những năm đầu học tập ở Tiểu Chủng Viện (bây giờ nhiều nơi không còn nữa) hay trong Đại Chủng Viện cũng vậy, đời sống linh mục luôn được cảnh báo về sự giới hạn so với những nhu cầu của con người, cộng đoàn như dòng thác lũ về đời sống tâm linh. Việc mục vụ luôn là hố sâu không đáy và mỗi ngày vị linh mục luôn phải đối mặt với sự chọn lựa để quyết định những nhu cầu nào ngài có thể đáp ứng và những nhu cầu nào phải chối từ vì đời sống tu trì không cho phép.
Thẳng thắn mà nói rằng, một số linh mục đã không có những quyết định đúng đắn và cũng có nhiều vị lại khuếch trương một cách quá độ. Không lẽ vì mục đích chia sẻ niềm vui “ơn gọi linh mục”, “Năm Thánh”, hay “Năm Linh Mục” và để cổ võ “Ơn Gọi” đó trong cánh đồng truyền giáo mà những linh mục là người hướng dẫn thiêng liêng của mọi người trong cộng đoàn, bây giờ lại lăn xả hết mình “show up” lời ca, tiếng hát, và tài năng đóng kịch, hài hước và nhảy nhót lung tung như các nghệ sĩ chuyên nghiệp hết mình vì nghệ thuật hầu góp thêm vào khoảng “văn hóa” trống vắng chưa bao giờ có các bậc tu sĩ nam nữ nào dám làm và dám tham gia cho nghệ thuật vốn đã quá bát nháu này. Việc mặc áo giáo sĩ là một dấu chỉ rõ ràng là họ mang lấy trên mình cái khác biệt của sự hy sinh, của ngôn sứ Đức Chúa Trời. Ngoài ra các linh mục còn phải chấp nhận sự cô đơn mang tính độc đáo đáng kính như Đấng tốt lành Giêsu chí ái.
Đây là một vấn đề mà mọi linh mục phải đối diện và vì thế chính các linh mục cần xác định những giới hạn hợp lý của mình khi mình làm công tác tông đồ mục vụ. Một số người nêu lên ý kiến cho rằng độc thân chỉ phù hợp với đời sống thánh hiến, bởi vì những người sống trong đời sống thánh hiến được nâng đỡ một cách đặc biệt trong các cộng đoàn mình sống, trong khi đó một linh mục trong đời mục vụ sống trong nhà xứ không có được sự nâng đỡ này. Thêm nữa, các ngài phải sống giữa những người không cùng cách sống với mình, không hiểu mình và lại không ủng hộ mình nữa. Điều này đặc biệt làm cho vị linh mục cảm thấy cô đơn và bị thách đố liên tục. Nhưng tu hành vẫn là tu hành, đời sống tận hiến vẫn là đời sống tận hiến…không thể vì buồn chán hãy quá rỗi việc Chúa mà các linh mục có thể có thể dễ dàng chấp nhận đồng hành với thế tục, với danh vọng, với đồng tiền.
Xem qua “Linh Ca I, II & III”, các bạn cũng như tôi đều giật thót mình khi nhìn thấy chức năng ngôn sứ của linh mục gần thế tục cho tới nổi các ngài tự biến mình thành những anh hề hay những anh cao bồi quần áo lố lăng nhảy nhót, ca hát, hài hước dỡ ẹt nhưng lại bốc phét là “Linh Ca được Chúa chúc phúc và mang lại nhiều lợi ích tâm linh cho nhiều tâm hồn và đánh động được tấm lòng quảng đại dấn thân của giới trẻ cho Giáo Hội hôm naỵ.” Thật là nực cười cho sự ngây dại và không trưởng thành của các vị linh mục này khi xem sứ mạng rao giảng nước trời chỉ là thứ có thể mua vui và giải trí rẻ tiền “$10 đồng” một đĩa DVD.
Bất cứ ai quen thuộc với đời sống của một đan sĩ Xitô hay một ẩn sĩ dòng thánh Brunô hẳn biết rằng các vị này cam kết sống một đời sống từ bỏ và đền tội mà tu luật của họ đề ra. Họ thật sự tách hẳn khỏi thế tục, không màng đến chuyện thế gian để sống tu hành và “chiêm niệm” lời Chúa.
Vậy còn các linh mục sống đời sống mục vụ?
Một cha xứ hay một cha tuyên uý chẳng hạn?
Khi nhìn thoáng qua, dường như đời sống của một linh mục đang làm việc mục vụ có vẻ dễ dàng hơn; vì có tiền trong túi (có thể là không nhiều) lại sống gần với thế tục. Xem ra các linh mục này cũng tự do, và đời sống của họ coi như chẳng phải quá khắc khổ hay quá khắc nghiệt. Một cha xứ hay một cha tuyên uý gần như luôn sống trong tình trạng sẵn sàng và khẩn cấp ngày cũng như đêm. Người ta sẽ thật sự cần đến họ bất cứ khi nào. Người cha hay người mẹ có đứa con vừa qua đời sẽ cần ngay đến vị linh mục. Những đứa con trong bệnh viện đang đau buồn nhìn cha mẹ của mình quằn quại trên giường bệnh hay Chúa gọi ra đi cũng sẽ chạy ngay đến vị linh mục và mong chờ được ngài tới viếng thăm. Những người cô đơn trong tù ngục hay những ai gặp rắc rối sẽ tìm đến họ để mong được sự thông cảm và an ủi. Các hội đoàn đoàn thể cũng cần đến họ linh đạo, hướng dẫn…v.v..
Chúng ta cũng cảm thông cho các linh mục vì tất cả những nhu cầu như thế này không bao giờ chỉ đơn giản gói gọn trong một thời khoá biểu cố định từ 8 giờ sáng tới 5 giờ chiều. Rất nhiều khi các Cha xứ này rơi vào cảm giác là “họ không có một cuộc sống riêng của chính mình” ngay cả một vị ẩn tu, người cam kết sống một cuộc sống yên ổn trong đan viện cũng mất đi quyền kiểm soát chính thời gian và không gian của mình. Như thế, các linh mục này mới biểu hiện hết năng lực tận tụy phục vụ và không có nhiều thời gian và không gian cho họ nữa. Điều này là rất thật, vì từ bỏ việc làm chủ thời gian của chính mình là một điều hy sinh hết sức lớn lao vì “nước trời”.
Linh mục sống giữa mọi người như thế càng làm rõ ràng thêm chứng từ của họ cam kết với Thiên Chúa. Đặc biệt trong thời đại bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn hóa tôn thờ dục vọng, vật chất, và bản thân; linh mục phải là chứng tá của đời sống quên mình, hoàn toàn dấn thân lại càng cần thiết hơn nữa. Linh mục sống đời độc thân là chứng cớ sống động cho sự hiện diện của Thiên Chúa ngay tại trần gian này và là nguồn ân sủng dồi dào cho cả cộng đoàn cũng như chính vị linh mục. Tuy nhiên, đây là một đời sống khó khăn và hy sinh. Linh mục dưới con mắt mẹ tôi là thánh thiện, là thiên liêng và tuyệt đối đúng đắn (vì là người được Chúa tuyển chọn,) là quan tòa của sự “Thiện-Ác”, là bất khả xâm phạm…v.v.. như bà và các tín hữu từ rất xa xưa đã vô hình trung nâng họ lên quá cao để họ thêm tội kiêu ngạo.
Linh mục thiếu trưởng thành mà giáo dân lại quá thần thánh họ nên khiến phần đông linh mục tự nghĩ họ có power và có quyền sinh sát trong tay nên làm muốn làm gì thì làm. Họ có biết đâu theo tinh thần của Đức Kitô thì “Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20, 27-28).
Biết Văn
Đời sống bao tháng ngày còn lại,
e ngại những cơn mưa đời sẽ làm lòng con úa phai (sẽ làm lòng con úa phai).
Lời Chúa là ánh sáng soi trên đường dài, là gió thổi dẫn đưa con thuyền đến nơi, trót đời con đây nhỏ bé, trót đời xin dâng tiến Ngài.
(Con chỉ là tạo vật - Phanxicô)
Đời sống tận hiến theo ơn gọi của các linh mục không lẽ dễ dàng phai nhạt với những năm tháng mà các ngài làm ngôn sứ hay phục vụ cho cộng đoàn dân Chúa? Hay sự nhạt phai đó chính là mọi chước cám dỗ của Satan mà điển hình là tiền bạc và dục vọng?!!
Tôi không nghiêm khắc nhằm so sánh đời sống của linh mục làm việc mục vụ với các linh mục khổ tu hay ẩn tu. Nhưng ít ra các linh mục phải biết vai trò mình đang làm gì: mục vụ, ẩn tu hay khổ tu mà trung thành với xứ vụ này và trung thành với lời khấn của họ. Đặc biệt hơn nữa là các “ngài” đừng quá “tham, sân, si” để làm trò hề cho mọi người xem, và làm xấu đi hình ảnh “Chúa Giêsu linh mục”.
Chúa Giêsu ngày xưa cũng không tránh khỏi mọi sự ghen ghét, dèm pha, và mưu hại thì các linh mục ngày nay cũng vậy, dễ dàng bị soi mói, để nhằm bôi xấu và đánh phá Giáo Hội của Chúa từ mọi phía. Sự tục hóa của các linh mục sau những “Thánh lễ mở tay”, “Thánh lễ bổn mạng”, “Thánh lễ ngân khánh” hay “Thánh lễ kim khánh” …v.v.. ngoài tổ chức rình rang ở giáo xứ, cộng đoàn, các vị còn bồi thêm là tổ chức kéo nhau ra nhà hàng với mấy chục bàn với đủ các món ăn, thức uống; cả băng nhạc, ca sĩ để mà chúc mừng, rồi “cha, cha, cha…”, rồi “con, con, con…” rồi phong thư trao tay xem như mình xứng đáng được hưởng lợi vì ơn gọi làm linh mục.
Không lẽ các linh mục lại tự tục hóa lấy mình vì tiền hay mua đòi danh lợi “hư không” mà đánh mất bản chất thiêng liêng mà Chúa đã gọi họ giữa bao nhiêu người? Hay các linh mục cảm thấy mình thật sự xứng đáng trong vai trò “ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” (Mc 10,43) nên tự cao, tự đại mà lãnh nhận sự chúc tụng đó? Hay các linh mục lại trơ trẽn đổ thừa là để làm vui lòng các tín hữu, hay hòa hợp với anh em Kitô hữu muốn kỷ niệm cho các linh mục và chấp nhận tổ chức rình rang như thế cho tăng thêm công lao của mình!
Ngay từ những năm đầu học tập ở Tiểu Chủng Viện (bây giờ nhiều nơi không còn nữa) hay trong Đại Chủng Viện cũng vậy, đời sống linh mục luôn được cảnh báo về sự giới hạn so với những nhu cầu của con người, cộng đoàn như dòng thác lũ về đời sống tâm linh. Việc mục vụ luôn là hố sâu không đáy và mỗi ngày vị linh mục luôn phải đối mặt với sự chọn lựa để quyết định những nhu cầu nào ngài có thể đáp ứng và những nhu cầu nào phải chối từ vì đời sống tu trì không cho phép.
Thẳng thắn mà nói rằng, một số linh mục đã không có những quyết định đúng đắn và cũng có nhiều vị lại khuếch trương một cách quá độ. Không lẽ vì mục đích chia sẻ niềm vui “ơn gọi linh mục”, “Năm Thánh”, hay “Năm Linh Mục” và để cổ võ “Ơn Gọi” đó trong cánh đồng truyền giáo mà những linh mục là người hướng dẫn thiêng liêng của mọi người trong cộng đoàn, bây giờ lại lăn xả hết mình “show up” lời ca, tiếng hát, và tài năng đóng kịch, hài hước và nhảy nhót lung tung như các nghệ sĩ chuyên nghiệp hết mình vì nghệ thuật hầu góp thêm vào khoảng “văn hóa” trống vắng chưa bao giờ có các bậc tu sĩ nam nữ nào dám làm và dám tham gia cho nghệ thuật vốn đã quá bát nháu này. Việc mặc áo giáo sĩ là một dấu chỉ rõ ràng là họ mang lấy trên mình cái khác biệt của sự hy sinh, của ngôn sứ Đức Chúa Trời. Ngoài ra các linh mục còn phải chấp nhận sự cô đơn mang tính độc đáo đáng kính như Đấng tốt lành Giêsu chí ái.
Đây là một vấn đề mà mọi linh mục phải đối diện và vì thế chính các linh mục cần xác định những giới hạn hợp lý của mình khi mình làm công tác tông đồ mục vụ. Một số người nêu lên ý kiến cho rằng độc thân chỉ phù hợp với đời sống thánh hiến, bởi vì những người sống trong đời sống thánh hiến được nâng đỡ một cách đặc biệt trong các cộng đoàn mình sống, trong khi đó một linh mục trong đời mục vụ sống trong nhà xứ không có được sự nâng đỡ này. Thêm nữa, các ngài phải sống giữa những người không cùng cách sống với mình, không hiểu mình và lại không ủng hộ mình nữa. Điều này đặc biệt làm cho vị linh mục cảm thấy cô đơn và bị thách đố liên tục. Nhưng tu hành vẫn là tu hành, đời sống tận hiến vẫn là đời sống tận hiến…không thể vì buồn chán hãy quá rỗi việc Chúa mà các linh mục có thể có thể dễ dàng chấp nhận đồng hành với thế tục, với danh vọng, với đồng tiền.
Xem qua “Linh Ca I, II & III”, các bạn cũng như tôi đều giật thót mình khi nhìn thấy chức năng ngôn sứ của linh mục gần thế tục cho tới nổi các ngài tự biến mình thành những anh hề hay những anh cao bồi quần áo lố lăng nhảy nhót, ca hát, hài hước dỡ ẹt nhưng lại bốc phét là “Linh Ca được Chúa chúc phúc và mang lại nhiều lợi ích tâm linh cho nhiều tâm hồn và đánh động được tấm lòng quảng đại dấn thân của giới trẻ cho Giáo Hội hôm naỵ.” Thật là nực cười cho sự ngây dại và không trưởng thành của các vị linh mục này khi xem sứ mạng rao giảng nước trời chỉ là thứ có thể mua vui và giải trí rẻ tiền “$10 đồng” một đĩa DVD.
Bất cứ ai quen thuộc với đời sống của một đan sĩ Xitô hay một ẩn sĩ dòng thánh Brunô hẳn biết rằng các vị này cam kết sống một đời sống từ bỏ và đền tội mà tu luật của họ đề ra. Họ thật sự tách hẳn khỏi thế tục, không màng đến chuyện thế gian để sống tu hành và “chiêm niệm” lời Chúa.
Vậy còn các linh mục sống đời sống mục vụ?
Một cha xứ hay một cha tuyên uý chẳng hạn?
Khi nhìn thoáng qua, dường như đời sống của một linh mục đang làm việc mục vụ có vẻ dễ dàng hơn; vì có tiền trong túi (có thể là không nhiều) lại sống gần với thế tục. Xem ra các linh mục này cũng tự do, và đời sống của họ coi như chẳng phải quá khắc khổ hay quá khắc nghiệt. Một cha xứ hay một cha tuyên uý gần như luôn sống trong tình trạng sẵn sàng và khẩn cấp ngày cũng như đêm. Người ta sẽ thật sự cần đến họ bất cứ khi nào. Người cha hay người mẹ có đứa con vừa qua đời sẽ cần ngay đến vị linh mục. Những đứa con trong bệnh viện đang đau buồn nhìn cha mẹ của mình quằn quại trên giường bệnh hay Chúa gọi ra đi cũng sẽ chạy ngay đến vị linh mục và mong chờ được ngài tới viếng thăm. Những người cô đơn trong tù ngục hay những ai gặp rắc rối sẽ tìm đến họ để mong được sự thông cảm và an ủi. Các hội đoàn đoàn thể cũng cần đến họ linh đạo, hướng dẫn…v.v..
Chúng ta cũng cảm thông cho các linh mục vì tất cả những nhu cầu như thế này không bao giờ chỉ đơn giản gói gọn trong một thời khoá biểu cố định từ 8 giờ sáng tới 5 giờ chiều. Rất nhiều khi các Cha xứ này rơi vào cảm giác là “họ không có một cuộc sống riêng của chính mình” ngay cả một vị ẩn tu, người cam kết sống một cuộc sống yên ổn trong đan viện cũng mất đi quyền kiểm soát chính thời gian và không gian của mình. Như thế, các linh mục này mới biểu hiện hết năng lực tận tụy phục vụ và không có nhiều thời gian và không gian cho họ nữa. Điều này là rất thật, vì từ bỏ việc làm chủ thời gian của chính mình là một điều hy sinh hết sức lớn lao vì “nước trời”.
Linh mục sống giữa mọi người như thế càng làm rõ ràng thêm chứng từ của họ cam kết với Thiên Chúa. Đặc biệt trong thời đại bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn hóa tôn thờ dục vọng, vật chất, và bản thân; linh mục phải là chứng tá của đời sống quên mình, hoàn toàn dấn thân lại càng cần thiết hơn nữa. Linh mục sống đời độc thân là chứng cớ sống động cho sự hiện diện của Thiên Chúa ngay tại trần gian này và là nguồn ân sủng dồi dào cho cả cộng đoàn cũng như chính vị linh mục. Tuy nhiên, đây là một đời sống khó khăn và hy sinh. Linh mục dưới con mắt mẹ tôi là thánh thiện, là thiên liêng và tuyệt đối đúng đắn (vì là người được Chúa tuyển chọn,) là quan tòa của sự “Thiện-Ác”, là bất khả xâm phạm…v.v.. như bà và các tín hữu từ rất xa xưa đã vô hình trung nâng họ lên quá cao để họ thêm tội kiêu ngạo.
Linh mục thiếu trưởng thành mà giáo dân lại quá thần thánh họ nên khiến phần đông linh mục tự nghĩ họ có power và có quyền sinh sát trong tay nên làm muốn làm gì thì làm. Họ có biết đâu theo tinh thần của Đức Kitô thì “Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20, 27-28).
ĐỒNG TIỀN TRỌNG HƠN LỜI KHẤN KHÓ NGHÈO
Càng đọc bài "Giáo hội, cụ thể là Giáo sĩ Tu sĩ có thực sự sống cái nghèo của Phúc Âm chưa?" của LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn trong trang báo: http://www.vietcatholic.org/News/Html/83999.htm , đăng ngày 28 tháng 9 năm 2010.
Con phải cúi đầu cảm phục LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn đã can đảm viết ra những vấn đề của Giáo sĩ Tu sĩ ngày nay mà chính các Đức Giám Mục, Đức Ông, các đấng Bề Trên của các Dòng và những Linh Mục Việt Nam có mấy ai dám nói và viết ra những sự thật, rất thật như thế không?
Thật vậy, khi các Linh Mục đi giảng phòng hoặc đứng trên tòa giảng trong các Thánh Lễ, các Ngài rao giảng về những giới luật cho người khác sống, thi hành và tuân giữ như "Yêu Thương, Đức Bác Ái, Công Bằng và nhất là về Tinh Thần Nghèo Khó của Chúa Kitô", nhưng chính các Ngài. Có mấy ai đã và đang sống những gì mình dạy cho giáo dân phải sống và thi hành không?
Thực tế và cuốc sống của một số Linh Mục hiện nay mà chúng ta đã nhìn thấy rất rõ và có thật trong đoạn viết của LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn "Chưa hết, là Linh Mục, hình ảnh của Chúa Kitô khó nghèo mà vênh vang đi những xe hơi đắt tiền nhu BMW, Lexus, Mercedes v.v... đeo đồng hồ Rolex, Omega...."
Về kinh tài. Hàng năm các Linh Mục Triều cũng như Dòng đang làm mục vụ trong các giáo xứ tại hải ngoại thường xuyên tổ chức những chuyến đi hành hương Âu Châu, Đất Thánh cho 1 số giáo dân nay đã có cuộc sống vững vàng thoải mái về TIỀN. Lợi dụng Chúa Mẹ tổ chức hành hương, hội chợ, xin khấn, bảo trợ, từ thiện, ca nhạc. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi biết được có những Linh Mục trong ngân hàng TIỀN có cả BẠC TRIỆU, có nhà riêng ở thoải mái và nhiều nhiều nhiều....!
Dân gian ngày nay có câu:
Không nghề nào nhà cao cửa rộng, ăn ngon, ngủ kỹ, đồ hiệu, xe sang, TIỀN xài thoải mái bằng nghề ĐI TU.
Ánh Sáng Sự Thật
Xin mời Quí Vị cùng đọc bài:
Giáo hội, cụ thể là Giáo sĩ Tu sĩ có thực sự sống cái nghèo của Phúc Âm chưa?
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn 9/28/2010
http://www.vietcatholic.org/News/Html/83999.htm
Vì yêu mến Giáo Hội, cũng như tha thiết với sứ mệnh của Giáo Hội trong trần gian nên tôi muốn suy tư thêm một lần nữa về vấn đề này và muốn chia sẻ với những ai có chung một ưu tư và đồng cảm.
Những ai không đồng ý thì chắc chắn sẽ lên án tôi là ‘đạo đực giả, không thực tế, không biết thông cảm v.v... nhưng tôi không quan tâm gì về điều này. Tôi cần nói lên những suy tư của riêng tôi vì mục đích góp phần xây dựng cho Giáo Hội được ngày một trở nên nhân chứng đích thực của Chúa Kitô, “ Người vốn giàu sang, phú quý, nhưng đã trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cor 8:9)
Chúa Kitô có thực sự sống khó nghèo để nêu gương nghèo khó cho chúng ta không?
Chỉ cần đọc lại sơ qua Tin Mừng, người ta, dù với nhãn quan nào, cũng tìm ngay được giải đáp đích đáng cho câu hỏi trên.
Thật vậy, khi sinh ra làm người trên trần thế này, Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nơi quyền quí, cao sang, mà lại chọn sinh ra nơi hang bò lừa trong thân hình “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (Lc 2:13) giữa mùa đông giá rét. Có lẽ trong lịch sử loài người, không một ai đã sinh ra trong cảnh khó nghèo hơn Chúa Cứu Thế Giêsu,và chắc chắn cũng không có ai đã chết cách nhục nhã và khó nghèo hơn Chúa, khi Người bị treo trần trụi trên cây thập giá. Vì nghèo nên Chúa đã không có chỗ để an táng khiến môn đệ phải mượn ngôi mội trống của ông Giuse cho Chúa nằm tạm trong 3 ngày, chờ phục sinh.(Ga 19:41)
Như thế, còn ai nghèo khó hơn Chúa, cũng như ai dám hoài nghi gương khó nghèo của Người?
Trong khi còn đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu đã căn dặn các môn đệ như sau: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép.” (Lc 10:4)
Nói thế không phải vì Chúa không thực tế, không nhìn thấy sự cần thiết của nhu cầu vật chất: như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, phương tiện di chuyển. Thực ra Chúa chỉ muốn các môn đệ trước đây, và mọi tông đồ ngày nay phải sống tình thần nghèo khó mà chính Người đã làm gương cho họ mà thôi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. (Mt 8:20).
Tinh thần này Chúa đã nói rõ trong Bài Giảng Trên Núi hay còn gọi là Tám Mối Phúc Thật sau đây:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
Vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:3, Lc 6:20)
Có tinh thần nghèo khó thì chỉ dùng tiền của, xe cộ nhà ở, như phương tiện cần thiết để sống và làm mục vụ cần di chuyển, chứ không vì mục đích phải kiếm tìm. Mục đích phải kiếm tìm chính là Thiên Chúa và Vương Quốc của Người như Chúa đã nói rõ với các môn đệ xưa kia: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho.” (Mt 6:33)
Sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm
Như vậy, có tinh thần nghèo khó của Phúc Âm, thì không được chạy theo tiền của và xa hoa vật chất; khiến coi thường người nghèo để chỉ quí trọng hay làm thân với những người giầu có và quyền thế. Cụ thể, đối với người nghèo và không quen biết thì áp dụng luật cứng nhắc như không cho đem xác người chết vào nhà thờ, không cho thân nhân người quá cố là linh mục được đồng tế trong lễ an táng (chuyện có thật xẩy ra ở bên nhà do một nhân chứng kể lại) hay lễ cưới của gia đình nghèo. Ngược lại, với gia đình giàu có và thân quen thì lại cho hàng mấy chục linh mục khác đồng tế trong tang lễ cũng như cho đem xác người chết vào trong nhà thờ !!!, Như thế thì làm sao có thể là nhân chứng đích thực cho Chúa Kitô khó nghèo, thương yêu và công bằng với hết mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, da đen, da trắng, hay da vàng?
Lại nữa, có và sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm thì không thể coi việc dâng lễ theo ý chỉ của người xin như việc buôn bán, để ai đưa tiền nhiều thì ưu tiên làm lễ trước cũng như cho rao tên trong nhà thờ, trong khi người có ít tiền thì bị từ chối hoặc lấy lý do là đã có đủ lễ rồi, không nhận thêm nữa!... Tệ hại hơn nữa, có những cặp hôn phối chưa được phép chuẩn (annulment) của tòa hôn phối hoặc không được chuẩn nhưng cha vẫn bất chấp giáo luật cứ âm thầm chứng hôn cho họ lấy nhau vì họ đã biếu cha một số tiền lớn để hậu tạ! Cha còn dặn thêm là đừng nói cho ai biết. Nhưng người ta vẫn nói nhỏ cho người thân biết, để hợp thức hóa việc họ sống chung trong gia đìnn thân tộc!
Chưa hết, là linh mục, hình ảnh của Chúa Kitô khó nghèo mà vênh vang đi những xe hơi đắt tiền nhu BMW, Lexus, Mercedes v.v... đeo đồng hồ Rolex, Omega.... thì làm sao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho người khác và thuyết phục được ai sống tinh thần khó nghèo này? Một tệ nạn ở các Giáo Xứ hay Công Đoàn Việt Nam ở Mỹ là tình trạng có nhiều linh mục (có khi trên 20 vị) đồng tế trong các lễ tang, lễ cưới. Đáng lẽ chỉ nên đi đồng tế cho những gia đình thực sự thân quen hay có liên hệ gia đình mà thôi. Nhưng thực tế có nhiều linh mục đi đồng tế vì được mời cho đông, cho thêm phần long trọng của gia chủ, chứ không vì thân quen hay có liên hệ gia đình. Điều này sẽ gây buồn tủi cho những gia đình không quen biết nhiều cha để mời.
Về vấn đề này, tôi đã có đôi lần nói rõ là: ơn thánh Chúa ban cho người quá cố hay cho các đôi tân hôn không hề lệ thuộc vào con số linh mục đồng tế, nhất là vì số tiền to nhỏ mà gia chủ đã chi ra trong những dịp này.
Nói khác đi, nếu một người khi còn sống không “lo thu tích vào kho tàng chẳng thể hao mòn ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá" (Lc 12:33) mà chỉ lo tìm kiếm tiền của, lợi lãi và vui thú trần thế, đến nỗi quên mất Chúa, không dành cho Người một chỗ nào trong tâm hồn mình, thì khi chết dẫu có Đức Thánh Cha chủ lễ với hàng trăm Hồng Y Giám mục,và linh mục đồng tế thì cũng vô ích mà thôi. Ngược lại, một người đã thực tâm yêu mến Chúa và cố gắng sống theo đường lối của Chúa suốt cả đời mình thì khi chết dẫu không được linh mục nào đến đồng tế cầu nguyện cho, hoặc tệ hại hơn nữa là xác không được cho đem vào nhà thờ, vì không “thân quen với cha xứ, nên bị đối xử tàn tệ, thì cũng không hề thiệt thòi chút nào khi ra trước mặt Chúa để được đón nhận vào chốn vinh phúc đời đời, nơi tiền của, thân quen và vinh quang trần thế không thể mua hay đổi chác được!
Chắc chắn là chốn vinh phúc đời đời, nơi tiền của, thân quen và vinh quang trần thế không thể mua hay đổi chác được!
Do đó, linh mục phải làm gương trước tiên và có bổn phận và trách nhiệm giảng dạy cho giáo dân hiểu rõ chân lý trên đây, thay vì chiều theo thị hiếu của một số người ưa thích khoa trương bề ngoài, thích mời nhiều cha đến đồng tế trong mọi dịp vui buồn khiến nẩy sinh tệ trạng linh mục “chạy sô” (show) cuối tuần giống như ca sĩ đi show trình diễn văn nghệ ở nhiều nơi hàng tuần! Có điều khó coi, theo thiển ý, là các gia chủ thường tặng “phong bì” ngay sau lễ ở cuối nhà thờ trước mắt nhiều giáo dân ra về sau lễ. Linh mục đến đâng lễ để cầu nguyện cho người quá cố hay cho đôi tân hôn chứ không phải đến để nhận “phong bì”. Xin mọi người hiểu rõ như vậy để giúp các linh mục sống tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, nghĩa là đừng “làm hư” các ngài vì tiền bạc.
Cũng trong tinh thần sống khó nghèo của Phúc Âm, người tông đồ lớn nhỏ của Chúa Kitô ngày nay cũng nên chấm dứt việc thường xuyên đi nước ngoài để xin tiền. Tuy một số vị không công khai xin tiền như trước, nhưng sự có mặt thường xuyên của các vị khách này cũng cho giáo dân hiểu là họ muốn được giúp đỡ cho nhu cầu “vô tận” của họ! Nhưng thử hỏi: giáo hội địa phương có nhiều nhu cầu đến thế hay không mà quá nhiều vị đã bỏ bê đoàn chiên, giáo xứ ở nhà để đi qua đi lại không biết bao nhiêu lần để làm gì? Nếu để xin tiền xây cất cơ sở cho thêm đồ sộ để khoa trương với du khách thì đây không phải là nhu cầu chính đáng để phải vất vả đi lại nhiều lần như thế.
Nhu cầu chính đáng, quan trọng và cần thiết nhất là phải xây cơ sở thiêng liêng, nơi tâm hồn mọi tín hữu mà mình có sứ mạng coi sóc, và làm gương sáng cho đoàn chiên được giao phó cho mình chăn dắt. Đây mới thực sự là nhu cầu phải thỏa mãn, cần thiết phải đầu tư tâm trí và thì giờ để tìm kiếm cho bằng được.
Sống trong một xã hội thụt hậu thê thảm về đạo đức, luân lý, trong khi nhiều giáo dân nói riêng và người dân nói chung còn thiếu thốn mọi mặt, thì những ngôi thánh đường lộng lẫy, những nhà xứ sang trọng đã trở thành dấu phản chứng rõ nét nhất cho tinh thần khó nghèo mà Chúa Kitô đã sống và rao giảng. Chắc chấn Chúa không hài lòng được ngự trong những nơi trang hoàng lộng lẫy giữa đám dân nghèo như vậy.
Linh mục, Đức Kitô thứ hai (Alter Christus), có sứ mạng rất cao cả là mang Chúa Kitô đầy yêu thương, tha thứ, đến với mọi người không phân biệt giầu nghèo, sang hèn Nghĩa là, qua sứ vụ được lãnh nhận từ bí Tích Truyền Chức Thánh (không phải là trao tác vụ linh mục như có người vẫn nói sai) linh mục không những phải rao giảng điều mình tin và nhất là phải sống điều mình giảng dạy, để làm chứng cho Chúa Kitô, “Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người.” Mt 20: 28).
Chính hàng giáo sĩ, tức các vị lãnh đạo tinh thần, những người “cha thiêng liêng” của dân Chúa đã, đang và sẽ đẩy giáo dân ra khỏi Giáo Hội, và làm mất đức tin của họ; khi họ nhìn thấy đời sống của các ngài không phản ảnh trung thực những gì các ngài rao giảng. Chúa Kitô xưa kia đã nhiều lần nặng lời lên án nhóm Luật Sĩ và Biệt phái vì họ nói mà không làm, giảng luật cho người khác tuân giữ nhưng chính họ lại không sống những gì họ dạy người khác phải sống và thi hành.
Tóm lại muốn tránh bị Chúa quở trách, than phiền như Người đã chỉ trích nhóm Biệt Phái và Luật sĩ xưa kia, người tông đồ ngày nay đã học kỹ bài học “giả hình” của bọn người này chưa, để sống trung thực với lời mình rao giảng về tình thương, về đức bác ái, công bằng và nhất là về tinh thần nghèo khó của Chúa Kitô, hầu thuyết phục giáo dân thêm tin yêu Chúa qua đời sống chứng nhân của chính mình ở giữa họ.
Việc rao giảng Tin Mừng sẽ vô hiệu quả khi lời nói không đi đôi với việc làm, nghĩa là không sống và làm chứng cho điều mình giảng dạy cho người khác.
Càng đọc bài "Giáo hội, cụ thể là Giáo sĩ Tu sĩ có thực sự sống cái nghèo của Phúc Âm chưa?" của LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn trong trang báo: http://www.vietcatholic.org/News/Html/83999.htm , đăng ngày 28 tháng 9 năm 2010.
Con phải cúi đầu cảm phục LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn đã can đảm viết ra những vấn đề của Giáo sĩ Tu sĩ ngày nay mà chính các Đức Giám Mục, Đức Ông, các đấng Bề Trên của các Dòng và những Linh Mục Việt Nam có mấy ai dám nói và viết ra những sự thật, rất thật như thế không?
Thật vậy, khi các Linh Mục đi giảng phòng hoặc đứng trên tòa giảng trong các Thánh Lễ, các Ngài rao giảng về những giới luật cho người khác sống, thi hành và tuân giữ như "Yêu Thương, Đức Bác Ái, Công Bằng và nhất là về Tinh Thần Nghèo Khó của Chúa Kitô", nhưng chính các Ngài. Có mấy ai đã và đang sống những gì mình dạy cho giáo dân phải sống và thi hành không?
Thực tế và cuốc sống của một số Linh Mục hiện nay mà chúng ta đã nhìn thấy rất rõ và có thật trong đoạn viết của LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn "Chưa hết, là Linh Mục, hình ảnh của Chúa Kitô khó nghèo mà vênh vang đi những xe hơi đắt tiền nhu BMW, Lexus, Mercedes v.v... đeo đồng hồ Rolex, Omega...."
Về kinh tài. Hàng năm các Linh Mục Triều cũng như Dòng đang làm mục vụ trong các giáo xứ tại hải ngoại thường xuyên tổ chức những chuyến đi hành hương Âu Châu, Đất Thánh cho 1 số giáo dân nay đã có cuộc sống vững vàng thoải mái về TIỀN. Lợi dụng Chúa Mẹ tổ chức hành hương, hội chợ, xin khấn, bảo trợ, từ thiện, ca nhạc. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi biết được có những Linh Mục trong ngân hàng TIỀN có cả BẠC TRIỆU, có nhà riêng ở thoải mái và nhiều nhiều nhiều....!
Dân gian ngày nay có câu:
Không nghề nào nhà cao cửa rộng, ăn ngon, ngủ kỹ, đồ hiệu, xe sang, TIỀN xài thoải mái bằng nghề ĐI TU.
Ánh Sáng Sự Thật
Xin mời Quí Vị cùng đọc bài:
Giáo hội, cụ thể là Giáo sĩ Tu sĩ có thực sự sống cái nghèo của Phúc Âm chưa?
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn 9/28/2010
http://www.vietcatholic.org/News/Html/83999.htm
Vì yêu mến Giáo Hội, cũng như tha thiết với sứ mệnh của Giáo Hội trong trần gian nên tôi muốn suy tư thêm một lần nữa về vấn đề này và muốn chia sẻ với những ai có chung một ưu tư và đồng cảm.
Những ai không đồng ý thì chắc chắn sẽ lên án tôi là ‘đạo đực giả, không thực tế, không biết thông cảm v.v... nhưng tôi không quan tâm gì về điều này. Tôi cần nói lên những suy tư của riêng tôi vì mục đích góp phần xây dựng cho Giáo Hội được ngày một trở nên nhân chứng đích thực của Chúa Kitô, “ Người vốn giàu sang, phú quý, nhưng đã trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cor 8:9)
Chúa Kitô có thực sự sống khó nghèo để nêu gương nghèo khó cho chúng ta không?
Chỉ cần đọc lại sơ qua Tin Mừng, người ta, dù với nhãn quan nào, cũng tìm ngay được giải đáp đích đáng cho câu hỏi trên.
Thật vậy, khi sinh ra làm người trên trần thế này, Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nơi quyền quí, cao sang, mà lại chọn sinh ra nơi hang bò lừa trong thân hình “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (Lc 2:13) giữa mùa đông giá rét. Có lẽ trong lịch sử loài người, không một ai đã sinh ra trong cảnh khó nghèo hơn Chúa Cứu Thế Giêsu,và chắc chắn cũng không có ai đã chết cách nhục nhã và khó nghèo hơn Chúa, khi Người bị treo trần trụi trên cây thập giá. Vì nghèo nên Chúa đã không có chỗ để an táng khiến môn đệ phải mượn ngôi mội trống của ông Giuse cho Chúa nằm tạm trong 3 ngày, chờ phục sinh.(Ga 19:41)
Như thế, còn ai nghèo khó hơn Chúa, cũng như ai dám hoài nghi gương khó nghèo của Người?
Trong khi còn đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu đã căn dặn các môn đệ như sau: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép.” (Lc 10:4)
Nói thế không phải vì Chúa không thực tế, không nhìn thấy sự cần thiết của nhu cầu vật chất: như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, phương tiện di chuyển. Thực ra Chúa chỉ muốn các môn đệ trước đây, và mọi tông đồ ngày nay phải sống tình thần nghèo khó mà chính Người đã làm gương cho họ mà thôi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. (Mt 8:20).
Tinh thần này Chúa đã nói rõ trong Bài Giảng Trên Núi hay còn gọi là Tám Mối Phúc Thật sau đây:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
Vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:3, Lc 6:20)
Có tinh thần nghèo khó thì chỉ dùng tiền của, xe cộ nhà ở, như phương tiện cần thiết để sống và làm mục vụ cần di chuyển, chứ không vì mục đích phải kiếm tìm. Mục đích phải kiếm tìm chính là Thiên Chúa và Vương Quốc của Người như Chúa đã nói rõ với các môn đệ xưa kia: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho.” (Mt 6:33)
Sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm
Như vậy, có tinh thần nghèo khó của Phúc Âm, thì không được chạy theo tiền của và xa hoa vật chất; khiến coi thường người nghèo để chỉ quí trọng hay làm thân với những người giầu có và quyền thế. Cụ thể, đối với người nghèo và không quen biết thì áp dụng luật cứng nhắc như không cho đem xác người chết vào nhà thờ, không cho thân nhân người quá cố là linh mục được đồng tế trong lễ an táng (chuyện có thật xẩy ra ở bên nhà do một nhân chứng kể lại) hay lễ cưới của gia đình nghèo. Ngược lại, với gia đình giàu có và thân quen thì lại cho hàng mấy chục linh mục khác đồng tế trong tang lễ cũng như cho đem xác người chết vào trong nhà thờ !!!, Như thế thì làm sao có thể là nhân chứng đích thực cho Chúa Kitô khó nghèo, thương yêu và công bằng với hết mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, da đen, da trắng, hay da vàng?
Lại nữa, có và sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm thì không thể coi việc dâng lễ theo ý chỉ của người xin như việc buôn bán, để ai đưa tiền nhiều thì ưu tiên làm lễ trước cũng như cho rao tên trong nhà thờ, trong khi người có ít tiền thì bị từ chối hoặc lấy lý do là đã có đủ lễ rồi, không nhận thêm nữa!... Tệ hại hơn nữa, có những cặp hôn phối chưa được phép chuẩn (annulment) của tòa hôn phối hoặc không được chuẩn nhưng cha vẫn bất chấp giáo luật cứ âm thầm chứng hôn cho họ lấy nhau vì họ đã biếu cha một số tiền lớn để hậu tạ! Cha còn dặn thêm là đừng nói cho ai biết. Nhưng người ta vẫn nói nhỏ cho người thân biết, để hợp thức hóa việc họ sống chung trong gia đìnn thân tộc!
Chưa hết, là linh mục, hình ảnh của Chúa Kitô khó nghèo mà vênh vang đi những xe hơi đắt tiền nhu BMW, Lexus, Mercedes v.v... đeo đồng hồ Rolex, Omega.... thì làm sao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho người khác và thuyết phục được ai sống tinh thần khó nghèo này? Một tệ nạn ở các Giáo Xứ hay Công Đoàn Việt Nam ở Mỹ là tình trạng có nhiều linh mục (có khi trên 20 vị) đồng tế trong các lễ tang, lễ cưới. Đáng lẽ chỉ nên đi đồng tế cho những gia đình thực sự thân quen hay có liên hệ gia đình mà thôi. Nhưng thực tế có nhiều linh mục đi đồng tế vì được mời cho đông, cho thêm phần long trọng của gia chủ, chứ không vì thân quen hay có liên hệ gia đình. Điều này sẽ gây buồn tủi cho những gia đình không quen biết nhiều cha để mời.
Về vấn đề này, tôi đã có đôi lần nói rõ là: ơn thánh Chúa ban cho người quá cố hay cho các đôi tân hôn không hề lệ thuộc vào con số linh mục đồng tế, nhất là vì số tiền to nhỏ mà gia chủ đã chi ra trong những dịp này.
Nói khác đi, nếu một người khi còn sống không “lo thu tích vào kho tàng chẳng thể hao mòn ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá" (Lc 12:33) mà chỉ lo tìm kiếm tiền của, lợi lãi và vui thú trần thế, đến nỗi quên mất Chúa, không dành cho Người một chỗ nào trong tâm hồn mình, thì khi chết dẫu có Đức Thánh Cha chủ lễ với hàng trăm Hồng Y Giám mục,và linh mục đồng tế thì cũng vô ích mà thôi. Ngược lại, một người đã thực tâm yêu mến Chúa và cố gắng sống theo đường lối của Chúa suốt cả đời mình thì khi chết dẫu không được linh mục nào đến đồng tế cầu nguyện cho, hoặc tệ hại hơn nữa là xác không được cho đem vào nhà thờ, vì không “thân quen với cha xứ, nên bị đối xử tàn tệ, thì cũng không hề thiệt thòi chút nào khi ra trước mặt Chúa để được đón nhận vào chốn vinh phúc đời đời, nơi tiền của, thân quen và vinh quang trần thế không thể mua hay đổi chác được!
Chắc chắn là chốn vinh phúc đời đời, nơi tiền của, thân quen và vinh quang trần thế không thể mua hay đổi chác được!
Do đó, linh mục phải làm gương trước tiên và có bổn phận và trách nhiệm giảng dạy cho giáo dân hiểu rõ chân lý trên đây, thay vì chiều theo thị hiếu của một số người ưa thích khoa trương bề ngoài, thích mời nhiều cha đến đồng tế trong mọi dịp vui buồn khiến nẩy sinh tệ trạng linh mục “chạy sô” (show) cuối tuần giống như ca sĩ đi show trình diễn văn nghệ ở nhiều nơi hàng tuần! Có điều khó coi, theo thiển ý, là các gia chủ thường tặng “phong bì” ngay sau lễ ở cuối nhà thờ trước mắt nhiều giáo dân ra về sau lễ. Linh mục đến đâng lễ để cầu nguyện cho người quá cố hay cho đôi tân hôn chứ không phải đến để nhận “phong bì”. Xin mọi người hiểu rõ như vậy để giúp các linh mục sống tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, nghĩa là đừng “làm hư” các ngài vì tiền bạc.
Cũng trong tinh thần sống khó nghèo của Phúc Âm, người tông đồ lớn nhỏ của Chúa Kitô ngày nay cũng nên chấm dứt việc thường xuyên đi nước ngoài để xin tiền. Tuy một số vị không công khai xin tiền như trước, nhưng sự có mặt thường xuyên của các vị khách này cũng cho giáo dân hiểu là họ muốn được giúp đỡ cho nhu cầu “vô tận” của họ! Nhưng thử hỏi: giáo hội địa phương có nhiều nhu cầu đến thế hay không mà quá nhiều vị đã bỏ bê đoàn chiên, giáo xứ ở nhà để đi qua đi lại không biết bao nhiêu lần để làm gì? Nếu để xin tiền xây cất cơ sở cho thêm đồ sộ để khoa trương với du khách thì đây không phải là nhu cầu chính đáng để phải vất vả đi lại nhiều lần như thế.
Nhu cầu chính đáng, quan trọng và cần thiết nhất là phải xây cơ sở thiêng liêng, nơi tâm hồn mọi tín hữu mà mình có sứ mạng coi sóc, và làm gương sáng cho đoàn chiên được giao phó cho mình chăn dắt. Đây mới thực sự là nhu cầu phải thỏa mãn, cần thiết phải đầu tư tâm trí và thì giờ để tìm kiếm cho bằng được.
Sống trong một xã hội thụt hậu thê thảm về đạo đức, luân lý, trong khi nhiều giáo dân nói riêng và người dân nói chung còn thiếu thốn mọi mặt, thì những ngôi thánh đường lộng lẫy, những nhà xứ sang trọng đã trở thành dấu phản chứng rõ nét nhất cho tinh thần khó nghèo mà Chúa Kitô đã sống và rao giảng. Chắc chấn Chúa không hài lòng được ngự trong những nơi trang hoàng lộng lẫy giữa đám dân nghèo như vậy.
Linh mục, Đức Kitô thứ hai (Alter Christus), có sứ mạng rất cao cả là mang Chúa Kitô đầy yêu thương, tha thứ, đến với mọi người không phân biệt giầu nghèo, sang hèn Nghĩa là, qua sứ vụ được lãnh nhận từ bí Tích Truyền Chức Thánh (không phải là trao tác vụ linh mục như có người vẫn nói sai) linh mục không những phải rao giảng điều mình tin và nhất là phải sống điều mình giảng dạy, để làm chứng cho Chúa Kitô, “Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người.” Mt 20: 28).
Chính hàng giáo sĩ, tức các vị lãnh đạo tinh thần, những người “cha thiêng liêng” của dân Chúa đã, đang và sẽ đẩy giáo dân ra khỏi Giáo Hội, và làm mất đức tin của họ; khi họ nhìn thấy đời sống của các ngài không phản ảnh trung thực những gì các ngài rao giảng. Chúa Kitô xưa kia đã nhiều lần nặng lời lên án nhóm Luật Sĩ và Biệt phái vì họ nói mà không làm, giảng luật cho người khác tuân giữ nhưng chính họ lại không sống những gì họ dạy người khác phải sống và thi hành.
Tóm lại muốn tránh bị Chúa quở trách, than phiền như Người đã chỉ trích nhóm Biệt Phái và Luật sĩ xưa kia, người tông đồ ngày nay đã học kỹ bài học “giả hình” của bọn người này chưa, để sống trung thực với lời mình rao giảng về tình thương, về đức bác ái, công bằng và nhất là về tinh thần nghèo khó của Chúa Kitô, hầu thuyết phục giáo dân thêm tin yêu Chúa qua đời sống chứng nhân của chính mình ở giữa họ.
Việc rao giảng Tin Mừng sẽ vô hiệu quả khi lời nói không đi đôi với việc làm, nghĩa là không sống và làm chứng cho điều mình giảng dạy cho người khác.
Chết cũng không bỏ tiền
Người Vĩnh Châu rất giỏi về bơi lội.
Ngày nọ nước trong sông dâng cao, có năm mươi sáu người ngồi trên chiếc thuyền nhỏ vựơt qua sông Tương rất rộng, khi thuyền vừa đến giữa lòng sông liền bị lật, ai ai cũng nhôn nhao bơi để giữ lấy mạng sống.
Có một người bơi thục mạng nhưng cũng không bơi được là bao nhiêu, bạn hữu rất lấy làm kỳ cục liền hỏi:
- “Anh bơi lội của anh rất khá, tại sao hôm nay bơi sau chót vậy ?”
Anh ta thở hổn hển nói:
- “Tôi mang trong người một ngàn đồng tiền, số lượng rất nặng, cho nên bơi không nổi”.
Bạn bè khuyên anh ta mau vứt bỏ nó, anh ta lắc lắc đầu không chịu. Một lúc sau, sức lực anh ta càng kiệt quệ, những ngừơi lên bờ trước nói như thét với anh ta:
- “Anh thật là quá hồ đồ, anh thật là quá cứng đầu cứng cổ, nhân mã sắp chết chìm đến nơi, còn cần tiền làm gì nữa chứ ?”
Anh ta lại lắc đầu, nhanh như chớp, một ngọn sóng lớn ập tới nuốt chửng anh ta.
(Liễu Hà Đông tập)
Suy tư:
Người ta thường nói “sinh nghề tử nghiệp” nghĩa là sống nghề nào thì chết về nghề ấy.
Người giỏi về nghề điện thì bị điện giựt chết, người giỏi về nhào lộn thì chết vì nhào lộn, người giỏi bơi lội thì chết nước.v.v... trong những cái chết này, xác suất cao nhất chính là sự rủi ro, hay nói cách khác là không ai học được chữ ngờ.
“Nghề” của linh mục và các tu sĩ nam nữ là cầu nguyện, cái nghề rất ư là đặc biệt so với các nghề khác ở trần gian, cho nên cái “chết” của nó cũng rất là khác với mọi người.
Nó không phải rủi ro mà chết, cũng không phải không cẩn thận mà chết, nhưng là vì đời sống vật chất xa hoa đã làm ngộp thở đi sự cầu nguyện của các linh mục và tu sĩ, nó đã làm cho đời sống tâm linh của các ngài ra nặng nề, và lúc đó thì các ngài cảm thấy “đã thỏa mãn và hưởng thụ với những gì mình có” mà chết, khi một linh mục , tu sĩ nam nữ đã thỏa mãn hưởng thụ là dấu hiệu “tử nghiệp” đã đến, bởi vì lúc ấy lời cầu nguyện của họ sẽ không còn sức sống như trước, lời cầu nguyện của họ như “tiếng phèng la rổng tuếch” xa lạ vang lên bên tai giáo dân, thay vì làm họ cảm động vì Lời Chúa, thì lại khiến cho họ xa rời Chúa hơn. Các ngài đã “chết”, vì giáo dân không còn thấy nơi họ một sự sốt sắng vì Chúa và vì Giáo Hội, các ngài đã “chết” cho nên giáo dân không còn thấy sinh khí sống động, không thấy lửa yêu mến Chúa cách nhiệt thành nơi con người của các ngài nữa.
“Lạy Đức Chúa Giê-su,
Là một linh mục của Chúa, có những lúc con cảm thấy cầu nguyện như là một gánh nặng, bởi vì còn rất nhiều việc mà con phải làm đã chiếm mất nhiều thời giờ của con, chẳng hạn như con còn phải giải trí đôi chút, con còn phải tán ngẩu với bạn bè, con còn phải lướt trên mạng, con còn phải coi một cuốn phim hay mới xuất xưởng, con còn phải lái thử chiếc xe mới mua cáo cạnh.v.v... và như thế cũng đồng nghĩa là con sẽ “tử nghiệp” trong thiên chức linh mục của mình.
Xin Chúa nhắc nhở con biết tỉnh thức và cầu nguyện trước những cám dỗ vật chất...”
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
dịch và viết suy tư
Người Vĩnh Châu rất giỏi về bơi lội.
Ngày nọ nước trong sông dâng cao, có năm mươi sáu người ngồi trên chiếc thuyền nhỏ vựơt qua sông Tương rất rộng, khi thuyền vừa đến giữa lòng sông liền bị lật, ai ai cũng nhôn nhao bơi để giữ lấy mạng sống.
Có một người bơi thục mạng nhưng cũng không bơi được là bao nhiêu, bạn hữu rất lấy làm kỳ cục liền hỏi:
- “Anh bơi lội của anh rất khá, tại sao hôm nay bơi sau chót vậy ?”
Anh ta thở hổn hển nói:
- “Tôi mang trong người một ngàn đồng tiền, số lượng rất nặng, cho nên bơi không nổi”.
Bạn bè khuyên anh ta mau vứt bỏ nó, anh ta lắc lắc đầu không chịu. Một lúc sau, sức lực anh ta càng kiệt quệ, những ngừơi lên bờ trước nói như thét với anh ta:
- “Anh thật là quá hồ đồ, anh thật là quá cứng đầu cứng cổ, nhân mã sắp chết chìm đến nơi, còn cần tiền làm gì nữa chứ ?”
Anh ta lại lắc đầu, nhanh như chớp, một ngọn sóng lớn ập tới nuốt chửng anh ta.
(Liễu Hà Đông tập)
Suy tư:
Người ta thường nói “sinh nghề tử nghiệp” nghĩa là sống nghề nào thì chết về nghề ấy.
Người giỏi về nghề điện thì bị điện giựt chết, người giỏi về nhào lộn thì chết vì nhào lộn, người giỏi bơi lội thì chết nước.v.v... trong những cái chết này, xác suất cao nhất chính là sự rủi ro, hay nói cách khác là không ai học được chữ ngờ.
“Nghề” của linh mục và các tu sĩ nam nữ là cầu nguyện, cái nghề rất ư là đặc biệt so với các nghề khác ở trần gian, cho nên cái “chết” của nó cũng rất là khác với mọi người.
Nó không phải rủi ro mà chết, cũng không phải không cẩn thận mà chết, nhưng là vì đời sống vật chất xa hoa đã làm ngộp thở đi sự cầu nguyện của các linh mục và tu sĩ, nó đã làm cho đời sống tâm linh của các ngài ra nặng nề, và lúc đó thì các ngài cảm thấy “đã thỏa mãn và hưởng thụ với những gì mình có” mà chết, khi một linh mục , tu sĩ nam nữ đã thỏa mãn hưởng thụ là dấu hiệu “tử nghiệp” đã đến, bởi vì lúc ấy lời cầu nguyện của họ sẽ không còn sức sống như trước, lời cầu nguyện của họ như “tiếng phèng la rổng tuếch” xa lạ vang lên bên tai giáo dân, thay vì làm họ cảm động vì Lời Chúa, thì lại khiến cho họ xa rời Chúa hơn. Các ngài đã “chết”, vì giáo dân không còn thấy nơi họ một sự sốt sắng vì Chúa và vì Giáo Hội, các ngài đã “chết” cho nên giáo dân không còn thấy sinh khí sống động, không thấy lửa yêu mến Chúa cách nhiệt thành nơi con người của các ngài nữa.
“Lạy Đức Chúa Giê-su,
Là một linh mục của Chúa, có những lúc con cảm thấy cầu nguyện như là một gánh nặng, bởi vì còn rất nhiều việc mà con phải làm đã chiếm mất nhiều thời giờ của con, chẳng hạn như con còn phải giải trí đôi chút, con còn phải tán ngẩu với bạn bè, con còn phải lướt trên mạng, con còn phải coi một cuốn phim hay mới xuất xưởng, con còn phải lái thử chiếc xe mới mua cáo cạnh.v.v... và như thế cũng đồng nghĩa là con sẽ “tử nghiệp” trong thiên chức linh mục của mình.
Xin Chúa nhắc nhở con biết tỉnh thức và cầu nguyện trước những cám dỗ vật chất...”
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
dịch và viết suy tư
Khi Linh Mục Biết làm kinh tài (4)
Giáo Hội dịch từ tiếng La-tinh "Ecclesia" có nghĩa là "triệu tập”. Trong ngôn ngữ Kitô giáo, từ "Giáo Hội" chỉ cộng đoàn phụng vụ, cộng đoàn địa phương hoặc tất cả cộng đoàn các tín hữu trên khắp thế giới.
"Giáo Hội" là Dân do Thiên Chúa tập họp lại trên toàn thế giới; nó được xây dựng nên từ nước và máu từ Trái Tim của Chúa Kitô và được dưỡng nuôi và sống bởi Lời Chúa và Thánh Thể. Giáo Hội vì thế là Giáo Hội của đau khổ thập giá, của cái chết đi trong Chúa Kitô và tái sinh trong Thánh Thần. Do đó, Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, là thân thể Chúa Kitô, và là đền thờ Chúa Thánh Thần. Giáo Hội không thể định nghĩa bởi những linh mục làm kinh tài giỏi và kiếm thật nhiều tiền cho Giáo phận. Giáo Hội cũng không được định nghĩa là những người con người đi tu để làm “Chánh xứ”, “trốn quân dịch”, “phô bày chủ nghĩa cá nhân”. Hay Giáo Hội không thể định nghĩa bởi những nhóm người cơ hội, quá định kiến và thiển cận…
Khi chịu chức xong thì các linh mục trẻ đầy nhiệt tình sẽ được sai đi của đấng bản quyền địa phương (giám mục địa phận, bề trên dòng...) để đi làm mục vụ, cũng có nghĩa là được chính thức sai đi đến một nơi mà khi còn học trong chủng viện các ngài hằng mong ước, đó là làm phó hoặc chính xứ. Cho nên, khi được sai đi để đến một giáo xứ nào đó, dù lớn hay nhỏ, Mỹ, Việt hay các sắc dân khác thì các linh mục phải cảm tạ ơn Thiên Chúa đã chọn mình chứ không chọn ai khác để coi sóc giáo xứ ấy, và mau mắn lên đường làm nhiệm vụ... Khi đã xác định được giáo xứ là đại gia đình của mình thì người linh mục không còn đòi hỏi phải có đầy đủ tiện nghi trong sinh hoạt. Các ngài nên băn khoăn khi giáo dân của mình dân trí kém hiểu biết về Chúa, cuộc sống khó khăn đầy oán than, hay có nhiều người rượu chè cờ bạc và có nhiều tệ nạn xảy ra cần phải giúp đỡ và giáo dục họ họ sống đúng với tinh thần của Chúa Giêsu dạy : “yêu thương và phục vụ.”
Một linh mục tâm sự :
“Thiên chức linh mục chính là Thiên Chúa ban cho người nào thì tùy ý Ngài, Ngài chọn người này người nọ, nhưng không phải vì họ thánh thiện hay đạo đức hoặc học vấn trổi vượt hơn người khác, mà là vì tình yêu đặc biệt Ngài dành cho họ, Ngài chọn họ qua Giáo Hội và qua Hội Dòng của họ hoặc qua giám mục địa phận, và qua giám mục hoặc Hội Dòng mà họ mới được đứng vào hàng ngũ công hầu khanh tướng trong nước Thiên Chúa như hôm nay, cho nên việc trước tiên là những người được chọn ấy - “linh mục” - biết ơn Thiên Chúa và cám ơn Ngài, nhưng Thiên Chúa không muốn họ làm như thế đâu, Ngài muốn họ phải cám ơn trước hết chính là địa phận của họ hoặc Hội Dòng của họ, nơi cưu mang họ, nơi mà nếu không có bề trên tổng quyền, không có cha viện trưởng hoặc là tập sư của họ cũng như ban cố vấn hội dòng, nếu như không có sự yêu thương dạy dỗ của các cha giáo trong chủng viện và của toàn ban giám đốc, nếu không có sự yêu thương của mọi người thì họ sẽ không được như ngày hôm nay.”
Một vài linh mục trẻ khi được sai đến một giáo xứ nào đó, nếu giáo xứ đó giàu có thì cười hả hê và thỏa mãn, nếu giáo xứ nghèo hay ở nơi khỉ ho cò gáy, hay cách biệt cộng đồng người Việt, thì lại trách oán bề trên, đây là những linh mục sẽ không bao giờ coi giáo xứ của các ngài là một đại gia đình của mình, cho nên khi đến giáo xứ thì việc trước tiên là hạch sách giáo dân (nếu là cộng đoàn là Việt Nam) hoặc đòi điều kiện với cha sở là : chỗ ở phải tiện nghi, phải có máy lạnh, phải có phòng ốc hẳn hoi, phải có chỗ vui chơi giải trí thì mới đến, bằng không thì mặc kệ. Mỉa mai thay, tinh thần mục tử vì đàn chiên nơi các ngài không còn nữa với lời khấn, và như thế các ngài coi giáo xứ như là một công ty mà các ngài “buộc” phải đến làm việc, các ngài biến mình trở thành một công chức cao cấp để lãnh lương chứ không phải là một linh mục đang làm trong vườn nho của Thiên Chúa...
Một vài linh mục khi đến giáo xứ thì “triển lãm” cái tính sống xa hoa của mình cho giáo dân thấy. Có linh mục thì mới đến giáo xứ ngày hôm trước thì hôm sau đã phách lối nạt nộ giáo dân và đặt điều kiện này điều kiện nọ với họ; truyền giáo đâu thì chưa thấy chỉ thấy giáo dân than phiền: “ông cha mới khó tính như ông cụ non!”
Một giáo dân tâm sự :
“Linh mục nọ... còn rất trẻ, tuổi chỉ đáng làm cháu bà, vậy mà lớn tiếng la lối với bà ngay trong nhà thờ sau thánh lễ, không biết linh mục ấy có học nhân bản không ?”
Còn một linh mục trẻ mắng toẹt vào mặt giáo dân đáng tuổi của bố mình rằng : “Ông là đứa ngu, không biết gì cả”.
Thật tội nghiệp người giáo dân “ngu” ấy cũng vì ông đâu có học nhiều trong phụng vụ như cha sở để thành thạo giúp lễ cho ngài mà hứng chịu cái mắng oan nghiệt ấy!
Các linh mục xử sự như thế không còn là truyền giáo nữa, mà là đến để làm ông chủ và truyền cá tính cộc cằn, hách dịch và kiêu căng của mình cho giáo dân. Thật tội nghiệp cho họ, vì họ không nhìn thấy được Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng nơi vị mục tử trẻ trung của mình. Đáng hổ thẹn lắm thay, vì một linh mục khi không biết kính trên nhường dưới là một linh mục rất khó thân cận với giáo dân của mình, bởi vì nơi ngài người ta thấy được chức linh mục của một con người phàm tục; một linh mục luôn xấc láo với người già cả, kẻ cả hay với người cùng trang lứa thì ra chợ có hàng đống và hang tá mà mang về, cần gì phải “đi tu”…người ta sẽ không nhìn thấy chức linh mục cao quí nơi các ngài, nhưng người ta sẽ nhìn thấy ngài là con người với những thói xấu “tham, sân, si” nào có khác ai!
Có nhiều linh mục nói rằng phải xưng cha con với mọi người là để giáo dân khỏi lờn mặt. Suy nghĩ như thế mà không biết mắc cở thì quả là linh mục quá coi thường giáo dân của mình. Hành vi và thái độ của linh mục đối với giáo dân có diễn tả được tình yêu của Chúa Giêsu hay không chính lại thái độ mà đàn chiên phản ánh trung thực tâm tư của mình.
Năm 2009-2010 là năm linh mục, nhiều tác giả đã lên tiếng nhận xét, phê bình, cũng có người đã chỉ trích việc dùng danh xưng “cha” vì những lý do như là không có nền tảng trong Thánh Kinh, không có nguồn gốc truyền thống, và không phù hợp với phong tục văn hóa Việt Nam..v..v..
Thánh Kinh không có chỗ nào ghi lại Chúa Giêsu đã xưng mình là cha. Ngược lại, Phúc Âm ghi rõ lời dạy của Chúa Giêsu: “Anh em cũng đừng gọi ai ở dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt 23,9).
Trong lịch sử Giáo Hội, trong 10 thế kỷ đầu đã không có lối xưng hô này. Lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam danh xưng “cha” mới xuất hiện từ năm 1924 - khi uy quyền Giáo Hội được tăng cao trong xã hội.
Đối với người Việt chỉ quen gọi bố đẻ của mình là cha mà thôi, gọi người không có liên hệ máu mủ bằng cha là một việc rất khó và khi một linh mục xưng cha hô con với người cao tuổi hơn mình thì trái tục lệ của người Việt.
Đây cũng là một lối phản ảnh của giáo dân về tác phong và thái độ làm việc của các linh mục. Vì người Cha đỡ đầu, người Cha thiêng liêng, người cha tầm hồn đã mất dần các ý nghĩa khi diễn tả được tình yêu của Chúa Giêsu trên trần gian này. Linh mục là mục tử nhưng không học gương Chúa Giêsu đi tìm con chiên lạc trở về. Linh mục là thầy thuốc tâm hồn nhưng không học gương Chúa Giêsu là nhân ái và chữa lành bệnh tật trong tâm hồn của giáo dân. Giáo dân gọi họ là “cha” tinh thần nhưng linh mục chưa bày tỏ cho họ thấy lòng quảng đại của người cha như ý Thiên Chúa muốn.
Có một vài linh mục trẻ cứ nghĩ rằng mình đã “đỗ” chức linh mục rồi nên không cần đọc sách đọc vở, hay học tập gì nữa cả… có chăng là hễ gần đến ngày chủ nhật thì lấy sách lễ ra coi Phúc Âm và chuẩn bị bài giảng rồi chấm hết. Biết bao nhiêu là thời gian rảnh rỗi mà “các đấng” không đọc sách đọc báo, không sưu tầm tài liệu, không coi một quyển sách để mở thêm kiến thức của mình, không học thêm tiếng Anh, không học đàm thoại…Các bạn trẻ sẽ thích đến nhà thờ hơn khi các cha sở biết thông thạo Anh ngữ, thông cảm và hiểu được những bức xúc của họ, để an ủi và hướng dẫn họ đi theo lý tưởng của mỗi người mà không đánh mất đức tin của mình, đó chính là điều mà mỗi linh mục đều hiểu rõ ràng hơn những người khác.
Xin lễ và bỗng lễ chính là nguyên nhân mà có nhiều giáo dân không đến nhà thờ, và đối với họ việc xin lễ và bổng lễ là một cách giúp đỡ cho Giáo Hội, cộng đoàn mình và cha sở của mình sinh sống. Giáo dân, họ không mấy phấn khởi và thích thú khi đi xin lễ nơi cha sở hay cha phó là vì nhà Thờ có những quy định mà đối với họ giống như mua bán thánh lễ, mua bán ơn Chúa… làm mất đi ý nghĩa cao quý của việc xin lễ. Hãy đến bất cứ nhà thờ nào, đều có qui định giá cả về lễ cưới, lễ tang, lễ giỗ, lễ có ca đoàn hát và không ca đoàn hát...v..v.. Không một ai nhẫn tâm trước cảnh khốn khó của người khác, huống chi là một linh mục của Chúa Giêsu; linh mục nghĩ sao khi gia đình giáo dân phải vay tiền để xin lễ tang cho ba của mình? Tấm lòng của giáo hữu với nhà Chúa và cha sở thì quá lớn nhưng cha sở đã có tâm hồn thương xót người nghèo như là một người cha nhân từ và một mục tử chân chính của Chúa Kitô không?
Giáo dân không có tiền để xin lễ hoặc xin lễ không đúng với số bổng lễ quy định thì đã sao? Bởi vì không một tiền bạc vật chất nào trên thế gian này có thể mua nổi một thánh lễ Misa. Tại sao linh mục lại đòi cho cho đúng số khi gia đình giáo dân gia cảnh túng bấn, thất nghiệp, Chúa Kitô đã treo cho đến chết trên thánh giá để trở nên của lễ toàn thiêu vô giá dâng lên Chúa Cha xin Ngài tha tội cho thế gian, tại sao linh mục lại tự coi mình có quyền và lại kỳ kèo với người giáo dân nghèo của mình cho đúng với số tiền đã quy định chứ ?
Tóm lại, Thiên Chúa không chọn linh mục để các ngài làm kinh tài, kiếm tiền cho Giáo Hội, và cũng không chọn các linh mục để sách nhiễu, nạt nộ giáo dân. Ngài cũng không chọn linh mục để khinh dể người nghèo, đào sâu hố ngăn cách giai cấp, và ngăn cản mọi người tìm về với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa chọn linh mục để thay mặt Ngài dạy dỗ và hướng dẫn giáo dân đi trên con đường trọn lành đến với Ngài. Thiên chúa chọn các linh mục để các ngài giới thiệu khuôn mặt hiền hậu của Chúa Giêsu cho mọi người và giúp cho họ thấy rằng được làm người Kitô hữu thì hạnh phúc vô cùng, và chỉ cho họ thấy rằng, Giáo Hội đang cần đến họ cộng tác để Nước Trời luôn rộng mở ở trần gian này và yêu thương viên mãn.
“Nhân vô thập toàn” mọi người cũng thế và các linh mục cũng thế, nhưng khác cái mà mỗi người chúng ta cần phải đạt cho đến trong cuộc sống của mình, đó là nên thánh. Các linh mục, tu sĩ có chức thánh trước và kéo theo giáo dân nên thánh với mình, đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu hành mà cụ thể là các linh mục, tu sĩ nam nữ. Giáo dân kính trọng các linh mục và các tu sĩ nam nữ là ở chỗ họ luôn luôn nêu gương sáng cho mọi người, công khai cuộc sống của mình là hoà đồng với hết mọi người, giàu cũng như nghèo, là tiếp đón vui vẻ với mọi giáo dân không phân biệt một ai, bất luận họ đến nhà xứ với lý do gì thì cũng đều coi họ như người trong gia đình, thân tình tự nhiên mà không kiểu cách đạo mạo như ông chủ...
Linh mục tức là những mục tử của giáo dân, mà là mục tử thì phải hy sinh, và có khi hy sinh cả tính mạng mình để vì đàn chiên như xưa Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành đã chết cho đàn chiên.
Xã hội càng ngày càng phát triển, con người ngày càng văn minh tiến bộ và cuộc sống của họ ngày càng mong muốn hưởng thụ vật chất hơn của ăn tinh thần, những người Kitô hữu là giáo dân luôn cần các linh mục và các linh mục cũng cần có họ. Thế gian ngợp mắt trước những thú vui thế gian, và văn hóa của sự chết, của những sự ngưỡng mộ các ngôi sao, những minh tinh và thích có đời sống hưởng thụ sung sướng, thì vai trò linh mục ngày nay càng quan trọng hơn nhất là nơi giáo xứ của mình, bởi vì chính linh mục là những người có trách nhiệm bảo vệ chân lý đức tin và làm cho nó được phát triển sống động đến với mọi tâm hồn. Nước trời đó cũng chính là mục đích mà linh mục và giáo mong dấn thân trên con đường lữ thứ trần gian.
Lạy Chúa Giêsu linh mục.
Xin thương xót cho Giáo Hội,
thân thể mang đầy thương tích của Ngài mà tái sinh Giáo Hội,
trong trời mới, đất mới!
Xuân Giáp Ngọ Tháng 2 năm 2014
Biết Văn
Giáo Hội dịch từ tiếng La-tinh "Ecclesia" có nghĩa là "triệu tập”. Trong ngôn ngữ Kitô giáo, từ "Giáo Hội" chỉ cộng đoàn phụng vụ, cộng đoàn địa phương hoặc tất cả cộng đoàn các tín hữu trên khắp thế giới.
"Giáo Hội" là Dân do Thiên Chúa tập họp lại trên toàn thế giới; nó được xây dựng nên từ nước và máu từ Trái Tim của Chúa Kitô và được dưỡng nuôi và sống bởi Lời Chúa và Thánh Thể. Giáo Hội vì thế là Giáo Hội của đau khổ thập giá, của cái chết đi trong Chúa Kitô và tái sinh trong Thánh Thần. Do đó, Giáo Hội là Dân Thiên Chúa, là thân thể Chúa Kitô, và là đền thờ Chúa Thánh Thần. Giáo Hội không thể định nghĩa bởi những linh mục làm kinh tài giỏi và kiếm thật nhiều tiền cho Giáo phận. Giáo Hội cũng không được định nghĩa là những người con người đi tu để làm “Chánh xứ”, “trốn quân dịch”, “phô bày chủ nghĩa cá nhân”. Hay Giáo Hội không thể định nghĩa bởi những nhóm người cơ hội, quá định kiến và thiển cận…
Khi chịu chức xong thì các linh mục trẻ đầy nhiệt tình sẽ được sai đi của đấng bản quyền địa phương (giám mục địa phận, bề trên dòng...) để đi làm mục vụ, cũng có nghĩa là được chính thức sai đi đến một nơi mà khi còn học trong chủng viện các ngài hằng mong ước, đó là làm phó hoặc chính xứ. Cho nên, khi được sai đi để đến một giáo xứ nào đó, dù lớn hay nhỏ, Mỹ, Việt hay các sắc dân khác thì các linh mục phải cảm tạ ơn Thiên Chúa đã chọn mình chứ không chọn ai khác để coi sóc giáo xứ ấy, và mau mắn lên đường làm nhiệm vụ... Khi đã xác định được giáo xứ là đại gia đình của mình thì người linh mục không còn đòi hỏi phải có đầy đủ tiện nghi trong sinh hoạt. Các ngài nên băn khoăn khi giáo dân của mình dân trí kém hiểu biết về Chúa, cuộc sống khó khăn đầy oán than, hay có nhiều người rượu chè cờ bạc và có nhiều tệ nạn xảy ra cần phải giúp đỡ và giáo dục họ họ sống đúng với tinh thần của Chúa Giêsu dạy : “yêu thương và phục vụ.”
Một linh mục tâm sự :
“Thiên chức linh mục chính là Thiên Chúa ban cho người nào thì tùy ý Ngài, Ngài chọn người này người nọ, nhưng không phải vì họ thánh thiện hay đạo đức hoặc học vấn trổi vượt hơn người khác, mà là vì tình yêu đặc biệt Ngài dành cho họ, Ngài chọn họ qua Giáo Hội và qua Hội Dòng của họ hoặc qua giám mục địa phận, và qua giám mục hoặc Hội Dòng mà họ mới được đứng vào hàng ngũ công hầu khanh tướng trong nước Thiên Chúa như hôm nay, cho nên việc trước tiên là những người được chọn ấy - “linh mục” - biết ơn Thiên Chúa và cám ơn Ngài, nhưng Thiên Chúa không muốn họ làm như thế đâu, Ngài muốn họ phải cám ơn trước hết chính là địa phận của họ hoặc Hội Dòng của họ, nơi cưu mang họ, nơi mà nếu không có bề trên tổng quyền, không có cha viện trưởng hoặc là tập sư của họ cũng như ban cố vấn hội dòng, nếu như không có sự yêu thương dạy dỗ của các cha giáo trong chủng viện và của toàn ban giám đốc, nếu không có sự yêu thương của mọi người thì họ sẽ không được như ngày hôm nay.”
Một vài linh mục trẻ khi được sai đến một giáo xứ nào đó, nếu giáo xứ đó giàu có thì cười hả hê và thỏa mãn, nếu giáo xứ nghèo hay ở nơi khỉ ho cò gáy, hay cách biệt cộng đồng người Việt, thì lại trách oán bề trên, đây là những linh mục sẽ không bao giờ coi giáo xứ của các ngài là một đại gia đình của mình, cho nên khi đến giáo xứ thì việc trước tiên là hạch sách giáo dân (nếu là cộng đoàn là Việt Nam) hoặc đòi điều kiện với cha sở là : chỗ ở phải tiện nghi, phải có máy lạnh, phải có phòng ốc hẳn hoi, phải có chỗ vui chơi giải trí thì mới đến, bằng không thì mặc kệ. Mỉa mai thay, tinh thần mục tử vì đàn chiên nơi các ngài không còn nữa với lời khấn, và như thế các ngài coi giáo xứ như là một công ty mà các ngài “buộc” phải đến làm việc, các ngài biến mình trở thành một công chức cao cấp để lãnh lương chứ không phải là một linh mục đang làm trong vườn nho của Thiên Chúa...
Một vài linh mục khi đến giáo xứ thì “triển lãm” cái tính sống xa hoa của mình cho giáo dân thấy. Có linh mục thì mới đến giáo xứ ngày hôm trước thì hôm sau đã phách lối nạt nộ giáo dân và đặt điều kiện này điều kiện nọ với họ; truyền giáo đâu thì chưa thấy chỉ thấy giáo dân than phiền: “ông cha mới khó tính như ông cụ non!”
Một giáo dân tâm sự :
“Linh mục nọ... còn rất trẻ, tuổi chỉ đáng làm cháu bà, vậy mà lớn tiếng la lối với bà ngay trong nhà thờ sau thánh lễ, không biết linh mục ấy có học nhân bản không ?”
Còn một linh mục trẻ mắng toẹt vào mặt giáo dân đáng tuổi của bố mình rằng : “Ông là đứa ngu, không biết gì cả”.
Thật tội nghiệp người giáo dân “ngu” ấy cũng vì ông đâu có học nhiều trong phụng vụ như cha sở để thành thạo giúp lễ cho ngài mà hứng chịu cái mắng oan nghiệt ấy!
Các linh mục xử sự như thế không còn là truyền giáo nữa, mà là đến để làm ông chủ và truyền cá tính cộc cằn, hách dịch và kiêu căng của mình cho giáo dân. Thật tội nghiệp cho họ, vì họ không nhìn thấy được Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng nơi vị mục tử trẻ trung của mình. Đáng hổ thẹn lắm thay, vì một linh mục khi không biết kính trên nhường dưới là một linh mục rất khó thân cận với giáo dân của mình, bởi vì nơi ngài người ta thấy được chức linh mục của một con người phàm tục; một linh mục luôn xấc láo với người già cả, kẻ cả hay với người cùng trang lứa thì ra chợ có hàng đống và hang tá mà mang về, cần gì phải “đi tu”…người ta sẽ không nhìn thấy chức linh mục cao quí nơi các ngài, nhưng người ta sẽ nhìn thấy ngài là con người với những thói xấu “tham, sân, si” nào có khác ai!
Có nhiều linh mục nói rằng phải xưng cha con với mọi người là để giáo dân khỏi lờn mặt. Suy nghĩ như thế mà không biết mắc cở thì quả là linh mục quá coi thường giáo dân của mình. Hành vi và thái độ của linh mục đối với giáo dân có diễn tả được tình yêu của Chúa Giêsu hay không chính lại thái độ mà đàn chiên phản ánh trung thực tâm tư của mình.
Năm 2009-2010 là năm linh mục, nhiều tác giả đã lên tiếng nhận xét, phê bình, cũng có người đã chỉ trích việc dùng danh xưng “cha” vì những lý do như là không có nền tảng trong Thánh Kinh, không có nguồn gốc truyền thống, và không phù hợp với phong tục văn hóa Việt Nam..v..v..
Thánh Kinh không có chỗ nào ghi lại Chúa Giêsu đã xưng mình là cha. Ngược lại, Phúc Âm ghi rõ lời dạy của Chúa Giêsu: “Anh em cũng đừng gọi ai ở dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt 23,9).
Trong lịch sử Giáo Hội, trong 10 thế kỷ đầu đã không có lối xưng hô này. Lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam danh xưng “cha” mới xuất hiện từ năm 1924 - khi uy quyền Giáo Hội được tăng cao trong xã hội.
Đối với người Việt chỉ quen gọi bố đẻ của mình là cha mà thôi, gọi người không có liên hệ máu mủ bằng cha là một việc rất khó và khi một linh mục xưng cha hô con với người cao tuổi hơn mình thì trái tục lệ của người Việt.
Đây cũng là một lối phản ảnh của giáo dân về tác phong và thái độ làm việc của các linh mục. Vì người Cha đỡ đầu, người Cha thiêng liêng, người cha tầm hồn đã mất dần các ý nghĩa khi diễn tả được tình yêu của Chúa Giêsu trên trần gian này. Linh mục là mục tử nhưng không học gương Chúa Giêsu đi tìm con chiên lạc trở về. Linh mục là thầy thuốc tâm hồn nhưng không học gương Chúa Giêsu là nhân ái và chữa lành bệnh tật trong tâm hồn của giáo dân. Giáo dân gọi họ là “cha” tinh thần nhưng linh mục chưa bày tỏ cho họ thấy lòng quảng đại của người cha như ý Thiên Chúa muốn.
Có một vài linh mục trẻ cứ nghĩ rằng mình đã “đỗ” chức linh mục rồi nên không cần đọc sách đọc vở, hay học tập gì nữa cả… có chăng là hễ gần đến ngày chủ nhật thì lấy sách lễ ra coi Phúc Âm và chuẩn bị bài giảng rồi chấm hết. Biết bao nhiêu là thời gian rảnh rỗi mà “các đấng” không đọc sách đọc báo, không sưu tầm tài liệu, không coi một quyển sách để mở thêm kiến thức của mình, không học thêm tiếng Anh, không học đàm thoại…Các bạn trẻ sẽ thích đến nhà thờ hơn khi các cha sở biết thông thạo Anh ngữ, thông cảm và hiểu được những bức xúc của họ, để an ủi và hướng dẫn họ đi theo lý tưởng của mỗi người mà không đánh mất đức tin của mình, đó chính là điều mà mỗi linh mục đều hiểu rõ ràng hơn những người khác.
Xin lễ và bỗng lễ chính là nguyên nhân mà có nhiều giáo dân không đến nhà thờ, và đối với họ việc xin lễ và bổng lễ là một cách giúp đỡ cho Giáo Hội, cộng đoàn mình và cha sở của mình sinh sống. Giáo dân, họ không mấy phấn khởi và thích thú khi đi xin lễ nơi cha sở hay cha phó là vì nhà Thờ có những quy định mà đối với họ giống như mua bán thánh lễ, mua bán ơn Chúa… làm mất đi ý nghĩa cao quý của việc xin lễ. Hãy đến bất cứ nhà thờ nào, đều có qui định giá cả về lễ cưới, lễ tang, lễ giỗ, lễ có ca đoàn hát và không ca đoàn hát...v..v.. Không một ai nhẫn tâm trước cảnh khốn khó của người khác, huống chi là một linh mục của Chúa Giêsu; linh mục nghĩ sao khi gia đình giáo dân phải vay tiền để xin lễ tang cho ba của mình? Tấm lòng của giáo hữu với nhà Chúa và cha sở thì quá lớn nhưng cha sở đã có tâm hồn thương xót người nghèo như là một người cha nhân từ và một mục tử chân chính của Chúa Kitô không?
Giáo dân không có tiền để xin lễ hoặc xin lễ không đúng với số bổng lễ quy định thì đã sao? Bởi vì không một tiền bạc vật chất nào trên thế gian này có thể mua nổi một thánh lễ Misa. Tại sao linh mục lại đòi cho cho đúng số khi gia đình giáo dân gia cảnh túng bấn, thất nghiệp, Chúa Kitô đã treo cho đến chết trên thánh giá để trở nên của lễ toàn thiêu vô giá dâng lên Chúa Cha xin Ngài tha tội cho thế gian, tại sao linh mục lại tự coi mình có quyền và lại kỳ kèo với người giáo dân nghèo của mình cho đúng với số tiền đã quy định chứ ?
Tóm lại, Thiên Chúa không chọn linh mục để các ngài làm kinh tài, kiếm tiền cho Giáo Hội, và cũng không chọn các linh mục để sách nhiễu, nạt nộ giáo dân. Ngài cũng không chọn linh mục để khinh dể người nghèo, đào sâu hố ngăn cách giai cấp, và ngăn cản mọi người tìm về với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa chọn linh mục để thay mặt Ngài dạy dỗ và hướng dẫn giáo dân đi trên con đường trọn lành đến với Ngài. Thiên chúa chọn các linh mục để các ngài giới thiệu khuôn mặt hiền hậu của Chúa Giêsu cho mọi người và giúp cho họ thấy rằng được làm người Kitô hữu thì hạnh phúc vô cùng, và chỉ cho họ thấy rằng, Giáo Hội đang cần đến họ cộng tác để Nước Trời luôn rộng mở ở trần gian này và yêu thương viên mãn.
“Nhân vô thập toàn” mọi người cũng thế và các linh mục cũng thế, nhưng khác cái mà mỗi người chúng ta cần phải đạt cho đến trong cuộc sống của mình, đó là nên thánh. Các linh mục, tu sĩ có chức thánh trước và kéo theo giáo dân nên thánh với mình, đó là bổn phận và trách nhiệm của người tu hành mà cụ thể là các linh mục, tu sĩ nam nữ. Giáo dân kính trọng các linh mục và các tu sĩ nam nữ là ở chỗ họ luôn luôn nêu gương sáng cho mọi người, công khai cuộc sống của mình là hoà đồng với hết mọi người, giàu cũng như nghèo, là tiếp đón vui vẻ với mọi giáo dân không phân biệt một ai, bất luận họ đến nhà xứ với lý do gì thì cũng đều coi họ như người trong gia đình, thân tình tự nhiên mà không kiểu cách đạo mạo như ông chủ...
Linh mục tức là những mục tử của giáo dân, mà là mục tử thì phải hy sinh, và có khi hy sinh cả tính mạng mình để vì đàn chiên như xưa Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành đã chết cho đàn chiên.
Xã hội càng ngày càng phát triển, con người ngày càng văn minh tiến bộ và cuộc sống của họ ngày càng mong muốn hưởng thụ vật chất hơn của ăn tinh thần, những người Kitô hữu là giáo dân luôn cần các linh mục và các linh mục cũng cần có họ. Thế gian ngợp mắt trước những thú vui thế gian, và văn hóa của sự chết, của những sự ngưỡng mộ các ngôi sao, những minh tinh và thích có đời sống hưởng thụ sung sướng, thì vai trò linh mục ngày nay càng quan trọng hơn nhất là nơi giáo xứ của mình, bởi vì chính linh mục là những người có trách nhiệm bảo vệ chân lý đức tin và làm cho nó được phát triển sống động đến với mọi tâm hồn. Nước trời đó cũng chính là mục đích mà linh mục và giáo mong dấn thân trên con đường lữ thứ trần gian.
Lạy Chúa Giêsu linh mục.
Xin thương xót cho Giáo Hội,
thân thể mang đầy thương tích của Ngài mà tái sinh Giáo Hội,
trong trời mới, đất mới!
Xuân Giáp Ngọ Tháng 2 năm 2014
Biết Văn
Khi linh mục biết làm kinh tài (3)
LTS: Đối với một số độc giả, những tư tưởng sau đây có thể là những tư tưởng “chống Chúa, chống cha”, những tư tưởng rối đạo, hoặc những hành động “vạch áo cho người xem lưng”. Nhưng nếu nhìn vào sinh hoạt đổi mới của Giáo Hội, đặc biệt, dưới những thay đổi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô thì Giáo Hội cũng đã đến lúc cần phải nhìn vào mình, cần lột bỏ cái vỏ đạo đức hình thức, để đi vào dòng chính của con người, của xã hội, nhất là những kẻ nghèo hèn, thấp cổ, bé miệng, những kẻ bệnh tật, thấp kém bị đời kinh chê, loại bỏ…
Để rộng đường tư tưởng, Nazareth cho đăng loạt bài của tác giả Biết Văn. Tuy nhiên, quan điểm của tác giả cũng như các tác giả khác không nhất thiết phản ảnh chủ trương của trang nhà Nazareth.
Tạp chí Time vừa qua, bình chọn Giáo hoàng Francis, 76 tuổi là nhân vật của năm với lời ca ngợi tốt đẹp rằng chỉ trong 9 tháng đứng đầu giáo hội Công giáo, ông đã đem đến tiếng nói nhận thức mới. Giáo hoàng Francis nổi tiếng vì sự khiêm nhường và cam kết vì người nghèo từ rất lâu trước khi trở thành lãnh đạo giáo hội Công giáo. Bà Nacy Gibbs, thư ký tòa soạn giải thích:
"Hiếm khi nào một người mới xuất hiện trên vũ đài thế giới lại có khả năng thu hút được sự chú ý từ người già lẫn người trẻ, người sùng đạo lẫn người ngoại đạo, như Giáo hoàng Francis".
Thật ra Đức Thánh Cha không làm gì mới lạ cả, mà Ngài chỉ làm theo lời Chúa Kitô dạy mà thôi:
“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình". (Luca 9, 21-24)
Trong 4 Hiến chế, 9 Sắc lệnh, và 3 tuyên ngôn của Công Đồng Vatican 2 năm 1962, hầu như mọi nỗ lực canh tân tập trung vào một Giáo Hội dấn thân phục vụ con người và đưa họ về với Thiên Chúa, và đó cũng chính là điều thiết yếu mà 50 năm qua âm vang của Công Đồng Vatican 2 vẫn còn âm hưởng. Vậy các Linh mục đã lắng nghe những gì về cộng đoàn dân Chúa và đúc kết biết được gì từ cộng đoàn dân Chúa nhằm đưa “Giáo Hội dấn thân phục vụ con người, đưa họ về với Thiên Chúa” ?
Một linh mục nọ lao vào kiếm lợi nhuận từ việc gói bánh chưng mấy ngày Tết. Sống giữa những thức ăn độc hại đến từ Trung Quốc, nên mọi người không dám mua bánh ngoài chợ, nên đều đặt bánh làm tại nhà thờ cho chắc ăn. Thế là nhà thờ năm ấy bội thu…nghe đâu linh mục còn quát cả ca đoàn bỏ cả tập dợt hát lễ phụ đi gói bánh để kịp giao bánh đúng ngày cho mọi người “ăn Tết”. Xin hoan hô tinh thần “Bánh Chưng” của vị linh mục dấn thân phục vụ vì dân ăn Tết. Thừa thắng xông lên, mùa Giáng Sinh năm nay linh mục này còn tổ chức một đêm nhạc hội có bán vé vào cửa và kéo thêm một dàn gồm nhiều ca sỹ của Paris By Night với phần MC của Nguyễn Ngọc Ngạn vào nhà thờ tổ chức ca hát. Điều mà nhiều người lớn tuổi và đứng đắn cho là một việc làm bất kính và bất xứng. Rất tiếc khi tường thuật về việc Chúa Giêsu đánh đuổi quân buôn ở đền thờ Giêrusalem xưa, thánh ký chưa nghĩ ra lời than thở cho trường hợp nhà Chúa bị biến thành “rạp hát”!
Để Dân Chúa biết rõ hơn việc làm của các linh mục, đời sống học tập, tu trì và tận hiến của các “đấng”, tôi xin sơ lược điểm qua.
Một linh mục ở Mỹ phải có bằng BA hay BS (Bachelor of Arts and Bachelor of Science degrees) mới được nhận vào thần học. Sau 4 năm Triết hay 4 năm với mảnh bằng cử nhân tương đương, cộng thêm 4 năm thần học ở các Đại Chủng Viện, các vị ứng viên này mới đủ tiêu chuẩn để lãnh tác vụ linh mục. Dĩ nhiên, do đòi hỏi của đời sống độc thân linh mục, hoặc những lý do này khác, một số lớn đã không hoàn tất chương trình giáo dục để trở thành linh mục.
Một linh mục với bằng BA, BS, MA, MS hay Ph.D, cũng như mọi sinh viên khác, họ đều có Cal Grant hay Pell Grant, hay Student Loan… Nhưng khi được giáo phận nhận vào thần học vì muốn các ứng viên này tập trung lo cho việc học và chuẩn bị cho chức linh mục, một số giáo phận đã có những chương trình tài trợ một phần hoặc toàn phần cho 4 năm thần học. Trong một số trường hợp đặc biệt còn giúp trả nợ học phí những năm của chương trình Cử nhân trước đó.
Riêng tại Việt Nam, trước năm 75 thì miền Bắc Giáo Hội hoàn toàn hầm trú, tu chui, chịu chức chui; miền Nam thì có Tiểu Chủng Viện và Đại Chủng Viện cho các chủng sinh tu tập. Tiểu Chủng Viện nhận vào học 7 năm với chương trình Trung học. Sau khi tốt nghiệp Trung học thì được vào Đại Chủng Viện với chương trình đào tạo là 2 năm Triết và 4 năm Thần học sau đó là lãnh chức Phó tế (thầy Sáu) và sau cùng là chức linh mục. Các linh mục dòng tuy có những chương trình đào tạo khác nhau tại những Đại Chủng Viện của riêng dòng mình, hay tại các Đại Chủng Viện Liên Dòng, nhưng chương trình triết và thần thì luôn luôn được nhấn mạnh, và được coi là nền tảng của việc đào tạo các linh mục. Sau năm 1975 thì cả miền Bắc và miền Nam đều chịu một hình thức khủng bố, bóp nghẹt, và theo dõi tôn giáo của Cộng Sản. Không chỉ các Tiểu Chủng Viện, mà các Đại Chủng Viện cũng bị nhà cầm quyền Cộng Sản đóng cửa. Nhưng gần đây, nhờ những thương thảo và ngoại giao của Tòa Thánh, các Đại Chủng Viện đang từ từ được mở lại, và dĩ nhiên, thành phần tuyển sinh là những thanh thiếu niên đã tốt nghiệp Trung học (dù là nền giáo dục của Việt Nam hiện nay) hoặc những trường hợp ngoại lệ.
Nếu đem so sánh một linh mục ra trường ở xứ Mỹ này với một người có bằng BS vợ và 1 con, ta thấy anh có bằng BS sống khổ hơn rất nhiều so với vị linh mục. Chỉ cần nhìn vào những hóa đơn điện, nước, ga, xăng, tiền nhà hàng tháng, tiền xe hàng tháng, tiền ăn, bảo hiểm nhà, bảo hiểm xe, bảo hiểm sức khỏe… là đã thấy không “khỏe”, không vui chút nào, chỉ khác là hạnh phúc được định nghĩa ở mỗi người khác nhau.
Hoặc một người có bằng MS (Master Degree) vợ và 1 con, vừa làm vừa lo trả nợ cho mình học cả mấy chục năm, vừa đóng góp cho nhà thờ và lo cho gia đình…làm bù đầu bù óc thì dám đâu mơ mộng…Còn vị linh mục mới ra trường, vì được Giáo phận lo trả dùm khoảng nợ học, nên nhẹ đầu, nhẹ óc rảnh tay làm kinh tài rất tốt hơn nhiều với sự khéo chiều của giáo dân.
Ở một giáo xứ nọ, vị linh mục có tên là Vàng không biết làm kinh tế, kinh tài gì mích lòng một giáo dân nhà cạnh sát nách giáo đường và nhà nghỉ của Cha. Một ngày nọ, khi mối bất đồng lên tới cao điểm, anh giáo dân nọ, giữa trưa nắng gay gắt leo lên cây mận của mình nằm kề bên vách phòng ngủ của Cha Vàng, vừa rên vừa la:
“ Kiến Vàng cắn c…tao đau quá!” anh ta kêu la rất lớn tiếng và thảm khốc.
Hồi lâu sau, cha Vàng mặc áo “các phép” và nghiêm chỉnh lên tiếng chúc dữ anh…
Đây là câu chuyện hoàn toàn có thật và không biết là lời chúc dữ kia có hiệu nghiệm hay không mà nhà anh này 2 đời rồi, vẫn “thân sơ, thất sở” không ngóc đầu dậy nổi. Có lẽ đây cũng là bài học răn đe cho những ai dám động đến các “Đấng” vì các linh mục lợi dụng cả những luật lệ Chúa truyền làm phương tiện bảo vệ cho mình: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 16, 19-20).
Chúng ta không khinh, hay chê trách các linh mục, vì thiên chức này tự bản chất nó đã được mọi người rất thương và coi trọng vì cho đó là hình ảnh Chúa Giêsu thứ hai. Chúng ta cũng biết các linh mục vẫn là người trần, mắt thịt; cũng vẫn có “hỉ, nộ, ái, ố”, cũng “tham, sân , si” nên khi đồng hành và làm việc cùng các vị chúng ta luôn tận tụy, giúp đỡ và cầu nguyện cho các vị vì “nước Cha trị đến”. Nhưng nhiều khi chính chúng ta đã tha hóa, làm hư các linh mục từ cách ăn, nết ở, cách nịnh bợ, tâng bốc, và lợi dụng để cầu lợi, và để làm hoen ố đời sống linh mục. Chúng ta có nhiều hội “Bảo Trợ Ơn Thiên Triệu”, nhưng chưa có hội “Bảo Vệ Ơn Thiên Triệu”. Đã bao năm rồi khuôn mặt Hội Thánh vẫn còn nhiều vết nhăn, và trở nên khó coi trước mặt thế gian vì sự thiếu đạo đức của nhiều linh mục, cũng như lối sống đạo thiếu trưởng thành của phần lớn tín hữu giáo dân.
Vậy theo ý bạn, đâu là điều cần phải sửa trước hết để Hội Thánh trở nên đáng tin hơn? Có phải cải sửa trước tiên là đội ngũ linh mục với sống đơn giản và thánh hiến? Có phải cải đổi trước tiên là sự rườm rà, xa hoa trong nghi thức phụng tự.
Theo Cộng Đồng Vatican 2 ở chương VI, “Đời sống tu trì được coi như chóp đỉnh của đời sống Kitô-giáo, phát huy tất cả tiềm năng của phép Rửa Tội. Việc thiết lập trong Giáo Hội một con đường đặc biệt để nên thánh bằng việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, là dựa trên chính lời nói và gương mẫu của Chúa” (GH 43).
“Người môn đệ Chúa Kitô tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm bằng lời khấn hoặc bằng những ràng buộc thánh khác ... Nhờ đó họ hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ đặc biệt”.
Bạn có khi nào cầu nguyện cho Ðức Thánh Cha, vì ý tưởng cao đẹp của Ngài vì đó là sự cận kề của bao nguy hiểm? Bạn có cảm được gánh nặng trách nhiệm và nỗi âu lo của Ðức Thánh Cha trước những vấn đề của Hội Thánh và của thế giới ngày nay không?
Xuyên suốt cuộc đời Chúa Giêsu qua 4 Thánh Sử viết lại, chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Ðức Giêsu vào Phêrô. Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài và nắm giữ chìa khóa nước trời không phải vì Phêrô cao trọng và đạo đức…bởi vì Phêrô đã có kinh nghiêm về tội lỗi và sự trở lại: “Thầy cầu nguyện cho con, để đức tin của con không bị lạc mất; phần con, sau khi đã chỗi dậy, con hãy củng cố anh em con” (Luca 22,32-34).
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong suốt dòng lịch sử. Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu, mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ, những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian, những ý thức hệ. Ngày hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít, khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin, khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi, “Mình và Máu Thánh” Chúa không còn được coi là quan trọng. Ước gì mỗi vị linh mục, mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến và trung thành với Hội Thánh, cải tổ và canh tân Hội Thánh bằng việc canh tân chính bản thân mình để trung tín với Đấng đã vì chúng ta “đền thay, chết thay”.
(còn tiếp)
Biết Văn
LTS: Đối với một số độc giả, những tư tưởng sau đây có thể là những tư tưởng “chống Chúa, chống cha”, những tư tưởng rối đạo, hoặc những hành động “vạch áo cho người xem lưng”. Nhưng nếu nhìn vào sinh hoạt đổi mới của Giáo Hội, đặc biệt, dưới những thay đổi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô thì Giáo Hội cũng đã đến lúc cần phải nhìn vào mình, cần lột bỏ cái vỏ đạo đức hình thức, để đi vào dòng chính của con người, của xã hội, nhất là những kẻ nghèo hèn, thấp cổ, bé miệng, những kẻ bệnh tật, thấp kém bị đời kinh chê, loại bỏ…
Để rộng đường tư tưởng, Nazareth cho đăng loạt bài của tác giả Biết Văn. Tuy nhiên, quan điểm của tác giả cũng như các tác giả khác không nhất thiết phản ảnh chủ trương của trang nhà Nazareth.
Tạp chí Time vừa qua, bình chọn Giáo hoàng Francis, 76 tuổi là nhân vật của năm với lời ca ngợi tốt đẹp rằng chỉ trong 9 tháng đứng đầu giáo hội Công giáo, ông đã đem đến tiếng nói nhận thức mới. Giáo hoàng Francis nổi tiếng vì sự khiêm nhường và cam kết vì người nghèo từ rất lâu trước khi trở thành lãnh đạo giáo hội Công giáo. Bà Nacy Gibbs, thư ký tòa soạn giải thích:
"Hiếm khi nào một người mới xuất hiện trên vũ đài thế giới lại có khả năng thu hút được sự chú ý từ người già lẫn người trẻ, người sùng đạo lẫn người ngoại đạo, như Giáo hoàng Francis".
Thật ra Đức Thánh Cha không làm gì mới lạ cả, mà Ngài chỉ làm theo lời Chúa Kitô dạy mà thôi:
“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình". (Luca 9, 21-24)
Trong 4 Hiến chế, 9 Sắc lệnh, và 3 tuyên ngôn của Công Đồng Vatican 2 năm 1962, hầu như mọi nỗ lực canh tân tập trung vào một Giáo Hội dấn thân phục vụ con người và đưa họ về với Thiên Chúa, và đó cũng chính là điều thiết yếu mà 50 năm qua âm vang của Công Đồng Vatican 2 vẫn còn âm hưởng. Vậy các Linh mục đã lắng nghe những gì về cộng đoàn dân Chúa và đúc kết biết được gì từ cộng đoàn dân Chúa nhằm đưa “Giáo Hội dấn thân phục vụ con người, đưa họ về với Thiên Chúa” ?
Một linh mục nọ lao vào kiếm lợi nhuận từ việc gói bánh chưng mấy ngày Tết. Sống giữa những thức ăn độc hại đến từ Trung Quốc, nên mọi người không dám mua bánh ngoài chợ, nên đều đặt bánh làm tại nhà thờ cho chắc ăn. Thế là nhà thờ năm ấy bội thu…nghe đâu linh mục còn quát cả ca đoàn bỏ cả tập dợt hát lễ phụ đi gói bánh để kịp giao bánh đúng ngày cho mọi người “ăn Tết”. Xin hoan hô tinh thần “Bánh Chưng” của vị linh mục dấn thân phục vụ vì dân ăn Tết. Thừa thắng xông lên, mùa Giáng Sinh năm nay linh mục này còn tổ chức một đêm nhạc hội có bán vé vào cửa và kéo thêm một dàn gồm nhiều ca sỹ của Paris By Night với phần MC của Nguyễn Ngọc Ngạn vào nhà thờ tổ chức ca hát. Điều mà nhiều người lớn tuổi và đứng đắn cho là một việc làm bất kính và bất xứng. Rất tiếc khi tường thuật về việc Chúa Giêsu đánh đuổi quân buôn ở đền thờ Giêrusalem xưa, thánh ký chưa nghĩ ra lời than thở cho trường hợp nhà Chúa bị biến thành “rạp hát”!
Để Dân Chúa biết rõ hơn việc làm của các linh mục, đời sống học tập, tu trì và tận hiến của các “đấng”, tôi xin sơ lược điểm qua.
Một linh mục ở Mỹ phải có bằng BA hay BS (Bachelor of Arts and Bachelor of Science degrees) mới được nhận vào thần học. Sau 4 năm Triết hay 4 năm với mảnh bằng cử nhân tương đương, cộng thêm 4 năm thần học ở các Đại Chủng Viện, các vị ứng viên này mới đủ tiêu chuẩn để lãnh tác vụ linh mục. Dĩ nhiên, do đòi hỏi của đời sống độc thân linh mục, hoặc những lý do này khác, một số lớn đã không hoàn tất chương trình giáo dục để trở thành linh mục.
Một linh mục với bằng BA, BS, MA, MS hay Ph.D, cũng như mọi sinh viên khác, họ đều có Cal Grant hay Pell Grant, hay Student Loan… Nhưng khi được giáo phận nhận vào thần học vì muốn các ứng viên này tập trung lo cho việc học và chuẩn bị cho chức linh mục, một số giáo phận đã có những chương trình tài trợ một phần hoặc toàn phần cho 4 năm thần học. Trong một số trường hợp đặc biệt còn giúp trả nợ học phí những năm của chương trình Cử nhân trước đó.
Riêng tại Việt Nam, trước năm 75 thì miền Bắc Giáo Hội hoàn toàn hầm trú, tu chui, chịu chức chui; miền Nam thì có Tiểu Chủng Viện và Đại Chủng Viện cho các chủng sinh tu tập. Tiểu Chủng Viện nhận vào học 7 năm với chương trình Trung học. Sau khi tốt nghiệp Trung học thì được vào Đại Chủng Viện với chương trình đào tạo là 2 năm Triết và 4 năm Thần học sau đó là lãnh chức Phó tế (thầy Sáu) và sau cùng là chức linh mục. Các linh mục dòng tuy có những chương trình đào tạo khác nhau tại những Đại Chủng Viện của riêng dòng mình, hay tại các Đại Chủng Viện Liên Dòng, nhưng chương trình triết và thần thì luôn luôn được nhấn mạnh, và được coi là nền tảng của việc đào tạo các linh mục. Sau năm 1975 thì cả miền Bắc và miền Nam đều chịu một hình thức khủng bố, bóp nghẹt, và theo dõi tôn giáo của Cộng Sản. Không chỉ các Tiểu Chủng Viện, mà các Đại Chủng Viện cũng bị nhà cầm quyền Cộng Sản đóng cửa. Nhưng gần đây, nhờ những thương thảo và ngoại giao của Tòa Thánh, các Đại Chủng Viện đang từ từ được mở lại, và dĩ nhiên, thành phần tuyển sinh là những thanh thiếu niên đã tốt nghiệp Trung học (dù là nền giáo dục của Việt Nam hiện nay) hoặc những trường hợp ngoại lệ.
Nếu đem so sánh một linh mục ra trường ở xứ Mỹ này với một người có bằng BS vợ và 1 con, ta thấy anh có bằng BS sống khổ hơn rất nhiều so với vị linh mục. Chỉ cần nhìn vào những hóa đơn điện, nước, ga, xăng, tiền nhà hàng tháng, tiền xe hàng tháng, tiền ăn, bảo hiểm nhà, bảo hiểm xe, bảo hiểm sức khỏe… là đã thấy không “khỏe”, không vui chút nào, chỉ khác là hạnh phúc được định nghĩa ở mỗi người khác nhau.
Hoặc một người có bằng MS (Master Degree) vợ và 1 con, vừa làm vừa lo trả nợ cho mình học cả mấy chục năm, vừa đóng góp cho nhà thờ và lo cho gia đình…làm bù đầu bù óc thì dám đâu mơ mộng…Còn vị linh mục mới ra trường, vì được Giáo phận lo trả dùm khoảng nợ học, nên nhẹ đầu, nhẹ óc rảnh tay làm kinh tài rất tốt hơn nhiều với sự khéo chiều của giáo dân.
Ở một giáo xứ nọ, vị linh mục có tên là Vàng không biết làm kinh tế, kinh tài gì mích lòng một giáo dân nhà cạnh sát nách giáo đường và nhà nghỉ của Cha. Một ngày nọ, khi mối bất đồng lên tới cao điểm, anh giáo dân nọ, giữa trưa nắng gay gắt leo lên cây mận của mình nằm kề bên vách phòng ngủ của Cha Vàng, vừa rên vừa la:
“ Kiến Vàng cắn c…tao đau quá!” anh ta kêu la rất lớn tiếng và thảm khốc.
Hồi lâu sau, cha Vàng mặc áo “các phép” và nghiêm chỉnh lên tiếng chúc dữ anh…
Đây là câu chuyện hoàn toàn có thật và không biết là lời chúc dữ kia có hiệu nghiệm hay không mà nhà anh này 2 đời rồi, vẫn “thân sơ, thất sở” không ngóc đầu dậy nổi. Có lẽ đây cũng là bài học răn đe cho những ai dám động đến các “Đấng” vì các linh mục lợi dụng cả những luật lệ Chúa truyền làm phương tiện bảo vệ cho mình: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt 16, 19-20).
Chúng ta không khinh, hay chê trách các linh mục, vì thiên chức này tự bản chất nó đã được mọi người rất thương và coi trọng vì cho đó là hình ảnh Chúa Giêsu thứ hai. Chúng ta cũng biết các linh mục vẫn là người trần, mắt thịt; cũng vẫn có “hỉ, nộ, ái, ố”, cũng “tham, sân , si” nên khi đồng hành và làm việc cùng các vị chúng ta luôn tận tụy, giúp đỡ và cầu nguyện cho các vị vì “nước Cha trị đến”. Nhưng nhiều khi chính chúng ta đã tha hóa, làm hư các linh mục từ cách ăn, nết ở, cách nịnh bợ, tâng bốc, và lợi dụng để cầu lợi, và để làm hoen ố đời sống linh mục. Chúng ta có nhiều hội “Bảo Trợ Ơn Thiên Triệu”, nhưng chưa có hội “Bảo Vệ Ơn Thiên Triệu”. Đã bao năm rồi khuôn mặt Hội Thánh vẫn còn nhiều vết nhăn, và trở nên khó coi trước mặt thế gian vì sự thiếu đạo đức của nhiều linh mục, cũng như lối sống đạo thiếu trưởng thành của phần lớn tín hữu giáo dân.
Vậy theo ý bạn, đâu là điều cần phải sửa trước hết để Hội Thánh trở nên đáng tin hơn? Có phải cải sửa trước tiên là đội ngũ linh mục với sống đơn giản và thánh hiến? Có phải cải đổi trước tiên là sự rườm rà, xa hoa trong nghi thức phụng tự.
Theo Cộng Đồng Vatican 2 ở chương VI, “Đời sống tu trì được coi như chóp đỉnh của đời sống Kitô-giáo, phát huy tất cả tiềm năng của phép Rửa Tội. Việc thiết lập trong Giáo Hội một con đường đặc biệt để nên thánh bằng việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, là dựa trên chính lời nói và gương mẫu của Chúa” (GH 43).
“Người môn đệ Chúa Kitô tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm bằng lời khấn hoặc bằng những ràng buộc thánh khác ... Nhờ đó họ hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ đặc biệt”.
Bạn có khi nào cầu nguyện cho Ðức Thánh Cha, vì ý tưởng cao đẹp của Ngài vì đó là sự cận kề của bao nguy hiểm? Bạn có cảm được gánh nặng trách nhiệm và nỗi âu lo của Ðức Thánh Cha trước những vấn đề của Hội Thánh và của thế giới ngày nay không?
Xuyên suốt cuộc đời Chúa Giêsu qua 4 Thánh Sử viết lại, chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Ðức Giêsu vào Phêrô. Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài và nắm giữ chìa khóa nước trời không phải vì Phêrô cao trọng và đạo đức…bởi vì Phêrô đã có kinh nghiêm về tội lỗi và sự trở lại: “Thầy cầu nguyện cho con, để đức tin của con không bị lạc mất; phần con, sau khi đã chỗi dậy, con hãy củng cố anh em con” (Luca 22,32-34).
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong suốt dòng lịch sử. Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu, mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ, những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian, những ý thức hệ. Ngày hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít, khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin, khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi, “Mình và Máu Thánh” Chúa không còn được coi là quan trọng. Ước gì mỗi vị linh mục, mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến và trung thành với Hội Thánh, cải tổ và canh tân Hội Thánh bằng việc canh tân chính bản thân mình để trung tín với Đấng đã vì chúng ta “đền thay, chết thay”.
(còn tiếp)
Biết Văn
Khi Linh Mục biết làm kinh tài (2)
LTS: Đối với một số độc giả, những tư tưởng sau đây có thể là những tư tưởng “chống Chúa, chống cha”, những tư tưởng rối đạo, hoặc những hành động “vạch áo cho người xem lưng”. Nhưng nếu nhìn vào sinh hoạt đổi mới của Giáo Hội, đặc biệt, dưới những thay đổi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô thì Giáo Hội cũng đã đến lúc cần phải nhìn vào mình, cần lột bỏ cái vỏ đạo đức hình thức, để đi vào dòng chính của con người, của xã hội, nhất là những kẻ nghèo hèn, thấp cổ, bé miệng, những kẻ bệnh tật, thấp kém bị đời kinh chê, loại bỏ…
Để rộng đường tư tưởng, Nazareth cho đăng loạt bài của tác giả Biết Văn. Tuy nhiên, quan điểm của tác giả cũng như các tác giả khác không nhất thiết phản ảnh chủ trương của trang nhà Nazareth.
Câu hỏi một lần nữa được đặt ra là linh mục làm được gì cho giáo dân trong công tác mục vụ và công tác phục vụ? Và trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh của Ngài, linh mục thật sự là chủ chăn hay là người làm kinh tài cho bản thân và cho cộng đoàn dân Chúa?
Ngoài việc linh mục phải “On Call” cho kẻ liệt và người hấp hối như các bác sĩ hay y sĩ trực ở bịnh viện và thi hành các “Bí Tích” bởi thiên chức của mình…linh mục có còn là người dấn thân vào máu cứu chuộc của Chúa Giê-su không? Linh mục có phải là người tôi tớ phục vụ từ bỏ mọi sự thế gian để bước chân theo Đấng Kitô khiêm cung và đầy tình thương không?
Vừa rồi, trong hành trình Emmaus V được tổ chức rầm rộ tại Orange County, bang California. Một cuộc hội ngộ huynh đệ của gần 200 trong số 900 linh mục Việt Nam tại Hoa Kỳ được tổ chức hàng năm. Đây là dịp các Linh mục gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm, khuyến khích và nâng đỡ nhau trong việc phục vụ Giáo Hội. Nhưng 14 cộng đoàn dân chúa lại không được mời đến tham dự để hầu các “Đấng” được nghe dân Chúa than van, kêu oán về cung cách phục vụ và làm việc…mà các “Đấng” đã và đang làm cho cộng đoàn dân Chúa. Có chăng các “Đấng” chỉ mời cộng đoàn dân Chúa đến để hợp thức pháp hóa cho chi phí tiệc mừng tại Nhà Hàng Seafood Palace sau 3 ngày gọi là “vất vả và thành công”.
Vậy các Linh mục đã lắng nghe những gì về cộng đoàn dân Chúa và đúc kết biết được gì từ cộng đoàn dân Chúa?
Dân Chúa biết gì về việc làm của các linh mục ngoài việc phục vụ lo “ăn uống” và “dọn dẹp” cho các “Đấng”?
Không biết Chúa Giê-su linh mục ngày xưa khi đi rao giảng Ngài dùng chân trần, dê, bò hay ngựa ? chứ các linh mục ngày nay biết dùng vật chất với những chiếc SUV, những chiếc convertible bóng lộn, đắt tiền để làm phương tiện gọi là phục vụ cho dân Chúa…
Không biết Chúa Giê-su linh mục ngày xưa khi đi rao giảng mang và xách theo những gì? chứ các linh mục ngày nay đi đâu cũng có chiếc Ipad, những chiếc laptop, những iphone 5, Samsung S4 đắt tiền để gọi là phục vụ trọn ven cho công tác mục vụ…
Không biết Chúa Giê-su linh mục ngày xưa có các cha mẹ đỡ đầu hay anh chị em kết nghĩa hay không để mà vòi vĩnh tiền bạc và mọi thứ? chứ các linh mục ngày nay với cái áo bao bọc này, họ vòi vĩnh đủ điều với các cha đỡ đầu, các mẹ đỡ đầu, các bà góa, cùng anh chị em kết nghĩa…Các “Đấng” khéo léo đến nỗi mà cho dù làm cha xứ hay không, thì kinh tài và của cải thế gian của họ không cần lo tới vì mọi việc chỉ cần “hô phong, hoán vũ” với các người đỡ đầu và kết nghĩa thì đã quá “dư, thừa, mứa!”
Tôi nói như vậy không phải vơ đũa cả nắm tất cả các linh mục. Tôi biết có những linh mục rất nghèo và đơn sơ ở những vùng xa, vùng sâu của Việt Nam; họ coi giáo dân như chính bản thân họ. Họ thương cái nghèo khổ của dân đen làm thuê, làm mướn quanh năm, vất vả khó nhọc với thiên tai, bão lụt mà vẫn luôn tin cậy vào Chúa!
Tôi biết có một linh mục khi đi xin tiền bốc dỡ mộ chung quanh nhà thờ để sửa sang ngôi Thánh Đường đã trăm năm và xây dựng thêm khu sinh hoạt thiếu nhi, gặp một “đại gia” đang nhậu bốc máu bảo:
“Nếu Cha uống 3 ly cối rượu đế này liền thì con quyên ra 30 triệu (VNĐ) cho nhà thờ…”
Gặp cuối tuần phải trả tiền công thợ, thầy và mọi chi phí cho nhà thờ với hầu hết các giáo dân đều nghèo khó, dù không phải là cao thủ về rượu nhưng vị linh mục này vẫn làm cạn cả 3 ly…thương thay linh mục này phải chấp nhận 2 tuần chỉ ăn cháo và uống nước lã và chưa kể sự quở phạt của Giám Mục khi tin tức đến Tòa Giám Mục…
Các Giám Mục, các linh mục, các cha linh hướng, các cha tuyên úy…ngày nay, hầu như tự cho mình xứng đáng và có quyền nhận tiền công của họ khi được mời giúp dẫn giải, hay giảng thuyết cho các buổi tĩnh tâm, hội thảo, họp mặt, hay mừng quan thầy của cộng đoàn dân Chúa từ các ban ngành, hội đoàn, hay đoàn thể. Nhưng các “Đấng” có biết đâu để có một buổi sinh hoạt “tâm linh” trong thời đại kim tiền này, rất nhiều người nghèo khó, thất nghiệp phải vất vả bỏ bao nhiều công sức, tiền của và nhân lực để cho các “Đầng” đến “ăn trên, ngồi tróc” và còn có “phong bì” mang về cho dù họ đến thì muộn và chẳng soạn một bài giảng nào cho ra hồn.
Các linh mục dư biết ngày xưa khi Chúa Giêsu tại thế, Chúa có lẽ coi thường các Luật lệ của Mai Sen vị Tiên Tri vĩ đại của dân tộc Isael về ngày Sabát hay Ngài coi khinh đám “Biệt Phái và Pha-ri-siêu” giả hình khi tám lần Ngài đã lập đi lập lại các từ “Khốn cho các người” trong Matthêu chương 23, đoạn 13-32:
“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các người.
Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: “Ai chỉ Ðền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Ðền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc”. Ðồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Ðền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các người còn nói: “Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề thì bị ràng buộc”. Ðồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Ðền Thờ mà thề, là chỉ Ðền Thờ và Ðấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ. Hỡi người Pharisêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phrisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói: “Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ”. Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. Thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!”
Niềm tin vào “Mình và Máu Thánh Chúa” ngày nay suy giảm tột cùng và Giáo hội Chúa bị đánh phá từ muôn hướng, với thiên chức linh mục, trong bối cảnh thế giới tục hóa, kim tiền và hưởng thụ hôm nay; thì đời sống linh mục tự nó là sự đơn giản hóa, khiêm nhường và dấn thân phục vụ như chính Chúa Ki-Tô vị Linh Mục Đời Đời sẽ là mẫu gương giúp ích rất nhiều cho mọi giáo dân có thêm niềm tin và dấng thân hy sinh vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng ngược lại các Linh mục ngày nay ra rả nói thì rất hay và chỉ biết làm kinh tài “xin tiền” cho giáo phận, vận động xây cất Thánh Đường, hay sống đua tranh với vật chất tiền bạc.
Cha Thánh Gioan Vianney bổn mạng của các Cha Sở đã từng nói:
“Linh mục không phải là linh mục cho mình, mà là cho các bạn” và xứ điệp mà cha Thánh để lại cho các linh mục của mọi các thời đại là:
- Linh mục trước tiên là con người cầu nguyện.
- Trung tâm cuộc đời linh mục là Thánh Thể.
- Tòa giải tội là pháp trường tử đạo.
- Thương người nghèo và kẻ tội lỗi như Chúa Giêsu thương họ.
- Nhiệm vụ mời gọi mọi người nên Thánh.
Thánh Tôma Villanova Giám Mục cũng đã nói:
“Khi tôi chết, nếu như có ai tìm thấy tiền bạc ở trong nhà tôi, xin đừng chôn xác tôi vào đất thánh, xin giáo dân đừng đi đưa xác tôi, nhưng hãy bó chiếu rồi bắt trâu kéo đi vùi ở nơi nào không ai biết tới”.
Khó thay cho các “Đấng” thích được coi trọng ở mọi nơi và “ăn trên, ngồi tróc”, và thích “độc hành, độc đoán” trong mục vụ và phục vụ; và buồn thay cho các “Đấng” khi lao vào việc Chúa lại hòa nhập một cách dễ dàng vào tục hóa của thế gian …
(còn tiếp)
Biết Văn
LTS: Đối với một số độc giả, những tư tưởng sau đây có thể là những tư tưởng “chống Chúa, chống cha”, những tư tưởng rối đạo, hoặc những hành động “vạch áo cho người xem lưng”. Nhưng nếu nhìn vào sinh hoạt đổi mới của Giáo Hội, đặc biệt, dưới những thay đổi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô thì Giáo Hội cũng đã đến lúc cần phải nhìn vào mình, cần lột bỏ cái vỏ đạo đức hình thức, để đi vào dòng chính của con người, của xã hội, nhất là những kẻ nghèo hèn, thấp cổ, bé miệng, những kẻ bệnh tật, thấp kém bị đời kinh chê, loại bỏ…
Để rộng đường tư tưởng, Nazareth cho đăng loạt bài của tác giả Biết Văn. Tuy nhiên, quan điểm của tác giả cũng như các tác giả khác không nhất thiết phản ảnh chủ trương của trang nhà Nazareth.
Câu hỏi một lần nữa được đặt ra là linh mục làm được gì cho giáo dân trong công tác mục vụ và công tác phục vụ? Và trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh của Ngài, linh mục thật sự là chủ chăn hay là người làm kinh tài cho bản thân và cho cộng đoàn dân Chúa?
Ngoài việc linh mục phải “On Call” cho kẻ liệt và người hấp hối như các bác sĩ hay y sĩ trực ở bịnh viện và thi hành các “Bí Tích” bởi thiên chức của mình…linh mục có còn là người dấn thân vào máu cứu chuộc của Chúa Giê-su không? Linh mục có phải là người tôi tớ phục vụ từ bỏ mọi sự thế gian để bước chân theo Đấng Kitô khiêm cung và đầy tình thương không?
Vừa rồi, trong hành trình Emmaus V được tổ chức rầm rộ tại Orange County, bang California. Một cuộc hội ngộ huynh đệ của gần 200 trong số 900 linh mục Việt Nam tại Hoa Kỳ được tổ chức hàng năm. Đây là dịp các Linh mục gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm, khuyến khích và nâng đỡ nhau trong việc phục vụ Giáo Hội. Nhưng 14 cộng đoàn dân chúa lại không được mời đến tham dự để hầu các “Đấng” được nghe dân Chúa than van, kêu oán về cung cách phục vụ và làm việc…mà các “Đấng” đã và đang làm cho cộng đoàn dân Chúa. Có chăng các “Đấng” chỉ mời cộng đoàn dân Chúa đến để hợp thức pháp hóa cho chi phí tiệc mừng tại Nhà Hàng Seafood Palace sau 3 ngày gọi là “vất vả và thành công”.
Vậy các Linh mục đã lắng nghe những gì về cộng đoàn dân Chúa và đúc kết biết được gì từ cộng đoàn dân Chúa?
Dân Chúa biết gì về việc làm của các linh mục ngoài việc phục vụ lo “ăn uống” và “dọn dẹp” cho các “Đấng”?
Không biết Chúa Giê-su linh mục ngày xưa khi đi rao giảng Ngài dùng chân trần, dê, bò hay ngựa ? chứ các linh mục ngày nay biết dùng vật chất với những chiếc SUV, những chiếc convertible bóng lộn, đắt tiền để làm phương tiện gọi là phục vụ cho dân Chúa…
Không biết Chúa Giê-su linh mục ngày xưa khi đi rao giảng mang và xách theo những gì? chứ các linh mục ngày nay đi đâu cũng có chiếc Ipad, những chiếc laptop, những iphone 5, Samsung S4 đắt tiền để gọi là phục vụ trọn ven cho công tác mục vụ…
Không biết Chúa Giê-su linh mục ngày xưa có các cha mẹ đỡ đầu hay anh chị em kết nghĩa hay không để mà vòi vĩnh tiền bạc và mọi thứ? chứ các linh mục ngày nay với cái áo bao bọc này, họ vòi vĩnh đủ điều với các cha đỡ đầu, các mẹ đỡ đầu, các bà góa, cùng anh chị em kết nghĩa…Các “Đấng” khéo léo đến nỗi mà cho dù làm cha xứ hay không, thì kinh tài và của cải thế gian của họ không cần lo tới vì mọi việc chỉ cần “hô phong, hoán vũ” với các người đỡ đầu và kết nghĩa thì đã quá “dư, thừa, mứa!”
Tôi nói như vậy không phải vơ đũa cả nắm tất cả các linh mục. Tôi biết có những linh mục rất nghèo và đơn sơ ở những vùng xa, vùng sâu của Việt Nam; họ coi giáo dân như chính bản thân họ. Họ thương cái nghèo khổ của dân đen làm thuê, làm mướn quanh năm, vất vả khó nhọc với thiên tai, bão lụt mà vẫn luôn tin cậy vào Chúa!
Tôi biết có một linh mục khi đi xin tiền bốc dỡ mộ chung quanh nhà thờ để sửa sang ngôi Thánh Đường đã trăm năm và xây dựng thêm khu sinh hoạt thiếu nhi, gặp một “đại gia” đang nhậu bốc máu bảo:
“Nếu Cha uống 3 ly cối rượu đế này liền thì con quyên ra 30 triệu (VNĐ) cho nhà thờ…”
Gặp cuối tuần phải trả tiền công thợ, thầy và mọi chi phí cho nhà thờ với hầu hết các giáo dân đều nghèo khó, dù không phải là cao thủ về rượu nhưng vị linh mục này vẫn làm cạn cả 3 ly…thương thay linh mục này phải chấp nhận 2 tuần chỉ ăn cháo và uống nước lã và chưa kể sự quở phạt của Giám Mục khi tin tức đến Tòa Giám Mục…
Các Giám Mục, các linh mục, các cha linh hướng, các cha tuyên úy…ngày nay, hầu như tự cho mình xứng đáng và có quyền nhận tiền công của họ khi được mời giúp dẫn giải, hay giảng thuyết cho các buổi tĩnh tâm, hội thảo, họp mặt, hay mừng quan thầy của cộng đoàn dân Chúa từ các ban ngành, hội đoàn, hay đoàn thể. Nhưng các “Đấng” có biết đâu để có một buổi sinh hoạt “tâm linh” trong thời đại kim tiền này, rất nhiều người nghèo khó, thất nghiệp phải vất vả bỏ bao nhiều công sức, tiền của và nhân lực để cho các “Đầng” đến “ăn trên, ngồi tróc” và còn có “phong bì” mang về cho dù họ đến thì muộn và chẳng soạn một bài giảng nào cho ra hồn.
Các linh mục dư biết ngày xưa khi Chúa Giêsu tại thế, Chúa có lẽ coi thường các Luật lệ của Mai Sen vị Tiên Tri vĩ đại của dân tộc Isael về ngày Sabát hay Ngài coi khinh đám “Biệt Phái và Pha-ri-siêu” giả hình khi tám lần Ngài đã lập đi lập lại các từ “Khốn cho các người” trong Matthêu chương 23, đoạn 13-32:
“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các người.
Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: “Ai chỉ Ðền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Ðền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc”. Ðồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Ðền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các người còn nói: “Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề thì bị ràng buộc”. Ðồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Ðền Thờ mà thề, là chỉ Ðền Thờ và Ðấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ. Hỡi người Pharisêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phrisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói: “Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ”. Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. Thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!”
Niềm tin vào “Mình và Máu Thánh Chúa” ngày nay suy giảm tột cùng và Giáo hội Chúa bị đánh phá từ muôn hướng, với thiên chức linh mục, trong bối cảnh thế giới tục hóa, kim tiền và hưởng thụ hôm nay; thì đời sống linh mục tự nó là sự đơn giản hóa, khiêm nhường và dấn thân phục vụ như chính Chúa Ki-Tô vị Linh Mục Đời Đời sẽ là mẫu gương giúp ích rất nhiều cho mọi giáo dân có thêm niềm tin và dấng thân hy sinh vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng ngược lại các Linh mục ngày nay ra rả nói thì rất hay và chỉ biết làm kinh tài “xin tiền” cho giáo phận, vận động xây cất Thánh Đường, hay sống đua tranh với vật chất tiền bạc.
Cha Thánh Gioan Vianney bổn mạng của các Cha Sở đã từng nói:
“Linh mục không phải là linh mục cho mình, mà là cho các bạn” và xứ điệp mà cha Thánh để lại cho các linh mục của mọi các thời đại là:
- Linh mục trước tiên là con người cầu nguyện.
- Trung tâm cuộc đời linh mục là Thánh Thể.
- Tòa giải tội là pháp trường tử đạo.
- Thương người nghèo và kẻ tội lỗi như Chúa Giêsu thương họ.
- Nhiệm vụ mời gọi mọi người nên Thánh.
Thánh Tôma Villanova Giám Mục cũng đã nói:
“Khi tôi chết, nếu như có ai tìm thấy tiền bạc ở trong nhà tôi, xin đừng chôn xác tôi vào đất thánh, xin giáo dân đừng đi đưa xác tôi, nhưng hãy bó chiếu rồi bắt trâu kéo đi vùi ở nơi nào không ai biết tới”.
Khó thay cho các “Đấng” thích được coi trọng ở mọi nơi và “ăn trên, ngồi tróc”, và thích “độc hành, độc đoán” trong mục vụ và phục vụ; và buồn thay cho các “Đấng” khi lao vào việc Chúa lại hòa nhập một cách dễ dàng vào tục hóa của thế gian …
(còn tiếp)
Biết Văn
Khi Linh Mục biết làm kinh tài (1)
LTS: Đối với một số độc giả, những tư tưởng sau đây có thể là những tư tưởng “chống Chúa, chống cha”, những tư tưởng rối đạo, hoặc những hành động “vạch áo cho người xem lưng”. Nhưng nếu nhìn vào sinh hoạt đổi mới của Giáo Hội, đặc biệt, dưới những thay đổi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô thì Giáo Hội cũng đã đến lúc cần phải nhìn vào mình, cần lột bỏ cái vỏ đạo đức hình thức, để đi vào dòng chính của con người, của xã hội, nhất là những kẻ nghèo hèn, thấp cổ, bé miệng, những kẻ bệnh tật, thấp kém bị đời kinh chê, loại bỏ…
Để rộng đường tư tưởng, Nazareth cho đăng loạt bài của tác giả Biết Văn. Tuy nhiên, quan điểm của tác giả cũng như các tác giả khác không nhất thiết phản ảnh chủ trương của trang nhà Nazareth.
Lời trần tình: Đức giáo hoàng Phanxicô mới thi hành thừa tác vụ thánh Phêrô không bao lâu nhưng đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt nơi lòng người. Qua hình ảnh của ngài, chúng ta có thể thấy được những nét đẹp trong chân dung linh mục mà Dân Chúa hằng ước mong.
Một anh bạn lớn tuổi “Đạo cao, đức trọng” của tôi đã từng khuyến cáo tôi đừng nói xấu về các “Đấng” nhiều quá kẻo không được ơn toàn xá trong mùa chay này; nhưng tôi thiết nghĩ việc Giáo Hội không phải việc chung của các Linh Mục mà là việc chung của toàn dân Chúa. Do đó, khi đặt bút viết về “sứ mệnh tông đồ và rao giảng nước trời của các linh mục”, một đề tài rất nhạy cảm của Giáo Hội Công giáo Việt Nam nói riêng và Giáo Hội hoàn vũ nói chung, trong tôi có lẽ bởi vì tôn trọng sự thật và vì “Nước Cha trị đến” nên trong loạt bài viết kế tiếp này, tôi viết ra không nhằm đả phá hay xét đoán bất kỳ vị linh mục nào hay vị tu sĩ nào. Tôi chỉ muốn nêu lên ý kiến nhỏ nhoi của mình vì những điều trái tai, gai mắt mà các vị tu sĩ đã và đang làm gây thương tổn nghiêm trọng đến niềm tin Kitô Giáo và cho tương lai Giáo Hội. Tôi thiết nghĩ có thể một số ý kiến cá nhân tôi sẽ gây bất đồng và chống đối từ phía dư luận nên tôi thành thật xin lỗi; nhưng tôi rất mong các độc giả hãy cho mọi người một cơ hội mở rộng đường dư luận, góp lên tiếng nói, và đóng góp ý kiến cho căn nhà Chung Giáo Hội, hầu biến nó trở nên căn nhà trong sạch và Thánh Thiện.
Biết Văn
Trong bài giảng trong thánh lễ tạ ơn Tân linh mục, L.M Micae-Phaolô Trần Minh Huy đã trình bày về thiên chức và sự cao cả của linh mục như người đưa ta vào với Giáo Hội. Dẫn ta đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. Hòa giải ta với Thiên Chúa khi yếu đuối và sa ngã. Chúc lành và chứng giám lời thề hôn ước của ta, hoặc dẫn dắt ta vào con đường tận hiến, tu trì. Và khi ta chết, cũng chính linh mục là người theo ta đến nơi an nghỉ cuối cùng để ta yên nghỉ chờ ngày sống lại… Tóm lại, linh mục là người lo cho ta về mặt tâm linh và nuôi dưỡng đời sống tâm linh ta bằng những bí tích.
Về mặt tâm lý, xã hội, mội khi ta gặp những nghi nan, hoang mang lo lắng và tăm tối đức tin, hoặc những vấn đề thử thách nan giải trong cuộc sống tình cảm, tình yêu, gia đình, cũng như những lầm lạc yếu đuối và các vấn đề rối rắm phức tạp trong cuộc sống đời thường, chính linh mục ân cần tiếp đón, đồng hành, lắng nghe, cố vấn, soi sáng, hướng dẫn, an ủi, nâng đỡ, tiếp thêm sức mạnh niềm tin, hy vọng và tình yêu mến cho ta vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Với Thiên chức linh mục, nhiều người đã không ngớt lời chúc mừng, tán dương và kính trọng như bậc thánh vậy (Linh mục là Chúa Kitô thứ hai!). Một số người còn gọi là "Đấng", "Ông Cố"...Nhưng trong bối cảnh thế giới tục hóa và hưởng thụ hôm nay, một câu hỏi được đặt ra là giáo dân có còn cần linh mục nữa không? Và linh mục làm được gì cho giáo dân?
Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta gợi nhớ lại những gì đã lãnh nhận từ linh mục, để tạ ơn Chúa và giúp linh mục sống tốt hơn, chu toàn trọn vẹn hơn sứ vụ linh mục của họ.
Trước hết trong đời sống linh mục tự nó là sự đơn giản hóa và khiêm nhường như chính Chúa Ki-Tô Linh Mục Đời Đời, Linh Mục Thượng Phẩm. Dù các linh mục ở giáo phận không có lời khấn khó nghèo, nhưng các ngài được kêu gọi sống đời giản dị. Đáng tiếc là người tín hữu không cảm nhận được điều này khi thấy hàng giáo sĩ đi những loại xe đắt tiền, ăn mặc toàn đồ “hiệu”, chén bát ăn uống nạm bạc, nạm vàng…đi ra vào những nhà hàng sang trọng, và nhà ở của linh mục đầy những thiết bị xa hoa…
Chức linh mục là gì mà sao biến đổi một con người bình thường nên cao trọng nhanh như vậy? Như một phép mầu biến con vịt xấu xí thành con thiên nga kiêu sa lộng lẫy, thiên chức linh mục đã khoác vào con người ngày hôm qua một hào quang rực sáng.
Vậy làm linh mục thì kinh tế ổ định và tốt lắm phải không?
Làm linh mục thì được đi xe sang trọng, “ăn trên, ngồi tróc”, và an nhàn và hưởng thụ ?
Khi nói về Thiên chức Linh Mục, Đức Hồng y Phạm Minh Mần từng viết: “Linh Mục là hình ảnh của một Chúa Giêsu vác thập hình trên đường đi Núi Sọ... đơn độc và lặng lẽ. Chỉ có thể là linh mục khi linh mục biết hy sinh. Chỉ có thể là Linh Mục khi Linh Mục biết quên mình. Chỉ có thể là linh mục khi làm cho Chúa lớn lên còn linh mục thì nhỏ lại… Linh mục đi giữa đám đông nhưng vẫn là kẻ cô độc, nắm được bàn tay nhưng không được cầm giữ, cho đi tất cả khi mình chẳng được nhận lãnh điều gì. Linh mục là có và Linh Mục là không.” Lối sống của Đức giáo hoàng Phanxicô khi là hồng y ở Buenos Aires chắc hẳn là lời mời gọi các linh mục xét lại cách sống của mình: ngài ở trong một căn chung cư nhỏ thay vì ở dinh thự giám mục, sử dụng phương tiện công cộng thay vì đi xe hơi với tài xế riêng.
Có người hỏi tôi làm linh mục có dễ không?
Xin thưa: Để trở thành một linh mục là cả một quãng đường rất dài, không chỉ cần học thức uyên thâm mà cần nhất là sự tôi luyện những phẩm cách đặc biệt mà một linh mục cần phải có. Để đi trên quãng đường ấy, người nam cần có “ơn gọi”. Nếu Thiên Chúa không chọn lựa để ban cho ơn gọi làm linh mục, thì tự nhiên lòng trí sẽ không có thiên hướng về việc làm linh mục. Nếu một người muốn làm linh mục chỉ để mưu cầu chức danh hay sự ngưỡng mộ của giáo dân, không thực lòng dâng hiến đời sống một cách hoàn toàn cho Chúa, hay muốn trốn tránh cuộc đời đau khổ mà đi tu làm linh mục thì tốt nhất đừng theo đuổi. Điều đó làm mất ý nghĩa thiêng liêng của đời linh mục, vừa lừa bịp giáo dân vừa làm xấu đi hình ảnh Chúa Giêsu Linh Mục.
Là linh mục dòng hay linh mục giáo phận (triều) cũng vậy. Không một ai được phép bỏ qua lời khấn “Khiết tịnh, nghèo khó, vâng lời” hết. Dù là linh mục bên nào, cũng có bổn phận riêng và những chông gai riêng trong đời sống tu trì. Chúng ta không thể so sánh linh mục dòng hay linh mục triều “sướng” hơn. Nói chung, nếu đã có ơn gọi dâng mình cho Chúa, thì đừng quan trọng hóa về chức danh. Một tu sĩ dòng hay một linh mục triều, một nữ tu, làm sao có thể nói ai đáng quý hơn ai? Chúa sẽ thưởng công ai to hơn? Trước mặt Thiên Chúa “Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất.” (Luca 9:48)
Là công dân của Nước Trời dù linh mục hay giáo dân, đồng nghĩa với việc chúng ta phải từ bỏ bản ngã, hạ thấp cái tôi. Linh mục hay giáo dân học biết sử dụng cái tôi để phục vụ thay vì tranh đua quyền hành, và mê đắm của cải thế gian. Tuy chúng ta biết rằng “có thực mới vực được đạo” là câu cửa miệng của bất cứ người Việt Nam nào khi muốn nói đến những việc làm thiết thực. Thực là ăn. Đạo là những điều to tát, thiêng liêng, mang ý nghĩa tâm linh muốn làm được những việc lớn - nhưng không vì thế mà các linh mục hay tu sĩ hạ thấp nhân cách của mình đi lo lắng thái quá về kinh tế của họ đạo, của giáo xứ: Giáo xứ không tiền trang trải, không tiền để mua sắm cái ăn cái mặt và cái tế tự trong nhà Chúa.
“Kẹo gương ăn chồng thương!”
“Bánh tét ăn không rét!”
Tiếng rao rả rả pha với chút khôi hài của một linh mục giáo xứ nọ trong dịp bán bánh kẹo Tết gây quỹ cho giáo xứ làm chúng ta thấy một sự tương phản giữa một Giêsu giận dữ đánh đuổi những người rao bán ra rả trong đền Thánh Giêrusalem xưa và linh mục rao bán đồ ăn trong khuôn viên nhà Chúa.
Thánh đường, có những lúc đông vui, tấp nập, nhưng cũng có những lúc thật mênh mông, trống vắng, hiu quạnh, lạnh lẽo. Khi ở giữa cộng đoàn, linh mục cùng với mọi người hát ca chúc tụng Thiên Chúa. Còn khi một mình, linh mục với Chúa, âm thầm, lặng lẽ chìm ngập trong tình yêu thương âu yếm ngọt ngào, trò chuyện với Đấng đã kêu gọi, đã chọn, và đã sai mình đến với anh chị em. Tất cả thế giới chung quanh, tất cả đất trời và muôn vật đang hội tụ về đây, trong khối óc, trong trái tim để biến thành lời thì thầm sâu lắng của linh mục dâng lên Chúa. Trong nơi ở này, linh mục luôn ý thức mình hiện diện trước Thiên Nhan Chúa và sẽ thấy mình thật là trần trụi: không là gì cả, tất cả là Chúa. Không có gì cả, tất cả có Chúa …
Vậy thì linh mục cần chi có chỗ để trưng bầy, trang trí những vật dụng đắt gía. Không chỗ để chôn giấu vàng bạc, của cải thì cần chi lo lắng tiền bạc thái quá! Không có nơi để cất giữ máy móc, xe cộ hiện đại, tân kỳ. Không có chỗ để ẩn thân trong chăn ấm gối êm thì lo lắng làm gì của cải thế gian… hãy giao hết cho cộng đoàn dân Chúa lo... Tất cả cuộc đời linh mục thuộc về Chúa thì hãy để Thánh Thần giao kết .
Chỗ ở của linh mục không phải chỉ là thánh đường trong giờ mở cửa, buổi sáng một chút và buổi chiều một chút, còn thì khóa chặt cửa lại, linh mục trở về với phòng riêng của mình để thao túng, hoặc để chạy dịch vụ đó đây, làm ăn kinh tài. Chỗ ở của linh mục phải là ngôi thánh đường luôn mở toang, nơi hội tụ tất cả mọi người, lớn bé, gìa trẻ, nam phụ lão ấu, đẹp xấu, giầu nghèo cùng với biết bao nhiêu “vui mừng và hy vọng”, ưu sầu và lo lắng của con người. Linh mục ở đó tay bắt mặt mừng, tiếp đón nồng hậu với từng con người, từng nỗi đời và trao ban bình an, hạnh phúc của Thiên Chúa cho từng người một.
(còn tiếp)
Biết Văn
LTS: Đối với một số độc giả, những tư tưởng sau đây có thể là những tư tưởng “chống Chúa, chống cha”, những tư tưởng rối đạo, hoặc những hành động “vạch áo cho người xem lưng”. Nhưng nếu nhìn vào sinh hoạt đổi mới của Giáo Hội, đặc biệt, dưới những thay đổi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô thì Giáo Hội cũng đã đến lúc cần phải nhìn vào mình, cần lột bỏ cái vỏ đạo đức hình thức, để đi vào dòng chính của con người, của xã hội, nhất là những kẻ nghèo hèn, thấp cổ, bé miệng, những kẻ bệnh tật, thấp kém bị đời kinh chê, loại bỏ…
Để rộng đường tư tưởng, Nazareth cho đăng loạt bài của tác giả Biết Văn. Tuy nhiên, quan điểm của tác giả cũng như các tác giả khác không nhất thiết phản ảnh chủ trương của trang nhà Nazareth.
Lời trần tình: Đức giáo hoàng Phanxicô mới thi hành thừa tác vụ thánh Phêrô không bao lâu nhưng đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt nơi lòng người. Qua hình ảnh của ngài, chúng ta có thể thấy được những nét đẹp trong chân dung linh mục mà Dân Chúa hằng ước mong.
Một anh bạn lớn tuổi “Đạo cao, đức trọng” của tôi đã từng khuyến cáo tôi đừng nói xấu về các “Đấng” nhiều quá kẻo không được ơn toàn xá trong mùa chay này; nhưng tôi thiết nghĩ việc Giáo Hội không phải việc chung của các Linh Mục mà là việc chung của toàn dân Chúa. Do đó, khi đặt bút viết về “sứ mệnh tông đồ và rao giảng nước trời của các linh mục”, một đề tài rất nhạy cảm của Giáo Hội Công giáo Việt Nam nói riêng và Giáo Hội hoàn vũ nói chung, trong tôi có lẽ bởi vì tôn trọng sự thật và vì “Nước Cha trị đến” nên trong loạt bài viết kế tiếp này, tôi viết ra không nhằm đả phá hay xét đoán bất kỳ vị linh mục nào hay vị tu sĩ nào. Tôi chỉ muốn nêu lên ý kiến nhỏ nhoi của mình vì những điều trái tai, gai mắt mà các vị tu sĩ đã và đang làm gây thương tổn nghiêm trọng đến niềm tin Kitô Giáo và cho tương lai Giáo Hội. Tôi thiết nghĩ có thể một số ý kiến cá nhân tôi sẽ gây bất đồng và chống đối từ phía dư luận nên tôi thành thật xin lỗi; nhưng tôi rất mong các độc giả hãy cho mọi người một cơ hội mở rộng đường dư luận, góp lên tiếng nói, và đóng góp ý kiến cho căn nhà Chung Giáo Hội, hầu biến nó trở nên căn nhà trong sạch và Thánh Thiện.
Biết Văn
Trong bài giảng trong thánh lễ tạ ơn Tân linh mục, L.M Micae-Phaolô Trần Minh Huy đã trình bày về thiên chức và sự cao cả của linh mục như người đưa ta vào với Giáo Hội. Dẫn ta đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. Hòa giải ta với Thiên Chúa khi yếu đuối và sa ngã. Chúc lành và chứng giám lời thề hôn ước của ta, hoặc dẫn dắt ta vào con đường tận hiến, tu trì. Và khi ta chết, cũng chính linh mục là người theo ta đến nơi an nghỉ cuối cùng để ta yên nghỉ chờ ngày sống lại… Tóm lại, linh mục là người lo cho ta về mặt tâm linh và nuôi dưỡng đời sống tâm linh ta bằng những bí tích.
Về mặt tâm lý, xã hội, mội khi ta gặp những nghi nan, hoang mang lo lắng và tăm tối đức tin, hoặc những vấn đề thử thách nan giải trong cuộc sống tình cảm, tình yêu, gia đình, cũng như những lầm lạc yếu đuối và các vấn đề rối rắm phức tạp trong cuộc sống đời thường, chính linh mục ân cần tiếp đón, đồng hành, lắng nghe, cố vấn, soi sáng, hướng dẫn, an ủi, nâng đỡ, tiếp thêm sức mạnh niềm tin, hy vọng và tình yêu mến cho ta vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Với Thiên chức linh mục, nhiều người đã không ngớt lời chúc mừng, tán dương và kính trọng như bậc thánh vậy (Linh mục là Chúa Kitô thứ hai!). Một số người còn gọi là "Đấng", "Ông Cố"...Nhưng trong bối cảnh thế giới tục hóa và hưởng thụ hôm nay, một câu hỏi được đặt ra là giáo dân có còn cần linh mục nữa không? Và linh mục làm được gì cho giáo dân?
Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta gợi nhớ lại những gì đã lãnh nhận từ linh mục, để tạ ơn Chúa và giúp linh mục sống tốt hơn, chu toàn trọn vẹn hơn sứ vụ linh mục của họ.
Trước hết trong đời sống linh mục tự nó là sự đơn giản hóa và khiêm nhường như chính Chúa Ki-Tô Linh Mục Đời Đời, Linh Mục Thượng Phẩm. Dù các linh mục ở giáo phận không có lời khấn khó nghèo, nhưng các ngài được kêu gọi sống đời giản dị. Đáng tiếc là người tín hữu không cảm nhận được điều này khi thấy hàng giáo sĩ đi những loại xe đắt tiền, ăn mặc toàn đồ “hiệu”, chén bát ăn uống nạm bạc, nạm vàng…đi ra vào những nhà hàng sang trọng, và nhà ở của linh mục đầy những thiết bị xa hoa…
Chức linh mục là gì mà sao biến đổi một con người bình thường nên cao trọng nhanh như vậy? Như một phép mầu biến con vịt xấu xí thành con thiên nga kiêu sa lộng lẫy, thiên chức linh mục đã khoác vào con người ngày hôm qua một hào quang rực sáng.
Vậy làm linh mục thì kinh tế ổ định và tốt lắm phải không?
Làm linh mục thì được đi xe sang trọng, “ăn trên, ngồi tróc”, và an nhàn và hưởng thụ ?
Khi nói về Thiên chức Linh Mục, Đức Hồng y Phạm Minh Mần từng viết: “Linh Mục là hình ảnh của một Chúa Giêsu vác thập hình trên đường đi Núi Sọ... đơn độc và lặng lẽ. Chỉ có thể là linh mục khi linh mục biết hy sinh. Chỉ có thể là Linh Mục khi Linh Mục biết quên mình. Chỉ có thể là linh mục khi làm cho Chúa lớn lên còn linh mục thì nhỏ lại… Linh mục đi giữa đám đông nhưng vẫn là kẻ cô độc, nắm được bàn tay nhưng không được cầm giữ, cho đi tất cả khi mình chẳng được nhận lãnh điều gì. Linh mục là có và Linh Mục là không.” Lối sống của Đức giáo hoàng Phanxicô khi là hồng y ở Buenos Aires chắc hẳn là lời mời gọi các linh mục xét lại cách sống của mình: ngài ở trong một căn chung cư nhỏ thay vì ở dinh thự giám mục, sử dụng phương tiện công cộng thay vì đi xe hơi với tài xế riêng.
Có người hỏi tôi làm linh mục có dễ không?
Xin thưa: Để trở thành một linh mục là cả một quãng đường rất dài, không chỉ cần học thức uyên thâm mà cần nhất là sự tôi luyện những phẩm cách đặc biệt mà một linh mục cần phải có. Để đi trên quãng đường ấy, người nam cần có “ơn gọi”. Nếu Thiên Chúa không chọn lựa để ban cho ơn gọi làm linh mục, thì tự nhiên lòng trí sẽ không có thiên hướng về việc làm linh mục. Nếu một người muốn làm linh mục chỉ để mưu cầu chức danh hay sự ngưỡng mộ của giáo dân, không thực lòng dâng hiến đời sống một cách hoàn toàn cho Chúa, hay muốn trốn tránh cuộc đời đau khổ mà đi tu làm linh mục thì tốt nhất đừng theo đuổi. Điều đó làm mất ý nghĩa thiêng liêng của đời linh mục, vừa lừa bịp giáo dân vừa làm xấu đi hình ảnh Chúa Giêsu Linh Mục.
Là linh mục dòng hay linh mục giáo phận (triều) cũng vậy. Không một ai được phép bỏ qua lời khấn “Khiết tịnh, nghèo khó, vâng lời” hết. Dù là linh mục bên nào, cũng có bổn phận riêng và những chông gai riêng trong đời sống tu trì. Chúng ta không thể so sánh linh mục dòng hay linh mục triều “sướng” hơn. Nói chung, nếu đã có ơn gọi dâng mình cho Chúa, thì đừng quan trọng hóa về chức danh. Một tu sĩ dòng hay một linh mục triều, một nữ tu, làm sao có thể nói ai đáng quý hơn ai? Chúa sẽ thưởng công ai to hơn? Trước mặt Thiên Chúa “Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất.” (Luca 9:48)
Là công dân của Nước Trời dù linh mục hay giáo dân, đồng nghĩa với việc chúng ta phải từ bỏ bản ngã, hạ thấp cái tôi. Linh mục hay giáo dân học biết sử dụng cái tôi để phục vụ thay vì tranh đua quyền hành, và mê đắm của cải thế gian. Tuy chúng ta biết rằng “có thực mới vực được đạo” là câu cửa miệng của bất cứ người Việt Nam nào khi muốn nói đến những việc làm thiết thực. Thực là ăn. Đạo là những điều to tát, thiêng liêng, mang ý nghĩa tâm linh muốn làm được những việc lớn - nhưng không vì thế mà các linh mục hay tu sĩ hạ thấp nhân cách của mình đi lo lắng thái quá về kinh tế của họ đạo, của giáo xứ: Giáo xứ không tiền trang trải, không tiền để mua sắm cái ăn cái mặt và cái tế tự trong nhà Chúa.
“Kẹo gương ăn chồng thương!”
“Bánh tét ăn không rét!”
Tiếng rao rả rả pha với chút khôi hài của một linh mục giáo xứ nọ trong dịp bán bánh kẹo Tết gây quỹ cho giáo xứ làm chúng ta thấy một sự tương phản giữa một Giêsu giận dữ đánh đuổi những người rao bán ra rả trong đền Thánh Giêrusalem xưa và linh mục rao bán đồ ăn trong khuôn viên nhà Chúa.
Thánh đường, có những lúc đông vui, tấp nập, nhưng cũng có những lúc thật mênh mông, trống vắng, hiu quạnh, lạnh lẽo. Khi ở giữa cộng đoàn, linh mục cùng với mọi người hát ca chúc tụng Thiên Chúa. Còn khi một mình, linh mục với Chúa, âm thầm, lặng lẽ chìm ngập trong tình yêu thương âu yếm ngọt ngào, trò chuyện với Đấng đã kêu gọi, đã chọn, và đã sai mình đến với anh chị em. Tất cả thế giới chung quanh, tất cả đất trời và muôn vật đang hội tụ về đây, trong khối óc, trong trái tim để biến thành lời thì thầm sâu lắng của linh mục dâng lên Chúa. Trong nơi ở này, linh mục luôn ý thức mình hiện diện trước Thiên Nhan Chúa và sẽ thấy mình thật là trần trụi: không là gì cả, tất cả là Chúa. Không có gì cả, tất cả có Chúa …
Vậy thì linh mục cần chi có chỗ để trưng bầy, trang trí những vật dụng đắt gía. Không chỗ để chôn giấu vàng bạc, của cải thì cần chi lo lắng tiền bạc thái quá! Không có nơi để cất giữ máy móc, xe cộ hiện đại, tân kỳ. Không có chỗ để ẩn thân trong chăn ấm gối êm thì lo lắng làm gì của cải thế gian… hãy giao hết cho cộng đoàn dân Chúa lo... Tất cả cuộc đời linh mục thuộc về Chúa thì hãy để Thánh Thần giao kết .
Chỗ ở của linh mục không phải chỉ là thánh đường trong giờ mở cửa, buổi sáng một chút và buổi chiều một chút, còn thì khóa chặt cửa lại, linh mục trở về với phòng riêng của mình để thao túng, hoặc để chạy dịch vụ đó đây, làm ăn kinh tài. Chỗ ở của linh mục phải là ngôi thánh đường luôn mở toang, nơi hội tụ tất cả mọi người, lớn bé, gìa trẻ, nam phụ lão ấu, đẹp xấu, giầu nghèo cùng với biết bao nhiêu “vui mừng và hy vọng”, ưu sầu và lo lắng của con người. Linh mục ở đó tay bắt mặt mừng, tiếp đón nồng hậu với từng con người, từng nỗi đời và trao ban bình an, hạnh phúc của Thiên Chúa cho từng người một.
(còn tiếp)
Biết Văn
LÒNG HEO THỐI HAY LƯƠNG TÂM NGƯỜI … THỐI ?
Gần đây báo chí đăng tải dồn dập những tin tức về vi phạm an toàn thực phẩm thật khủng khiếp, nếu chỉ “nghe nói” có lẽ nhiều người sẽ không tin. Chắc hẳn ít nơi nào lòng tham lam và ích kỷ của con người lên tới mức đó.
Nào là thịt thối, lòng heo thối liên tiếp bị phát hiện ; nào là nhà hàng đãi khách tiệc cưới với thịt thối, khiến thực khách bỏ ra về ; nào là thịt thối vừa được cơ quan chức năng phát hiện và đem chôn thì ngay sau đó, chính lái xe bị bắt quả tang chở thịt thối đã quay lại “giải cứu” (chữ của báo chí) và đưa về nơi tiêu thụ ở Bình Dương (có địa chỉ hẳn hòi với tên của chủ cơ sở chế biến…) ; rồi khi khám xét cơ sở đã nhận 2,2 tấn thịt thối được “giải cứu” này, công an phát hiện những 7,4 tấn thịt thối ! Nhà báo Tuổi Trẻ (số ra ngày 16.4.2012), sau nhiều đêm theo dõi, còn biết rõ “đường đi” của một “đợt” lòng heo thối từ các tỉnh miền Bắc vào Nam vào tháng 3, tập kết ở khu vực cầu vượt Sóng Thần, sau đó được chở bằng xe máy đến cở sở chế biến để phù phép thành những món “tươi ngon” cho các quán nhậu trong thành phố. Một người nhận hàng có tiếng là T. ,biệt danh là “T. dồi trường”, có nhà hàng ở đường Nguyễn Quý Yên, Quận Tân Bình.
Đọc những tin tức như thế ai mà khỏi ghê tởm, rùng mình và ngao ngán! Chúng ta tự hỏi những con người tham gia tích cực vào chuyện này, từ người cung cấp thịt thối, đến những cơ sở tàng trử và chế biến, họ có khi nào bắc tay lên trán mà nhận ra hành động quá ư sai trái của mình không ? có bao giờ nghĩ tới tai hoạ đe doạ sức khoẻ và mạng sống mà lòng tham mù quáng của họ gây ra cho người tiêu dùng không? Báo chí cho biết: thịt ôi thiu, phải ngâm trong hoá chất khoảng 1 giờ, còn thịt thối phải ngâm đến 5 tiếng! Hoá chất sẽ tẩy hết mùi hôi và dơ bẩn, làm cho thịt nên tươi rói.
Đây lại thêm một dấu hiệu –không, một bằng chứng- cho sự xuống cấp đạo đức trầm trọng trong xã hội Việt Nam hiện nay. Cái xấu thì ở đâu và thời nào cũng có. Nhưng thông thường nó được cầm giữ lại hay hạn chế bớt bởi một nền giáo dục tốt, luật pháp nghiêm minh và bầu khí luân lý lành mạnh chung. Còn ở ta, cái xấu hầu như tự do tung hoành vì những “bờ đê” chắn sóng vô hình đó quá yếu kém! Giáo dục: sau bao lần cải cách, vẫn còn quá nhiều tiêu cực, vẫn thường bị chi phối bởi đồng tiền, lợi nhuận ; chủ trương “ba không” của ông cựu Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân hồi nào, đã chỉ có tác dụng tích cực một thời gian ngắn như ngọn lửa rơm bùng lên rồi xẹp xuống ngay,vì cơ cấu và con người không hề thay đổi. Sau bao thời nhấn mạnh thiên lệch vào giáo dục chính trị, nay đã chú ý vào giáo dục đạo đức, nhưng trong thực tế giáo dục này nơi nhà trường vẫn bị coi nhẹ, và phải nhìn nhận nó khó hơn hẳn so với giáo dục chính trị.
Luật pháp: sự hiểu biết luật pháp và tuân thủ luật pháp không thấy tiến triển rõ rệt ; tham nhũng đe doạ nặng nề tính công minh của luật pháp, “đồng bạc đâm toạc tờ giấy”, kẻ làm điều xấu, khi bị phát hiện, thường “yên tâm” : “việc gì cũng có cách xoay xở, miễn là có tiền!” Ở nước ta, lại còn thêm cơ cấu không phân biệt giữa lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính quyền) và tư pháp (Toà án, Thẩm phán) càng khó tạo ra lòng tin tưởng vào luật pháp nơi người dân … Dân không rành luật pháp đã đành mà nguy hiểm hơn, nhiều cán bộ cấp huyện, xã cũng mù mờ, đưa tới những quyết định sai luật, có hại cho nhân dân; vụ cưỡng chế đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng, chỉ là chuyện nhỏ! Về chuyện thịt thối, có đến ba bộ quản lý, cho nên không ai chịu trách nhiệm rõ ràng, mà xử phạt thì nhẹ hều, nên những kẻ vô lương tâm cứ chịu phạt để tiếp tục làm điều xấu “hốt tiền”! Người ta chỉ sợ luật pháp, không sợ lương tâm. Mà nếu không còn lương tâm thì luật pháp không bao giờ đầy đủ và mạnh mẽ để chi phối hành vi của con người, họ luôn có cách luồn lách hay đối phó.
Bầu khí đạo đức chung trong xã hội: xuống dốc rõ rệt.Ta hay nói tới ô nhiễm môi trường sinh thái, điều này dễ thấy, ít ai nhắc tới ô nhiễm môi trường tinh thần cũng đang trở nên rất trầm trọng. Thành phố xanh sạch đẹp hơn. Nhà cửa, đường phố, công viên, các tiện nghi công cộng hiện đại hơn … Nhưng con người có “tốt” hơn không, nghĩa là được tăng thêm “tính người” và “tình người” không? Nhìn đám đông chen lấn tranh dành mua vé xe, vé tàu hay vé vào dự một đại nhạc hội (như buổi biểu diễn của nhóm nhạc sĩ Hàn Quốc mới đây), hoặc nhìn đoàn người ta đi xe máy tranh nhau từng chút khoảng hở nhỏ trên đường thành phố mỗi buổi sáng đi làm hay mỗi buổi chiều tan sở … thì thấy rõ tính ích kỷ của đám đông, chỉ nghĩ tới chút lợi cho mình, không màng tới kẻ khác hay chí ít là có chút tôn trọng luật lệ đi đường. Chúng ta đang văn minh hiện đại lên, nhưng đó là về vật chất, còn về tinh thần thì rõ ràng vật chất càng tăng tinh thần càng sa sút. Vụ thịt thối, lòng thối chẳng phải là một bằng chứng hiển nhiên nữa về sự tụt dốc đó sao?
Bởi thế tôi mới nghĩ: có thịt thối đem ra thị trường bán vô tư vì có những lương tâm đã bị thối!
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
Gần đây báo chí đăng tải dồn dập những tin tức về vi phạm an toàn thực phẩm thật khủng khiếp, nếu chỉ “nghe nói” có lẽ nhiều người sẽ không tin. Chắc hẳn ít nơi nào lòng tham lam và ích kỷ của con người lên tới mức đó.
Nào là thịt thối, lòng heo thối liên tiếp bị phát hiện ; nào là nhà hàng đãi khách tiệc cưới với thịt thối, khiến thực khách bỏ ra về ; nào là thịt thối vừa được cơ quan chức năng phát hiện và đem chôn thì ngay sau đó, chính lái xe bị bắt quả tang chở thịt thối đã quay lại “giải cứu” (chữ của báo chí) và đưa về nơi tiêu thụ ở Bình Dương (có địa chỉ hẳn hòi với tên của chủ cơ sở chế biến…) ; rồi khi khám xét cơ sở đã nhận 2,2 tấn thịt thối được “giải cứu” này, công an phát hiện những 7,4 tấn thịt thối ! Nhà báo Tuổi Trẻ (số ra ngày 16.4.2012), sau nhiều đêm theo dõi, còn biết rõ “đường đi” của một “đợt” lòng heo thối từ các tỉnh miền Bắc vào Nam vào tháng 3, tập kết ở khu vực cầu vượt Sóng Thần, sau đó được chở bằng xe máy đến cở sở chế biến để phù phép thành những món “tươi ngon” cho các quán nhậu trong thành phố. Một người nhận hàng có tiếng là T. ,biệt danh là “T. dồi trường”, có nhà hàng ở đường Nguyễn Quý Yên, Quận Tân Bình.
Đọc những tin tức như thế ai mà khỏi ghê tởm, rùng mình và ngao ngán! Chúng ta tự hỏi những con người tham gia tích cực vào chuyện này, từ người cung cấp thịt thối, đến những cơ sở tàng trử và chế biến, họ có khi nào bắc tay lên trán mà nhận ra hành động quá ư sai trái của mình không ? có bao giờ nghĩ tới tai hoạ đe doạ sức khoẻ và mạng sống mà lòng tham mù quáng của họ gây ra cho người tiêu dùng không? Báo chí cho biết: thịt ôi thiu, phải ngâm trong hoá chất khoảng 1 giờ, còn thịt thối phải ngâm đến 5 tiếng! Hoá chất sẽ tẩy hết mùi hôi và dơ bẩn, làm cho thịt nên tươi rói.
Đây lại thêm một dấu hiệu –không, một bằng chứng- cho sự xuống cấp đạo đức trầm trọng trong xã hội Việt Nam hiện nay. Cái xấu thì ở đâu và thời nào cũng có. Nhưng thông thường nó được cầm giữ lại hay hạn chế bớt bởi một nền giáo dục tốt, luật pháp nghiêm minh và bầu khí luân lý lành mạnh chung. Còn ở ta, cái xấu hầu như tự do tung hoành vì những “bờ đê” chắn sóng vô hình đó quá yếu kém! Giáo dục: sau bao lần cải cách, vẫn còn quá nhiều tiêu cực, vẫn thường bị chi phối bởi đồng tiền, lợi nhuận ; chủ trương “ba không” của ông cựu Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân hồi nào, đã chỉ có tác dụng tích cực một thời gian ngắn như ngọn lửa rơm bùng lên rồi xẹp xuống ngay,vì cơ cấu và con người không hề thay đổi. Sau bao thời nhấn mạnh thiên lệch vào giáo dục chính trị, nay đã chú ý vào giáo dục đạo đức, nhưng trong thực tế giáo dục này nơi nhà trường vẫn bị coi nhẹ, và phải nhìn nhận nó khó hơn hẳn so với giáo dục chính trị.
Luật pháp: sự hiểu biết luật pháp và tuân thủ luật pháp không thấy tiến triển rõ rệt ; tham nhũng đe doạ nặng nề tính công minh của luật pháp, “đồng bạc đâm toạc tờ giấy”, kẻ làm điều xấu, khi bị phát hiện, thường “yên tâm” : “việc gì cũng có cách xoay xở, miễn là có tiền!” Ở nước ta, lại còn thêm cơ cấu không phân biệt giữa lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính quyền) và tư pháp (Toà án, Thẩm phán) càng khó tạo ra lòng tin tưởng vào luật pháp nơi người dân … Dân không rành luật pháp đã đành mà nguy hiểm hơn, nhiều cán bộ cấp huyện, xã cũng mù mờ, đưa tới những quyết định sai luật, có hại cho nhân dân; vụ cưỡng chế đất ở Tiên Lãng, Hải Phòng, chỉ là chuyện nhỏ! Về chuyện thịt thối, có đến ba bộ quản lý, cho nên không ai chịu trách nhiệm rõ ràng, mà xử phạt thì nhẹ hều, nên những kẻ vô lương tâm cứ chịu phạt để tiếp tục làm điều xấu “hốt tiền”! Người ta chỉ sợ luật pháp, không sợ lương tâm. Mà nếu không còn lương tâm thì luật pháp không bao giờ đầy đủ và mạnh mẽ để chi phối hành vi của con người, họ luôn có cách luồn lách hay đối phó.
Bầu khí đạo đức chung trong xã hội: xuống dốc rõ rệt.Ta hay nói tới ô nhiễm môi trường sinh thái, điều này dễ thấy, ít ai nhắc tới ô nhiễm môi trường tinh thần cũng đang trở nên rất trầm trọng. Thành phố xanh sạch đẹp hơn. Nhà cửa, đường phố, công viên, các tiện nghi công cộng hiện đại hơn … Nhưng con người có “tốt” hơn không, nghĩa là được tăng thêm “tính người” và “tình người” không? Nhìn đám đông chen lấn tranh dành mua vé xe, vé tàu hay vé vào dự một đại nhạc hội (như buổi biểu diễn của nhóm nhạc sĩ Hàn Quốc mới đây), hoặc nhìn đoàn người ta đi xe máy tranh nhau từng chút khoảng hở nhỏ trên đường thành phố mỗi buổi sáng đi làm hay mỗi buổi chiều tan sở … thì thấy rõ tính ích kỷ của đám đông, chỉ nghĩ tới chút lợi cho mình, không màng tới kẻ khác hay chí ít là có chút tôn trọng luật lệ đi đường. Chúng ta đang văn minh hiện đại lên, nhưng đó là về vật chất, còn về tinh thần thì rõ ràng vật chất càng tăng tinh thần càng sa sút. Vụ thịt thối, lòng thối chẳng phải là một bằng chứng hiển nhiên nữa về sự tụt dốc đó sao?
Bởi thế tôi mới nghĩ: có thịt thối đem ra thị trường bán vô tư vì có những lương tâm đã bị thối!
Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô
PHẢI CHUẨN BỊ ĐÓN MỪNG NGÀY CHÚA GIÁNG SINH NHƯ THẾ NÀO ?
Mùa Vọng là thời điểm đặc biệt trong chu kỳ phụng vụ của Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta thời gian dân Do Thái xưa kia mong đợi Đấng Messia đến để giải thoát cho họ khỏi mọi xiềng xích nô lệ và thống khổ.
Ngày nay Giáo Hội dùng thời gian 4 tuần này để chuẩn bị tâm hồn của mọi tín hữu để mừng kỷ niêm Chúa Giáng Sinh, một biến cố lịch sử ghi nhớ ngày Đấng Thiên Sai tức “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” ( Jn 1:14)
Các bài đọc 1 và bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần thứ 2 Mùa Vọng hôm nay đều có chung một chủ đề là “ hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mk 1:3)
Đây là những lời kêu gọi trước tiên của Ngôn sứ Isai-a, người đã sống và rao giảng gần 8 thế kỷ trước khi Chúa Giêsu giáng sinh. Thánh Gioan Tẩy Giả,vị ngôn sứ sau cùng của Cựu Ước đã nhắc lại những lời này trong bài Tin Mừng hôm nay để kêu gọi dân chúng thời đó chuẩn bị tâm hồn đón mừng Đấng Thiên Sai (Messia) đến để mang Tin Mừng Cứu Độ cho toàn thể nhân loại.
Cả hai ngôn Sứ Isaia và Gioan Tẩy Giả đều kêu gọi “dọn đường cho Chúa đến bằng cách sửa lối cho ngay thẳng để Người đi”.
Kinh nghiệm tư nhiên cho chúng ta biết là nếu đường đi mà thẳng băng , không lồi lõm ,khúc khuỷu quanh co thì mọi cuộc hành trình sẽ dễ dàng và nhanh chóng,tiết kiệm được thời gian. Ngươc lại , nếu đường xấu với nhiều đoạn ổ gà, gồ ghề lồi lõm thì hành trình trên đó sẽ khó khăn, vất vả và mất nhiều thì giờ để vượt qua.
Kinh nghiệm này giúp ta hiểu ý nghĩa sâu xa về mặt thiêng liêng cần chuẩn bị mỗi khi cử hành kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh .
Thật vậy, “sửa đường cho ngay,lắp đầy những chỗ lồi lõm và bạt xuống mọi đồi núi cao” không chỉ có nghĩa là dọn sạch sẽ nhà cửa , trang hoàng cây thông giáng sinh với đèn mầu rực rõ và trưng bày hang đá trong nhà hay ngoài sân , ngoài vườn mà cần thiết và quan trọng hơn là chuẩn bị tâm hồn cho thích đáng để mừng ngày trọng đại này cho đúng với tinh thần mà các ngôn sứ trên đã nhấn mạnh trong các bài đọc hôm nay.
Con đường cong queo , núi đồi cao, thung lũng sâu mà ngôn sứ Isai-a nói trong bài đọc 1 chính là những trở ngại trong tâm hồn của mỗi người chúng ta cần được san cho bằng , lấp cho đầy và bạt cho phẳng để đón mừng Chúa giáng sinh thêm một lần nữa.Chúa đến để ban bình an cho thế giới và cho “ những người có lòng ngay” như lời hát mừng của các Thiên Thần nơi hang Belem xưa kia.
Nhưng thế nào là người “có lòng ngay” ?
Đời sống của con người ngày nay ở khắp mọi nơi đã cung cấp biết bao dữ kiện và bằng chứng cụ thể về những điều được mô tả là gian ác, điêu sảo, bất lương, tụt hậu thê thảm về luân lý đạo đức và tình người.Đây chính là những hố sâu, núi đồi cao và đường đi khúc khuỷu quanh co trong tâm hồn của nhiều người.
Chủ nghĩa hưởng thụ và tôn thờ vật chất đã xô đẩy biết bao người vào con đường bất chính, gian manh, táng tận lương tâm chỉ vì tiền và danh lợi vật chất.
Đó là bộ mặt của những kẻ đang lường gạt, đang bán rẻ lương tâm để cốt trục lợi bất chấp mọi nguyên tắc đạo đức phổ quát.Đó là những kẻ đang bóc lột người khác nhờ địa vị và ưu thế tiền bạc của mình và đang dửng dưng trước sự nghèo đói đau khổ,của bao anh em đồng loại trong mọi môi trường xã hội ở khắp mọi nơi . Đặc biệt ,đó cũng là bộ mặt của nhửng kẻ đang đầu tư khai thác và những kẻ hưởng thụ kỹ nghệ khiêu dâm ( pornography)vàmãi dâm trẻ em ( child prostitution).Cách riêng, đó làbộ mặt của những kẻ đang lợi dụng sự nghèo đói của Xã hội ViệtNam để khai thác kỹ nghệ buôn bán phụ nữ trong các dịch vụ “hôn nhân ngoại kiều” để cung cấp gái cho đàn ông ngoại quốc dư tiền muốn hưởng thụ, hoặc cho những động mãi dâm ở trong và ngoài nước hiện nay.Thêm vào đó là bộ mặt hận thù của những kẻ đang gieo rắc kinh hoàng khủng bố, đe dọa an ninh ở khắp nơi trên thế giới khiến con người không còn được bình an để vui sống và làm việc.
Trong bầu không khí ô nhiễm này, ai là những người “có lòng ngay” không đang chất chứa những chất độc hại kể trên để đáng hưởng bình an của Chúa Giáng Sinh ?
Nói cách khác , muốn hưởng bình an của Chúa , hay muốn mừng Lễ Chúa Giáng Sinh một cách xứng đáng thì cần thiết phải loại trừ ra khỏi lòng mình mọi chướng ngại vật ngăn cản Chúa đến với bình an của Người .Điều này mới thực cần thiết và quan trọng hơn việc trang hoàng nhà cửa, trưng cây giáng sinh ,tổ chức ăn uống ca vũ ,mua sắm quà và thưởng thức mấy bản thánh ca về dịp trọng đại này .
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Mùa Vọng là thời điểm đặc biệt trong chu kỳ phụng vụ của Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta thời gian dân Do Thái xưa kia mong đợi Đấng Messia đến để giải thoát cho họ khỏi mọi xiềng xích nô lệ và thống khổ.
Ngày nay Giáo Hội dùng thời gian 4 tuần này để chuẩn bị tâm hồn của mọi tín hữu để mừng kỷ niêm Chúa Giáng Sinh, một biến cố lịch sử ghi nhớ ngày Đấng Thiên Sai tức “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” ( Jn 1:14)
Các bài đọc 1 và bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần thứ 2 Mùa Vọng hôm nay đều có chung một chủ đề là “ hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,sửa lối cho thẳng để Người đi” ( Mk 1:3)
Đây là những lời kêu gọi trước tiên của Ngôn sứ Isai-a, người đã sống và rao giảng gần 8 thế kỷ trước khi Chúa Giêsu giáng sinh. Thánh Gioan Tẩy Giả,vị ngôn sứ sau cùng của Cựu Ước đã nhắc lại những lời này trong bài Tin Mừng hôm nay để kêu gọi dân chúng thời đó chuẩn bị tâm hồn đón mừng Đấng Thiên Sai (Messia) đến để mang Tin Mừng Cứu Độ cho toàn thể nhân loại.
Cả hai ngôn Sứ Isaia và Gioan Tẩy Giả đều kêu gọi “dọn đường cho Chúa đến bằng cách sửa lối cho ngay thẳng để Người đi”.
Kinh nghiệm tư nhiên cho chúng ta biết là nếu đường đi mà thẳng băng , không lồi lõm ,khúc khuỷu quanh co thì mọi cuộc hành trình sẽ dễ dàng và nhanh chóng,tiết kiệm được thời gian. Ngươc lại , nếu đường xấu với nhiều đoạn ổ gà, gồ ghề lồi lõm thì hành trình trên đó sẽ khó khăn, vất vả và mất nhiều thì giờ để vượt qua.
Kinh nghiệm này giúp ta hiểu ý nghĩa sâu xa về mặt thiêng liêng cần chuẩn bị mỗi khi cử hành kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh .
Thật vậy, “sửa đường cho ngay,lắp đầy những chỗ lồi lõm và bạt xuống mọi đồi núi cao” không chỉ có nghĩa là dọn sạch sẽ nhà cửa , trang hoàng cây thông giáng sinh với đèn mầu rực rõ và trưng bày hang đá trong nhà hay ngoài sân , ngoài vườn mà cần thiết và quan trọng hơn là chuẩn bị tâm hồn cho thích đáng để mừng ngày trọng đại này cho đúng với tinh thần mà các ngôn sứ trên đã nhấn mạnh trong các bài đọc hôm nay.
Con đường cong queo , núi đồi cao, thung lũng sâu mà ngôn sứ Isai-a nói trong bài đọc 1 chính là những trở ngại trong tâm hồn của mỗi người chúng ta cần được san cho bằng , lấp cho đầy và bạt cho phẳng để đón mừng Chúa giáng sinh thêm một lần nữa.Chúa đến để ban bình an cho thế giới và cho “ những người có lòng ngay” như lời hát mừng của các Thiên Thần nơi hang Belem xưa kia.
Nhưng thế nào là người “có lòng ngay” ?
Đời sống của con người ngày nay ở khắp mọi nơi đã cung cấp biết bao dữ kiện và bằng chứng cụ thể về những điều được mô tả là gian ác, điêu sảo, bất lương, tụt hậu thê thảm về luân lý đạo đức và tình người.Đây chính là những hố sâu, núi đồi cao và đường đi khúc khuỷu quanh co trong tâm hồn của nhiều người.
Chủ nghĩa hưởng thụ và tôn thờ vật chất đã xô đẩy biết bao người vào con đường bất chính, gian manh, táng tận lương tâm chỉ vì tiền và danh lợi vật chất.
Đó là bộ mặt của những kẻ đang lường gạt, đang bán rẻ lương tâm để cốt trục lợi bất chấp mọi nguyên tắc đạo đức phổ quát.Đó là những kẻ đang bóc lột người khác nhờ địa vị và ưu thế tiền bạc của mình và đang dửng dưng trước sự nghèo đói đau khổ,của bao anh em đồng loại trong mọi môi trường xã hội ở khắp mọi nơi . Đặc biệt ,đó cũng là bộ mặt của nhửng kẻ đang đầu tư khai thác và những kẻ hưởng thụ kỹ nghệ khiêu dâm ( pornography)vàmãi dâm trẻ em ( child prostitution).Cách riêng, đó làbộ mặt của những kẻ đang lợi dụng sự nghèo đói của Xã hội ViệtNam để khai thác kỹ nghệ buôn bán phụ nữ trong các dịch vụ “hôn nhân ngoại kiều” để cung cấp gái cho đàn ông ngoại quốc dư tiền muốn hưởng thụ, hoặc cho những động mãi dâm ở trong và ngoài nước hiện nay.Thêm vào đó là bộ mặt hận thù của những kẻ đang gieo rắc kinh hoàng khủng bố, đe dọa an ninh ở khắp nơi trên thế giới khiến con người không còn được bình an để vui sống và làm việc.
Trong bầu không khí ô nhiễm này, ai là những người “có lòng ngay” không đang chất chứa những chất độc hại kể trên để đáng hưởng bình an của Chúa Giáng Sinh ?
Nói cách khác , muốn hưởng bình an của Chúa , hay muốn mừng Lễ Chúa Giáng Sinh một cách xứng đáng thì cần thiết phải loại trừ ra khỏi lòng mình mọi chướng ngại vật ngăn cản Chúa đến với bình an của Người .Điều này mới thực cần thiết và quan trọng hơn việc trang hoàng nhà cửa, trưng cây giáng sinh ,tổ chức ăn uống ca vũ ,mua sắm quà và thưởng thức mấy bản thánh ca về dịp trọng đại này .
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
HÃY THỨC TỈNH
Phải công nhận Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại Vinh Sơn Liêm hiện nay có những Linh Mục đầu óc rất giỏi về kinh doanh, biết làm những chương trình quảng cáo thật rầm rộ trong các ngày Lễ Hội, gây quĩ tại các giáo xứ mà nhà Dòng đang làm mục vụ, vì thế không lạ gì khi chúng ta thấy Cơ Sở và TIỀN BẠC của Dòng ở Canada có trong nhà băng hơn 10.000.000,00 triệu đồng tiền Canada (hơn mười triệu đô la) chưa kể những cơ sở, nhà cửa, ở bên Hoa Kỳ, ở Việt Nam, Thái Lan, vv…? mà chúng ta chưa được biết rõ.
Vì có đầu óc về kinh doanh, cho nên những Giáo Xứ mà nhà Dòng đang coi sóc về Mục Vụ. Họ thường tổ chức cho giáo dân buôn bán mỗi cuối tuần. Một năm tổ chức mấy Lễ Hội, quảng cáo thật rầm rộ, lộng lẫy Ca Sĩ này, Ca Sĩ kia trong website, trong Bản Tin Mục Vụ cả tháng trời, lại còn tốn tiền cho cả truyền thông, báo chí ngoài đời nữa chứ. Chưa kể Giáo Xứ này vừa mới tổ chức xong thì lại đến Giáo Xứ kia tổ chức tiếp. Vì "Con Gà Ghét Nhau Tiếng Gáy" cho nên, dù là những Linh Mục, Tu Sĩ, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh, các Ban Nghành, Đoàn Thể đều là Anh Em một Cha trên trời, nhưng vì "Tiếng Gáy", nên khi tổ chức buôn bán, tổ chức các Lễ Hội, họ phải tìm đủ mọi cách để quảng cáo sao cho thật rầm rộ, thật lộng lẫy hơn Giáo Xứ bên kia để kiếm thật nhiều TIỀN, và lấy TIẾNG hơn thì mới bằng lòng.
Cũng vì quá bận rộn suy nghĩ về kinh doanh để lo kiếm TIỀN, mà sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Dòng cho dân chúng càng ngày càng rỗng tuếch, nhạt nhẽo mà lại quá phức tạp, lại còn nói mánh, nói khóe. Vì thế, những lời mời gọi giới trẻ vào Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại để tìm hiểu ơn gọi đi tu giống như "Tiếng Kêu Trong Xa Mạc".
Xin đính kèm Financial statement 2013-2014 của Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại
http://www.cra-arc.gc.ca/ebci/haip/srch/t3010form23sched6-eng.action?b=893224162RR0001&fpe=2013-12-31&n=VIETNAMESE+DOMINICAN+VICARIATE+OF+ALBERTA+SOCIETY&r=http://www.cra-arc.gc.ca:80/ebci/haip/srch/t3010form23-eng.action?b%3D893224162RR0001%26amp%3bfpe%3D2013-12-31%26amp%3bn%3DVIETNAMESE%2BDOMINICAN%2BVICARIATE%2BOF%2BALBERTA%2BSOCIETY%26amp%3br%3Dhttp%253A%252F%252Fwww.cra-arc.gc.ca%253A80%252Febci%252Fhaip%252Fsrch%252Fbasicsearchresult-eng.action%253Fs%253Dregistered%2525
Ánh Sáng Sự Thật
Phải công nhận Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại Vinh Sơn Liêm hiện nay có những Linh Mục đầu óc rất giỏi về kinh doanh, biết làm những chương trình quảng cáo thật rầm rộ trong các ngày Lễ Hội, gây quĩ tại các giáo xứ mà nhà Dòng đang làm mục vụ, vì thế không lạ gì khi chúng ta thấy Cơ Sở và TIỀN BẠC của Dòng ở Canada có trong nhà băng hơn 10.000.000,00 triệu đồng tiền Canada (hơn mười triệu đô la) chưa kể những cơ sở, nhà cửa, ở bên Hoa Kỳ, ở Việt Nam, Thái Lan, vv…? mà chúng ta chưa được biết rõ.
Vì có đầu óc về kinh doanh, cho nên những Giáo Xứ mà nhà Dòng đang coi sóc về Mục Vụ. Họ thường tổ chức cho giáo dân buôn bán mỗi cuối tuần. Một năm tổ chức mấy Lễ Hội, quảng cáo thật rầm rộ, lộng lẫy Ca Sĩ này, Ca Sĩ kia trong website, trong Bản Tin Mục Vụ cả tháng trời, lại còn tốn tiền cho cả truyền thông, báo chí ngoài đời nữa chứ. Chưa kể Giáo Xứ này vừa mới tổ chức xong thì lại đến Giáo Xứ kia tổ chức tiếp. Vì "Con Gà Ghét Nhau Tiếng Gáy" cho nên, dù là những Linh Mục, Tu Sĩ, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh, các Ban Nghành, Đoàn Thể đều là Anh Em một Cha trên trời, nhưng vì "Tiếng Gáy", nên khi tổ chức buôn bán, tổ chức các Lễ Hội, họ phải tìm đủ mọi cách để quảng cáo sao cho thật rầm rộ, thật lộng lẫy hơn Giáo Xứ bên kia để kiếm thật nhiều TIỀN, và lấy TIẾNG hơn thì mới bằng lòng.
Cũng vì quá bận rộn suy nghĩ về kinh doanh để lo kiếm TIỀN, mà sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Dòng cho dân chúng càng ngày càng rỗng tuếch, nhạt nhẽo mà lại quá phức tạp, lại còn nói mánh, nói khóe. Vì thế, những lời mời gọi giới trẻ vào Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại để tìm hiểu ơn gọi đi tu giống như "Tiếng Kêu Trong Xa Mạc".
Xin đính kèm Financial statement 2013-2014 của Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại
http://www.cra-arc.gc.ca/ebci/haip/srch/t3010form23sched6-eng.action?b=893224162RR0001&fpe=2013-12-31&n=VIETNAMESE+DOMINICAN+VICARIATE+OF+ALBERTA+SOCIETY&r=http://www.cra-arc.gc.ca:80/ebci/haip/srch/t3010form23-eng.action?b%3D893224162RR0001%26amp%3bfpe%3D2013-12-31%26amp%3bn%3DVIETNAMESE%2BDOMINICAN%2BVICARIATE%2BOF%2BALBERTA%2BSOCIETY%26amp%3br%3Dhttp%253A%252F%252Fwww.cra-arc.gc.ca%253A80%252Febci%252Fhaip%252Fsrch%252Fbasicsearchresult-eng.action%253Fs%253Dregistered%2525
Ánh Sáng Sự Thật
Giá trị thiêng liêng của việc dâng cúng tiền của giúp cho các Giáo xứ, nhà Dòng, Tu Viện…
Hỏi :
1- Các nhà Dòng , Tu viện , giáo xứ, mỗi khi muốn xây cất và quyên tiền của giáo dân , thường đặt các hạng dâng cúng như ân nhân thì đóng góp bao nhiêu, được ghi tên trên bảng vàng thì bao nhiêu tiền v.v
Vậy, việc dâng cúng và những hạng danh dự nói trên có giá trị thiêng liêng hay cưú rỗi gì không?
2- Thánh Lễ có giá trị thế nào với những giá tiền xin khác nhau như 10 đô, 50 đô, 100 đô v,v? Nếu dâng cho nhà Dòng , nhà thờ số tiền 1000 hay 5000 đôla thì tương đương với bao nhiêu thánh lễ ?
Trả lời :
1-Việc dâng cúng để giúp các nhà Dòng, Tu Viện, Giáo xứ trong việc xây cất, tu sửa là việc bác ái đáng khen và khuyến khích, vì nếu không có sự giúp đỡ rộng rãi của các ân nhân thì các nhà thờ, nhà dòng, chủng viện, nhà thương, trường học, nhà xứ,v.v khó có thể thực hiện được các chương trình kiến thiết hay chỉnh trang cần thiết cho nhu cầu của cơ sở mình. Tuy nhiên, không thể đánh giá về mặt thiêng liêng mức độ trợ giúp vật chất này.Nói rõ hơn, việc ghi tên ân nhân vào bảng danh dự hay bảng vàng, bảng đồng chỉ là cách tri ân của cơ sở hay người được thụ hưởng mà thôi, chứ không có giá trị gì về mặt thiêng liêng liêng hay cưú rỗi cho ai hết. Sở dĩ thế, vì không có giáo lý hay luật nào của Giáo Hội dạy rằng dâng cúng bao nhiêu tiền vào Nhà thờ, nhà Dòng, Tu Hội , Chủng viện v.v thì sẽ được bao nhiêu ơn huệ thiêng liêng (ân xá chẳng hạn) , hay hứa hẹn sẽ được ơn cưú rỗi sau này. Ai hứa hẹn điều này là mắc tội “buôn thần bán thánh” (simonia) vì muốn dùng tiền của để mua ơn phúc thiêng liêng. Ân sủng của Chúa ban cho con người là nhưng không (gratuitous) , nghĩa là không thể mua, bán được bằng tiền của vật chất. Làm việc bác ái với thành tâm thiện chí thì chắc chắn Chúa sẽ chúc lành, thưởng công cho, như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa kia : “ ..Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em : kẻ ấy sẽ không mất phần thưởng đâu.” ( Mt 10:42).Nhưng cần lưu ý điều quan trọng này: dâng cúng ít mà vì lòng bác ái thực sự thì vẫn đẹp lòng Chúa hơn là cho nhiều để khoe khoang và được tiếng khen là rộng rãi. Đó là trường hợp của những người giầu bỏ tiền vào Đền Thờ xưa kia nhưng Chúa Giêsu chỉ khen một bà goá bỏ có hai xu : “ Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết.” (Lc 21:3).Bà bỏ vì lòng thành, trong khi những người giầu bỏ nhiều tiền hơn nhưng thiếu lòng ngay thẳng này. Tóm lại, dâng cúng tiền của để giúp các cơ sở của Giáo Hội làm việc tông đồ và phục vụ là điều cần thiết và cũng là hành động đức tin thể hiện bằng đức ái. Tuy nhiên , chúng ta cần lưu tâm là việc bác ái này phải được thực hiện vì lòng mến Chúa và yêu Giáo Hội, thông cảm với những khó khăn vật chất chính đáng của mọi bộ phận lớn nhỏ trong toàn cơ cấu hoạt động của Giáo Hội. Chúa thưởng công cho người dâng cúng tiền của vào Nhà thờ, nhà Dòng ..vì lòng thành của người cho chứ không vì mức độ nhiều ít của số tiền dâng cúng. Như vậy, bảng danh dự , bảng đồng , bảng vàng chỉ có giá trị với người đời chứ không có giá trị gì về mặt thiêng liêng hay bảo đảm gì về lợi ích phần rỗi cho người dâng cúng.
2- Không thể so sánh việc dâng cúng tiền bạc cho các giáo xứ, nhà dòng, chủng viện… với việc xin lễ được.Nhưng trước hết, xin nhắc lại về mục đích và giá trị của tiền xin lễ. Như tôi đã đôi lần giải thích, tiền xin lễ hay bổng lễ ( mass stipend) là số tiền tối thiểu mà Giáo quyền địa phương ấn định cho các linh mục được hưởng khi dâng một thánh lễ cầu cho ai, hay cho việc gì. Cụ thể ở Mỹ , đa sốc các Giáo phận đều qui định mức bổng lễ này là 5 đôla cho mỗi ý lễ. Như vậy, linh mục không được phép đòi người xin lễ số tiền cao hơn mức qui định này, và không được gây cho ai ngộ nhận là xin lễ với bổng lễ to thì được ích lợi thiêng liêng nhiều hơn lễ với bổng lễ nhỏ hay không có bổng lễ.Tuy nhiên, nếu giáo dân tự ý đưa số tiền cao hơn mức qui định trên thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì.
Nhưng số tiền xin lễ nhiều hay ít không ảnh hưởng gì đến việc Chúa ban ơn qua thánh lễ. Nghĩa là xin một lễ với bổng lễ 500 đô hay 5 đô la thì chỉ có giá trị vật chất cho linh mục cử hành thánh lễ chứ không có giá trị gì trong việc Chúa ban ơn cho người thụ hưởng vì ơn Chúa là vô giá, nghĩa là không thể mua được bằng tiền của vật chất.
Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai lầm tưởng rằng bỏ nhiều tiền ra xin lễ thì chắc sẽ được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là ít hay không có tiền. (không có bổng lễ, linh mục vẫn làm lễ theo ý người xin).
Tiền dâng cúng cho các cơ quan từ thiện hay cho nhà thờ, nhà dòng là việc bác ái không mong hoàn trả, nên khác với tiền xin lễ. Nói rõ hơn, tiền dâng cúng để giúp cho công cuộc xây cất hay tu bổ của các nhà dòng, nhà thờ… thì được hiểu là tiền cho không để giúp những công việc đó.Dĩ nhiên Chúa sẽ trả công cho những ai có lòng hảo tâm giúp đỡ các công tác từ thiện này. Ngược lại, tiền xin lễ là bổng lễ dâng theo qui định của Giáo quyền để trả công tượng trưng cho thừa tác viên cử hành thánh lễ được hưởng trong tinh thần Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ xưa : “…người ta cho ăn uống thức gì thì anh em hãy dùng thức đó vì làm thợ thì đáng trả công.” (Lc 10:7) . Thánh Phaolô cũng dạy : “ Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao ? Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.”( 1Cr 9:13-14).
Như vậy, không thể so sánh hay coi số tiền dâng cúng vào nhà dòng, chủng viện hay nhà thờ như tiền xin lễ được ví lý do phân tích trên đây.
LM . Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
Hỏi :
1- Các nhà Dòng , Tu viện , giáo xứ, mỗi khi muốn xây cất và quyên tiền của giáo dân , thường đặt các hạng dâng cúng như ân nhân thì đóng góp bao nhiêu, được ghi tên trên bảng vàng thì bao nhiêu tiền v.v
Vậy, việc dâng cúng và những hạng danh dự nói trên có giá trị thiêng liêng hay cưú rỗi gì không?
2- Thánh Lễ có giá trị thế nào với những giá tiền xin khác nhau như 10 đô, 50 đô, 100 đô v,v? Nếu dâng cho nhà Dòng , nhà thờ số tiền 1000 hay 5000 đôla thì tương đương với bao nhiêu thánh lễ ?
Trả lời :
1-Việc dâng cúng để giúp các nhà Dòng, Tu Viện, Giáo xứ trong việc xây cất, tu sửa là việc bác ái đáng khen và khuyến khích, vì nếu không có sự giúp đỡ rộng rãi của các ân nhân thì các nhà thờ, nhà dòng, chủng viện, nhà thương, trường học, nhà xứ,v.v khó có thể thực hiện được các chương trình kiến thiết hay chỉnh trang cần thiết cho nhu cầu của cơ sở mình. Tuy nhiên, không thể đánh giá về mặt thiêng liêng mức độ trợ giúp vật chất này.Nói rõ hơn, việc ghi tên ân nhân vào bảng danh dự hay bảng vàng, bảng đồng chỉ là cách tri ân của cơ sở hay người được thụ hưởng mà thôi, chứ không có giá trị gì về mặt thiêng liêng liêng hay cưú rỗi cho ai hết. Sở dĩ thế, vì không có giáo lý hay luật nào của Giáo Hội dạy rằng dâng cúng bao nhiêu tiền vào Nhà thờ, nhà Dòng, Tu Hội , Chủng viện v.v thì sẽ được bao nhiêu ơn huệ thiêng liêng (ân xá chẳng hạn) , hay hứa hẹn sẽ được ơn cưú rỗi sau này. Ai hứa hẹn điều này là mắc tội “buôn thần bán thánh” (simonia) vì muốn dùng tiền của để mua ơn phúc thiêng liêng. Ân sủng của Chúa ban cho con người là nhưng không (gratuitous) , nghĩa là không thể mua, bán được bằng tiền của vật chất. Làm việc bác ái với thành tâm thiện chí thì chắc chắn Chúa sẽ chúc lành, thưởng công cho, như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa kia : “ ..Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em : kẻ ấy sẽ không mất phần thưởng đâu.” ( Mt 10:42).Nhưng cần lưu ý điều quan trọng này: dâng cúng ít mà vì lòng bác ái thực sự thì vẫn đẹp lòng Chúa hơn là cho nhiều để khoe khoang và được tiếng khen là rộng rãi. Đó là trường hợp của những người giầu bỏ tiền vào Đền Thờ xưa kia nhưng Chúa Giêsu chỉ khen một bà goá bỏ có hai xu : “ Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết.” (Lc 21:3).Bà bỏ vì lòng thành, trong khi những người giầu bỏ nhiều tiền hơn nhưng thiếu lòng ngay thẳng này. Tóm lại, dâng cúng tiền của để giúp các cơ sở của Giáo Hội làm việc tông đồ và phục vụ là điều cần thiết và cũng là hành động đức tin thể hiện bằng đức ái. Tuy nhiên , chúng ta cần lưu tâm là việc bác ái này phải được thực hiện vì lòng mến Chúa và yêu Giáo Hội, thông cảm với những khó khăn vật chất chính đáng của mọi bộ phận lớn nhỏ trong toàn cơ cấu hoạt động của Giáo Hội. Chúa thưởng công cho người dâng cúng tiền của vào Nhà thờ, nhà Dòng ..vì lòng thành của người cho chứ không vì mức độ nhiều ít của số tiền dâng cúng. Như vậy, bảng danh dự , bảng đồng , bảng vàng chỉ có giá trị với người đời chứ không có giá trị gì về mặt thiêng liêng hay bảo đảm gì về lợi ích phần rỗi cho người dâng cúng.
2- Không thể so sánh việc dâng cúng tiền bạc cho các giáo xứ, nhà dòng, chủng viện… với việc xin lễ được.Nhưng trước hết, xin nhắc lại về mục đích và giá trị của tiền xin lễ. Như tôi đã đôi lần giải thích, tiền xin lễ hay bổng lễ ( mass stipend) là số tiền tối thiểu mà Giáo quyền địa phương ấn định cho các linh mục được hưởng khi dâng một thánh lễ cầu cho ai, hay cho việc gì. Cụ thể ở Mỹ , đa sốc các Giáo phận đều qui định mức bổng lễ này là 5 đôla cho mỗi ý lễ. Như vậy, linh mục không được phép đòi người xin lễ số tiền cao hơn mức qui định này, và không được gây cho ai ngộ nhận là xin lễ với bổng lễ to thì được ích lợi thiêng liêng nhiều hơn lễ với bổng lễ nhỏ hay không có bổng lễ.Tuy nhiên, nếu giáo dân tự ý đưa số tiền cao hơn mức qui định trên thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì.
Nhưng số tiền xin lễ nhiều hay ít không ảnh hưởng gì đến việc Chúa ban ơn qua thánh lễ. Nghĩa là xin một lễ với bổng lễ 500 đô hay 5 đô la thì chỉ có giá trị vật chất cho linh mục cử hành thánh lễ chứ không có giá trị gì trong việc Chúa ban ơn cho người thụ hưởng vì ơn Chúa là vô giá, nghĩa là không thể mua được bằng tiền của vật chất.
Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai lầm tưởng rằng bỏ nhiều tiền ra xin lễ thì chắc sẽ được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là ít hay không có tiền. (không có bổng lễ, linh mục vẫn làm lễ theo ý người xin).
Tiền dâng cúng cho các cơ quan từ thiện hay cho nhà thờ, nhà dòng là việc bác ái không mong hoàn trả, nên khác với tiền xin lễ. Nói rõ hơn, tiền dâng cúng để giúp cho công cuộc xây cất hay tu bổ của các nhà dòng, nhà thờ… thì được hiểu là tiền cho không để giúp những công việc đó.Dĩ nhiên Chúa sẽ trả công cho những ai có lòng hảo tâm giúp đỡ các công tác từ thiện này. Ngược lại, tiền xin lễ là bổng lễ dâng theo qui định của Giáo quyền để trả công tượng trưng cho thừa tác viên cử hành thánh lễ được hưởng trong tinh thần Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ xưa : “…người ta cho ăn uống thức gì thì anh em hãy dùng thức đó vì làm thợ thì đáng trả công.” (Lc 10:7) . Thánh Phaolô cũng dạy : “ Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao ? Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.”( 1Cr 9:13-14).
Như vậy, không thể so sánh hay coi số tiền dâng cúng vào nhà dòng, chủng viện hay nhà thờ như tiền xin lễ được ví lý do phân tích trên đây.
LM . Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
MA CHÊ CƯỚI TRÁCH
Ma Chê Cưới Trách. Vâng, đó là câu nói trong dân gian mà cũng là câu chuyện bình thường khó tránh nghe nói tới mỗi khi trong gia đình, người thân, bạn bè gặp hữu sự.
Dù không dám “Vẽ rắn thêm chân” nhưng cũng không thể im lặng đứng nhìn những sự việc xảy ra trước mắt, vì thế, xin viết lên những suy tư gửi đến quí vị cùng đọc và tìm hiểu xem thế nào?
Tại đất nước Hoa Kỳ, một số Giáo Phận thiếu Linh Mục triều chăm sóc các Giáo Xứ, vì thế các Giám Mục địa phương thường liên lạc các nhà dòng để ký hợp đồng và giao cho nhà dòng đó bao nhiêu Giáo Xứ tùy theo nhu cầu Giáo Phận cần. Có 1 nhà dòng kia ở ngoài nước Hoa Kỳ đã ký được hợp đồng với 4 Giáo Phận chăm sóc 5 Giáo Xứ trong đất nước Hoa Kỳ.
Nhà dòng bài sai một Linh Mục đi chăm sóc một Giáo Xứ ở 1 Giáo Phận nọ. Khi mới đến Linh Mục này là Phó Xứ, sau mấy năm thì lên làm Chính Xứ, ở Giáo Xứ này được mười mấy năm, vị Linh Muc này lại được nhà dòng bài sai đi tới 1 Giáo Phận ở Tiểu Bang khác để chăm sóc 1 Giáo Xứ nữa, được 2 năm thì vị Linh Mục này xin về hưu.
Về hưu chưa được bao lâu thì Linh Mục này qua đời. May mắn lúc đó Cha Bề Trên của dòng đang có mặt tại giáo xứ, nên Tang Lễ của vị Linh Mục này được Cha Bề Trên tổ chức như sau:
4 ngày canh thức của các ban ngành đoàn thể và cá nhân, từ 8:00 sáng đến sau Thánh Lễ Cầu Hồn 7:00 tối.
Ngày thứ 5. Thánh Lễ Đồng Tế tiễn biệt, sau đó quan tài của vị Linh Mục này được đưa lên máy bay để đi tới 1 Giáo Xứ ở Tiểu Bang khác, nơi mà vị Linh Mục này đã chăm sóc mười mấy năm.
Chương trình Canh Thức của các ban ngành đoàn thể và cá nhân cũng được Giáo Xứ này tổ chức như sau:
2 ngày từ 7:30 tối đến 9:00 tối.
Ngày thứ 3, từ 7:00 sáng đến 9:00 tối.
Ngày thứ 4, từ 7:00 đến 10:00 sáng.
11:00 sáng cùng ngày là Thánh Lễ Đồng Tế tiễn biệt.
Tiếp đến, quan tài của vị Linh Mục này được đưa lên máy bay ra ngoài nước Hoa Kỳ để về nhà Dòng thăm viếng và cầu nguyện.
1 ngày từ 8:00 tối đến 10:00 tối.
Ngày hôm sau, Thánh Lễ An Táng được cử hành vào lúc 11:00 sáng và sau cùng Linh Mục được an nghỉ tại Đất Thánh với Anh Em dòng.
Không biết đây có phải là truyền thống của nhà dòng này, mỗi khi có 1 Linh Mục đi chăm sóc các Giáo Xứ mà qua đời thì được mang xác đi tới những Giáo Xứ đó để giáo dân thăm viếng và cầu nguyện không?
Nếu đúng như vậy, trong tương lai, có thể sẽ có những vị Linh Mục của nhà dòng này, khi qua đời sẽ được mang xác đi tới 5 Giáo Xứ của 4 Giáo Phận, thuộc 3 Tiểu Bang trên đất nước Hoa Kỳ, và các Giáo Xứ ở ngoài nước Hoa Kỳ, như vậy, phải hơn 1 tháng viếng xác.
Không biết từ xưa tới nay đã có được một Đức Thánh Cha, Hồng Y, Giám Mục, các Bề Trên, Linh Mục dòng hoặc các Linh Mục triều nào khi còn sống mà được bài sai đi chăm sóc các Giáo Xứ, khi qua đời, xác được đem tới các Giáo Xứ đó để giáo dân thăm viếng cầu nguyện không? hay tất cả các Giáo Xứ khi biết tin vị Linh Mục qua đời chỉ tưởng nhớ, cầu nguyện ngay cho vị Linh Mục đó trong các Thánh Lễ Cầu Hồn.
Đặc Biệt: Dù biết quan tài của vị Linh Mục này sẽ được mang về nước và chôn cất tại Đất Thánh của Dòng, nhưng cũng có vài Linh Mục mua vé máy bay từ nhà dòng đi tới 2 Tiểu Bang trên đất Hoa Kỳ để cùng chia buồn với giáo dân. Ôi thật quí hóa tình nghĩa Anh Em Linh Mục. Còn phúng điếu thì Cha Bề Trên thông báo không nhận vòng hoa. Nhưng nhận hiện kim, để dùng cho việc nuôi dưỡng ơn gọi, cũng như mua máy lạnh mới cho 1 Giáo Xứ.
Giáo Xứ nào ở Mỹ mà may mắn thế, được Cha Bề Trên này lấy TIỀN phúng điếu tặng cho Giáo Xứ mua máy lạnh mới? Hay tại vì Cha Xứ, Cha Phó, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh đã dấu diếm những gì trong quá khứ để bây giờ Cha Bề Trên phải ra tay cứu giúp? Hay Cha Bề Trên có ẩn ý gì đây? Chỉ có Chúa và các Ngài mới biết.
Xin Cha Bề Trên và các Linh Mục của nhà dòng này đọc lại bài giảng ngày 11-1-2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô phê bình Linh Mục kinh tài, Linh Mục phô trương. http://vi.radiovaticana.va/news/2014/01/11/%C4%91%E1%BB%A9c_th%C3%A1nh_cha_ph%C3%AA_b%C3%ACnh_linh_m%E1%BB%A5c_kinh_t%C3%A0i%2c_linh_m%E1%BB%A5c_ph%C3%B4_tr%C6%B0%C6%A1ng/vie-763139
Trong các Giáo Xứ, có những người biết rất rõ sự thật của 1 số Linh Mục làm những việc sai trái, nhưng ngậm miệng, nhắm mắt, gật đầu làm ngơ, đôi khi lại còn phán "Chỉ có Chúa mới có quyền phán xét các Linh Mục, còn loài người chúng ta, không ai được xúc phạm đến các Linh Mục", nếu có ai viết hoặc nói ra những sự thật đó, thì luôn luôn được buộc cho 1 câu rất ư là dễ thương: "MA QUỈ NÓ XÚI DỤC".
Ánh Sáng Sự Thật
Ma Chê Cưới Trách. Vâng, đó là câu nói trong dân gian mà cũng là câu chuyện bình thường khó tránh nghe nói tới mỗi khi trong gia đình, người thân, bạn bè gặp hữu sự.
Dù không dám “Vẽ rắn thêm chân” nhưng cũng không thể im lặng đứng nhìn những sự việc xảy ra trước mắt, vì thế, xin viết lên những suy tư gửi đến quí vị cùng đọc và tìm hiểu xem thế nào?
Tại đất nước Hoa Kỳ, một số Giáo Phận thiếu Linh Mục triều chăm sóc các Giáo Xứ, vì thế các Giám Mục địa phương thường liên lạc các nhà dòng để ký hợp đồng và giao cho nhà dòng đó bao nhiêu Giáo Xứ tùy theo nhu cầu Giáo Phận cần. Có 1 nhà dòng kia ở ngoài nước Hoa Kỳ đã ký được hợp đồng với 4 Giáo Phận chăm sóc 5 Giáo Xứ trong đất nước Hoa Kỳ.
Nhà dòng bài sai một Linh Mục đi chăm sóc một Giáo Xứ ở 1 Giáo Phận nọ. Khi mới đến Linh Mục này là Phó Xứ, sau mấy năm thì lên làm Chính Xứ, ở Giáo Xứ này được mười mấy năm, vị Linh Muc này lại được nhà dòng bài sai đi tới 1 Giáo Phận ở Tiểu Bang khác để chăm sóc 1 Giáo Xứ nữa, được 2 năm thì vị Linh Mục này xin về hưu.
Về hưu chưa được bao lâu thì Linh Mục này qua đời. May mắn lúc đó Cha Bề Trên của dòng đang có mặt tại giáo xứ, nên Tang Lễ của vị Linh Mục này được Cha Bề Trên tổ chức như sau:
4 ngày canh thức của các ban ngành đoàn thể và cá nhân, từ 8:00 sáng đến sau Thánh Lễ Cầu Hồn 7:00 tối.
Ngày thứ 5. Thánh Lễ Đồng Tế tiễn biệt, sau đó quan tài của vị Linh Mục này được đưa lên máy bay để đi tới 1 Giáo Xứ ở Tiểu Bang khác, nơi mà vị Linh Mục này đã chăm sóc mười mấy năm.
Chương trình Canh Thức của các ban ngành đoàn thể và cá nhân cũng được Giáo Xứ này tổ chức như sau:
2 ngày từ 7:30 tối đến 9:00 tối.
Ngày thứ 3, từ 7:00 sáng đến 9:00 tối.
Ngày thứ 4, từ 7:00 đến 10:00 sáng.
11:00 sáng cùng ngày là Thánh Lễ Đồng Tế tiễn biệt.
Tiếp đến, quan tài của vị Linh Mục này được đưa lên máy bay ra ngoài nước Hoa Kỳ để về nhà Dòng thăm viếng và cầu nguyện.
1 ngày từ 8:00 tối đến 10:00 tối.
Ngày hôm sau, Thánh Lễ An Táng được cử hành vào lúc 11:00 sáng và sau cùng Linh Mục được an nghỉ tại Đất Thánh với Anh Em dòng.
Không biết đây có phải là truyền thống của nhà dòng này, mỗi khi có 1 Linh Mục đi chăm sóc các Giáo Xứ mà qua đời thì được mang xác đi tới những Giáo Xứ đó để giáo dân thăm viếng và cầu nguyện không?
Nếu đúng như vậy, trong tương lai, có thể sẽ có những vị Linh Mục của nhà dòng này, khi qua đời sẽ được mang xác đi tới 5 Giáo Xứ của 4 Giáo Phận, thuộc 3 Tiểu Bang trên đất nước Hoa Kỳ, và các Giáo Xứ ở ngoài nước Hoa Kỳ, như vậy, phải hơn 1 tháng viếng xác.
Không biết từ xưa tới nay đã có được một Đức Thánh Cha, Hồng Y, Giám Mục, các Bề Trên, Linh Mục dòng hoặc các Linh Mục triều nào khi còn sống mà được bài sai đi chăm sóc các Giáo Xứ, khi qua đời, xác được đem tới các Giáo Xứ đó để giáo dân thăm viếng cầu nguyện không? hay tất cả các Giáo Xứ khi biết tin vị Linh Mục qua đời chỉ tưởng nhớ, cầu nguyện ngay cho vị Linh Mục đó trong các Thánh Lễ Cầu Hồn.
Đặc Biệt: Dù biết quan tài của vị Linh Mục này sẽ được mang về nước và chôn cất tại Đất Thánh của Dòng, nhưng cũng có vài Linh Mục mua vé máy bay từ nhà dòng đi tới 2 Tiểu Bang trên đất Hoa Kỳ để cùng chia buồn với giáo dân. Ôi thật quí hóa tình nghĩa Anh Em Linh Mục. Còn phúng điếu thì Cha Bề Trên thông báo không nhận vòng hoa. Nhưng nhận hiện kim, để dùng cho việc nuôi dưỡng ơn gọi, cũng như mua máy lạnh mới cho 1 Giáo Xứ.
Giáo Xứ nào ở Mỹ mà may mắn thế, được Cha Bề Trên này lấy TIỀN phúng điếu tặng cho Giáo Xứ mua máy lạnh mới? Hay tại vì Cha Xứ, Cha Phó, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh đã dấu diếm những gì trong quá khứ để bây giờ Cha Bề Trên phải ra tay cứu giúp? Hay Cha Bề Trên có ẩn ý gì đây? Chỉ có Chúa và các Ngài mới biết.
Xin Cha Bề Trên và các Linh Mục của nhà dòng này đọc lại bài giảng ngày 11-1-2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô phê bình Linh Mục kinh tài, Linh Mục phô trương. http://vi.radiovaticana.va/news/2014/01/11/%C4%91%E1%BB%A9c_th%C3%A1nh_cha_ph%C3%AA_b%C3%ACnh_linh_m%E1%BB%A5c_kinh_t%C3%A0i%2c_linh_m%E1%BB%A5c_ph%C3%B4_tr%C6%B0%C6%A1ng/vie-763139
Trong các Giáo Xứ, có những người biết rất rõ sự thật của 1 số Linh Mục làm những việc sai trái, nhưng ngậm miệng, nhắm mắt, gật đầu làm ngơ, đôi khi lại còn phán "Chỉ có Chúa mới có quyền phán xét các Linh Mục, còn loài người chúng ta, không ai được xúc phạm đến các Linh Mục", nếu có ai viết hoặc nói ra những sự thật đó, thì luôn luôn được buộc cho 1 câu rất ư là dễ thương: "MA QUỈ NÓ XÚI DỤC".
Ánh Sáng Sự Thật
TẠI SAO DÒNG ĐA MINH PHẢI THƯA KIỆN?
Thưa Quí Vị,
Nhà dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại Phụ Tỉnh Miền Thánh Vinh Sơn Liêm ở mãi tận Canada làm ăn những thứ gì ở mãi bên Phoenix Arizona, USA. Không biết làm ăn TIỀN BẠC như thế nào mà nhà dòng Đa Minh lại phải đi thưa kiện người ta tại tòa án của Quận Maricopa Tiểu Bang Arizona? Nhà dòng thắng kiện với số TIỀN được đền bù gần nửa triệu đồng .
Dù thắng kiện gần nửa triệu đồng. Nhưng thử hỏi từ ngày khởi xướng 2 vụ kiện:
1- Ngày 10 tháng 7 năm 2008 tới ngày 3 tháng 4 năm 2013.
2- Ngày 30 tháng 10 năm 2009 tới ngày 23 tháng 9 năm 2013.
Nhà dòng Đa Minh Hải Ngoại đã phải trả bao nhiêu TIỀN cho Luật Sư?
Thưa Quí Vị , là những người giáo dân, ít, nhiều cũng đã từng đóng góp cho nhà dòng, thiết tưởng chúng ta cũng cần phải được hiểu rõ nguồn gốc vì sao số TIỀN này được đền bù ?
Xin hỏi quí vị nào ở tại Quận Maricopa Tiểu Bang Arizona, hoặc Giáo Dân Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Phoenix Arizona. Ai biết rõ về vụ kiện này xin viết lên cho giáo dân cùng biết.
Xin gửi đến quí vị 2 vụ kiện dưới đây.
CV2008-016392 Vietnamese Dominican Vicariate Of Alberta
CV2009-034595 Vietnamese Dominican Vicariate Of Alberta
https://www.superiorcourt.maricopa.gov/docket/CivilCourtCases/caseSearchResults.asp?lastName=&FirstName=&bName=vietnamese
Ánh Sáng Sự Thật
Thưa Quí Vị,
Nhà dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại Phụ Tỉnh Miền Thánh Vinh Sơn Liêm ở mãi tận Canada làm ăn những thứ gì ở mãi bên Phoenix Arizona, USA. Không biết làm ăn TIỀN BẠC như thế nào mà nhà dòng Đa Minh lại phải đi thưa kiện người ta tại tòa án của Quận Maricopa Tiểu Bang Arizona? Nhà dòng thắng kiện với số TIỀN được đền bù gần nửa triệu đồng .
Dù thắng kiện gần nửa triệu đồng. Nhưng thử hỏi từ ngày khởi xướng 2 vụ kiện:
1- Ngày 10 tháng 7 năm 2008 tới ngày 3 tháng 4 năm 2013.
2- Ngày 30 tháng 10 năm 2009 tới ngày 23 tháng 9 năm 2013.
Nhà dòng Đa Minh Hải Ngoại đã phải trả bao nhiêu TIỀN cho Luật Sư?
Thưa Quí Vị , là những người giáo dân, ít, nhiều cũng đã từng đóng góp cho nhà dòng, thiết tưởng chúng ta cũng cần phải được hiểu rõ nguồn gốc vì sao số TIỀN này được đền bù ?
Xin hỏi quí vị nào ở tại Quận Maricopa Tiểu Bang Arizona, hoặc Giáo Dân Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Phoenix Arizona. Ai biết rõ về vụ kiện này xin viết lên cho giáo dân cùng biết.
Xin gửi đến quí vị 2 vụ kiện dưới đây.
CV2008-016392 Vietnamese Dominican Vicariate Of Alberta
CV2009-034595 Vietnamese Dominican Vicariate Of Alberta
https://www.superiorcourt.maricopa.gov/docket/CivilCourtCases/caseSearchResults.asp?lastName=&FirstName=&bName=vietnamese
Ánh Sáng Sự Thật
GIÁ TRỊ THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH LỄ MISA
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Hỏi : Xin cha giải thích thắc mắc sau đây:
1- xin lễ với giá tiền cao và có nhiều cha đồng tế thì có lợi ích thế nào so với lễ Chỉ có một linh mục làm và người xin chỉ có ít tiền xin lễ ?
2- linh mục có được phép đi làm quảng cáo thương mại cho ai , và có nên xưng “con” với mọi người ở nơi công cộng hay không ?
Trả lời :
1- Về câu hỏi thứ nhất, xin được trả lời như sau:
Như tôi đã có đôi lần viết về vấn đề này , nhưng nay xin được nói lại một lần nữa về lợi ích thiêng liêng của Thánh Lễ Tạ Ơn ( Eucharist) hay Lễ Misa (Missa ).
Thánh lễ này được dâng trên bàn thờ ở khắp mọi nơi trong Giáo Hội ngày nay để diễn lại cách bí tích Bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với Nhóm Mười Hai Tông Đồ và Hy tế đền tội mà Chúa dâng lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa để một lần đền tội thay cho toàn thể nhận loại khỏi phải phạt và chết đời đời vì tội.
Vì thế, Thánh Lễ Tạ Ơn hay Thánh Lễ Misa là đỉnh cao của đời sống Giáo Hội và của toàn thể Dân Chúa đang hiệp thông với Giáo Hội, vì Thánh Lễ là nguồn ban phát ơn Cứu Độ của Chúa Kitô cho chúng ta ngày nay cùng thể thức và mục đích của Hy Tế thập giá mà Chúa Kitô đã dâng lên Chúa Cha trên đồi Calvary xưa kia; đúng như Giáo Hội đã dạy trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, là “ mỗi lần hy tế thập giá được dâng trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế ( 1 Cor 5:7) thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” ( LG số 3)
Nghĩa là qua Thánh Lễ , chúng ta hiệp thông cùng Giáo Hội dâng lời cảm tạ Chúa Cha cùng với Chúa Kitô và được lãnh nhận ơn cứu chuộc của Chúa một lần nữa lại tái diễn và ban phát cho ta ngày nay mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành ở khắp nơi trong Giáo Hội. Vì mục đích cao trọng này của Thánh Lễ nói chung, nên không có sự khác biệt nào giữa Thánh Lễ do một linh mục tầm thường cử hành , hay do Giám mục và cả Đức Thánh Cha cử hành cũng vậy, vì các vị này chỉ là thừa tác viên ( ministers) khi dâng Thánh Lễ nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christ).Nghĩa là chính Chúa Kitô cử hành Thánh Lễ hay ban phát bất cứ bí tích nào qua tay thừa tác viên con người là Linh mục, Giáo mục hay Đức Thánh Cha.
Vì thế, không hề có sự khác biệt nào về mục đích và ơn ích thiêng liêng của Thánh Lễ do một linh mục cử hành hay do chính Đức Thánh Cha dâng trên bàn thờ như đã nói ở trên. Nói rõ hơn, dù Thánh Lễ chỉ có một linh mục tầm thường cử hành hay có giám mục và nhiều linh mục đồng tế thì cũng không có gì khác biệt về mục đích và ân sủng của Thánh Lễ. Phải nói lại điều này để đừng ai lầm tưởng rằng Thánh Lễ có nhiều linh mục đồng tế thì có giá trị thiêng liêng hơn Thánh Lễ chỉ có một linh mục cử hành.
Liên quan đến vấn đền vấn đề bổng lễ ( mass stipends) tức là số tiền người xin lễ bỏ ra để xin một hay nhiều lễ cầu cho ai, thì cần thiết phải nói lại rằng : tiền xin lễ chỉ có mục đích trả thù lao cho linh mục cử hành, theo qui định của Giáo quyền địa phương và theo giáo luật.Thí dụ ở Mỹ, số tiền này được ấn định là 5 hay 10 đôla tùy mỗi giáo phận. Số tiền này chỉ có mục đích đãi ngộ cho linh mục cử hành Thánh Lễ theo tinh thần lời dạy sau đây của Thánh Phaolô :
“ anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao?. Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.” ( 1 Cor 9: 13-14)
Nghĩa là linh mục được quyền hưởng bổng lễ của người xin lễ theo qui định của giáo quyền địa phương.
Nhưng nếu giáo dân nghèo túng, không có tiền xin lễ, thì linh mục vẫn được khuyến cáo dâng lễ cho họ ( giáo luật số 945 & 2) nghĩa là không được từ chối dâng lễ chỉ vì người xin không có tiền dâng cúng.
Một điều quan trọng nữa cần nói lại là linh mục không được phép đòi hỏi người xin lễ dâng số tiền cao hơn mức qui định của giáo quyền địa phương. Đòi tiền nhiều mới chịu dâng lễ là phạm tội mại thánh ( simony) cần phải tránh.
Mặt khác, cũng cần phải nói lại ở đây một lần nữa là số tiền người xin lễ dâng cúng dù to hay nhỏ, dù chỉ có 5 đô hay 500 đô do hảo tâm của người xin lễ bỏ ra, thì cũng không hề có ảnh hưởng gì đến việc Chúa ban ơn thánh của Ngài cho ai được hưởng ý lễ. Nghĩa là ơn thánh của Chúa không thể mua được bằng tiền bạc và Thánh Lễ là vô giá ( invaluable) vì không thể mua hay đổi trác được bằng bất cứ báu vật nào của con người.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai lầm tưởng rằng hễ bỏ ra nhiều tiền xin lễ, để được rao tên trong nhà thờ , được thắp thêm đèn nến và kéo chuông inh ỏi thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là chỉ có 5 đô xin lễ và linh mục âm thầm cử hành không ai biết đến. Số tiền nhiều hay ít chỉ có giá trị đãi ngộ cho một hay nhiều linh mục dâng và đồng tế Thánh Lễ chứ không có giá trị xin ơn thánh của Chúa ban cho người sống hay cho các linh hồn đã ly trần.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai phải áy náy khi không có nhiều tiền bỏ ra xin lễ, và có đông linh mục đồng tế, hay chỉ có ít tiền xin một lễ không ai biết đến.
Nếu người chết mà khi còn sống đã quyết tâm yêu mến Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa thì dù sau khi chết, không được linh mục nào dâng lễ hay đồng tế, và cho dù xác của mình không được phép mang vào trong nhà thờ như đã xảy ra ở một địa phương kía bên nhà, thì cũng không thiệt thòi gì về mặt thiêng liêng. Ngược lại, một người khi còn sống đã xa lìa hay hoàn toàn chối bỏ Chúa bằng chính đời sống của mình cho đến khi chết, thì dù tang lễ , hay lễ giỗ có cả Hồng Y, giám mục và hàng trăm linh mục đồng tế thì cũng vô ích mà thôi.Chắc chắn như vậy.
Tóm lại, ơn thánh Chúa ban cho ai là hoàn toàn do lòng nhân hậu và công bằng của Chúa chứ không hề dính dáng gì đến số tiền lớn nhỏ của người xin lễ. Và một thánh Lễ do một linh mục dâng cũng có giá trị như Thánh Lễ của Giám mục , Hồng Y hay chính Đức Thánh Cha, vì không phải cá nhân và phẩm chất của người cử hành mà là chính Chúa Kitô dâng lại hy tế thập giá và diễn lại Bữa Ăn sau hết của Người qua tay các thừa tác viên con người là linh mục, giám mục hay Đức Thánh Cha, cũng là giám mục trong chức năng ( competence) như mọi linh mục và giám mục khác. Cho nên, không thể nói là tham dự Thánh Lễ của giám mục, hay của Đức Thánh Cha thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là tham dự Lễ của một linh mục không tên tuổi. Xin nhớ kỹ điều này mỗi khi đi tham dự Thánh Lễ.
2- Về câu hỏi thứ 2 , xin được nói lại một lần nữa là linh mục của Chúa không thể kiêm thêm “nghề thương mại” để đi làm quảng cáo bán hàng cho một cơ sở thương mại nào; như một linh mục kia đã nằm dài trên chiếc ghế đấm bóp để quảng cáo cho công dụng của loại ghế này. Làm như vây là đã hạ giá vai trò và chức năng linh mục của mình, tự đồng hóa mình với những người buôn bán cạnh tranh trên thị trường thương mại, với những thủ đoạn lường gạt, xảo trá để mong bán hàng cho thật nhiều, bất kể hàng hóa của mình tốt hay xấu, cơ lợi hay làm hại người tiêu thụ.
Với chức năng ( competence) là linh mục, thì chỗ đứng và nơi trình diễn của mình phải là bàn thánh,( Altar) giảng đài ( pulpit) tòa giải tội (confessional) và giường bệnh nhân, chứ không thể là khán đài với micrô cầm tay để kể chuyện tếu, hay hát những bài ca ướt át để giúp vui trong các tiệc cưới hay hội họp công cộng, nhất là đi rao hàng cho người khác trên truyền thanh và truyền hình.
Linh mục của Chúa Kitô không bao giờ được phép làm những việc này của người đời, nếu muốn sống và hành xử đúng cương vị của mình là linh mục.
Một đều đáng nói nữa là linh mục, khi đứng trước công chúng, thì không đươc tự hạ mình (cách giả dối, không xứng hợp) khi xưng “con” với hết mọi người lớn nhỏ.
Mình không được phép xưng “ cha” với ai – trừ với mấy trẻ em , nhưng cũng không nên khiêm nhường giả tạo, lễ độ không đúng chỗ khi tự xưng “con” với hết mọi người trước công chúng.
Trong phạm vi riêng tư, như nói chuyện với mấy cụ già đáng tuổi cha mẹ mình thì linh mục có thể xưng “con” với họ theo văn hóa Viêt Nam. Nhưng trước công chúng, với nhiều thành phần nam nữ lớn nhỏ, và thuộc các tôn giáo khác nhau, thì xưng “ con” với mọi người là điều không chính đáng với tư cách là linh mục và cũng không phù hợp với lễ phép theo văn hóa Việt Nam. Xưng hô như thế vừa tự hạ giá mình không chính đáng mà còn gây khó nghe cho người khác, trong đó có nhiều người còn nhỏ tuổi hơn mình và không phải là tín hữu công giáo. Tại sao không xử dụng cách xưng hô bình thường và không có gì là thiếu lịch sự hay lễ độ như xưng “ tôi” hay “chúng tôi” với người nghe, mà phải hạ mình cách không thích hợp khi xưng “con” với hết mọi người như vậy ? Đức khiêm nhường ( humility) của Kitô giáo không đòi hỏi phải làm như vậy.
Vì ngôn ngữ Việt Nam đặc thù hơn mọi ngôn ngữ khác, nên cách xưng hô cũng cần áp dụng cho đúng nơi đúng chỗ. Nếu người trẻ mà xưng tao gọi mày với người lớn là vô lễ, là thiếu giáo dục , thì linh mục mà xưng “con” với cả những người trẻ tuổi hơn mình thì lại là điều chướng tai, gai mắt xét về mặt văn hóa và theo phép lịch sự thông thường.
Ước mong ai đang vô tình hay hữu ý xưng hô không thích hợp như trên cần sử lại cách xưng hô của mình trước công chúng để không làm phiền cho người nghe nói chung và cho người Công giáo nói riêng
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Hỏi : Xin cha giải thích thắc mắc sau đây:
1- xin lễ với giá tiền cao và có nhiều cha đồng tế thì có lợi ích thế nào so với lễ Chỉ có một linh mục làm và người xin chỉ có ít tiền xin lễ ?
2- linh mục có được phép đi làm quảng cáo thương mại cho ai , và có nên xưng “con” với mọi người ở nơi công cộng hay không ?
Trả lời :
1- Về câu hỏi thứ nhất, xin được trả lời như sau:
Như tôi đã có đôi lần viết về vấn đề này , nhưng nay xin được nói lại một lần nữa về lợi ích thiêng liêng của Thánh Lễ Tạ Ơn ( Eucharist) hay Lễ Misa (Missa ).
Thánh lễ này được dâng trên bàn thờ ở khắp mọi nơi trong Giáo Hội ngày nay để diễn lại cách bí tích Bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với Nhóm Mười Hai Tông Đồ và Hy tế đền tội mà Chúa dâng lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa để một lần đền tội thay cho toàn thể nhận loại khỏi phải phạt và chết đời đời vì tội.
Vì thế, Thánh Lễ Tạ Ơn hay Thánh Lễ Misa là đỉnh cao của đời sống Giáo Hội và của toàn thể Dân Chúa đang hiệp thông với Giáo Hội, vì Thánh Lễ là nguồn ban phát ơn Cứu Độ của Chúa Kitô cho chúng ta ngày nay cùng thể thức và mục đích của Hy Tế thập giá mà Chúa Kitô đã dâng lên Chúa Cha trên đồi Calvary xưa kia; đúng như Giáo Hội đã dạy trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, là “ mỗi lần hy tế thập giá được dâng trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế ( 1 Cor 5:7) thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” ( LG số 3)
Nghĩa là qua Thánh Lễ , chúng ta hiệp thông cùng Giáo Hội dâng lời cảm tạ Chúa Cha cùng với Chúa Kitô và được lãnh nhận ơn cứu chuộc của Chúa một lần nữa lại tái diễn và ban phát cho ta ngày nay mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành ở khắp nơi trong Giáo Hội. Vì mục đích cao trọng này của Thánh Lễ nói chung, nên không có sự khác biệt nào giữa Thánh Lễ do một linh mục tầm thường cử hành , hay do Giám mục và cả Đức Thánh Cha cử hành cũng vậy, vì các vị này chỉ là thừa tác viên ( ministers) khi dâng Thánh Lễ nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christ).Nghĩa là chính Chúa Kitô cử hành Thánh Lễ hay ban phát bất cứ bí tích nào qua tay thừa tác viên con người là Linh mục, Giáo mục hay Đức Thánh Cha.
Vì thế, không hề có sự khác biệt nào về mục đích và ơn ích thiêng liêng của Thánh Lễ do một linh mục cử hành hay do chính Đức Thánh Cha dâng trên bàn thờ như đã nói ở trên. Nói rõ hơn, dù Thánh Lễ chỉ có một linh mục tầm thường cử hành hay có giám mục và nhiều linh mục đồng tế thì cũng không có gì khác biệt về mục đích và ân sủng của Thánh Lễ. Phải nói lại điều này để đừng ai lầm tưởng rằng Thánh Lễ có nhiều linh mục đồng tế thì có giá trị thiêng liêng hơn Thánh Lễ chỉ có một linh mục cử hành.
Liên quan đến vấn đền vấn đề bổng lễ ( mass stipends) tức là số tiền người xin lễ bỏ ra để xin một hay nhiều lễ cầu cho ai, thì cần thiết phải nói lại rằng : tiền xin lễ chỉ có mục đích trả thù lao cho linh mục cử hành, theo qui định của Giáo quyền địa phương và theo giáo luật.Thí dụ ở Mỹ, số tiền này được ấn định là 5 hay 10 đôla tùy mỗi giáo phận. Số tiền này chỉ có mục đích đãi ngộ cho linh mục cử hành Thánh Lễ theo tinh thần lời dạy sau đây của Thánh Phaolô :
“ anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao?. Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.” ( 1 Cor 9: 13-14)
Nghĩa là linh mục được quyền hưởng bổng lễ của người xin lễ theo qui định của giáo quyền địa phương.
Nhưng nếu giáo dân nghèo túng, không có tiền xin lễ, thì linh mục vẫn được khuyến cáo dâng lễ cho họ ( giáo luật số 945 & 2) nghĩa là không được từ chối dâng lễ chỉ vì người xin không có tiền dâng cúng.
Một điều quan trọng nữa cần nói lại là linh mục không được phép đòi hỏi người xin lễ dâng số tiền cao hơn mức qui định của giáo quyền địa phương. Đòi tiền nhiều mới chịu dâng lễ là phạm tội mại thánh ( simony) cần phải tránh.
Mặt khác, cũng cần phải nói lại ở đây một lần nữa là số tiền người xin lễ dâng cúng dù to hay nhỏ, dù chỉ có 5 đô hay 500 đô do hảo tâm của người xin lễ bỏ ra, thì cũng không hề có ảnh hưởng gì đến việc Chúa ban ơn thánh của Ngài cho ai được hưởng ý lễ. Nghĩa là ơn thánh của Chúa không thể mua được bằng tiền bạc và Thánh Lễ là vô giá ( invaluable) vì không thể mua hay đổi trác được bằng bất cứ báu vật nào của con người.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai lầm tưởng rằng hễ bỏ ra nhiều tiền xin lễ, để được rao tên trong nhà thờ , được thắp thêm đèn nến và kéo chuông inh ỏi thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là chỉ có 5 đô xin lễ và linh mục âm thầm cử hành không ai biết đến. Số tiền nhiều hay ít chỉ có giá trị đãi ngộ cho một hay nhiều linh mục dâng và đồng tế Thánh Lễ chứ không có giá trị xin ơn thánh của Chúa ban cho người sống hay cho các linh hồn đã ly trần.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai phải áy náy khi không có nhiều tiền bỏ ra xin lễ, và có đông linh mục đồng tế, hay chỉ có ít tiền xin một lễ không ai biết đến.
Nếu người chết mà khi còn sống đã quyết tâm yêu mến Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa thì dù sau khi chết, không được linh mục nào dâng lễ hay đồng tế, và cho dù xác của mình không được phép mang vào trong nhà thờ như đã xảy ra ở một địa phương kía bên nhà, thì cũng không thiệt thòi gì về mặt thiêng liêng. Ngược lại, một người khi còn sống đã xa lìa hay hoàn toàn chối bỏ Chúa bằng chính đời sống của mình cho đến khi chết, thì dù tang lễ , hay lễ giỗ có cả Hồng Y, giám mục và hàng trăm linh mục đồng tế thì cũng vô ích mà thôi.Chắc chắn như vậy.
Tóm lại, ơn thánh Chúa ban cho ai là hoàn toàn do lòng nhân hậu và công bằng của Chúa chứ không hề dính dáng gì đến số tiền lớn nhỏ của người xin lễ. Và một thánh Lễ do một linh mục dâng cũng có giá trị như Thánh Lễ của Giám mục , Hồng Y hay chính Đức Thánh Cha, vì không phải cá nhân và phẩm chất của người cử hành mà là chính Chúa Kitô dâng lại hy tế thập giá và diễn lại Bữa Ăn sau hết của Người qua tay các thừa tác viên con người là linh mục, giám mục hay Đức Thánh Cha, cũng là giám mục trong chức năng ( competence) như mọi linh mục và giám mục khác. Cho nên, không thể nói là tham dự Thánh Lễ của giám mục, hay của Đức Thánh Cha thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là tham dự Lễ của một linh mục không tên tuổi. Xin nhớ kỹ điều này mỗi khi đi tham dự Thánh Lễ.
2- Về câu hỏi thứ 2 , xin được nói lại một lần nữa là linh mục của Chúa không thể kiêm thêm “nghề thương mại” để đi làm quảng cáo bán hàng cho một cơ sở thương mại nào; như một linh mục kia đã nằm dài trên chiếc ghế đấm bóp để quảng cáo cho công dụng của loại ghế này. Làm như vây là đã hạ giá vai trò và chức năng linh mục của mình, tự đồng hóa mình với những người buôn bán cạnh tranh trên thị trường thương mại, với những thủ đoạn lường gạt, xảo trá để mong bán hàng cho thật nhiều, bất kể hàng hóa của mình tốt hay xấu, cơ lợi hay làm hại người tiêu thụ.
Với chức năng ( competence) là linh mục, thì chỗ đứng và nơi trình diễn của mình phải là bàn thánh,( Altar) giảng đài ( pulpit) tòa giải tội (confessional) và giường bệnh nhân, chứ không thể là khán đài với micrô cầm tay để kể chuyện tếu, hay hát những bài ca ướt át để giúp vui trong các tiệc cưới hay hội họp công cộng, nhất là đi rao hàng cho người khác trên truyền thanh và truyền hình.
Linh mục của Chúa Kitô không bao giờ được phép làm những việc này của người đời, nếu muốn sống và hành xử đúng cương vị của mình là linh mục.
Một đều đáng nói nữa là linh mục, khi đứng trước công chúng, thì không đươc tự hạ mình (cách giả dối, không xứng hợp) khi xưng “con” với hết mọi người lớn nhỏ.
Mình không được phép xưng “ cha” với ai – trừ với mấy trẻ em , nhưng cũng không nên khiêm nhường giả tạo, lễ độ không đúng chỗ khi tự xưng “con” với hết mọi người trước công chúng.
Trong phạm vi riêng tư, như nói chuyện với mấy cụ già đáng tuổi cha mẹ mình thì linh mục có thể xưng “con” với họ theo văn hóa Viêt Nam. Nhưng trước công chúng, với nhiều thành phần nam nữ lớn nhỏ, và thuộc các tôn giáo khác nhau, thì xưng “ con” với mọi người là điều không chính đáng với tư cách là linh mục và cũng không phù hợp với lễ phép theo văn hóa Việt Nam. Xưng hô như thế vừa tự hạ giá mình không chính đáng mà còn gây khó nghe cho người khác, trong đó có nhiều người còn nhỏ tuổi hơn mình và không phải là tín hữu công giáo. Tại sao không xử dụng cách xưng hô bình thường và không có gì là thiếu lịch sự hay lễ độ như xưng “ tôi” hay “chúng tôi” với người nghe, mà phải hạ mình cách không thích hợp khi xưng “con” với hết mọi người như vậy ? Đức khiêm nhường ( humility) của Kitô giáo không đòi hỏi phải làm như vậy.
Vì ngôn ngữ Việt Nam đặc thù hơn mọi ngôn ngữ khác, nên cách xưng hô cũng cần áp dụng cho đúng nơi đúng chỗ. Nếu người trẻ mà xưng tao gọi mày với người lớn là vô lễ, là thiếu giáo dục , thì linh mục mà xưng “con” với cả những người trẻ tuổi hơn mình thì lại là điều chướng tai, gai mắt xét về mặt văn hóa và theo phép lịch sự thông thường.
Ước mong ai đang vô tình hay hữu ý xưng hô không thích hợp như trên cần sử lại cách xưng hô của mình trước công chúng để không làm phiền cho người nghe nói chung và cho người Công giáo nói riêng
Sau Tòa Giảng, Linh Mục Là Ai ?
Thưa Quí Vị,
Đọc bài chia sẻ lời Chúa của ngày thứ ba 9 tháng 9 năm 2014 CN23 TN, làm tôi nhớ đến Linh Mục Bề Trên Giuse Trần Trung Liêm O.P, cùng các Linh Mục dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại – Phụ Tỉnh Miền Thánh Vinh Sơn Liêm. Các Ngài thường đi giảng phòng, tĩnh tâm, đứng trên tòa giảng trong các Thánh Lễ, dạy dỗ giáo dân trong cuộc sống luôn luôn phải có "Đức Yêu Thương, Đức Bác Ái, Vị Tha, Không Được Hận Thù, Nói Xấu Nhau ", ấy vậy mà chính các Ngài đã lợi dụng khi đi giảng phòng, tĩnh tâm, đứng trên tòa giảng để chửi xéo, nói xấu những người mình không ưa, hận thù những người đã dám nói, viết lên những sự thật của một số Cha Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại – Phụ Tỉnh Miền Thánh Vinh Sơn Liêm. Chưa hết, các Ngài còn viết thơ đồng ý, xúi dục Hội Đồng Mục Vụ của 1 giáo xứ kia đi nhờ luật sư đòi lại công bằng cho người Anh Em cùng dòng, cũng như lợi dụng đang làm Mục Vụ tại các giáo xứ để tổ chức đủ các Lễ Hội, rủ Anh Em Linh Mục Dòng Đa Minh tới thật đông để lấy bao thơ đếm TIỀN. Khi bị mang tai tiếng quá thì Linh Mục Đa Minh này bào chữa cho Linh Mục Đa Minh kia và nói "Linh Mục chúng tôi cũng là con người như quí vị, vì thế, sẽ không thể tránh khỏi những sai lầm".
Xin gửi kèm bài đọc lời Chúa, cùng thơ xúi dục của Cha Bề Trên dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại – Phụ Tỉnh Miền Thánh Vinh Sơn Liêm.
BÀI ĐỌC I: 1 Cr 6, 1-11 ( Lời Chúa của ngày thứ ba 9 tháng 9 năm 2014 CN23 TN)
"Anh em có việc kiện tụng nhau, và đem đến trước mặt người ngoại".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, làm sao trong anh em có người dám đem việc bất bình với kẻ khác ra thưa kiện trước mặt kẻ gian ác, chứ không trước mặt các thánh? Hay anh em lại không biết các thánh sẽ phán xét thế gian này sao? Và nếu anh em có quyền phán xét thế gian, thì anh em không xứng đáng xét xử những việc rất nhỏ mọn như thế sao? Anh em lại không biết chúng ta sẽ phán xét các thiên thần sao, phương chi là các việc đời này?
Vậy nếu anh em phải kiện cáo nhau về những việc đời này, anh em lại cắt đặt những người không đáng kể trong Hội thánh mà xét xử sao? Thật là một điều nhục cho anh em mà tôi phải nói như vậy. Chớ thì trong anh em không có người nào khôn ngoan có thể xét xử giữa anh em sao? Nhưng khi có việc kiện cáo giữa anh em với nhau mà lại đem đến trước mặt người ngoại ư? Nguyên việc anh em kiện tụng nhau, cũng đã là một lỗi rồi. Tại sao anh em không đành chịu một chút bất công? Tại sao anh em không đành chịu một chút thiệt thòi? Trái lại chính anh em ăn ở bất công và lừa đảo, mà lại xử như thế với chính anh em mình. Hay anh em lại không biết rằng: những kẻ gian ác sẽ không được hưởng nước Thiên Chúa sao? Anh em chớ lầm tưởng: những kẻ gian dâm, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, xấu nết, loạn dâm, trộm cắp, tham lam, say sưa, vu khống hay bóc lột đều không được hưởng nước Thiên Chúa đâu.
Xưa kia trong anh em đã có ít người như vậy. Nhưng anh em đã được rửa sạch, đã được thánh hoá, đã được công chính hoá, nhân danh Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và trong Thánh Thần của Thiên Chúa chúng ta. Đó là lời Chúa.
Thưa Quí Vị,
Đọc bài chia sẻ lời Chúa của ngày thứ ba 9 tháng 9 năm 2014 CN23 TN, làm tôi nhớ đến Linh Mục Bề Trên Giuse Trần Trung Liêm O.P, cùng các Linh Mục dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại – Phụ Tỉnh Miền Thánh Vinh Sơn Liêm. Các Ngài thường đi giảng phòng, tĩnh tâm, đứng trên tòa giảng trong các Thánh Lễ, dạy dỗ giáo dân trong cuộc sống luôn luôn phải có "Đức Yêu Thương, Đức Bác Ái, Vị Tha, Không Được Hận Thù, Nói Xấu Nhau ", ấy vậy mà chính các Ngài đã lợi dụng khi đi giảng phòng, tĩnh tâm, đứng trên tòa giảng để chửi xéo, nói xấu những người mình không ưa, hận thù những người đã dám nói, viết lên những sự thật của một số Cha Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại – Phụ Tỉnh Miền Thánh Vinh Sơn Liêm. Chưa hết, các Ngài còn viết thơ đồng ý, xúi dục Hội Đồng Mục Vụ của 1 giáo xứ kia đi nhờ luật sư đòi lại công bằng cho người Anh Em cùng dòng, cũng như lợi dụng đang làm Mục Vụ tại các giáo xứ để tổ chức đủ các Lễ Hội, rủ Anh Em Linh Mục Dòng Đa Minh tới thật đông để lấy bao thơ đếm TIỀN. Khi bị mang tai tiếng quá thì Linh Mục Đa Minh này bào chữa cho Linh Mục Đa Minh kia và nói "Linh Mục chúng tôi cũng là con người như quí vị, vì thế, sẽ không thể tránh khỏi những sai lầm".
Xin gửi kèm bài đọc lời Chúa, cùng thơ xúi dục của Cha Bề Trên dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại – Phụ Tỉnh Miền Thánh Vinh Sơn Liêm.
BÀI ĐỌC I: 1 Cr 6, 1-11 ( Lời Chúa của ngày thứ ba 9 tháng 9 năm 2014 CN23 TN)
"Anh em có việc kiện tụng nhau, và đem đến trước mặt người ngoại".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, làm sao trong anh em có người dám đem việc bất bình với kẻ khác ra thưa kiện trước mặt kẻ gian ác, chứ không trước mặt các thánh? Hay anh em lại không biết các thánh sẽ phán xét thế gian này sao? Và nếu anh em có quyền phán xét thế gian, thì anh em không xứng đáng xét xử những việc rất nhỏ mọn như thế sao? Anh em lại không biết chúng ta sẽ phán xét các thiên thần sao, phương chi là các việc đời này?
Vậy nếu anh em phải kiện cáo nhau về những việc đời này, anh em lại cắt đặt những người không đáng kể trong Hội thánh mà xét xử sao? Thật là một điều nhục cho anh em mà tôi phải nói như vậy. Chớ thì trong anh em không có người nào khôn ngoan có thể xét xử giữa anh em sao? Nhưng khi có việc kiện cáo giữa anh em với nhau mà lại đem đến trước mặt người ngoại ư? Nguyên việc anh em kiện tụng nhau, cũng đã là một lỗi rồi. Tại sao anh em không đành chịu một chút bất công? Tại sao anh em không đành chịu một chút thiệt thòi? Trái lại chính anh em ăn ở bất công và lừa đảo, mà lại xử như thế với chính anh em mình. Hay anh em lại không biết rằng: những kẻ gian ác sẽ không được hưởng nước Thiên Chúa sao? Anh em chớ lầm tưởng: những kẻ gian dâm, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, xấu nết, loạn dâm, trộm cắp, tham lam, say sưa, vu khống hay bóc lột đều không được hưởng nước Thiên Chúa đâu.
Xưa kia trong anh em đã có ít người như vậy. Nhưng anh em đã được rửa sạch, đã được thánh hoá, đã được công chính hoá, nhân danh Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và trong Thánh Thần của Thiên Chúa chúng ta. Đó là lời Chúa.
Tâm Thư gởi các Thầy tu chuyển nghề làm bầu show kiếm tiền...
Atlanta, ngày 16 tháng 8 năm 2014.
Tâm thư góp ý của một số Phật tử gởi đến các Thầy Tu, các Sư cô chuyên móc tiền Phật tử bằng cách:“ Bán cơm gây quỷ, rước ca sĩ về chùa hát, xổ số, rước Phật Ngọc, bán đấu giá tượng Phật, muợn tiền… để Xây Chùa, Xây Thôn Adida ”.
A Di Đà Phật.
Kể từ ngày các tôn giáo bị Cộng sản Quốc doanh hóa, chỉ còn số ít chùa cố gắng giử nguyên bản vị truyền thống của dân tộc, đạo lý của tổ tiên dưới sự lảnh đạo Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu (sau khi nếm mùi CS). Còn lại các chùa ngày nay ở quốc nội cũng như hải ngoại, đã xa rời Chánh pháp để chạy theo tiền bạc lợi nhuận.
Tâm thư nầy được góp ý từ một số Phật tử gởi đến các vị Tăng Ni dùng chiếc đầu trọc, mượn y Phật để chuyên móc túi Phật tử bằng cách: “Bán cơm gây quỷ, rước ca sĩ về chùa hát xướng, xổ số, rước Phật Ngọc, bán đấu giá tượng Phật, mượn tiền để xây chùa, xây Thôn ADiDa v, v…”. Qua thông tin mới nhất trong dịp Vu Lan vừa qua, đa số tu viện Phật giáo sự báo hiếu trở thành thứ yếu để biến chùa thành sân khấu của ca sĩ, của các đoàn văn công nhảy múa. Nơi mà các tổ, đảng CS từng bước xâm lấn thành hình trong chùa chiền.
A Di Đà Phật1
Kính chào các Thầy, các Sư cô. Trước hết chúng tôi xin gởi lời chào các Thầy, các Sư cô, kính chúc các Thầy, các Sư cô thân tâm an lạc, vạn sự cát tường, tinh thần sáng suốt, để trở về với con người thật của chính mình, trở về với bản tánh Chân Như của mình. Học lại những lời chư Phật dạy mà Sám Hối, vì cái tội dối mình dối người, mượn đạo tạo đời: Lợi dụng cái đầu trọc, cái y vàng của Phật móc tiền của Phật tử để thỏa mản lòng tham, tạo tài sản riêng cho bản thân mình, là phá hoại giới luật, phá hoại Phật pháp, là vi trùng của sư tử.
Trước khi diệt độ Như Lai căn dặn các vị Tỳ kheo phải tôn kính “Tịnh Giới” như người mù được sáng mắt. Tịnh giới là đạo sư cao cả của các Thầy. “Giử Tịnh Giới” các Thầy, các Sư cô không được mua bán, đổi chát, sắm sửa nhà đất, không được nuôi tôi tớ, không được chặt cây bừa bải và không nuôi súc vật… Tất cả những việc nầy phải tránh xa như tránh rắn độc, tránh hổ dử.
Chùa là một nơi trang nghiêm thanh tịnh thờ Tam Bảo, là nơi để cho người xuất gia và tại gia tu học. Là nơi để hoằng truyền Phật pháp, chúng tôi đến chùa là để học Phật pháp và thực hành Phật pháp, để “Làm Đẹp Cái Tâm” của mình lại. Nhưng bây giờ các Thầy, các Sư cô đã biến cái chùa thành Siêu Thị Thương Mãi. Là cái sân khấu ca hát, Là nơi buôn Thần bán Thánh! “Đem Phật ra bán đấu giá luôn. Miển có Tiền là được”. Các Thầy, các Sư cô ăn cơm Thích Ca, làm việc quỷ ma, phá hoại giới luật của Phật, đã đi sai đường quá xa với Phật, làm không đúng lời Phật dạy. Đúng là:
“Ma đưa lối Quỷ dẩn dường
Chỉ tìm những nẽo đoạn trường mà đi”.
Chúng tôi nghĩ: Các vị Tăng, Ni là những người Thầy mẫu mực thanh tịnh, là điểm tựa cho người tại gia tu học, là chổ nương tựa tinh thần vửng chắc cho chúng sanh. Các vị Tăng, Ni không chỉ nói hay, không chỉ dùng miệng lưởi nói Pháp cho người nghe. Mà còn phải dùng Thân mình làm gương cho mọi người thấy. Điều quan trọng là người xuất gia phải giử Giới Luật! Phật dạy: Lấy Giới Luật làm thầy. Nhưng bây giờ Các Thầy Tăng, các Ni Sư phạm giới Tiền tài, Sắc dục quá nhiều! Sở dĩ người xuất gia đươc Tôn Quý là biết giử nhiều giới, giử giới đức nghiêm mật thì nhân cách đạo đức càng cao. Phật tử càng kính trọng. Chứ không phải ở chổ cạo tóc hay ở chùa.
Đúng là: “Tiền Làm Động Tâm - Tiền Sinh Bất Tịnh” . Đồng tiền đã làm băng hoại hết đạo đức của các Thầy các Sư cô. Các Thầy các Sư cô có “Tâm Tham” rất sâu nặng, tâm lượng của các Thầy các Sư cô chỉ nghĩ về Tiền. Chúng tôi rất tội nghiệp cho các Thầy và các Sư cô! Chúng tôi muốn cứu các Thầy các Sư cô nhưng không đủ khả năng. Các Thầy các Sư cô hãy “Tự Cứu” mình đi. Hãy: Tự thắp đuốc lên mà đi. Có lẽ các Thầy, Sư cô cũng thấy rồi đó: Muốn có tiền các Thầy các Sư cô phải chạy đôn chạy đáo xin tiền, mượn tiền xây Chùa ở đây, xây chùa ở VN. Cải gia vi tự, chùa mọc lên như nấm. Nhất Tăng Nhất Tự. Rồi bây giờ xây Thôn ADiDa….“ Thân” nhọc nhằn - “ Tâm” lo lắng đau khổ quá phải không các Thầy Cô? Tham càng nhiều thì phiền nảo lo lắng càng nhiều. Các Thầy, Sư cô hảy tỉnh thức trở về với bản tánh Chân Thiện Mỹ của mình đi. Đừng để Tâm mình đi hoang vào vòng tội lỗi nữa. Đem Sám hối vào nơi lỗi lầm sẽ được an lạc.
Thưa các Thầy Cô, chúng tôi là những Phật tử nên tin vào luật Nhân Quả của đạo Phật, không dám phỉ báng ai hết. Nhất là các vị Tu hành. Chúng tôi học qua kinh Phật dạy rất rõ ràng là: Bước vào Chùa là bước vào “Cửa Không”, và luôn tập tánh Từ-Bi-Hỷ-Xả. Vào Cửa Không là không bị vật chất ràng buộc. Không còn chấp ngả để làm khổ mình khổ người. Từ-Bi-Hỷ-Xả: Chia xẽ tình thương hỷ lạc với chúng sanh, xả bỏ những gì vướng mắc, không chấp ngã không làm chúng ta đau khổ. Duyên khởi từ không trở lại không.
Các Thầy, các Sư Cô đây là những vị đã xuất gia, các Thầy, Sư cô là đệ tử Phật, là con của Phật, học theo Phật. Đại diện cho đức Phật để giáo hóa chúng sanh. Thì các Thầy, Sư cô phải là một người Phật tử thật sự phải giống Phật. Không phải giống Phật ở cái áo, cái đầu. Mà giống cái “Tâm” của Phật. Giống từ suy nghĩ cho đến việc làm. Việc làm của các đức Phật là có lợi ích cho số đông. Trong kinh Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Chư Phật tu là để chịu khổ thế cho chúng sanh. Phật tu từ chổ Có đến chổ Không. Chứ không phải như các Thầy, Sư cô tu từ chổ Không đến chổ Có. Phật tu để gánh hết khổ đau cho nhân loại. Còn các Thầy, Sư Cô tu tạo ra nhiều gánh nặng, nhiều phiền nảo cho Phật tử.
Bởi vậy đa số Phật tử bây giờ trông thấy các Thầy, các Sư cô là phải “Giải thoát” ngay (Chạy trốn vì phải bán ticket cho chùa, hoặc mua giúp ticket cho chùa bạn)! Vậy các Thầy Cô tu để phụng sự ai đây? Các Thầy Cô phụng sự cho Phật tử hay Phật tử phụng sự cho các Thầy Cô? Các Thầy Cô trốn vào Chùa để xây chùa to Phật lớn, ngồi nhà mát ăn bát vàng. Bắt Phật tử làm tôi mọi cho các Thầy Cô. Để các Thầy Cô lợi dụng rồi vắt chanh bỏ vỏ? Mục đích Phật tử chúng tôi đến Chùa là để niệm Phật nghe kinh cầu mong giải thoát. Chứ không phải đến để các Thầy Cô lợi dụng!
“Vào chùa nghe Pháp tụng kinh
Cuối đời mong được đến gần Như Lai”.
Vì tham Tiền làm lợi cho bản thân mình, các Thầy Cô đã lường gạt Phật tử làm đạo Phật mang tai tiếng và làm xấu hổ giòng họ Thích Ca. Chính các Thầy Cô làm cho Phật khóc, Phật chảy máu. Các Thầy Cô làm trái với kỳ vọng của chư Phật và làm trái ước nguyện của chúng tôi. Các Thầy Cô ăn của đàng na tín thí mà không lo tinh tấn tu hành theo Chánh pháp thì sẽ mang lông đội sừng để trả nợ. Các Thầy Cô làm thân Phật chảy máu: Vì đã góp phần làm cho Phật pháp suy đồi. Thì các Thầy Cô sẽ bị đọa Địa Ngục Vô Gián muôn ngàn kiếp!
Thưa các Thầy, các Sư cô, chúng tôi biết thời buổi Mạt Pháp nầy, trong Phật giáo có đủ thành phần: Chánh Sư: Thì tu hành chân chánh, lo cho quê hương thương dân tộc. Tà Sư: Sư Việt Gian vì tiền háo danh, chia rẽ Phật giáo tiếp tay cho cộng sản. Ngụy Sa Môn: Tu giả (Công an cạo đầu trọc: Cộng sản gởi những tên công an cạo đầu trọc nẩy ra hải ngoại để phá chùa chia rẽ Phật tử) chúng mượn áo cà sa, mượn cảnh chùa chiền để gạt gẫm Phật tử làm giàu nhiều lắm. Chúng chẳng tu hành gì cả, chỉ biết kiếm tiền moi tiền Phật tử một cách hợp pháp. Nhìn tướng của chúng bề ngoài là thầy tu, Thân chúng xuất gia mà Tâm chúng không xuất gia, chúng là Quỷ Đỏ chỉ biết Tiền và Tiền. Chúng là Thiên Ma Ba Tuần hóa thân. Các Thầy tu giả nầy dùng cái miệng để lường gạt Phật tử, thì chính cái miệng nầy của chúng cũng đã hại chúng bằng cách tự thú chính chúng nó là tay sai của Cộng sản. Dù chúng có khôn ngoan gian xảo che dấu thì sự thật củng sẽ lòi ra. Bọn cầm quyền Cộng sản VN buôn dân bán nước rỏ ràng như vậy, ai cũng thấy biết, thế mà vẫn còn một số ít người vì ham tiền háo danh vẫn u mê ngu xuẩn, hèn hạ cúi mình khom lung phục dịch chúng nó. Bọn nối giáo cho giặc. Hạng người nầy thật vô minh điên đảo, vô liêm sỉ. Thật Đáng Khinh!
Vẫn biết rằng Ta Bà chuyện xấu tốt gì cũng có, nhưng rất tiếc là có các Thầy chùa Ma Giáo dính vào, các Thầy Ma Giáo nầy đại diện cho Như Lai Mới Giận Chứ ! Các Thầy tu mà cứ làm cho Phật giáo mang tai tiếng, làm cho Phật pháp càng ngày càng lụn bại, môn đồ xa lánh, Phật tử chán chê bỏ chùa. Đó là phá Phật phá pháp, tu theo Tà Đạo. Các Thầy không tu thì thôi chứ đừng núp ở trong chùa phá chùa phá Phật. Xin hỏi các Thầy, các Sư Cô: Các Người có phải là con cháu của Thiên Ma Ba Tuần đầu thai lên để phá con cháu của đức Phật không???
Các Thầy, các Sư cô cũng biết trong kinh Phật có câu: “Tu như đi trên dòng nước ngược, không tiến ắc sẽ lùi”. Các Thầy Cô phải lảm chủ Tâm Ý mình, đừng đánh mất bản thân mình vì tiền. Các Thầy Cô đã xuất thế tục gia, xuất tam giới gia, đã ở trong chùa rồi, đừng ôm chuyện thế gian vào trong chùa nữa! Hãy thúc liễm thân tâm để tu hành đi.
Thế gian nầy quá nhiều đau khổ rồi có gì đáng lưu luyến đâu mà các Thầy Cô tạo nghiệp thêm vậy? Tại sao các Thầy Cô không lo tu để giải thoát? Châm ngôn có câu: “Thanh bần thì an lạc, Trọc phú thì đa ưu”. Đồng tiền chỉ làm cho con người đau khổ mà thôi. Các Thầy đã bị đồng tiền nó khống chế quá rồi, đừng u mê ngu xuẩn nữa hãy tỉnh thức đi. Các Thầy Cô đừng quên câu các vị Bồ Tát đã nói: “Địa Ngục Môn Tiền Tăng Đạo Đa” (Trước cửa Địa Ngục các Thầy tu, các Sư cô đang sắp hàng vô nhiều lắm lắm).
Đất nước VN của chúng ta đang lâm nguy bởi giặc Tàu Cộng bành trướng xâm lấn. Dân tộc VN chúng ta đang đói rách khổ cực dưới chế độ tàn ác của bạo quyền CSVN. Một chế độ Hèn Với Giặc - Ác Với Dân! Tổ Quốc VN, Dân Tộc VN rất Nhục Nhã, rất Uất Hận có một bọn ngu dốt hèn nhát, khom lung cúi đầu đại diện cho dân đang nắm quyền như những tên Mạt (Sang) Vận(Trọng) Yếu (Hùng) Hèn (Dủng).Chúng nó thật trơ trẻn. Các Thầy định bắt chước các tên vô loại bán nước cầu vinh, rước coi dày mã tổ nầy sao? Chỉ biết sống ích kỷ cho bản thân mình mà quên đi Tổ Quốc, quên đi Dân Tộc, nếu vậy thì quá tàn nhẩn, là người thực vật! Nhục nhã lắm. Đáng khinh lắm!
Anh hùng Trần Bình Trọng đã hiên ngang nói với giặc Tàu: “Ta thà làm Quỷ nước Nam, Còn hơn làm Vương đất Bắc” !
Đạo Phật gắng liền với đất nước, với dân tộc. Đạo Phật là Hộ Quốc An Dân. Các Thầy hãy dẹp bỏ đi những ý niệm riêng tư để lo cho Tổ Quốc, cho dân tộc đang lúc lâm nguy. Đó là báo ân cho Tổ Quốc ( một trong tứ ân mà Phật đã dạy). Chứ đừng có suốt ngày chỉ lo lăng xăng đi kiếm tiền thấy thật tội nghiệp. Các Thầy Cô có biết hổ thẹn không? Riêng chúng tôi rất mắc cở giùm các Thầy Cô…
Các Thầy Cô hãy noi gương của Phật hoàng là vua Trần Nhân Tông, Thiền Sư Vạn Hạnh. Khi giặc Tàu phương bắc qua xâm lấn nước ta, Các Ngài đã cởi bỏ áo cà sa đi đánh giặc Tàu để cứu dân cứu nước. Thắng trận rồi các Ngài về đi tu tiếp. Vì: Nước Mất thì Nhà Tan! Hơn nữa bản hoài của người xuất gia là: “ Trên Cầu Phật Đạo - Dưới Cứu Độ Chúng Sanh ”.
Thưa các Thầy, Sư cô, chúng tôi không muốn nhìn thấy lỗi lầm của các Thầy, Sư cô đâu. Không muốn nghe Phật tử than phiền về các Thầy, Sư cô, không muốn biết họ coi thường và khinh rẻ các Thầy, Sư cô. Tôi không cần phải bận tâm suy nghĩ lo lắng những chuyện của các Thầy, Sư cô làm gì. Tôi muốn buông xã tất cả để khỏi ưu phiền, khỏi mệt mõi. Tất cả hãy giao nhờ Phật, Bồ Tát lo. Phật Bồ Tát đã an bày sẳn mọi việc rồi, lo lắng làm gì.
Nhưng chúng tôi không muốn “Người ngoại đạo” họ coi thường và khinh rẻ các Thầy, Sư cô. Vì khi dể các Thầy, Sư cô là họ xem thường đạo Phật. Chê cười đạo Phật. Nên chúng tôi phải lên tiếng.
Chúng tôi muốn các Thầy, Sư cô nên học lại Ngài Châu Lợi Bàn Đặt. Phật dạy Ngài Châu Lợi Bàn Đặt quét hết bụi rát trong đầu ra cho sạch. Còn các Thầy, Sư cô thì phải quét sạch hết tiền bạc danh vọng ra khỏi đầu. Phải rửa sạch, giặt cho thật sạch cái Tâm tham tiền của mình đi, Tâm của các Thầy, Sư cô đầy ấp những ý nghĩ tìm cách móc túi tiền của Phật tử, thì đâu còn Tâm nào để chứa Phật pháp nữa. Tâm có trống trải mới chứa Phật pháp được. Các Thầy, Sư cô lúc nào cũng lo xây chùa, lo tổ chức Đại Nhạc Hội, lo bán cơm gây quỷ… thì đâu còn thì giờ để tu học, để hoằng pháp độ sinh phải không? Các Thầy Cô hãy trì giới thanh tịnh lại đi. Phải khắc phục và Sám hối ngay.
Kinh Kim Cang có dạy: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.
“ Ham chi Danh Lợi Sắc Tài
Vô thường chợt đến cũng hoàn tay không ”
Chúng tôi viết cái thư nầy có nhiều điều sơ sót lầm lổi, vì chúng tôi là những Phật tử sơ cơ, mới làm quen với Phật pháp vài năm. Mong các Thầy, Sư Cô thông cãm tha thứ. Chúng tôi biết các Thầy là Sư là Tăng là Ni phải rành kinh Phật hơn chúng tôi nhiều. Chúng tôi chỉ nhắc nhở sợ các Thầy quên vì quá bận rộn lo kiếm tiền mà tạo nghiệp.
Các Thầy Cô xuống Địa Ngục còn muốn kéo đám Phật tử chúng tôi theo, vì các Thầy Cô làm sai không đúng lời Phật dạy nên chúng tôi phê bình chỉ trích các Thầy Cô… Làm chúng tôi cũng có tội luôn!
“ Nữa khuya ngắm bóng trăng tà.
Nhìn vì sao lạc xót xa kiếp người ”.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính chào các Thầy, các Sư cô.
Phật tử : Nguyên Thanh - Diệu An.
Atlanta, ngày 16 tháng 8 năm 2014.
Tâm thư góp ý của một số Phật tử gởi đến các Thầy Tu, các Sư cô chuyên móc tiền Phật tử bằng cách:“ Bán cơm gây quỷ, rước ca sĩ về chùa hát, xổ số, rước Phật Ngọc, bán đấu giá tượng Phật, muợn tiền… để Xây Chùa, Xây Thôn Adida ”.
A Di Đà Phật.
Kể từ ngày các tôn giáo bị Cộng sản Quốc doanh hóa, chỉ còn số ít chùa cố gắng giử nguyên bản vị truyền thống của dân tộc, đạo lý của tổ tiên dưới sự lảnh đạo Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu (sau khi nếm mùi CS). Còn lại các chùa ngày nay ở quốc nội cũng như hải ngoại, đã xa rời Chánh pháp để chạy theo tiền bạc lợi nhuận.
Tâm thư nầy được góp ý từ một số Phật tử gởi đến các vị Tăng Ni dùng chiếc đầu trọc, mượn y Phật để chuyên móc túi Phật tử bằng cách: “Bán cơm gây quỷ, rước ca sĩ về chùa hát xướng, xổ số, rước Phật Ngọc, bán đấu giá tượng Phật, mượn tiền để xây chùa, xây Thôn ADiDa v, v…”. Qua thông tin mới nhất trong dịp Vu Lan vừa qua, đa số tu viện Phật giáo sự báo hiếu trở thành thứ yếu để biến chùa thành sân khấu của ca sĩ, của các đoàn văn công nhảy múa. Nơi mà các tổ, đảng CS từng bước xâm lấn thành hình trong chùa chiền.
A Di Đà Phật1
Kính chào các Thầy, các Sư cô. Trước hết chúng tôi xin gởi lời chào các Thầy, các Sư cô, kính chúc các Thầy, các Sư cô thân tâm an lạc, vạn sự cát tường, tinh thần sáng suốt, để trở về với con người thật của chính mình, trở về với bản tánh Chân Như của mình. Học lại những lời chư Phật dạy mà Sám Hối, vì cái tội dối mình dối người, mượn đạo tạo đời: Lợi dụng cái đầu trọc, cái y vàng của Phật móc tiền của Phật tử để thỏa mản lòng tham, tạo tài sản riêng cho bản thân mình, là phá hoại giới luật, phá hoại Phật pháp, là vi trùng của sư tử.
Trước khi diệt độ Như Lai căn dặn các vị Tỳ kheo phải tôn kính “Tịnh Giới” như người mù được sáng mắt. Tịnh giới là đạo sư cao cả của các Thầy. “Giử Tịnh Giới” các Thầy, các Sư cô không được mua bán, đổi chát, sắm sửa nhà đất, không được nuôi tôi tớ, không được chặt cây bừa bải và không nuôi súc vật… Tất cả những việc nầy phải tránh xa như tránh rắn độc, tránh hổ dử.
Chùa là một nơi trang nghiêm thanh tịnh thờ Tam Bảo, là nơi để cho người xuất gia và tại gia tu học. Là nơi để hoằng truyền Phật pháp, chúng tôi đến chùa là để học Phật pháp và thực hành Phật pháp, để “Làm Đẹp Cái Tâm” của mình lại. Nhưng bây giờ các Thầy, các Sư cô đã biến cái chùa thành Siêu Thị Thương Mãi. Là cái sân khấu ca hát, Là nơi buôn Thần bán Thánh! “Đem Phật ra bán đấu giá luôn. Miển có Tiền là được”. Các Thầy, các Sư cô ăn cơm Thích Ca, làm việc quỷ ma, phá hoại giới luật của Phật, đã đi sai đường quá xa với Phật, làm không đúng lời Phật dạy. Đúng là:
“Ma đưa lối Quỷ dẩn dường
Chỉ tìm những nẽo đoạn trường mà đi”.
Chúng tôi nghĩ: Các vị Tăng, Ni là những người Thầy mẫu mực thanh tịnh, là điểm tựa cho người tại gia tu học, là chổ nương tựa tinh thần vửng chắc cho chúng sanh. Các vị Tăng, Ni không chỉ nói hay, không chỉ dùng miệng lưởi nói Pháp cho người nghe. Mà còn phải dùng Thân mình làm gương cho mọi người thấy. Điều quan trọng là người xuất gia phải giử Giới Luật! Phật dạy: Lấy Giới Luật làm thầy. Nhưng bây giờ Các Thầy Tăng, các Ni Sư phạm giới Tiền tài, Sắc dục quá nhiều! Sở dĩ người xuất gia đươc Tôn Quý là biết giử nhiều giới, giử giới đức nghiêm mật thì nhân cách đạo đức càng cao. Phật tử càng kính trọng. Chứ không phải ở chổ cạo tóc hay ở chùa.
Đúng là: “Tiền Làm Động Tâm - Tiền Sinh Bất Tịnh” . Đồng tiền đã làm băng hoại hết đạo đức của các Thầy các Sư cô. Các Thầy các Sư cô có “Tâm Tham” rất sâu nặng, tâm lượng của các Thầy các Sư cô chỉ nghĩ về Tiền. Chúng tôi rất tội nghiệp cho các Thầy và các Sư cô! Chúng tôi muốn cứu các Thầy các Sư cô nhưng không đủ khả năng. Các Thầy các Sư cô hãy “Tự Cứu” mình đi. Hãy: Tự thắp đuốc lên mà đi. Có lẽ các Thầy, Sư cô cũng thấy rồi đó: Muốn có tiền các Thầy các Sư cô phải chạy đôn chạy đáo xin tiền, mượn tiền xây Chùa ở đây, xây chùa ở VN. Cải gia vi tự, chùa mọc lên như nấm. Nhất Tăng Nhất Tự. Rồi bây giờ xây Thôn ADiDa….“ Thân” nhọc nhằn - “ Tâm” lo lắng đau khổ quá phải không các Thầy Cô? Tham càng nhiều thì phiền nảo lo lắng càng nhiều. Các Thầy, Sư cô hảy tỉnh thức trở về với bản tánh Chân Thiện Mỹ của mình đi. Đừng để Tâm mình đi hoang vào vòng tội lỗi nữa. Đem Sám hối vào nơi lỗi lầm sẽ được an lạc.
Thưa các Thầy Cô, chúng tôi là những Phật tử nên tin vào luật Nhân Quả của đạo Phật, không dám phỉ báng ai hết. Nhất là các vị Tu hành. Chúng tôi học qua kinh Phật dạy rất rõ ràng là: Bước vào Chùa là bước vào “Cửa Không”, và luôn tập tánh Từ-Bi-Hỷ-Xả. Vào Cửa Không là không bị vật chất ràng buộc. Không còn chấp ngả để làm khổ mình khổ người. Từ-Bi-Hỷ-Xả: Chia xẽ tình thương hỷ lạc với chúng sanh, xả bỏ những gì vướng mắc, không chấp ngã không làm chúng ta đau khổ. Duyên khởi từ không trở lại không.
Các Thầy, các Sư Cô đây là những vị đã xuất gia, các Thầy, Sư cô là đệ tử Phật, là con của Phật, học theo Phật. Đại diện cho đức Phật để giáo hóa chúng sanh. Thì các Thầy, Sư cô phải là một người Phật tử thật sự phải giống Phật. Không phải giống Phật ở cái áo, cái đầu. Mà giống cái “Tâm” của Phật. Giống từ suy nghĩ cho đến việc làm. Việc làm của các đức Phật là có lợi ích cho số đông. Trong kinh Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Chư Phật tu là để chịu khổ thế cho chúng sanh. Phật tu từ chổ Có đến chổ Không. Chứ không phải như các Thầy, Sư cô tu từ chổ Không đến chổ Có. Phật tu để gánh hết khổ đau cho nhân loại. Còn các Thầy, Sư Cô tu tạo ra nhiều gánh nặng, nhiều phiền nảo cho Phật tử.
Bởi vậy đa số Phật tử bây giờ trông thấy các Thầy, các Sư cô là phải “Giải thoát” ngay (Chạy trốn vì phải bán ticket cho chùa, hoặc mua giúp ticket cho chùa bạn)! Vậy các Thầy Cô tu để phụng sự ai đây? Các Thầy Cô phụng sự cho Phật tử hay Phật tử phụng sự cho các Thầy Cô? Các Thầy Cô trốn vào Chùa để xây chùa to Phật lớn, ngồi nhà mát ăn bát vàng. Bắt Phật tử làm tôi mọi cho các Thầy Cô. Để các Thầy Cô lợi dụng rồi vắt chanh bỏ vỏ? Mục đích Phật tử chúng tôi đến Chùa là để niệm Phật nghe kinh cầu mong giải thoát. Chứ không phải đến để các Thầy Cô lợi dụng!
“Vào chùa nghe Pháp tụng kinh
Cuối đời mong được đến gần Như Lai”.
Vì tham Tiền làm lợi cho bản thân mình, các Thầy Cô đã lường gạt Phật tử làm đạo Phật mang tai tiếng và làm xấu hổ giòng họ Thích Ca. Chính các Thầy Cô làm cho Phật khóc, Phật chảy máu. Các Thầy Cô làm trái với kỳ vọng của chư Phật và làm trái ước nguyện của chúng tôi. Các Thầy Cô ăn của đàng na tín thí mà không lo tinh tấn tu hành theo Chánh pháp thì sẽ mang lông đội sừng để trả nợ. Các Thầy Cô làm thân Phật chảy máu: Vì đã góp phần làm cho Phật pháp suy đồi. Thì các Thầy Cô sẽ bị đọa Địa Ngục Vô Gián muôn ngàn kiếp!
Thưa các Thầy, các Sư cô, chúng tôi biết thời buổi Mạt Pháp nầy, trong Phật giáo có đủ thành phần: Chánh Sư: Thì tu hành chân chánh, lo cho quê hương thương dân tộc. Tà Sư: Sư Việt Gian vì tiền háo danh, chia rẽ Phật giáo tiếp tay cho cộng sản. Ngụy Sa Môn: Tu giả (Công an cạo đầu trọc: Cộng sản gởi những tên công an cạo đầu trọc nẩy ra hải ngoại để phá chùa chia rẽ Phật tử) chúng mượn áo cà sa, mượn cảnh chùa chiền để gạt gẫm Phật tử làm giàu nhiều lắm. Chúng chẳng tu hành gì cả, chỉ biết kiếm tiền moi tiền Phật tử một cách hợp pháp. Nhìn tướng của chúng bề ngoài là thầy tu, Thân chúng xuất gia mà Tâm chúng không xuất gia, chúng là Quỷ Đỏ chỉ biết Tiền và Tiền. Chúng là Thiên Ma Ba Tuần hóa thân. Các Thầy tu giả nầy dùng cái miệng để lường gạt Phật tử, thì chính cái miệng nầy của chúng cũng đã hại chúng bằng cách tự thú chính chúng nó là tay sai của Cộng sản. Dù chúng có khôn ngoan gian xảo che dấu thì sự thật củng sẽ lòi ra. Bọn cầm quyền Cộng sản VN buôn dân bán nước rỏ ràng như vậy, ai cũng thấy biết, thế mà vẫn còn một số ít người vì ham tiền háo danh vẫn u mê ngu xuẩn, hèn hạ cúi mình khom lung phục dịch chúng nó. Bọn nối giáo cho giặc. Hạng người nầy thật vô minh điên đảo, vô liêm sỉ. Thật Đáng Khinh!
Vẫn biết rằng Ta Bà chuyện xấu tốt gì cũng có, nhưng rất tiếc là có các Thầy chùa Ma Giáo dính vào, các Thầy Ma Giáo nầy đại diện cho Như Lai Mới Giận Chứ ! Các Thầy tu mà cứ làm cho Phật giáo mang tai tiếng, làm cho Phật pháp càng ngày càng lụn bại, môn đồ xa lánh, Phật tử chán chê bỏ chùa. Đó là phá Phật phá pháp, tu theo Tà Đạo. Các Thầy không tu thì thôi chứ đừng núp ở trong chùa phá chùa phá Phật. Xin hỏi các Thầy, các Sư Cô: Các Người có phải là con cháu của Thiên Ma Ba Tuần đầu thai lên để phá con cháu của đức Phật không???
Các Thầy, các Sư cô cũng biết trong kinh Phật có câu: “Tu như đi trên dòng nước ngược, không tiến ắc sẽ lùi”. Các Thầy Cô phải lảm chủ Tâm Ý mình, đừng đánh mất bản thân mình vì tiền. Các Thầy Cô đã xuất thế tục gia, xuất tam giới gia, đã ở trong chùa rồi, đừng ôm chuyện thế gian vào trong chùa nữa! Hãy thúc liễm thân tâm để tu hành đi.
Thế gian nầy quá nhiều đau khổ rồi có gì đáng lưu luyến đâu mà các Thầy Cô tạo nghiệp thêm vậy? Tại sao các Thầy Cô không lo tu để giải thoát? Châm ngôn có câu: “Thanh bần thì an lạc, Trọc phú thì đa ưu”. Đồng tiền chỉ làm cho con người đau khổ mà thôi. Các Thầy đã bị đồng tiền nó khống chế quá rồi, đừng u mê ngu xuẩn nữa hãy tỉnh thức đi. Các Thầy Cô đừng quên câu các vị Bồ Tát đã nói: “Địa Ngục Môn Tiền Tăng Đạo Đa” (Trước cửa Địa Ngục các Thầy tu, các Sư cô đang sắp hàng vô nhiều lắm lắm).
Đất nước VN của chúng ta đang lâm nguy bởi giặc Tàu Cộng bành trướng xâm lấn. Dân tộc VN chúng ta đang đói rách khổ cực dưới chế độ tàn ác của bạo quyền CSVN. Một chế độ Hèn Với Giặc - Ác Với Dân! Tổ Quốc VN, Dân Tộc VN rất Nhục Nhã, rất Uất Hận có một bọn ngu dốt hèn nhát, khom lung cúi đầu đại diện cho dân đang nắm quyền như những tên Mạt (Sang) Vận(Trọng) Yếu (Hùng) Hèn (Dủng).Chúng nó thật trơ trẻn. Các Thầy định bắt chước các tên vô loại bán nước cầu vinh, rước coi dày mã tổ nầy sao? Chỉ biết sống ích kỷ cho bản thân mình mà quên đi Tổ Quốc, quên đi Dân Tộc, nếu vậy thì quá tàn nhẩn, là người thực vật! Nhục nhã lắm. Đáng khinh lắm!
Anh hùng Trần Bình Trọng đã hiên ngang nói với giặc Tàu: “Ta thà làm Quỷ nước Nam, Còn hơn làm Vương đất Bắc” !
Đạo Phật gắng liền với đất nước, với dân tộc. Đạo Phật là Hộ Quốc An Dân. Các Thầy hãy dẹp bỏ đi những ý niệm riêng tư để lo cho Tổ Quốc, cho dân tộc đang lúc lâm nguy. Đó là báo ân cho Tổ Quốc ( một trong tứ ân mà Phật đã dạy). Chứ đừng có suốt ngày chỉ lo lăng xăng đi kiếm tiền thấy thật tội nghiệp. Các Thầy Cô có biết hổ thẹn không? Riêng chúng tôi rất mắc cở giùm các Thầy Cô…
Các Thầy Cô hãy noi gương của Phật hoàng là vua Trần Nhân Tông, Thiền Sư Vạn Hạnh. Khi giặc Tàu phương bắc qua xâm lấn nước ta, Các Ngài đã cởi bỏ áo cà sa đi đánh giặc Tàu để cứu dân cứu nước. Thắng trận rồi các Ngài về đi tu tiếp. Vì: Nước Mất thì Nhà Tan! Hơn nữa bản hoài của người xuất gia là: “ Trên Cầu Phật Đạo - Dưới Cứu Độ Chúng Sanh ”.
Thưa các Thầy, Sư cô, chúng tôi không muốn nhìn thấy lỗi lầm của các Thầy, Sư cô đâu. Không muốn nghe Phật tử than phiền về các Thầy, Sư cô, không muốn biết họ coi thường và khinh rẻ các Thầy, Sư cô. Tôi không cần phải bận tâm suy nghĩ lo lắng những chuyện của các Thầy, Sư cô làm gì. Tôi muốn buông xã tất cả để khỏi ưu phiền, khỏi mệt mõi. Tất cả hãy giao nhờ Phật, Bồ Tát lo. Phật Bồ Tát đã an bày sẳn mọi việc rồi, lo lắng làm gì.
Nhưng chúng tôi không muốn “Người ngoại đạo” họ coi thường và khinh rẻ các Thầy, Sư cô. Vì khi dể các Thầy, Sư cô là họ xem thường đạo Phật. Chê cười đạo Phật. Nên chúng tôi phải lên tiếng.
Chúng tôi muốn các Thầy, Sư cô nên học lại Ngài Châu Lợi Bàn Đặt. Phật dạy Ngài Châu Lợi Bàn Đặt quét hết bụi rát trong đầu ra cho sạch. Còn các Thầy, Sư cô thì phải quét sạch hết tiền bạc danh vọng ra khỏi đầu. Phải rửa sạch, giặt cho thật sạch cái Tâm tham tiền của mình đi, Tâm của các Thầy, Sư cô đầy ấp những ý nghĩ tìm cách móc túi tiền của Phật tử, thì đâu còn Tâm nào để chứa Phật pháp nữa. Tâm có trống trải mới chứa Phật pháp được. Các Thầy, Sư cô lúc nào cũng lo xây chùa, lo tổ chức Đại Nhạc Hội, lo bán cơm gây quỷ… thì đâu còn thì giờ để tu học, để hoằng pháp độ sinh phải không? Các Thầy Cô hãy trì giới thanh tịnh lại đi. Phải khắc phục và Sám hối ngay.
Kinh Kim Cang có dạy: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.
“ Ham chi Danh Lợi Sắc Tài
Vô thường chợt đến cũng hoàn tay không ”
Chúng tôi viết cái thư nầy có nhiều điều sơ sót lầm lổi, vì chúng tôi là những Phật tử sơ cơ, mới làm quen với Phật pháp vài năm. Mong các Thầy, Sư Cô thông cãm tha thứ. Chúng tôi biết các Thầy là Sư là Tăng là Ni phải rành kinh Phật hơn chúng tôi nhiều. Chúng tôi chỉ nhắc nhở sợ các Thầy quên vì quá bận rộn lo kiếm tiền mà tạo nghiệp.
Các Thầy Cô xuống Địa Ngục còn muốn kéo đám Phật tử chúng tôi theo, vì các Thầy Cô làm sai không đúng lời Phật dạy nên chúng tôi phê bình chỉ trích các Thầy Cô… Làm chúng tôi cũng có tội luôn!
“ Nữa khuya ngắm bóng trăng tà.
Nhìn vì sao lạc xót xa kiếp người ”.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính chào các Thầy, các Sư cô.
Phật tử : Nguyên Thanh - Diệu An.