Linh Mục hay Đinh Mục
Tôi là thằng HO sang Mỹ chưa được lâu nên vẫn chưa quen với sinh hoạt bên xứ tự do này. Nhưng khi nghe bạn tôi bàn tán về việc tổ chức ngày chiến thắng mùa xuân của linh mục Vũ Thành và hai hội đồng gật ở giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Houston nên mới dám chia sẻ chút cảm nghĩ thật của tôi.
Khi còn trong trại tù của cộng sản, tôi đã từng bị chúng hành hạ và bắt tôi nằm ngửa để tên cán bộ đái lên mặt mình vì tôi đã dám cãi lại lời bình phẩm nhục mạ của chúng về tôn giáo của tôi. Nhưng quả thật điều đó không hề làm tôi đau lòng bằng khi nghĩ tới lời của tên cán bộ, chúng nói: “Mày nghĩ chúng sẽ là các linh mục mãi sao? Đảng chỉ cần cho chúng quyền, cho chúng tiền, cho chúng gái là chúng sẽ trở thành các “Đinh Mục” hết”. Và tên cán bộ còn giải nghĩa thêm: “Vì chúng sẽ bị rỉ sét, và khi chiếc đinh đã bị rỉ sét rồi thì mày biết đó, đâu còn dùng được, có khi còn gây ra bệnh phong đòn gánh khiến đám công giáo của chúng mày sẽ bị bệnh kinh phong giật chết hết mày biết không?”.
Viết tới đây tự nhiên tôi không cầm được lòng mình…. Thật chua xót phải không qúy vị. Chính vì thế mới có các linh mục quốc doanh, những linh mục làm tay sai cho cộng sản, những linh mục đã sẵn sàng hưởng lộc và quên đi chức năng và đời sống cơ hàn và thánh hoá của mình.
Cộng sản đã khôn khéo dùng gậy ông đập lưng ông, dùng chính các linh mục làm suy thoái đức tin của người công giáo bằng cách kết nạp và khuyên cáo các linh mục phải biết ăn gian nói dối, phải biết lợi lộc cá nhân, phải biết cầu danh ham vọng, phải biết làm lũng đoạn cộng đồng, làm tê bại hàng giáo phẩm và nhất là phải biết vâng lời và nghe theo đường lối của đảng để sẵn sàng trở thành đinh-mục của chúng…
Vì thế, khi nghe bạn tôi bàn về việc làm của linh mục Vũ Thành mà không khỏi nghĩ đến lời của tên cán bộ, và nhất là câu hỏi trong đầu tôi luôn bị ám ảnh bởi việc làm của linh mục Vũ Thành những năm gần đây như mấy người bạn tôi bàn tán, ông đã tổ chức mừng 40 năm làm linh mục tới hai lần tại Mỹ và không những thế còn về Việt nam tổ chức thêm một lần nữa mà lần nào cũng bốn năm chục bàn… hỏi có mấy linh mục nào “khiêm nhường” và “nghèo khó” như linh mục Vũ Thành không? Đã làm linh mục mà còn ham danh cầu thực như thế thì làm sao giáo dân không khỏi bàn tán, và nhất là, nếu qúy vị nào rành về thuế vụ bên Mỹ, hãy thử tìm hiểu những tiền mà linh mục Vũ Thành cầu thực trong những ngày đó đi về đâu và có khai báo không? Và nếu đi xa hơn hãy kiểm tra tài sản của linh mục Vũ Thành biết đâu chúng ta chẳng phải giật mình vì tiền đâu mà lắm thế…Dĩ nhiên nếu là những kẻ gian dối thì sẽ luôn có trăm ngàn lý do, nhất là gian dối theo đường lối cộng sản, cứ đổ cho người nghèo, kẻ khó là xong hết…
Đây chỉ là câu hỏi của một HO đến muộn, không hiểu luật pháp Hoa Kỳ. Nhưng điều quan trọng là hiện nay linh mục Vũ Thành đương nhiên thách thức cộng đồng Người Việt Quốc Gia, Hội Đồng Liên Tôn, các Đoàn thể đấu tranh, các phong trào kháng chiến và nhất là cộng đồng Công Giáo thuần chất để tuyên chiến và sẵn sàng tổ chức “Ngày Chiến Thắng Mùa Xuân” của cộng sản ngay trên đất Hoa Kỳ …
Chúng tôi, những thằng HO không thể nào chấp nhận sự khinh miệt của linh mục Vũ Thành và đám hội đồng gật của giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt nam tại Houston đã phủi tay và bôi nhọ những công lao chiến đấu ròng rã bao năm và những gian khổ cực hình trong trại giam ngục tù cộng sản của những thằng lính chiến HO chúng tôi…. Nhưng nghĩ lại, hay vì linh mục Vũ Thành đi tu với mục đích để trốn quân dịch hơn là vì lý tưởng nên làm sao hiểu đươc cuộc đời lính chiến và bổn phận làm trai…. Đau lòng thay.
Người xưa nói, miếng ăn là miếng nhục, nhưng có thể vì đã trở thành đinh mục rồi thì miếng ăn trở thành miếng vinh, vì nhờ nó mà cơ hội làm mục rữa giáo hội và hàng giáo phẩm mới đúng theo quan thầy cộng sản. Và nếu vậy thì chúng ta có nên gọi linh mục Vũ Thành là đinh mục Vũ Thành hay không? Một câu hỏi và tùy qúy vị trả lời.
HO
Tôi là thằng HO sang Mỹ chưa được lâu nên vẫn chưa quen với sinh hoạt bên xứ tự do này. Nhưng khi nghe bạn tôi bàn tán về việc tổ chức ngày chiến thắng mùa xuân của linh mục Vũ Thành và hai hội đồng gật ở giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Houston nên mới dám chia sẻ chút cảm nghĩ thật của tôi.
Khi còn trong trại tù của cộng sản, tôi đã từng bị chúng hành hạ và bắt tôi nằm ngửa để tên cán bộ đái lên mặt mình vì tôi đã dám cãi lại lời bình phẩm nhục mạ của chúng về tôn giáo của tôi. Nhưng quả thật điều đó không hề làm tôi đau lòng bằng khi nghĩ tới lời của tên cán bộ, chúng nói: “Mày nghĩ chúng sẽ là các linh mục mãi sao? Đảng chỉ cần cho chúng quyền, cho chúng tiền, cho chúng gái là chúng sẽ trở thành các “Đinh Mục” hết”. Và tên cán bộ còn giải nghĩa thêm: “Vì chúng sẽ bị rỉ sét, và khi chiếc đinh đã bị rỉ sét rồi thì mày biết đó, đâu còn dùng được, có khi còn gây ra bệnh phong đòn gánh khiến đám công giáo của chúng mày sẽ bị bệnh kinh phong giật chết hết mày biết không?”.
Viết tới đây tự nhiên tôi không cầm được lòng mình…. Thật chua xót phải không qúy vị. Chính vì thế mới có các linh mục quốc doanh, những linh mục làm tay sai cho cộng sản, những linh mục đã sẵn sàng hưởng lộc và quên đi chức năng và đời sống cơ hàn và thánh hoá của mình.
Cộng sản đã khôn khéo dùng gậy ông đập lưng ông, dùng chính các linh mục làm suy thoái đức tin của người công giáo bằng cách kết nạp và khuyên cáo các linh mục phải biết ăn gian nói dối, phải biết lợi lộc cá nhân, phải biết cầu danh ham vọng, phải biết làm lũng đoạn cộng đồng, làm tê bại hàng giáo phẩm và nhất là phải biết vâng lời và nghe theo đường lối của đảng để sẵn sàng trở thành đinh-mục của chúng…
Vì thế, khi nghe bạn tôi bàn về việc làm của linh mục Vũ Thành mà không khỏi nghĩ đến lời của tên cán bộ, và nhất là câu hỏi trong đầu tôi luôn bị ám ảnh bởi việc làm của linh mục Vũ Thành những năm gần đây như mấy người bạn tôi bàn tán, ông đã tổ chức mừng 40 năm làm linh mục tới hai lần tại Mỹ và không những thế còn về Việt nam tổ chức thêm một lần nữa mà lần nào cũng bốn năm chục bàn… hỏi có mấy linh mục nào “khiêm nhường” và “nghèo khó” như linh mục Vũ Thành không? Đã làm linh mục mà còn ham danh cầu thực như thế thì làm sao giáo dân không khỏi bàn tán, và nhất là, nếu qúy vị nào rành về thuế vụ bên Mỹ, hãy thử tìm hiểu những tiền mà linh mục Vũ Thành cầu thực trong những ngày đó đi về đâu và có khai báo không? Và nếu đi xa hơn hãy kiểm tra tài sản của linh mục Vũ Thành biết đâu chúng ta chẳng phải giật mình vì tiền đâu mà lắm thế…Dĩ nhiên nếu là những kẻ gian dối thì sẽ luôn có trăm ngàn lý do, nhất là gian dối theo đường lối cộng sản, cứ đổ cho người nghèo, kẻ khó là xong hết…
Đây chỉ là câu hỏi của một HO đến muộn, không hiểu luật pháp Hoa Kỳ. Nhưng điều quan trọng là hiện nay linh mục Vũ Thành đương nhiên thách thức cộng đồng Người Việt Quốc Gia, Hội Đồng Liên Tôn, các Đoàn thể đấu tranh, các phong trào kháng chiến và nhất là cộng đồng Công Giáo thuần chất để tuyên chiến và sẵn sàng tổ chức “Ngày Chiến Thắng Mùa Xuân” của cộng sản ngay trên đất Hoa Kỳ …
Chúng tôi, những thằng HO không thể nào chấp nhận sự khinh miệt của linh mục Vũ Thành và đám hội đồng gật của giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt nam tại Houston đã phủi tay và bôi nhọ những công lao chiến đấu ròng rã bao năm và những gian khổ cực hình trong trại giam ngục tù cộng sản của những thằng lính chiến HO chúng tôi…. Nhưng nghĩ lại, hay vì linh mục Vũ Thành đi tu với mục đích để trốn quân dịch hơn là vì lý tưởng nên làm sao hiểu đươc cuộc đời lính chiến và bổn phận làm trai…. Đau lòng thay.
Người xưa nói, miếng ăn là miếng nhục, nhưng có thể vì đã trở thành đinh mục rồi thì miếng ăn trở thành miếng vinh, vì nhờ nó mà cơ hội làm mục rữa giáo hội và hàng giáo phẩm mới đúng theo quan thầy cộng sản. Và nếu vậy thì chúng ta có nên gọi linh mục Vũ Thành là đinh mục Vũ Thành hay không? Một câu hỏi và tùy qúy vị trả lời.
HO
Lấy Vải Thưa Che Mắt Thánh
Tôi rất ngạc nhiên khi biết linh mục Vũ Thành là một thành viên của Hội Đồng Liên Tôn, một hội đồng kết hợp các thẩm quyền của các tôn giáo khác nhau như một hình thức cần thiết kết giao để cùng nhau giúp đỡ và xây dựng sự đoàn kết giữa các tôn giáo hầu mong sao các tôn giáo sống trong hoà hợp và cùng chung lý tưởng….
Và trong chiều hướng tích cực đó, tôi tự hỏi không biết Hội Đồng Liên Tôn có cùng chung ý hướng bắt tay và đoàn kết với linh mục Vũ Thành để biến ngày quốc hận thành ngày mừng chiến thắng của nhà cầm quyền cộng sản ngay trên đất Hoa Kỳ, nơi mà chúng ta đã được cưu mang là người tị nạn.
Hội Đồng Liên Tôn phải chăng đã được linh mục Vũ Thành bàn bạc và góp ý với quyết tâm dùng quyền và danh dự của mình để bán đứng lương tâm chính mình hầu toa rập cùng nhau tuyên chiến với Người Việt Quốc Gia và các đoàn thể đấu tranh để làm bàn đạp cho cộng sản.
Hội Đồng Liên Tôn có thực sự là những người đại diện cho các tôn giáo hay chỉ là nhóm người mua danh qua hình thức khác nhau mà quên đi nhiệm vụ và lý tưởng của mình để tiếp tay và thâm giao với cộng sản qua linh mục Vũ Thành và nhóm hội đồng gật của giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Houston để bán đứng danh dự giáo xứ và niềm tin tôn giáo cũng như niềm tin vào các linh mục
Hội Đồng Liên Tôn có đi tham dự thánh lễ mà linh mục Vũ Thành sẽ dùng làm vải thưa che mắt Thánh để che đậy sự dối trá và lòng tham của mình không? Vì các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà và những người Việt Nam đã cùng cực vì cộng sản chắc chắn sẽ không cần thánh lễ cầu nguyện với tâm bất chính của linh mục Vũ Thành, vì theo như tín lý công giáo tự nó đã bất thành.
Và cuối cùng tôi tự hỏi, tại sao Hội Đồng Liên Tôn và các linh mục thuộc giáo phận và toàn Hoa kỳ không lên tiếng và đồng thanh tẩy chay linh mục Vũ Thành đã a dua với nhà cầm quyền cộng sản để làm nhục người Việt quốc gia như chúng đã từng đổi tên Sàigòn thành thành phồ Hồ Chí Minh (Hồ Mất Dậy) và nay đổi ngày quốc hận thành ngày ăn mừng mùa xuân chiến thắng trên đất tự do.
Xin qúy vị trong Hội Đồng Liên Tôn và các linh mục hãy vì dân tộc lên tiếng, nếu không chẳng hoá ra qúy vị cũng là đồng môn đồng tình với linh mục Vũ Thành sao?
Việt Nam ơi… bao giờ mới hết những kẻ bán nước, những kẻ toa rập cầu vinh và những kẻ dùng vải thưa che mắt thánh…
Người Lính VN
Tôi rất ngạc nhiên khi biết linh mục Vũ Thành là một thành viên của Hội Đồng Liên Tôn, một hội đồng kết hợp các thẩm quyền của các tôn giáo khác nhau như một hình thức cần thiết kết giao để cùng nhau giúp đỡ và xây dựng sự đoàn kết giữa các tôn giáo hầu mong sao các tôn giáo sống trong hoà hợp và cùng chung lý tưởng….
Và trong chiều hướng tích cực đó, tôi tự hỏi không biết Hội Đồng Liên Tôn có cùng chung ý hướng bắt tay và đoàn kết với linh mục Vũ Thành để biến ngày quốc hận thành ngày mừng chiến thắng của nhà cầm quyền cộng sản ngay trên đất Hoa Kỳ, nơi mà chúng ta đã được cưu mang là người tị nạn.
Hội Đồng Liên Tôn phải chăng đã được linh mục Vũ Thành bàn bạc và góp ý với quyết tâm dùng quyền và danh dự của mình để bán đứng lương tâm chính mình hầu toa rập cùng nhau tuyên chiến với Người Việt Quốc Gia và các đoàn thể đấu tranh để làm bàn đạp cho cộng sản.
Hội Đồng Liên Tôn có thực sự là những người đại diện cho các tôn giáo hay chỉ là nhóm người mua danh qua hình thức khác nhau mà quên đi nhiệm vụ và lý tưởng của mình để tiếp tay và thâm giao với cộng sản qua linh mục Vũ Thành và nhóm hội đồng gật của giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Houston để bán đứng danh dự giáo xứ và niềm tin tôn giáo cũng như niềm tin vào các linh mục
Hội Đồng Liên Tôn có đi tham dự thánh lễ mà linh mục Vũ Thành sẽ dùng làm vải thưa che mắt Thánh để che đậy sự dối trá và lòng tham của mình không? Vì các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà và những người Việt Nam đã cùng cực vì cộng sản chắc chắn sẽ không cần thánh lễ cầu nguyện với tâm bất chính của linh mục Vũ Thành, vì theo như tín lý công giáo tự nó đã bất thành.
Và cuối cùng tôi tự hỏi, tại sao Hội Đồng Liên Tôn và các linh mục thuộc giáo phận và toàn Hoa kỳ không lên tiếng và đồng thanh tẩy chay linh mục Vũ Thành đã a dua với nhà cầm quyền cộng sản để làm nhục người Việt quốc gia như chúng đã từng đổi tên Sàigòn thành thành phồ Hồ Chí Minh (Hồ Mất Dậy) và nay đổi ngày quốc hận thành ngày ăn mừng mùa xuân chiến thắng trên đất tự do.
Xin qúy vị trong Hội Đồng Liên Tôn và các linh mục hãy vì dân tộc lên tiếng, nếu không chẳng hoá ra qúy vị cũng là đồng môn đồng tình với linh mục Vũ Thành sao?
Việt Nam ơi… bao giờ mới hết những kẻ bán nước, những kẻ toa rập cầu vinh và những kẻ dùng vải thưa che mắt thánh…
Người Lính VN
Vuốt Mặt Phải Nể Mũi
Đọc Email của Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Hoa Kỳ, mà tôi cảm thấy xót xa cho người Việt Quốc Gia hải ngoại vẫn có những linh mục đã lợi dụng chức quyền để xập xí xập mầu, giả mù xa mưa đương nhiên biến ngày quốc hận trở thành ngày đại hội liên hoan, mừng chiến thắng, ngay trong giáo đường Công Giáo, một tôn giáo đã có tiếng chống cộng từ suốt bao năm qua……
Phải chăng, bộ mặt Cộng đồng Người Việt Quốc Gia nói chung và người Công Giáo Việt Nam tại thành phố Houston đã quá phẳng, hay mũi đã bị thẩm mỹ nên linh mục Vũ Thành đã không ngần ngại dơ bàn tay nhám vuốt nhẹ không còn kiêng nể, để chứng minh lòng trung thành bằng hình thức liên hoan, để biến ngày quốc hận dần dần đi vào dĩ vãng ….
Chúng ta không thể nói là trùng hợp, vì với sự “thông thái” của một linh mục hiển nhiên biết rất rõ từng chi tiết cội nguồn của ngày tháng, nhất là ngày đó lại là ngày 30 tháng tư, ngày quốc hận, ngày dân tộc Việt đã phải ngậm đắng nuốt cay mang bao tang tóc vì bọn cầm quyền cộng sản. Chúng ta trả lời sao với con em chúng ta ngay bây giờ và sau này khi tiếng khóc và buồn trở thành những tiếng vỗ tay, những hân hoan vui mừng chúc tụng trong ngày mất nước? Linh mục Vũ Thành và nhóm bồ nhìn của Giáo xứ CTTĐ/VN/Houston phải chăng đã chủ tâm đi theo chiến dịch dầu loang, mỗi năm tiến một bước và biết đâu một ngày nào đó Người Việt Quốc Gia tại Houston sẽ chứng kiến cờ xí ngập trời, nhưng không còn là cờ vàng ba xọc đỏ mà là cờ đỏ sao vàng khát máu tưng bừng nơi Giáo xứ CTTĐ/VN/Houston.
Người Việt Quốc Gia cần phải lên tiếng, nếu cần chúng ta đồng biểu tình như những người Công giáo tại quê nhà, tại Giáo xứ CTTĐ/VN/Houston, hầu cắt đứt ngay từ trứng nước hơn là để linh mục Vũ Thành coi thuờng Người Việt Quốc Gia và cộng đồng Công Giáo toàn quốc thản nhiên vuốt mặt. Nhất là đừng để linh mục Vũ Thành biến ngày quốc hận trở thành ngày triều cống lũ cầm quyền cộng sản Việt Nam tại quê nhà.
Người Ngoại Giáo
Đọc Email của Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Hoa Kỳ, mà tôi cảm thấy xót xa cho người Việt Quốc Gia hải ngoại vẫn có những linh mục đã lợi dụng chức quyền để xập xí xập mầu, giả mù xa mưa đương nhiên biến ngày quốc hận trở thành ngày đại hội liên hoan, mừng chiến thắng, ngay trong giáo đường Công Giáo, một tôn giáo đã có tiếng chống cộng từ suốt bao năm qua……
Phải chăng, bộ mặt Cộng đồng Người Việt Quốc Gia nói chung và người Công Giáo Việt Nam tại thành phố Houston đã quá phẳng, hay mũi đã bị thẩm mỹ nên linh mục Vũ Thành đã không ngần ngại dơ bàn tay nhám vuốt nhẹ không còn kiêng nể, để chứng minh lòng trung thành bằng hình thức liên hoan, để biến ngày quốc hận dần dần đi vào dĩ vãng ….
Chúng ta không thể nói là trùng hợp, vì với sự “thông thái” của một linh mục hiển nhiên biết rất rõ từng chi tiết cội nguồn của ngày tháng, nhất là ngày đó lại là ngày 30 tháng tư, ngày quốc hận, ngày dân tộc Việt đã phải ngậm đắng nuốt cay mang bao tang tóc vì bọn cầm quyền cộng sản. Chúng ta trả lời sao với con em chúng ta ngay bây giờ và sau này khi tiếng khóc và buồn trở thành những tiếng vỗ tay, những hân hoan vui mừng chúc tụng trong ngày mất nước? Linh mục Vũ Thành và nhóm bồ nhìn của Giáo xứ CTTĐ/VN/Houston phải chăng đã chủ tâm đi theo chiến dịch dầu loang, mỗi năm tiến một bước và biết đâu một ngày nào đó Người Việt Quốc Gia tại Houston sẽ chứng kiến cờ xí ngập trời, nhưng không còn là cờ vàng ba xọc đỏ mà là cờ đỏ sao vàng khát máu tưng bừng nơi Giáo xứ CTTĐ/VN/Houston.
Người Việt Quốc Gia cần phải lên tiếng, nếu cần chúng ta đồng biểu tình như những người Công giáo tại quê nhà, tại Giáo xứ CTTĐ/VN/Houston, hầu cắt đứt ngay từ trứng nước hơn là để linh mục Vũ Thành coi thuờng Người Việt Quốc Gia và cộng đồng Công Giáo toàn quốc thản nhiên vuốt mặt. Nhất là đừng để linh mục Vũ Thành biến ngày quốc hận trở thành ngày triều cống lũ cầm quyền cộng sản Việt Nam tại quê nhà.
Người Ngoại Giáo
Thư Phản đối
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA HOA KỲ
The Vietnamese American Community of the USA
16204 Viki Lynn Pl., Pflugerville, TX 78660
Websites: http://tienggoicongdan.com, vacusa.wordpress.com
Email: [email protected], [email protected]
Kính gửi Linh Mục Giuse Vũ Thành
Giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
10610 Kingpoint, Houston, TX 77075
Về việc: Phản đối việc tổ chức Hội Chợ nhằm ngày Quốc Hận 30-4.
Kính thưa Linh Mục,
Chúng tôi kính gửi đến Linh Mục và giáo hữu thuộc Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Houston lời thăm hỏi và chúc mọi sự bình an trong ơn Thiên Triệu.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu ngày Cộng Sản chiếm đoạt miền Nam. Từ đó, gieo rắc bao đau thuơng, uất hận và dẫn đến ngày nay, 42 năm sau, nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng. Thiết tưởng chúng ta không mất thì giờ để kể lể những điều đau thương mà 42 năm qua người Việt Nam đã từng biết, từng trải qua sau ngày mà tất cả chúng ta đã gọi là Ngày Quốc Hận.
Cũng vì gọi đó là Ngày Quốc Hận, người Việt tại hải ngoại đã minh thị, đồng ý rằng khắp nơi, nếu có diều kiện thì phải tổ chức tưởng niệm để đánh dấu, nhắc nhở các thế hệ sau về ngày đau thương, mất nước; mà không bao giờ tổ chức lễ hội, ca hát, nhảy múa, vui chơi trong ngày này.
Chúng tôi vô cùng thắc mắc khi hay tin Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Houston sắp tổ chức Hôi Chợ Mùa Xuân vào ba ngày 28, 29, và 30 tháng 4, năm 2017. Đã có rất nhiều điện thư, điện thoại từ khắp nơi gửi cho chúng tôi để tỏ sự bất bình và thúc bách chúng tôi phải lên tiếng với quý Linh Mục.
Kính thưa Linh Mục,
Chúng tôi không biết bản thân Linh Mục đã rời Việt Nam đến Hoa Kỳ trong thành phần vượt biên tị nạn hay bảo lãnh để hành đạo; nhưng chúng tôi biết rất chắc chắn rằng tuyệt đại đa số giáo dân của Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Houston là những người tị nạn. Chắc họ sẽ không hài long khi Linh Mục tổ chức Hội Xuân vào đúng ngày Quốc Hận.
Nhất là trong hoàn cảnh hiện nay tại Việt Nam, các Giáo Xứ toàn quốc đang rầm rộ tổ chứcTổng Biểu Tình liên tiếp trong các ngày Chủ Nhật để chống sự xâm lược của Trung Cộng và bán nước của tập đoàn Cộng Sản Việt Nam. Tất cả những đoàn thể, tổ chức tại hải ngoại đã đồng loạt lên tiếng hỗ trợ. Chúng tôi thiết tưởng quý Linh Mục và tín đồ trong Giáo Xứ lại càng nên tích cực yểm trợ cho công cuộc đấu tranh vì sự sống còn của tổ quốc Việt Nam, thay vì tổ chức vui xuân (muộn màng) trùng vào ngày Quốc Hận.
Chúng tôi xin đề nghị Giáo Xứ dời ngày vui vào một ngày khác để tránh dư luận không tốt về quan điểm lập trường của quý Linh Mục.
Xin cầu xin Thiên Chúa ban cho Linh Mục sự sáng suốt và cảm thông với đồng bào Việt Nam.
Trân trọng.
Hoa Kỳ ngày 21 tháng 3, 2017
T.M Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ.
CT Hội Đồng Chấp Hành
Đỗ Văn Phúc
Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành
Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT QUỐC GIA HOA KỲ
The Vietnamese American Community of the USA
16204 Viki Lynn Pl., Pflugerville, TX 78660
Websites: http://tienggoicongdan.com, vacusa.wordpress.com
Email: [email protected], [email protected]
Kính gửi Linh Mục Giuse Vũ Thành
Giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
10610 Kingpoint, Houston, TX 77075
Về việc: Phản đối việc tổ chức Hội Chợ nhằm ngày Quốc Hận 30-4.
Kính thưa Linh Mục,
Chúng tôi kính gửi đến Linh Mục và giáo hữu thuộc Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Houston lời thăm hỏi và chúc mọi sự bình an trong ơn Thiên Triệu.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu ngày Cộng Sản chiếm đoạt miền Nam. Từ đó, gieo rắc bao đau thuơng, uất hận và dẫn đến ngày nay, 42 năm sau, nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng. Thiết tưởng chúng ta không mất thì giờ để kể lể những điều đau thương mà 42 năm qua người Việt Nam đã từng biết, từng trải qua sau ngày mà tất cả chúng ta đã gọi là Ngày Quốc Hận.
Cũng vì gọi đó là Ngày Quốc Hận, người Việt tại hải ngoại đã minh thị, đồng ý rằng khắp nơi, nếu có diều kiện thì phải tổ chức tưởng niệm để đánh dấu, nhắc nhở các thế hệ sau về ngày đau thương, mất nước; mà không bao giờ tổ chức lễ hội, ca hát, nhảy múa, vui chơi trong ngày này.
Chúng tôi vô cùng thắc mắc khi hay tin Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Houston sắp tổ chức Hôi Chợ Mùa Xuân vào ba ngày 28, 29, và 30 tháng 4, năm 2017. Đã có rất nhiều điện thư, điện thoại từ khắp nơi gửi cho chúng tôi để tỏ sự bất bình và thúc bách chúng tôi phải lên tiếng với quý Linh Mục.
Kính thưa Linh Mục,
Chúng tôi không biết bản thân Linh Mục đã rời Việt Nam đến Hoa Kỳ trong thành phần vượt biên tị nạn hay bảo lãnh để hành đạo; nhưng chúng tôi biết rất chắc chắn rằng tuyệt đại đa số giáo dân của Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Houston là những người tị nạn. Chắc họ sẽ không hài long khi Linh Mục tổ chức Hội Xuân vào đúng ngày Quốc Hận.
Nhất là trong hoàn cảnh hiện nay tại Việt Nam, các Giáo Xứ toàn quốc đang rầm rộ tổ chứcTổng Biểu Tình liên tiếp trong các ngày Chủ Nhật để chống sự xâm lược của Trung Cộng và bán nước của tập đoàn Cộng Sản Việt Nam. Tất cả những đoàn thể, tổ chức tại hải ngoại đã đồng loạt lên tiếng hỗ trợ. Chúng tôi thiết tưởng quý Linh Mục và tín đồ trong Giáo Xứ lại càng nên tích cực yểm trợ cho công cuộc đấu tranh vì sự sống còn của tổ quốc Việt Nam, thay vì tổ chức vui xuân (muộn màng) trùng vào ngày Quốc Hận.
Chúng tôi xin đề nghị Giáo Xứ dời ngày vui vào một ngày khác để tránh dư luận không tốt về quan điểm lập trường của quý Linh Mục.
Xin cầu xin Thiên Chúa ban cho Linh Mục sự sáng suốt và cảm thông với đồng bào Việt Nam.
Trân trọng.
Hoa Kỳ ngày 21 tháng 3, 2017
T.M Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ.
CT Hội Đồng Chấp Hành
Đỗ Văn Phúc
Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành
Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ
Chuyện Sang – Hèn
Người Việt thường dùng cách nói: Giàu sang và nghèo hèn. “Giàu” thường kèm theo “sang”, còn “nghèo” thường kèm theo “hèn”. Nhưng thực ra có khi “giàu” mà không “sang”, hoặc “nghèo” mà không “hèn”.
Chắc hẳn không ai muốn nghèo, và càng chắc chắn hơn là chẳng ai muốn hèn. Cũng vậy, ai cũng muốn mình giàu và sang. Nhưng người chịu cảnh “đời hèn” khác hẳn với người “sống hèn”. Người nghèo bị coi là hèn, nhưng có thể người đó không hề sống hèn; còn người giàu luôn được coi là sang, nhưng chưa hẳn đã “sống sang” mà thậm chí còn “sống hèn”. Đó mới là chuyện đáng nói!
Người ta nói vui: “Đi xe le hơn đi bộ, đi bộ ngộ hơn đi xe”. Chưa chắc ai hơn ai! Tiền nhân cũng đã phân tích và xác định rõ ràng:
Chớ thấy áo rách mà cười
Những giống gà nòi lông nó lơ thơ.
Ở đời, người ta không chỉ “đi” bằng đôi chân mà còn phải “đi” bằng cái đầu. Hơn thua nhau là “cách đi”.
Một hôm, ông Êlia đi Xarépta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống” (1 V 17:10). Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (1 V 17:11). Bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết” (1 V 17:12). Nhưng ông Êlia liền nói: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà” (1 V 17:13). Rồi ông nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17:14).
Bà góa ấy đi và làm như ông Êlia nói, không hề đắn đo hoặc so hơn tính thiệt. Điều đó chứng tỏ bà ấy có lòng tin mạnh mẽ, vì bà ấy tin ông Êlia nói thật, đặc biệt là bà ấy vững tin vào lời Chúa hứa. Và phép lạ đã xảy ra đúng như vậy: Bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán. Quả thật, bà góa này nghèo khổ nhưng vẫn “sống sang”, vẫn trọn lòng yêu thương và bác ái.
Cấp độ yêu thương đó mới là bác ái – bình thường thì chúng ta chỉ ở mức bố thí (cho để tránh bị quấy rầy) hoặc công bằng (dư thì cho, thậm chí chỉ là đồ thừa). Bác ái cho cái mà mình vẫn cần, đó là cấp độ yêu thương cao nhất. Những người sống bác ái thực sự mới đúng là thánh nhân!
Thiên Chúa là nguồn sống và nguồn yêu thương: “Ngài là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Chính Ngài “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, yêu chuộng những người công chính, phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7b-9). Thiên Chúa yêu quý và tôn trọng những người nghèo khổ và hèn mọn, không thích “quen thân” với những người giàu có và sang trọng. Thế còn chúng ta thì sao?
Tình yêu của Ngài là thế đấy, Thánh Tâm Chúa Giêsu là vậy đó, theo cách gọi mới của ngày nay là Lòng Chúa Thương Xót. Tất cả vẫn chỉ là một. Vâng, chính Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10), cao sang là thế, uy quyền là thế, giàu có là thế, nhưng Ngài lại chỉ thân thiện với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ai sống như Ngài mới đích thực là đệ tử của Ngài.
Thánh Phaolô minh định: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9:24). Ngài vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. Chẳng vậy, “Ngài đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành” (Dt 9:26a).
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vào kỳ kết thúc thời gian, Ngài đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9:26b). Con Thiên Chúa đã chịu chết để cho phàm nhân chúng ta biết thân phận mình cũng phải chết, chết cho tội lỗi: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Chính Đức Kitô đã “tự hiến tế chỉ một lần để xoá bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9:28a). Và Ngài sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này “không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Ngài” (Dt 9:28b).
Những người trông đợi Đức Kitô giáng lâm là ai? Đó là những người tín thác vào Chúa, ai tín thác vào Chúa thì phải sống đức tin, mà người có đức tin thì phải yêu thương tha nhân, nhưng yêu tha nhân không phải yêu thương người cùng phe với mình, người giàu sang, người có địa vị, người có quyền thế,… mà PHẢI thành tâm yêu thương những người khốn cùng trong xã hội, yêu bằng hành động thực tế chứ không yêu bằng lời nói suông. Đó là thể hiện đức tin, là thực hành Lòng Chúa Thương Xót, và cũng là thực hành Giáo huấn Xã hội Công giáo!
Trong một lần giảng dạy, Đức Giêsu nói: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12:38-40). Đọc câu này của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta nghĩ Ngài nói người khác chứ mình không liên quan. Lầm to. Ngài nói thẳng với mỗi chúng ta chứ “còn ai trồng khoai đất này” nữa? Chúng ta không có vẻ vênh vang ra mặt, nhưng chúng ta có cách thể hiện “ta đây” một cách rất tinh vi, người ngoài khó có thể nhận ra.
Văn hóa và phong cách mỗi nước, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc khác nhau, nhưng vẫn có “nét” nào đó tương tự. Người xưa thường mặc khăn đóng và áo dài, nhất là những người có chức có quyền, nhưng họ có hai loại áo dài: Một loại có vạt trước ngắn (vạt sau dài), một loại có vạt sau ngắn (vạt trước dài). Áo gì kỳ vậy, và để làm gì?
Vạt nào dài hay ngắn đều có công dụng của nó. Khi đứng trước vua chúa hoặc ông quan lớn hơn mình, họ mặc áo-dài-có-vạt-trước-ngắn và vạt-sau-dài. Nghĩa là họ phải khom lưng, phải qụy lụy, chịu “lép vế”, chịu luồn cúi,… cần có vạt trước ngắn để không vướng víu, vạt sau dài để che chắn “khu nhạy cảm”. Nhưng khi đứng trước đám dân đen, họ mặc áo-dài-có-vạt-sau-ngắn và vạt-trước-dài. Nghĩa là họ ưỡn ngực, cao ngạo, vênh vang, hống hách, truyền lệnh, thị uy, hét ra lửa,… cần có vạt trước dài để che chắn và vạt sau ngắn để không vướng víu.
Mỗi chúng ta cũng thường có hai loại áo ấy để… “tùy cơ ứng biến”. Nhưng những loại “áo đặc biệt” đó ngày nay là loại “siêu trang phục”, khó phát hiện vạt nào dài và vạt nào ngắn!
Hôm đó, khi vào Đền Thờ, Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền (hòm tiền, giỏ tiền) dâng cúng cho Đền Thờ. Ngài quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó thế nào. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền, họ ngó quanh rồi hãnh diện “giơ cao, thả mạnh”. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma, bà lúi cúi đến gần thùng tiền rồi bước đi nhanh, sợ người khác nhìn thấy.
Xin mở ngoặc nhỏ: Theo Hy ngữ, đồng tiền kẽm gọi là “lepton” (số ít, “lepta” là số nhiều). HAI đồng kẽm có giá trị bằng MỘT quadrans, tương đương 1/4 đồng xu Rôma – đơn vị tiền tệ nhỏ nhất của đế quốc Rôma thời đó. Khi lưu hành ở Palestine, một lepton trị giá khoảng “sáu phút làm công” theo lương trung bình mỗi ngày.
Thấy “phong cách” của mỗi người khác nhau, Ngài liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12:43). Quá “sốc”! Quá khó lọt tai! Nhưng lại hoàn toàn đúng, vì “mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12:44).
Có nhiều người trong chúng ta vẫn ảo tưởng đi làm từ thiện hoặc làm những việc mà chúng ta gọi là “việc bác ái” hoặc “việc tông đồ”, cho rằng như vậy là “oai” lắm, nhưng đôi khi chỉ là “chiếc áo tàng hình”. Lời Chúa hôm nay khiến chúng ta phải tự minh định lại động lực thúc đẩy mình hành động.
Ngày 29-10-2012, website CWN đưa một tin ngắn về việc Đức TGM Socrates Villegas, TGP Lingayen-Dagupan (Philippines), viết thư gởi các linh mục thuộc giáo phận của ngài, trong đó ngài nhấn mạnh: “Chư huynh linh mục thân mến, các bí tích không được cử hành để lấy tiền. Thương mại hóa sự thánh thiêng là buôn thần bán thánh (practice of simony). Đó là tội lỗi”. Giám mục cương quyết như vậy mới đúng là chủ chăn đích thực của Chúa, vì lợi ích cho Chúa và dân Chúa.
Đó là một trong những điều khiến chúng ta phải “giật mình” mà phải “xét mình” nghiêm túc hơn, trước khi Đức Kitô đến thế gian lần thứ hai để xét xử!
Lạy Thiên Chúa, chúng con cúi đầu và đấm ngực mà xin lỗi Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Con Chúa là sẵn sàng chia sẻ mọi nỗi đau những con người nhỏ bé nhất hằng ngày ở bên cạnh chúng con, bằng cách mở rộng tấm lòng và mở rộng đôi tay để sáng danh Chúa chứ không vì danh tiếng của chúng con, để cứu các linh hồn, và để đền tội riêng của chúng con. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Người Việt thường dùng cách nói: Giàu sang và nghèo hèn. “Giàu” thường kèm theo “sang”, còn “nghèo” thường kèm theo “hèn”. Nhưng thực ra có khi “giàu” mà không “sang”, hoặc “nghèo” mà không “hèn”.
Chắc hẳn không ai muốn nghèo, và càng chắc chắn hơn là chẳng ai muốn hèn. Cũng vậy, ai cũng muốn mình giàu và sang. Nhưng người chịu cảnh “đời hèn” khác hẳn với người “sống hèn”. Người nghèo bị coi là hèn, nhưng có thể người đó không hề sống hèn; còn người giàu luôn được coi là sang, nhưng chưa hẳn đã “sống sang” mà thậm chí còn “sống hèn”. Đó mới là chuyện đáng nói!
Người ta nói vui: “Đi xe le hơn đi bộ, đi bộ ngộ hơn đi xe”. Chưa chắc ai hơn ai! Tiền nhân cũng đã phân tích và xác định rõ ràng:
Chớ thấy áo rách mà cười
Những giống gà nòi lông nó lơ thơ.
Ở đời, người ta không chỉ “đi” bằng đôi chân mà còn phải “đi” bằng cái đầu. Hơn thua nhau là “cách đi”.
Một hôm, ông Êlia đi Xarépta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống” (1 V 17:10). Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (1 V 17:11). Bà trả lời: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết” (1 V 17:12). Nhưng ông Êlia liền nói: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà” (1 V 17:13). Rồi ông nhắc lại lời hứa của Thiên Chúa: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn, cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17:14).
Bà góa ấy đi và làm như ông Êlia nói, không hề đắn đo hoặc so hơn tính thiệt. Điều đó chứng tỏ bà ấy có lòng tin mạnh mẽ, vì bà ấy tin ông Êlia nói thật, đặc biệt là bà ấy vững tin vào lời Chúa hứa. Và phép lạ đã xảy ra đúng như vậy: Bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán. Quả thật, bà góa này nghèo khổ nhưng vẫn “sống sang”, vẫn trọn lòng yêu thương và bác ái.
Cấp độ yêu thương đó mới là bác ái – bình thường thì chúng ta chỉ ở mức bố thí (cho để tránh bị quấy rầy) hoặc công bằng (dư thì cho, thậm chí chỉ là đồ thừa). Bác ái cho cái mà mình vẫn cần, đó là cấp độ yêu thương cao nhất. Những người sống bác ái thực sự mới đúng là thánh nhân!
Thiên Chúa là nguồn sống và nguồn yêu thương: “Ngài là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” (Tv 146:7a). Chính Ngài “giải phóng những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, yêu chuộng những người công chính, phù trợ những khách ngoại kiều, nâng đỡ cô nhi quả phụ, phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7b-9). Thiên Chúa yêu quý và tôn trọng những người nghèo khổ và hèn mọn, không thích “quen thân” với những người giàu có và sang trọng. Thế còn chúng ta thì sao?
Tình yêu của Ngài là thế đấy, Thánh Tâm Chúa Giêsu là vậy đó, theo cách gọi mới của ngày nay là Lòng Chúa Thương Xót. Tất cả vẫn chỉ là một. Vâng, chính Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, là Đấng “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10), cao sang là thế, uy quyền là thế, giàu có là thế, nhưng Ngài lại chỉ thân thiện với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ai sống như Ngài mới đích thực là đệ tử của Ngài.
Thánh Phaolô minh định: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 9:24). Ngài vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. Chẳng vậy, “Ngài đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành” (Dt 9:26a).
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vào kỳ kết thúc thời gian, Ngài đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (Dt 9:26b). Con Thiên Chúa đã chịu chết để cho phàm nhân chúng ta biết thân phận mình cũng phải chết, chết cho tội lỗi: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27). Chính Đức Kitô đã “tự hiến tế chỉ một lần để xoá bỏ tội lỗi muôn người” (Dt 9:28a). Và Ngài sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này “không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Ngài” (Dt 9:28b).
Những người trông đợi Đức Kitô giáng lâm là ai? Đó là những người tín thác vào Chúa, ai tín thác vào Chúa thì phải sống đức tin, mà người có đức tin thì phải yêu thương tha nhân, nhưng yêu tha nhân không phải yêu thương người cùng phe với mình, người giàu sang, người có địa vị, người có quyền thế,… mà PHẢI thành tâm yêu thương những người khốn cùng trong xã hội, yêu bằng hành động thực tế chứ không yêu bằng lời nói suông. Đó là thể hiện đức tin, là thực hành Lòng Chúa Thương Xót, và cũng là thực hành Giáo huấn Xã hội Công giáo!
Trong một lần giảng dạy, Đức Giêsu nói: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12:38-40). Đọc câu này của Chúa Giêsu, có lẽ chúng ta nghĩ Ngài nói người khác chứ mình không liên quan. Lầm to. Ngài nói thẳng với mỗi chúng ta chứ “còn ai trồng khoai đất này” nữa? Chúng ta không có vẻ vênh vang ra mặt, nhưng chúng ta có cách thể hiện “ta đây” một cách rất tinh vi, người ngoài khó có thể nhận ra.
Văn hóa và phong cách mỗi nước, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc khác nhau, nhưng vẫn có “nét” nào đó tương tự. Người xưa thường mặc khăn đóng và áo dài, nhất là những người có chức có quyền, nhưng họ có hai loại áo dài: Một loại có vạt trước ngắn (vạt sau dài), một loại có vạt sau ngắn (vạt trước dài). Áo gì kỳ vậy, và để làm gì?
Vạt nào dài hay ngắn đều có công dụng của nó. Khi đứng trước vua chúa hoặc ông quan lớn hơn mình, họ mặc áo-dài-có-vạt-trước-ngắn và vạt-sau-dài. Nghĩa là họ phải khom lưng, phải qụy lụy, chịu “lép vế”, chịu luồn cúi,… cần có vạt trước ngắn để không vướng víu, vạt sau dài để che chắn “khu nhạy cảm”. Nhưng khi đứng trước đám dân đen, họ mặc áo-dài-có-vạt-sau-ngắn và vạt-trước-dài. Nghĩa là họ ưỡn ngực, cao ngạo, vênh vang, hống hách, truyền lệnh, thị uy, hét ra lửa,… cần có vạt trước dài để che chắn và vạt sau ngắn để không vướng víu.
Mỗi chúng ta cũng thường có hai loại áo ấy để… “tùy cơ ứng biến”. Nhưng những loại “áo đặc biệt” đó ngày nay là loại “siêu trang phục”, khó phát hiện vạt nào dài và vạt nào ngắn!
Hôm đó, khi vào Đền Thờ, Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền (hòm tiền, giỏ tiền) dâng cúng cho Đền Thờ. Ngài quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó thế nào. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền, họ ngó quanh rồi hãnh diện “giơ cao, thả mạnh”. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma, bà lúi cúi đến gần thùng tiền rồi bước đi nhanh, sợ người khác nhìn thấy.
Xin mở ngoặc nhỏ: Theo Hy ngữ, đồng tiền kẽm gọi là “lepton” (số ít, “lepta” là số nhiều). HAI đồng kẽm có giá trị bằng MỘT quadrans, tương đương 1/4 đồng xu Rôma – đơn vị tiền tệ nhỏ nhất của đế quốc Rôma thời đó. Khi lưu hành ở Palestine, một lepton trị giá khoảng “sáu phút làm công” theo lương trung bình mỗi ngày.
Thấy “phong cách” của mỗi người khác nhau, Ngài liền gọi các môn đệ lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12:43). Quá “sốc”! Quá khó lọt tai! Nhưng lại hoàn toàn đúng, vì “mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12:44).
Có nhiều người trong chúng ta vẫn ảo tưởng đi làm từ thiện hoặc làm những việc mà chúng ta gọi là “việc bác ái” hoặc “việc tông đồ”, cho rằng như vậy là “oai” lắm, nhưng đôi khi chỉ là “chiếc áo tàng hình”. Lời Chúa hôm nay khiến chúng ta phải tự minh định lại động lực thúc đẩy mình hành động.
Ngày 29-10-2012, website CWN đưa một tin ngắn về việc Đức TGM Socrates Villegas, TGP Lingayen-Dagupan (Philippines), viết thư gởi các linh mục thuộc giáo phận của ngài, trong đó ngài nhấn mạnh: “Chư huynh linh mục thân mến, các bí tích không được cử hành để lấy tiền. Thương mại hóa sự thánh thiêng là buôn thần bán thánh (practice of simony). Đó là tội lỗi”. Giám mục cương quyết như vậy mới đúng là chủ chăn đích thực của Chúa, vì lợi ích cho Chúa và dân Chúa.
Đó là một trong những điều khiến chúng ta phải “giật mình” mà phải “xét mình” nghiêm túc hơn, trước khi Đức Kitô đến thế gian lần thứ hai để xét xử!
Lạy Thiên Chúa, chúng con cúi đầu và đấm ngực mà xin lỗi Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương Con Chúa là sẵn sàng chia sẻ mọi nỗi đau những con người nhỏ bé nhất hằng ngày ở bên cạnh chúng con, bằng cách mở rộng tấm lòng và mở rộng đôi tay để sáng danh Chúa chứ không vì danh tiếng của chúng con, để cứu các linh hồn, và để đền tội riêng của chúng con. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
MUA PHƯỢNG HOÀNG GIẢ.
Ở đất Sở có người gánh một gánh chim trĩ, người đi đường hỏi:
- “Đây là chim gì ?”
Người gánh chim trĩ nói dối:
- “Phượng hoàng”.
Người đi đường nói:
- “Tôi nghe nói đến phượng hoàng từ lâu rồi, hôm nay mới thật sự chứng kiến, anh có thể bán không ?
Người gánh chim trĩ nói:
- “Có thể !”
Người đi đường bèn lấy một ngàn đồng tiền để mua, người gánh chim trĩ cố ý không bán, người đi đường tăng giá tiền gấp đôi mới mua được “phượng hoàng”, chuẩn bị đem đi dâng tặng cho Sở vương, bởi vì đường đi rất xa, sau mấy ngày đi thì “phượng hoàng” chết mất tiêu. Người đi đường không vì thế mà tiếc hai ngàn đồng, chỉ hận là không thể dâng tặng cho Sở vương mà thôi.
Đến quốc đô, mọi người đều quay lại nhìn nhìn và đều cho rằng đó chính là phượng hoàng, rất là quý báu, phải tìm cách dâng tiến Sở vương. Sở vương nghe được chuyện ấy, rất cảm kích lòng thành của người đi đường đối với mình, liền cho triệu anh ta vào và ban cho anh ta số tiền gấp mười lần số tiền mà anh ta mua “phượng hoàng”.
(Tiếu lâm)
Suy tư 38:
Việt Nam chúng ta có câu nói như sau để “chê” mấy người có lòng thật thà như sau: “thật thà là cha thằng dại” ; “thật quá hóa ngu”. Tôi không hiểu tại sao lại có câu ấy ?
Nhưng thật ra, người thật thà không phải là vì họ dại, mà vì họ không có lòng tham, không có tâm hồn bon chen với mọi người, và cũng không thèm tranh chấp với ai. Nếu đem cái thật thà ra mà đọ với sự ma lanh tham lam của người đời, thì đúng là “cha thằng dại” thật, nhưng như thế có ích gì cho phần rỗi đời đời chứ ?
Đức Chúa Giê-su đã dạy chúng ta: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Hiền lành cũng là thật thà, bởi vì người thật thà thì không đi gây hấn với người khác, không giành giựt của ai điều chi, nên họ không gây chiến với ai. Họ không tham của cải đời này, nên họ được gia nghiệp ở trên trời; vì họ không ma giáo tranh đua để giành giựt chức quyền địa vị ở đời này, nên họ được chúc phúc; còn những người luôn dùng tài trí thông minh, khôn khéo của mình để ức hiếp, khinh chê những người công chính thật thà, thì sách Huấn Ca đã nói như sau :
“Có cái khôn khéo đáng ghê tởm,
người thiếu khôn ngoan là kẻ ngu đần.
Thà trí hiểu kém mà biết kính sợ,
còn hơn khôn khéo mà vi phạm lề luật.
Có cái khôn khéo tinh vi mà lại bất công,
có kẻ tráo trở nhân nghĩa để đem lẽ phải về mình.
Có kẻ xấu (bên ngoài) thì lom khom, rầu rĩ,
Mà (trong) lòng lại đầy xảo trá mưu mô”.
Theo con mắt của người đời, người thật thà nhất là những người “dâng mình làm tôi Đức Chúa Trời”, đó chính là các linh mục, tu sĩ nam nữ, bởi vì các đấng bậc ấy đã bỏ mọi sự thế gian mà đi làm môn đệ Chúa, thì đâu cần phải tranh chấp quyền hành, đâu cần giành giựt miếng ăn và càng không thèm đấu tố tranh tụng với người khác, cho nên tóm lại, họ là những người thật thà và hiền lành nhất vậy.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
Ở đất Sở có người gánh một gánh chim trĩ, người đi đường hỏi:
- “Đây là chim gì ?”
Người gánh chim trĩ nói dối:
- “Phượng hoàng”.
Người đi đường nói:
- “Tôi nghe nói đến phượng hoàng từ lâu rồi, hôm nay mới thật sự chứng kiến, anh có thể bán không ?
Người gánh chim trĩ nói:
- “Có thể !”
Người đi đường bèn lấy một ngàn đồng tiền để mua, người gánh chim trĩ cố ý không bán, người đi đường tăng giá tiền gấp đôi mới mua được “phượng hoàng”, chuẩn bị đem đi dâng tặng cho Sở vương, bởi vì đường đi rất xa, sau mấy ngày đi thì “phượng hoàng” chết mất tiêu. Người đi đường không vì thế mà tiếc hai ngàn đồng, chỉ hận là không thể dâng tặng cho Sở vương mà thôi.
Đến quốc đô, mọi người đều quay lại nhìn nhìn và đều cho rằng đó chính là phượng hoàng, rất là quý báu, phải tìm cách dâng tiến Sở vương. Sở vương nghe được chuyện ấy, rất cảm kích lòng thành của người đi đường đối với mình, liền cho triệu anh ta vào và ban cho anh ta số tiền gấp mười lần số tiền mà anh ta mua “phượng hoàng”.
(Tiếu lâm)
Suy tư 38:
Việt Nam chúng ta có câu nói như sau để “chê” mấy người có lòng thật thà như sau: “thật thà là cha thằng dại” ; “thật quá hóa ngu”. Tôi không hiểu tại sao lại có câu ấy ?
Nhưng thật ra, người thật thà không phải là vì họ dại, mà vì họ không có lòng tham, không có tâm hồn bon chen với mọi người, và cũng không thèm tranh chấp với ai. Nếu đem cái thật thà ra mà đọ với sự ma lanh tham lam của người đời, thì đúng là “cha thằng dại” thật, nhưng như thế có ích gì cho phần rỗi đời đời chứ ?
Đức Chúa Giê-su đã dạy chúng ta: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Hiền lành cũng là thật thà, bởi vì người thật thà thì không đi gây hấn với người khác, không giành giựt của ai điều chi, nên họ không gây chiến với ai. Họ không tham của cải đời này, nên họ được gia nghiệp ở trên trời; vì họ không ma giáo tranh đua để giành giựt chức quyền địa vị ở đời này, nên họ được chúc phúc; còn những người luôn dùng tài trí thông minh, khôn khéo của mình để ức hiếp, khinh chê những người công chính thật thà, thì sách Huấn Ca đã nói như sau :
“Có cái khôn khéo đáng ghê tởm,
người thiếu khôn ngoan là kẻ ngu đần.
Thà trí hiểu kém mà biết kính sợ,
còn hơn khôn khéo mà vi phạm lề luật.
Có cái khôn khéo tinh vi mà lại bất công,
có kẻ tráo trở nhân nghĩa để đem lẽ phải về mình.
Có kẻ xấu (bên ngoài) thì lom khom, rầu rĩ,
Mà (trong) lòng lại đầy xảo trá mưu mô”.
Theo con mắt của người đời, người thật thà nhất là những người “dâng mình làm tôi Đức Chúa Trời”, đó chính là các linh mục, tu sĩ nam nữ, bởi vì các đấng bậc ấy đã bỏ mọi sự thế gian mà đi làm môn đệ Chúa, thì đâu cần phải tranh chấp quyền hành, đâu cần giành giựt miếng ăn và càng không thèm đấu tố tranh tụng với người khác, cho nên tóm lại, họ là những người thật thà và hiền lành nhất vậy.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
CẮT THỊT TẶNG VỢ.
Hoàng đế hạ lệnh đem thịt tặng thưởng cho các đại thần, đã muộn rồi mà viên quan quản lý không đến phân chia, Đông Phương Sóc bèn lấy kiếm cắt thịt và nói với các đồng liêu:
- “Mùa oi bức nên về sớm một chút”, nói xong bèn bưng thịt trở về nhà.
Ngày hôm sau, có người đem chuyện này nói với hoàng đế, hoàng đế liền triệu Đông Phương Sóc lại tra hỏi, Đông Phương Sóc lột mũ quỳ xuống tạ tội, hoàng thượng nói
- “Ông đứng dậy và nên tự mình trách mình”.
Đông Phương Sóc lại quỳ xuống lạy, nói:
- “Đông Phương Sóc hỡi, Đông Phương Sóc hỡi, vì đón nhận phần thưởng gấp gáp không thể chờ được, nên vô lễ biết bao à ! Lấy kiếm cắt thịt, anh dũng biết bao à ! Cắt thịt không nhiều, liêm khiết biết bao à ! Về nhà tặng vợ, nhân ái biết bao à !”
Hoàng đế cười lớn:
- “Ta kêu ông tự mình trách mình, nhưng ông lại nói để khen ngợi mình !”
Rồi lại tặng thưởng cho Đông Phương Sóc một trăm vò rượu và một trăm cân thịt, để ông ta đem về tặng vợ.
(Hán thư)
Suy tư 31
Đông Phương Sóc không biện tội cho mình, cũng không xin tha tội, ông chỉ thành thật nói lên tâm trạng của mình mà thôi, thế là ông ta không bị phạt, không bị cách chức, trái lại còn được vua thưởng rượu và thịt đem về.
Thành thật là một đức tính tốt, không những trong cuộc sống thường ngày, mà còn ngay cả trong đời sống linh đạo tu đức nữa, thành thật làm cho tâm hồn ta được thoải mái, bình an và vui sướng.
Người đời cần sống thành thật với nhau, các tu sĩ nam nữ cần phải sống thành thật hơn người đời gấp bội, vì bản tính của các tu sĩ là thành thật, không những thành thật với mọi người, mà cần phải thành thật ngay cả với chính bản thân của mình nữa.
Linh mục tu sĩ không cắt thịt tặng vợ như Đông Phương Sóc, nhưng cũng có lúc “cắt” tiền thau trong nhà thờ, cắt tiền quyên góp xây dựng nhà thờ để mua nhà riêng, sắm của riêng cho mình và cho bà con anh chị em của mình. Tại sao vậy ?
Thưa, bởi vì khi đã không thành thật với bản thân mình thì sinh ra kiêu ngạo, nói dối và gian trá, không những trong các việc nhỏ mà ngay cả trong các việc lớn nữa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
Hoàng đế hạ lệnh đem thịt tặng thưởng cho các đại thần, đã muộn rồi mà viên quan quản lý không đến phân chia, Đông Phương Sóc bèn lấy kiếm cắt thịt và nói với các đồng liêu:
- “Mùa oi bức nên về sớm một chút”, nói xong bèn bưng thịt trở về nhà.
Ngày hôm sau, có người đem chuyện này nói với hoàng đế, hoàng đế liền triệu Đông Phương Sóc lại tra hỏi, Đông Phương Sóc lột mũ quỳ xuống tạ tội, hoàng thượng nói
- “Ông đứng dậy và nên tự mình trách mình”.
Đông Phương Sóc lại quỳ xuống lạy, nói:
- “Đông Phương Sóc hỡi, Đông Phương Sóc hỡi, vì đón nhận phần thưởng gấp gáp không thể chờ được, nên vô lễ biết bao à ! Lấy kiếm cắt thịt, anh dũng biết bao à ! Cắt thịt không nhiều, liêm khiết biết bao à ! Về nhà tặng vợ, nhân ái biết bao à !”
Hoàng đế cười lớn:
- “Ta kêu ông tự mình trách mình, nhưng ông lại nói để khen ngợi mình !”
Rồi lại tặng thưởng cho Đông Phương Sóc một trăm vò rượu và một trăm cân thịt, để ông ta đem về tặng vợ.
(Hán thư)
Suy tư 31
Đông Phương Sóc không biện tội cho mình, cũng không xin tha tội, ông chỉ thành thật nói lên tâm trạng của mình mà thôi, thế là ông ta không bị phạt, không bị cách chức, trái lại còn được vua thưởng rượu và thịt đem về.
Thành thật là một đức tính tốt, không những trong cuộc sống thường ngày, mà còn ngay cả trong đời sống linh đạo tu đức nữa, thành thật làm cho tâm hồn ta được thoải mái, bình an và vui sướng.
Người đời cần sống thành thật với nhau, các tu sĩ nam nữ cần phải sống thành thật hơn người đời gấp bội, vì bản tính của các tu sĩ là thành thật, không những thành thật với mọi người, mà cần phải thành thật ngay cả với chính bản thân của mình nữa.
Linh mục tu sĩ không cắt thịt tặng vợ như Đông Phương Sóc, nhưng cũng có lúc “cắt” tiền thau trong nhà thờ, cắt tiền quyên góp xây dựng nhà thờ để mua nhà riêng, sắm của riêng cho mình và cho bà con anh chị em của mình. Tại sao vậy ?
Thưa, bởi vì khi đã không thành thật với bản thân mình thì sinh ra kiêu ngạo, nói dối và gian trá, không những trong các việc nhỏ mà ngay cả trong các việc lớn nữa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
BÀI GIẢNG KHÓ
Giáo dân nói với cha sở là bài giảng Chúa Nhật vừa rồi cha giảng không lưu loát lắm, dù đề tài không mấy khó khăn, cha sở cười cười nói “chữa” vì có lẽ cha lo ra không cầm lòng cầm trí.
Thực ra nội dung Phúc Âm của Chúa Nhật tuần rồi là ”từ bỏ mọi sự để theo Chúa, sống khó nghèo…” đối với ngài chẳng có gì khó cả, vì ngài đã giảng rất nhiều lần về đề tài này. Nhưng hôm nay ngài biết mình giảng không lưu loát và cảm thấy khó giảng và cảm thấy gượng gùng, vì ngài vừa xây một căn nhà lớn đồ sộ hơn tỉ đồng cho mình để chuẩn bị sau này về hưu.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Giáo dân nói với cha sở là bài giảng Chúa Nhật vừa rồi cha giảng không lưu loát lắm, dù đề tài không mấy khó khăn, cha sở cười cười nói “chữa” vì có lẽ cha lo ra không cầm lòng cầm trí.
Thực ra nội dung Phúc Âm của Chúa Nhật tuần rồi là ”từ bỏ mọi sự để theo Chúa, sống khó nghèo…” đối với ngài chẳng có gì khó cả, vì ngài đã giảng rất nhiều lần về đề tài này. Nhưng hôm nay ngài biết mình giảng không lưu loát và cảm thấy khó giảng và cảm thấy gượng gùng, vì ngài vừa xây một căn nhà lớn đồ sộ hơn tỉ đồng cho mình để chuẩn bị sau này về hưu.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
KINH CẦU HẰNG NGÀY CHO LINH MỤC
Lạy Chúa là Cha trên trời, - chúng con tạ ơn Cha đã thương ban cho Giáo Hội tại Việt Nam - nhiều linh mục chăm sóc đoàn Dân Chúa. Xin Cha thương gìn giữ và bảo vệ các linh mục - vượt qua đêm tối của gian truân và thử thách. Xin Cha ban ơn đổi mới cho các linh mục - ngày càng trở nên mục tử như lòng Cha mong muốn.
Xin Cha thương ban ơn soi sáng các linh mục biết mở rộng tâm trí đón nhận Lời Chúa, - là Lời ban ánh sáng chân lý và sức sống mới, - là Lời nuôi dưỡng tâm tình, tư tưởng và con tim mục tử của linh mục, - để cuộc đời linh mục toả sáng lòng từ ái bao dung của Vị Mục Tử nhân lành đối với mọi người, - nhất là người nghèo khổ và bị bỏ rơi.
Xin Cha thương ban ơn trợ giúp cho các linh mục – biết luôn gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể, - biết mở rộng con tim tiếp nhận nguồn lực tình yêu hiệp nhất và khiêm tốn phục vụ, - để qua đời sống cùng sứ vụ linh mục, - Dân Chúa cảm nhận Chúa đang đồng hành với họ, - soi đường dẫn lối cho họ đi đến Nguồn Chân Lý tròn đầy, - tiến đến Suối Tình Yêu vô biên và Mạch Sống dồi dào.
Nhờ Lời cầu bầu của Thánh Mẫu La Vang - cùng các thánh Tử đạo Việt Nam - xin Cha thương giúp sức cho các linh mục - biết quy tụ mọi người trong yêu thương và an bình, - chung sức xây dựng Giáo Hội thành muối men và ánh sáng Tin Mừng cứu độ, - cho cộng đồng dân tộc cùng Thế giới hôm nay.
Tác giả: HY. Phạm Minh Mẫn
Lạy Chúa là Cha trên trời, - chúng con tạ ơn Cha đã thương ban cho Giáo Hội tại Việt Nam - nhiều linh mục chăm sóc đoàn Dân Chúa. Xin Cha thương gìn giữ và bảo vệ các linh mục - vượt qua đêm tối của gian truân và thử thách. Xin Cha ban ơn đổi mới cho các linh mục - ngày càng trở nên mục tử như lòng Cha mong muốn.
Xin Cha thương ban ơn soi sáng các linh mục biết mở rộng tâm trí đón nhận Lời Chúa, - là Lời ban ánh sáng chân lý và sức sống mới, - là Lời nuôi dưỡng tâm tình, tư tưởng và con tim mục tử của linh mục, - để cuộc đời linh mục toả sáng lòng từ ái bao dung của Vị Mục Tử nhân lành đối với mọi người, - nhất là người nghèo khổ và bị bỏ rơi.
Xin Cha thương ban ơn trợ giúp cho các linh mục – biết luôn gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể, - biết mở rộng con tim tiếp nhận nguồn lực tình yêu hiệp nhất và khiêm tốn phục vụ, - để qua đời sống cùng sứ vụ linh mục, - Dân Chúa cảm nhận Chúa đang đồng hành với họ, - soi đường dẫn lối cho họ đi đến Nguồn Chân Lý tròn đầy, - tiến đến Suối Tình Yêu vô biên và Mạch Sống dồi dào.
Nhờ Lời cầu bầu của Thánh Mẫu La Vang - cùng các thánh Tử đạo Việt Nam - xin Cha thương giúp sức cho các linh mục - biết quy tụ mọi người trong yêu thương và an bình, - chung sức xây dựng Giáo Hội thành muối men và ánh sáng Tin Mừng cứu độ, - cho cộng đồng dân tộc cùng Thế giới hôm nay.
Tác giả: HY. Phạm Minh Mẫn
CÁI NGAI HAY CÁI GHẾ ?
Điền Phương Thảo
Nếu có cơ hội đến viếng thăm các ngôi thánh đường, đặc biệt là những thánh đường vừa được xây cất trong khoảng thời gian hơn 10 năm trở lại đây, người ta dễ dàng nhận thấy sự hoành tráng, nguy nga trong kiến trúc và các vật dụng trang bị bên trong. Ngoài những tượng đài lộng lẫy nhằm mục đích tôn vinh Đấng Chí Tôn, còn có sự xuất hiện của một vật không kém phần uy nghi nhưng để lại tôn vinh con người đó là ” cái ghế” của dành cho linh mục chủ tế.
Được đặt để ngay trung tâm của mọi tầm nhìn, cái ghế quả là biểu hiện của uy lực với những đường cong uốn lượn được chạm trổ một cách tỉ mĩ, công phu. Sự lộng lẫy, tôn nghiêm trong cảnh quang của cung thánh, cộng hưởng với dáng vẻ uy nghi của chiếc ghế, khiến người ta không thể không liên tưởng đến hình ảnh của những cái ngai giữa chốn hoàng triều.
Dù rất ít, nhưng cũng có một số nhà thờ , chiếc ghế của linh mục chủ tế được đặt khiêm tốn ở một bên hông của cung thánh và được thiết kế cũng rất giản dị. Nghĩa là vị trí và hình thức của chiếc ghế hoàn toàn phụ thuộc vào tính cách của chủ thể sử dụng. Ở một nơi rao giảng Lời của Đấng đến để sống và phục vụ cho những người cùng khổ, một cái ghế sang trọng một cách không cần thiết chỉ là hình chiếu của tính phô trương, chuộng hình thức, óc phong kiến của một số các giáo sĩ, linh mục, tu sĩ tại Việt Nam hiện nay.
Chuyện xưa kể rằng có một ông Vua tỏ ra rất hãnh diện và sung sướng vì mỗi khi ngự trị trên ngai vàng để đăng triều, ông nhìn thấy bá quan văn võ đều cúi rạp mình trước chiếc ngai của ông. Ông cảm thấy tự hào vì mình thật là một bậc hào kiệt xuất chúng khiến mọi người phải cúc cung tận tuỵ như vậy. Ông nghĩ rằng những cái bái lạy đó chắc chắn là dành cho giá trị của chính bản thân ông. Thế rồi khi thời cuộc thay đổi, ” thế gian biến cải vũng nên đồi” khiến ông bị lật đổ xuống khỏi ngai vàng. Trong thân phận của một kẻ hạ dân, không ai muốn dành cho ông ngay cả một câu chào. Trong niềm đắng cay về ” mặn nhạt chua cay” của thế thái nhân tình, ông chua xót nhận ra một điều rằng, hoá ra bấy lâu ông đã tự huyển hoặc về mình, thiên hạ không hề quý trọng giá trị của chính bản thân ông, họ chỉ coi trọng ” cái ghế” và họ sẵn sàng tung hô chúc tụng bất cứ chủ thể nào được đặt để hay sở hữu cái ghế ấy.
Cũng có ý kiến cho rằng những vị ngồi trên những chiếc ghế ấy cũng phải đạt được những điều kiện nhất định về năng lực, đạo đức, vì thế việc họ được có một vị trí trang trọng như thế âu cũng là xứng đáng ? Thế nhưng thật là huyển hoặc khi tin rằng giá trị bản thân mình được nâng cao khi ngự trị trên những chiếc ngai lộng lẫy đó. Nếu đời sống một linh mục mà biết ưu tư chăm sóc đời sống đạo cho giáo dân, thao thức trong từng tư duy của bài gỉảng sao cho mỗi bài giảng là một bữa ăn tinh thần phong phú, bổ dưỡng cho đời sống tinh thần của giáo dân. Làm công tác mục vụ trong tinh thần đạo đức và phục vụ, đồng thời cũng chuyên tâm nghiên cứu học hỏi thêm để làm phong phú đời sống nội tâm trong đức tin thì dù có ngồi trên chiếc ghế gỗ đơn sơ trong nhà thờ, trong cái nhìn của giáo dân, vị ấy vẫn có được một sự tôn trọng và kính mến một cách đích thực.
Vật chất là kết quả của ý thức, có suy nghĩ rồi mới có hành động, vì thế việc thi nhau thiết kế những chiếc ngai trong nhà thờ cũng là kết quả của một não trạng còn vương vấn chủ nghiã phong kiến. Có lẽ điều đó cũng thích hợp trong một giai đoạn xã hội nào đó, nhưng hiện nay, ngay bây giờ thì không. Vì nó sẽ là nguyên nhân tạo ra những tác phong thiếu nhân bản trong giao tế, những khập khiểng trong các mối quan hệ xã hội, không còn thích hợp với đời, với người, và quan trọng nhất là không phù hợp với tinh thần của Phúc Âm.
Ngồi trên một cái ghế uy nghi, tất nhiên đòi hỏi chủ thể sử dụng cũng phải có những cử điệu, phong thái sao cho cũng toát lên một uy lực phù hợp. Điều này quả thật là không cần thiết, nếu không muốn nói là không đúng với tinh thần của một người thay mặt Chúa đón những con chiên đi về nhà Cha của mình. Có người cha nào đón con về nhà của mình với một phong cách xa lạ, kiêu sa như thế không ? Cũng có ý kiến cho rằng việc các tu sĩ, linh mục cần phải giữ một phong cách như thế là để phù hợp với cái nhìn, cái nghĩ xưa nay đã khắc sâu vào trong não trạng của giáo dân ? Linh mục là người thay mặt Chúa, nên họ đóng khung các Ngài vào trong tất cả các giá trị của chức thánh. Thế nhưng, việc giáo dục một đức tin thực sự trưởng thành cho giáo dân vẫn không là điều bất khả thi nếu những người có trách nhiệm giáo huấn thực sự không cố thủ óc phong kiến ? Có câu ” dĩ độc trị độc” , nếu giáo dân đã xem Cha là người của Chúa, lời của Cha là lời của Chúa và linh mục gần như được ơn bất khả ngộ thì tại sao các Ngài không “lợi dụng” ngay sự yêu mến và kính trọng cách cực đoan của không ít giáo dân trong mối tương quan giữa tu sĩ và giáo dân để hướng dẫn họ đến những thay đổi thực sự mang lại lợi ích cho việc rao giảng hồng ân ơn Cứu Độ ? Hay nguyên nhân chính là ở chỗ các Ngài cũng không hề muốn có sự thay đổi ? Và đó cũng là lý do ngày càng có nhiều cái ghế hoành tráng như một cái ngai xuất hiện trên cung thánh
Trong bài “ Đức Phanxicô- 1 năm trên ngai Giáo hoàng” có viết : “Ấn tượng đầu tiên của Giáo hoàng Phanxicô đối với thế giới mà tờ Le Figaro gọi là “fenomena” (hiện tượng phi thường) đó là phong cách gần gũi giản dị, dễ gần dân chúng của vị tân Giáo hoàng. Báo chí đã dành nhiều bài để nói về Giáo hoàng Phanxicô không đi xe Limousine mới, biển ưu tiên của Vatican mà vẫn đi chiếc xe cũ, vẫn ở căn nhà trọ Santa Matta và trực tiếp trả tiền trọ chứ không phải ở biệt thự cao cấp dành cho Giáo hoàng trong Tòa thánh Vatican . Ngài vẫn ở trong khu nhà chung cư 2 phòng, tự đốt lò sưởi trong mùa đông chứ không dùng điều hòa, không ở biệt thự của Tổng Giám mục, vẫn đi xe bus hàng ngày và vẫn tự nấu ăn lấy. Ngày lễ tấn phong Giáo hoàng, ngài từ chối đội vương miện, đeo nhẫn vàng, đi giày đỏ như các vị tiền nhiệm mà vẫn dùng trang phục cũ, chỉ khác chiếc khăn choàng trắng trên vai”. Dù vậy “ Tạp chí Forbes đã xếp Giáo hoàng Phanxicô là nhân vật quyền lực nhất thế giới năm 2013 sau nguyên thủ Nga, Mỹ và Trung Quốc”.
Hai thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của một con người là ngày mình sinh ra và ngày mình chết đi. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn nơi sinh của mình là một máng cỏ nghèo hèn, mà chúng ta đang chiêm ngắm trong đại lễ Giáng Sinh của Ngài hôm nay. Và khi chết, Ngài lại treo mình trên một thập giá gỗ sần sùi, thô kệch. Nhưng máng cỏ hay cây thập tự đều có giá trị tôn kính hơn bất cứ ngai vàng nào trên thế gian này, vì đó đều là biểu tượng của tình yêu. Tất cả những vật mọn hèn thô sơ đó không có giá trị tự thân, nhưng chính Đấng ngự trên những vật ấy đã mặc cho nó một giá trị, làm cho nó trở nên có ý nghĩa. Hang đá Belem được toàn thể nhân loại biết đến và ngày xưa Ba Vua cũng phải tìm đến để phủ phục tôn thờ , hay cây Thập Giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và cái chết cũng là vì có sự ngự trị của Thiên Chúa Tối Cao.
Ước mong sao cái ghế trên cung thánh được trả về đúng với hình thức và ý nghĩa của nó, nhất là để phù hợp với những người đang thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cho Người Nghèo . Đừng để con cháu chúng ta sau này thắc mắc rằng ” vào thời ấy Việt Nam còn trong chế độ phong kiến hay sao mà lại để cái ngai nằm ở trung tâm thánh đường như vậy ?”.
Điền Phương Thảo
Nếu có cơ hội đến viếng thăm các ngôi thánh đường, đặc biệt là những thánh đường vừa được xây cất trong khoảng thời gian hơn 10 năm trở lại đây, người ta dễ dàng nhận thấy sự hoành tráng, nguy nga trong kiến trúc và các vật dụng trang bị bên trong. Ngoài những tượng đài lộng lẫy nhằm mục đích tôn vinh Đấng Chí Tôn, còn có sự xuất hiện của một vật không kém phần uy nghi nhưng để lại tôn vinh con người đó là ” cái ghế” của dành cho linh mục chủ tế.
Được đặt để ngay trung tâm của mọi tầm nhìn, cái ghế quả là biểu hiện của uy lực với những đường cong uốn lượn được chạm trổ một cách tỉ mĩ, công phu. Sự lộng lẫy, tôn nghiêm trong cảnh quang của cung thánh, cộng hưởng với dáng vẻ uy nghi của chiếc ghế, khiến người ta không thể không liên tưởng đến hình ảnh của những cái ngai giữa chốn hoàng triều.
Dù rất ít, nhưng cũng có một số nhà thờ , chiếc ghế của linh mục chủ tế được đặt khiêm tốn ở một bên hông của cung thánh và được thiết kế cũng rất giản dị. Nghĩa là vị trí và hình thức của chiếc ghế hoàn toàn phụ thuộc vào tính cách của chủ thể sử dụng. Ở một nơi rao giảng Lời của Đấng đến để sống và phục vụ cho những người cùng khổ, một cái ghế sang trọng một cách không cần thiết chỉ là hình chiếu của tính phô trương, chuộng hình thức, óc phong kiến của một số các giáo sĩ, linh mục, tu sĩ tại Việt Nam hiện nay.
Chuyện xưa kể rằng có một ông Vua tỏ ra rất hãnh diện và sung sướng vì mỗi khi ngự trị trên ngai vàng để đăng triều, ông nhìn thấy bá quan văn võ đều cúi rạp mình trước chiếc ngai của ông. Ông cảm thấy tự hào vì mình thật là một bậc hào kiệt xuất chúng khiến mọi người phải cúc cung tận tuỵ như vậy. Ông nghĩ rằng những cái bái lạy đó chắc chắn là dành cho giá trị của chính bản thân ông. Thế rồi khi thời cuộc thay đổi, ” thế gian biến cải vũng nên đồi” khiến ông bị lật đổ xuống khỏi ngai vàng. Trong thân phận của một kẻ hạ dân, không ai muốn dành cho ông ngay cả một câu chào. Trong niềm đắng cay về ” mặn nhạt chua cay” của thế thái nhân tình, ông chua xót nhận ra một điều rằng, hoá ra bấy lâu ông đã tự huyển hoặc về mình, thiên hạ không hề quý trọng giá trị của chính bản thân ông, họ chỉ coi trọng ” cái ghế” và họ sẵn sàng tung hô chúc tụng bất cứ chủ thể nào được đặt để hay sở hữu cái ghế ấy.
Cũng có ý kiến cho rằng những vị ngồi trên những chiếc ghế ấy cũng phải đạt được những điều kiện nhất định về năng lực, đạo đức, vì thế việc họ được có một vị trí trang trọng như thế âu cũng là xứng đáng ? Thế nhưng thật là huyển hoặc khi tin rằng giá trị bản thân mình được nâng cao khi ngự trị trên những chiếc ngai lộng lẫy đó. Nếu đời sống một linh mục mà biết ưu tư chăm sóc đời sống đạo cho giáo dân, thao thức trong từng tư duy của bài gỉảng sao cho mỗi bài giảng là một bữa ăn tinh thần phong phú, bổ dưỡng cho đời sống tinh thần của giáo dân. Làm công tác mục vụ trong tinh thần đạo đức và phục vụ, đồng thời cũng chuyên tâm nghiên cứu học hỏi thêm để làm phong phú đời sống nội tâm trong đức tin thì dù có ngồi trên chiếc ghế gỗ đơn sơ trong nhà thờ, trong cái nhìn của giáo dân, vị ấy vẫn có được một sự tôn trọng và kính mến một cách đích thực.
Vật chất là kết quả của ý thức, có suy nghĩ rồi mới có hành động, vì thế việc thi nhau thiết kế những chiếc ngai trong nhà thờ cũng là kết quả của một não trạng còn vương vấn chủ nghiã phong kiến. Có lẽ điều đó cũng thích hợp trong một giai đoạn xã hội nào đó, nhưng hiện nay, ngay bây giờ thì không. Vì nó sẽ là nguyên nhân tạo ra những tác phong thiếu nhân bản trong giao tế, những khập khiểng trong các mối quan hệ xã hội, không còn thích hợp với đời, với người, và quan trọng nhất là không phù hợp với tinh thần của Phúc Âm.
Ngồi trên một cái ghế uy nghi, tất nhiên đòi hỏi chủ thể sử dụng cũng phải có những cử điệu, phong thái sao cho cũng toát lên một uy lực phù hợp. Điều này quả thật là không cần thiết, nếu không muốn nói là không đúng với tinh thần của một người thay mặt Chúa đón những con chiên đi về nhà Cha của mình. Có người cha nào đón con về nhà của mình với một phong cách xa lạ, kiêu sa như thế không ? Cũng có ý kiến cho rằng việc các tu sĩ, linh mục cần phải giữ một phong cách như thế là để phù hợp với cái nhìn, cái nghĩ xưa nay đã khắc sâu vào trong não trạng của giáo dân ? Linh mục là người thay mặt Chúa, nên họ đóng khung các Ngài vào trong tất cả các giá trị của chức thánh. Thế nhưng, việc giáo dục một đức tin thực sự trưởng thành cho giáo dân vẫn không là điều bất khả thi nếu những người có trách nhiệm giáo huấn thực sự không cố thủ óc phong kiến ? Có câu ” dĩ độc trị độc” , nếu giáo dân đã xem Cha là người của Chúa, lời của Cha là lời của Chúa và linh mục gần như được ơn bất khả ngộ thì tại sao các Ngài không “lợi dụng” ngay sự yêu mến và kính trọng cách cực đoan của không ít giáo dân trong mối tương quan giữa tu sĩ và giáo dân để hướng dẫn họ đến những thay đổi thực sự mang lại lợi ích cho việc rao giảng hồng ân ơn Cứu Độ ? Hay nguyên nhân chính là ở chỗ các Ngài cũng không hề muốn có sự thay đổi ? Và đó cũng là lý do ngày càng có nhiều cái ghế hoành tráng như một cái ngai xuất hiện trên cung thánh
Trong bài “ Đức Phanxicô- 1 năm trên ngai Giáo hoàng” có viết : “Ấn tượng đầu tiên của Giáo hoàng Phanxicô đối với thế giới mà tờ Le Figaro gọi là “fenomena” (hiện tượng phi thường) đó là phong cách gần gũi giản dị, dễ gần dân chúng của vị tân Giáo hoàng. Báo chí đã dành nhiều bài để nói về Giáo hoàng Phanxicô không đi xe Limousine mới, biển ưu tiên của Vatican mà vẫn đi chiếc xe cũ, vẫn ở căn nhà trọ Santa Matta và trực tiếp trả tiền trọ chứ không phải ở biệt thự cao cấp dành cho Giáo hoàng trong Tòa thánh Vatican . Ngài vẫn ở trong khu nhà chung cư 2 phòng, tự đốt lò sưởi trong mùa đông chứ không dùng điều hòa, không ở biệt thự của Tổng Giám mục, vẫn đi xe bus hàng ngày và vẫn tự nấu ăn lấy. Ngày lễ tấn phong Giáo hoàng, ngài từ chối đội vương miện, đeo nhẫn vàng, đi giày đỏ như các vị tiền nhiệm mà vẫn dùng trang phục cũ, chỉ khác chiếc khăn choàng trắng trên vai”. Dù vậy “ Tạp chí Forbes đã xếp Giáo hoàng Phanxicô là nhân vật quyền lực nhất thế giới năm 2013 sau nguyên thủ Nga, Mỹ và Trung Quốc”.
Hai thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời của một con người là ngày mình sinh ra và ngày mình chết đi. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn nơi sinh của mình là một máng cỏ nghèo hèn, mà chúng ta đang chiêm ngắm trong đại lễ Giáng Sinh của Ngài hôm nay. Và khi chết, Ngài lại treo mình trên một thập giá gỗ sần sùi, thô kệch. Nhưng máng cỏ hay cây thập tự đều có giá trị tôn kính hơn bất cứ ngai vàng nào trên thế gian này, vì đó đều là biểu tượng của tình yêu. Tất cả những vật mọn hèn thô sơ đó không có giá trị tự thân, nhưng chính Đấng ngự trên những vật ấy đã mặc cho nó một giá trị, làm cho nó trở nên có ý nghĩa. Hang đá Belem được toàn thể nhân loại biết đến và ngày xưa Ba Vua cũng phải tìm đến để phủ phục tôn thờ , hay cây Thập Giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng tội lỗi và cái chết cũng là vì có sự ngự trị của Thiên Chúa Tối Cao.
Ước mong sao cái ghế trên cung thánh được trả về đúng với hình thức và ý nghĩa của nó, nhất là để phù hợp với những người đang thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng Cho Người Nghèo . Đừng để con cháu chúng ta sau này thắc mắc rằng ” vào thời ấy Việt Nam còn trong chế độ phong kiến hay sao mà lại để cái ngai nằm ở trung tâm thánh đường như vậy ?”.
LÃNH ĐẠO
Cha bố (nghĩa phụ) nói với cha con (nghĩa tử) là đừng có xin cha phó hay cha phụ tá khi không cần thiết, cha con hỏi tại sao, cha bố nói:
- “Bởi vì khi con xin nhiều cha phó hay cha phụ tá thì có hai tình huống không tốt: một là giáo dân sẽ nói con không có năng lực làm việc mới xin cha phó về chứ không phải là con nhiều việc, để khoe khoang với giáo dân là con có nhiều cha phó cho oai; hai là con sẽ sinh ra lười biếng làm việc và khoán trắng cho cha phó hay cha phụ tá, để con rảnh rỗi kiếm cớ đi hành hương chỗ này, đi tham quan nơi nọ, hôm nay bận việc này, ngày mai bận việc kia, ngày mốt đi ăn với đại gia.v.v.v...Rồi các cha phó ta thán với nhau sinh ra bất mãn, giáo dân lâu ngày cũng biết và họ sẽ không coi trọng con đâu”.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Cha bố (nghĩa phụ) nói với cha con (nghĩa tử) là đừng có xin cha phó hay cha phụ tá khi không cần thiết, cha con hỏi tại sao, cha bố nói:
- “Bởi vì khi con xin nhiều cha phó hay cha phụ tá thì có hai tình huống không tốt: một là giáo dân sẽ nói con không có năng lực làm việc mới xin cha phó về chứ không phải là con nhiều việc, để khoe khoang với giáo dân là con có nhiều cha phó cho oai; hai là con sẽ sinh ra lười biếng làm việc và khoán trắng cho cha phó hay cha phụ tá, để con rảnh rỗi kiếm cớ đi hành hương chỗ này, đi tham quan nơi nọ, hôm nay bận việc này, ngày mai bận việc kia, ngày mốt đi ăn với đại gia.v.v.v...Rồi các cha phó ta thán với nhau sinh ra bất mãn, giáo dân lâu ngày cũng biết và họ sẽ không coi trọng con đâu”.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Nội tâm
Lm. Giuse Trần Việt Hùng 7/13/2015
Nội tâm sâu thẳm như bầu trời bao la. Nội tâm là cốt lõi. Làm sao chúng ta có thể đụng chạm tới đáy cùng của nội tâm. Nghe kể câu truyện: Có một người đàn bà khôn ngoan, trong khi đi du ngoạn nơi vùng đồi núi, đã nhặt được một viên ngọc qúi bên dòng suối. Hôm sau, bà ta gặp một người bộ hành đang đói khát và bà đã mở túi chia sẻ thức ăn cho ông ta. Người bộ hành đói khổ nhìn thấy viên ngọc quí và đã hỏi xin bà. Bà cho ông viên ngọc, không chút do dự. Ông cầm lấy và rời đi rất vui mừng, vì vừa nhận được một kho tàng quí báu. Ông biết viên ngọc này có giá trị lớn để ông có một cuộc sống bảo đảm trong tương lai. Nhưng vài ngày sau, ông trở lại và trả viên ngọc quí cho người đàn bà khôn ngoan này. Ông nói: Tôi đã suy nghĩ và tôi biết viên ngọc này rất có giá trị, nhưng tôi muốn trả lại, với hy vọng bà có thể cho tôi cái gì đó quí hơn: Bà hãy cho tôi cái gì đó trong nội tâm của bà, điều mà bà có thể cho đi viên ngọc quí này.’
Mầu nhiệm của sự sống con người kết nối cả nội tâm lẫn ngoại hình. Chúng ta thường suy xét và đánh giá con người qua những hình thức lộ diện bên ngoài. Mặt nổi của đời sống giống như một tảng băng nổi, với chín phần chìm sâu dưới nước. Nội tâm như là phần chìm. Con người khác nhau nhiều ở chính cuộc sống nội tâm này. Chúng ta có thể suy nghĩ rằng người sống nội tâm là người hay lo âu, trầm tư và ít nói. Người sống nội tâm cũng có thể hay suy tư về các vấn đề như sự hiện hữu của vũ trụ và con người, về ý nghĩa cuộc đời, về sự sống, sự đau khổ và sự chết… Nhưng không luôn hẳn là như thế, người sống nội tâm là người học biết chính mình. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan để tìm về nguồn chân, thiện, mỹ.
Không ai có thể đo lường đời sống nội tâm. Tục ngữ ca dao có câu: ‘Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người (nham hiểm) sâu thẳm ai đo cho cùng’. Đúng vậy, không ai đo được lòng người. Người ta có thể đo lường mọi cơ động lưu hành trong ngoài thân xác, nhưng sẽ dừng lại trước thế giới của lương tâm, lý trí, ý chí, trí khôn và linh hồn. Mỗi con người là một thụ tạo linh thiêng huyền bí. Thường chúng ta rất ngại để lắng đọng tâm hồn nhìn vào sự linh thiêng của chính mình. Chúng ta hướng ngoại nhiều hơn là hướng nội. Chúng ta chạy đua với cuộc sống bon chen ồn ào. Tìm vui sống với phần nổi của hiện hữu hơn là đời sống nội tâm.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao người đàn bà khôn ngoan dám cho đi viên ngọc quí? Bà biết giá trị của viên ngọc chứ. Bà cất nó trong túi sách. Bà dám cho đi viên ngọc mà không hối tiếc. Như thế, đối với bà, viên ngọc chỉ là một tặng vật có thể làm vui thỏa ước muốn của lòng người. Nhưng bà có niềm vui lớn lao hơn ngự trị trong thâm tâm của bà. Bà cho mà không do dự. Bà có một thái độ vượt trên giá trị của kho tàng của cải vật chất. Niềm vui của bà là tinh thần tự do và không bị ràng buộc vào những nhu cầu thể chất. Bà đang thực hành một đời sống nội tâm cao.
Ai trong chúng ta cũng có đời sống nội tâm riêng tư và ẩn dấu. Người ta thường nói rằng cây tốt thì sinh trái tốt. Nội tâm tốt sẽ phát sinh công việc tốt và lời nói tốt. Lòng đầy miệng mới nói ra. Nếu chúng ta gieo trồng những hạt giống xấu trong thâm tâm, thì ắt sẽ sinh ra những trái đắng đót cộc cằn. Nét đẹp của con người phát xuất từ nội tâm. Người ta nói: ‘Cái nết đánh chết cái đẹp là thế.’ Có nhiều biểu tỏ của đời sống nội tâm nơi con người như lòng từ tâm, an tâm, đại tâm hoặc cũng có thể ngược lại là nhẫn tâm, vô tâm, ác tâm và tiểu tâm…
Tâm thường đi với tính. Cha ông nói: ‘Cha mẹ sinh con, trời sinh tính’. Tính khí thì mỗi người mỗi khác. Con người cần được tu tâm luyện tính cho thuần để đối nhân xử thế. Tu tâm là cần phải trở về với chính mình để biết mình. Có khi nào bạn đã ngồi thật lâu trong khoảng thinh lặng để trở về nhận biết chính mình chưa? Chúng ta có thể thử. Hãy tránh xa chỗ ồn ào đô hội và tìm một nơi thật thanh tịnh để lắng đọng tâm hồn. Nhắm mắt và thở hít đều đặn. Thả hồn đi sâu vào tâm trí và sự hiện hữu của chính mình. Chúng ta sẽ đụng chạm vào khoảng không bao la huyền nhiệm. Để hồn đắm chìm trong sự kết hợp với Đấng Vô Hình đang hiện diện nơi tâm hồn và vũ trụ muôn loài.
Có nhiều bài hát đạo có lời tha thiết khẩn nài ‘Chúa Ở Nơi Đâu?’ Theo giáo lý Công Giáo, trả lời Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Vậy tại sao chúng ta lại hỏi Chúa ở nơi đâu? Lời tự thuật của thánh Augustinô cho chúng ta một kinh nghiệm của đời sống nội tâm sâu xa: “Con yêu Chúa quá muộn màng, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa, vừa mới mãi, con yêu Chúa qúa muộn. Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy, con cứ ở ngoài và cứ tìm Chúa bên ngoài. Con thật xấu, khi cứ mải chạy theo vẻ đẹp nơi các thụ tạo của Chúa. Chúa từng ở với con, mà con chẳng ở với Chúa. Những sự vật vẫn giữ con xa Chúa. Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và xóa tan sự mù lòa của con. Chúa đã chạm đến con và con nóng lòng tìm sự bình an nơi Chúa.”
Trở về với nội tâm là trở về với Chúa. Có biết bao lần chúng ta cầu nguyện mà lòng trí sao lãng lang thang khắp chốn. Chúng ta hát to gào thét làm như Chúa bị nặng tai. Đôi khi chúng ta giống như các tiên tri giả thờ thần Baal la hét, xé áo và rạch mình, khẩn nài các thần minh nhận của lễ hiến dâng. Chúng ta cần có đời sống nội tâm kết hợp sâu xa với Chúa. Cầu nguyện chính là những tâm tình kết hợp với Thiên Chúa trong đời sống nội tâm, “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1Sm 16, 7b).
Lạy Chúa, đã bao lần chúng con mải mê tìm kiếm Chúa bên ngoài. Chúng con đã không gặp được Chúa, vì hồn chúng con trống rỗng. Chúa luôn ẩn ngự trong tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con nhận biết Chúa luôn hiện diện trong chúng con. Chúa chính là nơi chúng con nương tựa và là chỗ chúng con ẩn thân. Chúng con cảm tạ tình yêu Chúa mãi muôn ngàn đời.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng 7/13/2015
Nội tâm sâu thẳm như bầu trời bao la. Nội tâm là cốt lõi. Làm sao chúng ta có thể đụng chạm tới đáy cùng của nội tâm. Nghe kể câu truyện: Có một người đàn bà khôn ngoan, trong khi đi du ngoạn nơi vùng đồi núi, đã nhặt được một viên ngọc qúi bên dòng suối. Hôm sau, bà ta gặp một người bộ hành đang đói khát và bà đã mở túi chia sẻ thức ăn cho ông ta. Người bộ hành đói khổ nhìn thấy viên ngọc quí và đã hỏi xin bà. Bà cho ông viên ngọc, không chút do dự. Ông cầm lấy và rời đi rất vui mừng, vì vừa nhận được một kho tàng quí báu. Ông biết viên ngọc này có giá trị lớn để ông có một cuộc sống bảo đảm trong tương lai. Nhưng vài ngày sau, ông trở lại và trả viên ngọc quí cho người đàn bà khôn ngoan này. Ông nói: Tôi đã suy nghĩ và tôi biết viên ngọc này rất có giá trị, nhưng tôi muốn trả lại, với hy vọng bà có thể cho tôi cái gì đó quí hơn: Bà hãy cho tôi cái gì đó trong nội tâm của bà, điều mà bà có thể cho đi viên ngọc quí này.’
Mầu nhiệm của sự sống con người kết nối cả nội tâm lẫn ngoại hình. Chúng ta thường suy xét và đánh giá con người qua những hình thức lộ diện bên ngoài. Mặt nổi của đời sống giống như một tảng băng nổi, với chín phần chìm sâu dưới nước. Nội tâm như là phần chìm. Con người khác nhau nhiều ở chính cuộc sống nội tâm này. Chúng ta có thể suy nghĩ rằng người sống nội tâm là người hay lo âu, trầm tư và ít nói. Người sống nội tâm cũng có thể hay suy tư về các vấn đề như sự hiện hữu của vũ trụ và con người, về ý nghĩa cuộc đời, về sự sống, sự đau khổ và sự chết… Nhưng không luôn hẳn là như thế, người sống nội tâm là người học biết chính mình. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan để tìm về nguồn chân, thiện, mỹ.
Không ai có thể đo lường đời sống nội tâm. Tục ngữ ca dao có câu: ‘Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người (nham hiểm) sâu thẳm ai đo cho cùng’. Đúng vậy, không ai đo được lòng người. Người ta có thể đo lường mọi cơ động lưu hành trong ngoài thân xác, nhưng sẽ dừng lại trước thế giới của lương tâm, lý trí, ý chí, trí khôn và linh hồn. Mỗi con người là một thụ tạo linh thiêng huyền bí. Thường chúng ta rất ngại để lắng đọng tâm hồn nhìn vào sự linh thiêng của chính mình. Chúng ta hướng ngoại nhiều hơn là hướng nội. Chúng ta chạy đua với cuộc sống bon chen ồn ào. Tìm vui sống với phần nổi của hiện hữu hơn là đời sống nội tâm.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao người đàn bà khôn ngoan dám cho đi viên ngọc quí? Bà biết giá trị của viên ngọc chứ. Bà cất nó trong túi sách. Bà dám cho đi viên ngọc mà không hối tiếc. Như thế, đối với bà, viên ngọc chỉ là một tặng vật có thể làm vui thỏa ước muốn của lòng người. Nhưng bà có niềm vui lớn lao hơn ngự trị trong thâm tâm của bà. Bà cho mà không do dự. Bà có một thái độ vượt trên giá trị của kho tàng của cải vật chất. Niềm vui của bà là tinh thần tự do và không bị ràng buộc vào những nhu cầu thể chất. Bà đang thực hành một đời sống nội tâm cao.
Ai trong chúng ta cũng có đời sống nội tâm riêng tư và ẩn dấu. Người ta thường nói rằng cây tốt thì sinh trái tốt. Nội tâm tốt sẽ phát sinh công việc tốt và lời nói tốt. Lòng đầy miệng mới nói ra. Nếu chúng ta gieo trồng những hạt giống xấu trong thâm tâm, thì ắt sẽ sinh ra những trái đắng đót cộc cằn. Nét đẹp của con người phát xuất từ nội tâm. Người ta nói: ‘Cái nết đánh chết cái đẹp là thế.’ Có nhiều biểu tỏ của đời sống nội tâm nơi con người như lòng từ tâm, an tâm, đại tâm hoặc cũng có thể ngược lại là nhẫn tâm, vô tâm, ác tâm và tiểu tâm…
Tâm thường đi với tính. Cha ông nói: ‘Cha mẹ sinh con, trời sinh tính’. Tính khí thì mỗi người mỗi khác. Con người cần được tu tâm luyện tính cho thuần để đối nhân xử thế. Tu tâm là cần phải trở về với chính mình để biết mình. Có khi nào bạn đã ngồi thật lâu trong khoảng thinh lặng để trở về nhận biết chính mình chưa? Chúng ta có thể thử. Hãy tránh xa chỗ ồn ào đô hội và tìm một nơi thật thanh tịnh để lắng đọng tâm hồn. Nhắm mắt và thở hít đều đặn. Thả hồn đi sâu vào tâm trí và sự hiện hữu của chính mình. Chúng ta sẽ đụng chạm vào khoảng không bao la huyền nhiệm. Để hồn đắm chìm trong sự kết hợp với Đấng Vô Hình đang hiện diện nơi tâm hồn và vũ trụ muôn loài.
Có nhiều bài hát đạo có lời tha thiết khẩn nài ‘Chúa Ở Nơi Đâu?’ Theo giáo lý Công Giáo, trả lời Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Vậy tại sao chúng ta lại hỏi Chúa ở nơi đâu? Lời tự thuật của thánh Augustinô cho chúng ta một kinh nghiệm của đời sống nội tâm sâu xa: “Con yêu Chúa quá muộn màng, lạy Chúa là vẻ đẹp vừa rất xưa, vừa mới mãi, con yêu Chúa qúa muộn. Này Chúa vẫn ở trong con, mà hồi ấy, con cứ ở ngoài và cứ tìm Chúa bên ngoài. Con thật xấu, khi cứ mải chạy theo vẻ đẹp nơi các thụ tạo của Chúa. Chúa từng ở với con, mà con chẳng ở với Chúa. Những sự vật vẫn giữ con xa Chúa. Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con. Chúa rực sáng. Chúa chiếu tỏa và xóa tan sự mù lòa của con. Chúa đã chạm đến con và con nóng lòng tìm sự bình an nơi Chúa.”
Trở về với nội tâm là trở về với Chúa. Có biết bao lần chúng ta cầu nguyện mà lòng trí sao lãng lang thang khắp chốn. Chúng ta hát to gào thét làm như Chúa bị nặng tai. Đôi khi chúng ta giống như các tiên tri giả thờ thần Baal la hét, xé áo và rạch mình, khẩn nài các thần minh nhận của lễ hiến dâng. Chúng ta cần có đời sống nội tâm kết hợp sâu xa với Chúa. Cầu nguyện chính là những tâm tình kết hợp với Thiên Chúa trong đời sống nội tâm, “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1Sm 16, 7b).
Lạy Chúa, đã bao lần chúng con mải mê tìm kiếm Chúa bên ngoài. Chúng con đã không gặp được Chúa, vì hồn chúng con trống rỗng. Chúa luôn ẩn ngự trong tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con nhận biết Chúa luôn hiện diện trong chúng con. Chúa chính là nơi chúng con nương tựa và là chỗ chúng con ẩn thân. Chúng con cảm tạ tình yêu Chúa mãi muôn ngàn đời.
ĐỒNG TIỀN THỊ PHI
Lm Jos Tạ duy Tuyền
Có người bảo rằng: “Thiên hạ ồn ào đều vì lợi mà đến, thiên hạ náo nhiệt cũng vì lợi mà đi”. Thực vậy, nhìn vào xã hội với những ồn ào, náo nhiệt chúng ta sẽ thấy điều gì? Thưa, chúng ta sẽ thấy sự náo nhiệt được hình thành bởi kẻ có tiền đến đó để xài tiền và kẻ không có tiền đến đó để kiếm tiền. Có thể nói ở thế gian chỉ có hai loại người: Một là kẻ kiếm tiền. Hai là kẻ xài tiền. Hai loại người này đã làm thành một xã hội đầy những thị phi, và vui buồn, sướng khổ cuộc đời cũng từ đó mà ra!
Hôm nay Chúa lại bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Nhưng xem ra có mấy ai thanh thoát được với tiền bạc trần gian. Ai cũng cần tiền. Ai cũng tích góp. Ai cũng tìm cơ hội để có tiền, để giầu có. Có mấy ai sống mà không dắt lưng cho mình ít tiền để làm vốn, để phòng khi trái gió trở trời?
Ở nơi này nơi kia vẫn nghe nói có cha này cha nọ chỉ lo đi kiếm tiền mà bỏ bê giáo xứ. Ở nơi này nơi kia vẫn còn đó những người đi truyền giáo thì không lo chỉ lo đi lấy lòng người giầu có để trục lợi cho bản thân. Ở nơi này nơi kia giáo xứ cũng tan nát vì đồng tiền thiếu minh bạch dẫn đến kiện cáo, đố kỵ với nhau.
Nhưng đó chỉ là những gợn sóng nhỏ vẫn lăn tanh trong lòng Giáo hội. Giáo hội vẫn còn nhiều những con người sống nghèo khó để cho mọi người và vì mọi người. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống khó nghèo như người nghèo, để sống cứu đời cho người nghèo và vì người nghèo.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Một điều mà ai cũng biết là tham thì thâm. Lòng tham sẽ trói buộc con người trong ích kỷ chỉ để thu vén. Lòng tham sẽ làm cho con người ra đê tiện, tiểu nhân và tầm thường. Người ta kể rằng: Người Ấn Độ làm lồng bắt khỉ thường để thức ăn vào trong. Khỉ thò tay vào để lấy thức ăn, chỉ cần nắm được thì không thể nào lấy tay ra được. Nếu muốn lấy được tay ra chỉ có thể bỏ lại thức ăn. Khỉ đã thò tay nắm được thức ăn thì không muốn bỏ ra.
Khỉ không chấp nhận việc từ bỏ, còn con người thì sao?
Đáng tiếc là con người vẫn còn nhiều thứ khó từ bỏ, thế nên vẫn chết trong lòng tham như loài khỉ!
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu con người sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen
Lm Jos Tạ duy Tuyền
Có người bảo rằng: “Thiên hạ ồn ào đều vì lợi mà đến, thiên hạ náo nhiệt cũng vì lợi mà đi”. Thực vậy, nhìn vào xã hội với những ồn ào, náo nhiệt chúng ta sẽ thấy điều gì? Thưa, chúng ta sẽ thấy sự náo nhiệt được hình thành bởi kẻ có tiền đến đó để xài tiền và kẻ không có tiền đến đó để kiếm tiền. Có thể nói ở thế gian chỉ có hai loại người: Một là kẻ kiếm tiền. Hai là kẻ xài tiền. Hai loại người này đã làm thành một xã hội đầy những thị phi, và vui buồn, sướng khổ cuộc đời cũng từ đó mà ra!
Hôm nay Chúa lại bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Nhưng xem ra có mấy ai thanh thoát được với tiền bạc trần gian. Ai cũng cần tiền. Ai cũng tích góp. Ai cũng tìm cơ hội để có tiền, để giầu có. Có mấy ai sống mà không dắt lưng cho mình ít tiền để làm vốn, để phòng khi trái gió trở trời?
Ở nơi này nơi kia vẫn nghe nói có cha này cha nọ chỉ lo đi kiếm tiền mà bỏ bê giáo xứ. Ở nơi này nơi kia vẫn còn đó những người đi truyền giáo thì không lo chỉ lo đi lấy lòng người giầu có để trục lợi cho bản thân. Ở nơi này nơi kia giáo xứ cũng tan nát vì đồng tiền thiếu minh bạch dẫn đến kiện cáo, đố kỵ với nhau.
Nhưng đó chỉ là những gợn sóng nhỏ vẫn lăn tanh trong lòng Giáo hội. Giáo hội vẫn còn nhiều những con người sống nghèo khó để cho mọi người và vì mọi người. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống khó nghèo như người nghèo, để sống cứu đời cho người nghèo và vì người nghèo.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Một điều mà ai cũng biết là tham thì thâm. Lòng tham sẽ trói buộc con người trong ích kỷ chỉ để thu vén. Lòng tham sẽ làm cho con người ra đê tiện, tiểu nhân và tầm thường. Người ta kể rằng: Người Ấn Độ làm lồng bắt khỉ thường để thức ăn vào trong. Khỉ thò tay vào để lấy thức ăn, chỉ cần nắm được thì không thể nào lấy tay ra được. Nếu muốn lấy được tay ra chỉ có thể bỏ lại thức ăn. Khỉ đã thò tay nắm được thức ăn thì không muốn bỏ ra.
Khỉ không chấp nhận việc từ bỏ, còn con người thì sao?
Đáng tiếc là con người vẫn còn nhiều thứ khó từ bỏ, thế nên vẫn chết trong lòng tham như loài khỉ!
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu con người sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen
TẠI SAO GIÁO HỘI CẦN PHẢI KHÓ NGHÈO ĐỂ RAO GIẢNG TIN MỪNG CÁCH THUYẾT PHỤC HƠN?
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những người chỉ biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên khinh thường mọi giá tri tinh thần trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm. Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời, thì khó nghèo lại là một nhân đức cần phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.
Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam mê về tiền bạc và của cải vật chất, tôn tờ khoái lạc (hedonism) khiến dửng dưng – hay lãnh cảm (numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng nhân đạo..
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.
Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo đói, sống vất vưởng trên hè phố ở các đô thị lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú, tỉ phú không hề quan tâm đến họ. Chính quyền liên bang cũng như tiểu bang , cho đến nay, vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria…vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! (Irak và Afghanistan)
Trước thực trạng nói trên của Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng, đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa nơi những người xấu số này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.
Đức Thánh Cha nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8:9)
Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thực hành phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa , “Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28).
Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau:
“ cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion) một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.
Tại sao phải sống khó nghèo?
Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu, Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở các bệnh viện. Nghĩa là không “lý tưởng thiếu thực tế” để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.
Nhưng điều quan trọng nhất là phải có nhân đức khó nghèo và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ. (Mt 5:3; Lc 6 : 20)
Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới về phần xác như đã nói ở trên mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm chóng qua ở đời này đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến không còn chú tâm vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.
Người tông đồ mà không có nhân đức khó nghèo, không khinh chê tiền bạc và của cải vật chất, thì không thể rao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có và không sống tinh thần khó nghèo thực sự mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Mặt khác, sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố, trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.
Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ – nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con trồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20)
Thử hỏi Chúa có đóng kịch “khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không?
Ai dám nói là có? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành lời Chúa để đi tìm và “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt 6: 20)
Nếu người tông đồ mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng, thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe.. Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và xa tránh hay chống lại những cám dỗ về tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi, bon chen để được về những xứ giầu, không chịu đi coi những xứ nghèo ở thôn quê, cũng như không muốn dâng lễ với bổng lễ ( mass stipends) thấp , thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu cho ai được.Và nhiên hậu, cũng sẽ không hơn gì bọn Biệt phái và luật sĩ xưa kia, là những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.”( Mt 23: 4).
Như thế, không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.
Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại xe đắt tiền như Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ cao.. thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì “con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.
Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh, coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.
Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, tách mình ra khỏi làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cá nhân. Có như thế thì mới có thể thi hành có hiệu quả sứ mệnh thiêng liêng của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa , Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe , lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. (1 Cr 2 : 9 )
Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí chóng qua ở trần gian này , thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác được.
Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này, không hề phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc , danh vọng và của cải vật chất hư hèn mà chỉ cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi. Lại nữa, không có giáo sĩ và tu sĩ nào có lời khấn sang giầu mà chỉ có lời khấn khó nghèo mà thôi. Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quý sang giầu đích thực. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi.” (Mc 10: 21)
Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ- bước đi qua bóng tối đen thui của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ, thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi.
Chúa nói: “ai có tai nghe thì nghe” (Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những người chỉ biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên khinh thường mọi giá tri tinh thần trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm. Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời, thì khó nghèo lại là một nhân đức cần phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.
Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam mê về tiền bạc và của cải vật chất, tôn tờ khoái lạc (hedonism) khiến dửng dưng – hay lãnh cảm (numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng nhân đạo..
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.
Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo đói, sống vất vưởng trên hè phố ở các đô thị lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú, tỉ phú không hề quan tâm đến họ. Chính quyền liên bang cũng như tiểu bang , cho đến nay, vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria…vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! (Irak và Afghanistan)
Trước thực trạng nói trên của Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng, đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa nơi những người xấu số này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.
Đức Thánh Cha nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8:9)
Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thực hành phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa , “Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28).
Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau:
“ cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion) một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.
Tại sao phải sống khó nghèo?
Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu, Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở các bệnh viện. Nghĩa là không “lý tưởng thiếu thực tế” để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.
Nhưng điều quan trọng nhất là phải có nhân đức khó nghèo và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ. (Mt 5:3; Lc 6 : 20)
Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới về phần xác như đã nói ở trên mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm chóng qua ở đời này đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến không còn chú tâm vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.
Người tông đồ mà không có nhân đức khó nghèo, không khinh chê tiền bạc và của cải vật chất, thì không thể rao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có và không sống tinh thần khó nghèo thực sự mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Mặt khác, sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố, trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.
Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ – nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con trồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20)
Thử hỏi Chúa có đóng kịch “khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không?
Ai dám nói là có? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành lời Chúa để đi tìm và “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt 6: 20)
Nếu người tông đồ mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng, thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe.. Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và xa tránh hay chống lại những cám dỗ về tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi, bon chen để được về những xứ giầu, không chịu đi coi những xứ nghèo ở thôn quê, cũng như không muốn dâng lễ với bổng lễ ( mass stipends) thấp , thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu cho ai được.Và nhiên hậu, cũng sẽ không hơn gì bọn Biệt phái và luật sĩ xưa kia, là những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.”( Mt 23: 4).
Như thế, không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.
Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại xe đắt tiền như Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ cao.. thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì “con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.
Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh, coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.
Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, tách mình ra khỏi làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cá nhân. Có như thế thì mới có thể thi hành có hiệu quả sứ mệnh thiêng liêng của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa , Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe , lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. (1 Cr 2 : 9 )
Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí chóng qua ở trần gian này , thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác được.
Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này, không hề phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc , danh vọng và của cải vật chất hư hèn mà chỉ cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi. Lại nữa, không có giáo sĩ và tu sĩ nào có lời khấn sang giầu mà chỉ có lời khấn khó nghèo mà thôi. Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quý sang giầu đích thực. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi.” (Mc 10: 21)
Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ- bước đi qua bóng tối đen thui của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ, thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi.
Chúa nói: “ai có tai nghe thì nghe” (Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)
Có một lễ Tạ ơn Chúa - kỷ niệm ơn Linh mục như thế
Micae Bùi Thanh Châu 6/3/2015
CÓ MỘT LỄ TẠ ƠN NHƯ THẾ
Cuộc đời mỗi người, có những mốc mà ta dừng lại để mừng, để tạ ơn nhân dịp mừng kỷ niệm đó, biến cố đó trong đời.
Sống đời hôn nhân, để đánh dấu giai đoạn chung sống 10, 25, 50 năm. .. nhiều gia đình, con cháu đã tổ chức những lễ tạ ơn mừng kỷ niệm cho cha mẹ mình thật hoành tráng. Đời tu, đờ tận hiến cũng thế. Khó để mà có được những dấu mốc kỷ niệm 25, 50 năm mừng. .. để rồi phải nói rằng được như thế lại càng có lý do để mừng hơn.
Xem Hình
Thế nhưng, mừng kỷ niệm, mừng dấu ấn đó như thế nào lại là chuyện khác.
Thật giật mình khi vừa mới đến dự Thánh Lễ tạ ơn 25 năm linh mục của hai cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích và Phan Đức Hiệp - Dòng Chúa Cứu Thế hôm nay.
Trong mối thân tình, Cha Giuse Ngọc Bích mời tôi. Tưởng nghĩ sau Lễ sẽ có "lạc" như bao nhiêu dịp mừng khác nhưng tôi hoàn toàn bất ngờ. Bất ngờ vì lẽ sau Lễ chỉ là ly nước trà với những mẫu chuyện tình thân chứ hoàn toàn không tiệc tùng, bia bọt như bao nơi mừng khác.
Cũng dễ hiểu bởi trong Thánh Lễ tạ ơn, cộng đoàn dân Chúa, có cả tôi được nghe kể về cuộc đời của những linh mục vào cái thời thập niên 90 đó.
Không cần phải nói nhiều, những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt là dấu ấn về một cuộc sống quá khó khăn trên những ai đã một thời sống trong giai đoạn đó.
Giai đoạn này, tu thì chỉ biết tu chứ không hề nghĩ đến ngày lãnh sứ vụ linh mục.
2 cha Giuse mừng kỷ niệm 25 năm nay chắc có lẽ cũng mang trong mình cảm nghĩ, kinh nghiệm, kỷ niệm như những cha lãnh sứ vụ linh mục cùng thời như thế này. Thời đó, các cha chỉ lãnh sự vụ một cách âm thầm chứ không hề công khai như bây giờ. Có những cha dù con mình được làm cha đó nhưng ông bà cố hoàn toàn không biết do hoàn cảnh không cho phép.
Sau những ngày tháng đó, mỗi người một nơi, mỗi người một việc để tìm kế sinh nhai chứ không còn được ở dưới mái trường đào tạo êm ấm như trước nữa. Thầy thì đi làm thuê, thầy thì đi dạy học để kiếm sống. .. trong đó, thầy Giuse Nguyễn Ngọc Bích lại "ôm" chiếc xích lô đầy kỷ niệm trong 5 năm trời ròng rã.
Có lẽ chính cái nghèo, cái khó khăn của thời đó đã đi vào tận xương tủy của các cha nên các cha khó quên cũng như sẽ diễn tả cung cách nghèo đó trong đời sống tu trì của mình. Chính vì thế, hai cha Giuse ngày hôm nay cùng nhau đi đến quyết định là không tổ chức "lạc" sau Thánh Lễ như bao Thánh Lễ tạ ơn khác.
Được biết, cũng gần đây, một số Thánh Lễ tạ ơn dấu ấn của đời linh mục được tổ chức không phải 1, 2 nơi mà là đến 5 nơi với số lượng bàn tiệc nghe xong. .. chóng mặt. Cha đã đánh dấu kỷ niệm đời linh mục của mình bằng nhiều bàn tiệc, nhiều nơi thật hoành tráng.
Cha mở tiệc mừng nhiều bàn và nhiều nơi theo tôi tưởng nghĩ cũng chẳng sai bởi lẽ đó là quyền của cha. Thế nhưng, xét trong cung cách của nhà tu, đứng ở góc cạnh của đời tu trì ta nên chăng nhìn lại cung cách tổ chức đó.
Hẳn nhiên, theo tôi nghĩ chẳng ai trách là sau Lễ mà không có "lạc". Có chăng là trách là tại sao sau Lễ mà "lạc" lại nhiều quá ! "Lạc" nhiều kèm theo những hệ quả của nó là giáo dân phải đóng góp hay lại nhờ cậy vào sự giúp đỡ nào đó của những đại gia.
Trong cuộc sống, dĩ nhiên, ai cũng có quyền nhưng giữa cuộc sống bôn ba khó sống như bây giờ ta nên nhìn lại cách tổ chức "lạc" sau lễ tạ ơn như thế nào cho phù hợp với cung cách sống của ta. Có cần thiết phải yến tiệc linh đình trong khi nhiều mảng đời nghèo đói bên cạnh ta không đủ sống. Xung quanh ta vẫn còn biết bao nhiêu trái tim lỗi nhịp đập cần chỉnh sửa, bao nhiêu đôi mắt cần sáng nhờ sự chia sẻ của ta ? Bao nhiêu mái nhà rách nát đang cần ta chung tay xây sửa ?
Vẫn là quyền tự do lựa chọn của mỗi người, nhưng tôi vẫn thầm nghĩ rằng càng khiêm tốn, càng nhẹ nhàng bao nhiêu thì lòng càng thanh thản biết bao nhiêu.
Tham dự Thánh Lễ tạ ơn Ngân Khánh Linh Mục của 2 cha Giuse ngày hôm nay xong, tôi cảm thấy vui vì được chia sẻ, cảm nghiệm nghèo của đời linh mục của hai cha bằng ly nước trà đượm tình thắm thiết.
Vẫn mong có những Thánh lễ tạ ơn nhẹ nhàng và giản đơn như thế để nói lên tiếng nói, nói lên cung cách sống nghèo của Giáo Hội giữa cuộc đời mà người ta vẫn chạy theo phú quý giàu sang.
Mic Thanh Châu
Micae Bùi Thanh Châu 6/3/2015
CÓ MỘT LỄ TẠ ƠN NHƯ THẾ
Cuộc đời mỗi người, có những mốc mà ta dừng lại để mừng, để tạ ơn nhân dịp mừng kỷ niệm đó, biến cố đó trong đời.
Sống đời hôn nhân, để đánh dấu giai đoạn chung sống 10, 25, 50 năm. .. nhiều gia đình, con cháu đã tổ chức những lễ tạ ơn mừng kỷ niệm cho cha mẹ mình thật hoành tráng. Đời tu, đờ tận hiến cũng thế. Khó để mà có được những dấu mốc kỷ niệm 25, 50 năm mừng. .. để rồi phải nói rằng được như thế lại càng có lý do để mừng hơn.
Xem Hình
Thế nhưng, mừng kỷ niệm, mừng dấu ấn đó như thế nào lại là chuyện khác.
Thật giật mình khi vừa mới đến dự Thánh Lễ tạ ơn 25 năm linh mục của hai cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích và Phan Đức Hiệp - Dòng Chúa Cứu Thế hôm nay.
Trong mối thân tình, Cha Giuse Ngọc Bích mời tôi. Tưởng nghĩ sau Lễ sẽ có "lạc" như bao nhiêu dịp mừng khác nhưng tôi hoàn toàn bất ngờ. Bất ngờ vì lẽ sau Lễ chỉ là ly nước trà với những mẫu chuyện tình thân chứ hoàn toàn không tiệc tùng, bia bọt như bao nơi mừng khác.
Cũng dễ hiểu bởi trong Thánh Lễ tạ ơn, cộng đoàn dân Chúa, có cả tôi được nghe kể về cuộc đời của những linh mục vào cái thời thập niên 90 đó.
Không cần phải nói nhiều, những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt là dấu ấn về một cuộc sống quá khó khăn trên những ai đã một thời sống trong giai đoạn đó.
Giai đoạn này, tu thì chỉ biết tu chứ không hề nghĩ đến ngày lãnh sứ vụ linh mục.
2 cha Giuse mừng kỷ niệm 25 năm nay chắc có lẽ cũng mang trong mình cảm nghĩ, kinh nghiệm, kỷ niệm như những cha lãnh sứ vụ linh mục cùng thời như thế này. Thời đó, các cha chỉ lãnh sự vụ một cách âm thầm chứ không hề công khai như bây giờ. Có những cha dù con mình được làm cha đó nhưng ông bà cố hoàn toàn không biết do hoàn cảnh không cho phép.
Sau những ngày tháng đó, mỗi người một nơi, mỗi người một việc để tìm kế sinh nhai chứ không còn được ở dưới mái trường đào tạo êm ấm như trước nữa. Thầy thì đi làm thuê, thầy thì đi dạy học để kiếm sống. .. trong đó, thầy Giuse Nguyễn Ngọc Bích lại "ôm" chiếc xích lô đầy kỷ niệm trong 5 năm trời ròng rã.
Có lẽ chính cái nghèo, cái khó khăn của thời đó đã đi vào tận xương tủy của các cha nên các cha khó quên cũng như sẽ diễn tả cung cách nghèo đó trong đời sống tu trì của mình. Chính vì thế, hai cha Giuse ngày hôm nay cùng nhau đi đến quyết định là không tổ chức "lạc" sau Thánh Lễ như bao Thánh Lễ tạ ơn khác.
Được biết, cũng gần đây, một số Thánh Lễ tạ ơn dấu ấn của đời linh mục được tổ chức không phải 1, 2 nơi mà là đến 5 nơi với số lượng bàn tiệc nghe xong. .. chóng mặt. Cha đã đánh dấu kỷ niệm đời linh mục của mình bằng nhiều bàn tiệc, nhiều nơi thật hoành tráng.
Cha mở tiệc mừng nhiều bàn và nhiều nơi theo tôi tưởng nghĩ cũng chẳng sai bởi lẽ đó là quyền của cha. Thế nhưng, xét trong cung cách của nhà tu, đứng ở góc cạnh của đời tu trì ta nên chăng nhìn lại cung cách tổ chức đó.
Hẳn nhiên, theo tôi nghĩ chẳng ai trách là sau Lễ mà không có "lạc". Có chăng là trách là tại sao sau Lễ mà "lạc" lại nhiều quá ! "Lạc" nhiều kèm theo những hệ quả của nó là giáo dân phải đóng góp hay lại nhờ cậy vào sự giúp đỡ nào đó của những đại gia.
Trong cuộc sống, dĩ nhiên, ai cũng có quyền nhưng giữa cuộc sống bôn ba khó sống như bây giờ ta nên nhìn lại cách tổ chức "lạc" sau lễ tạ ơn như thế nào cho phù hợp với cung cách sống của ta. Có cần thiết phải yến tiệc linh đình trong khi nhiều mảng đời nghèo đói bên cạnh ta không đủ sống. Xung quanh ta vẫn còn biết bao nhiêu trái tim lỗi nhịp đập cần chỉnh sửa, bao nhiêu đôi mắt cần sáng nhờ sự chia sẻ của ta ? Bao nhiêu mái nhà rách nát đang cần ta chung tay xây sửa ?
Vẫn là quyền tự do lựa chọn của mỗi người, nhưng tôi vẫn thầm nghĩ rằng càng khiêm tốn, càng nhẹ nhàng bao nhiêu thì lòng càng thanh thản biết bao nhiêu.
Tham dự Thánh Lễ tạ ơn Ngân Khánh Linh Mục của 2 cha Giuse ngày hôm nay xong, tôi cảm thấy vui vì được chia sẻ, cảm nghiệm nghèo của đời linh mục của hai cha bằng ly nước trà đượm tình thắm thiết.
Vẫn mong có những Thánh lễ tạ ơn nhẹ nhàng và giản đơn như thế để nói lên tiếng nói, nói lên cung cách sống nghèo của Giáo Hội giữa cuộc đời mà người ta vẫn chạy theo phú quý giàu sang.
Mic Thanh Châu
Bao Giờ Sẽ Tới Phiên Giáo Xứ Chúng Ta?
Đức Ông Nguyễn Minh Hiền thuộc Giáo Phận San Jose vừa bị Chính Quyền Liên Bang Hoa Kỳ Truy Tố.
Đức Giám Patrick McGrath của giáo phận San Jose, California, trong ngày thứ Hai 20 tháng 4 năm 2015 đã chính thức ra thông cáo đăng trong mạng lưới điện toán của giáo phận San Jose về việc chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ bắt giữ Đức Ông Nguyễn Minh Hiền
Xem thông báo của tòa Giám Mục San Jose
Đức Ông Nguyễn Minh Hiền, chịu chức Linh Mục năm 1985, nguyên là Chánh Xứ Giáo xứ Việt Nam San Jose, nguyên Giám Đốc Trung Tâm CGVN, và nguyên Tổng Quản đặc trách Mục Vụ cho người CGVN tại San Jose, vừa bị Bồi Thẩm Đoàn Liên Bang HK tại Florida quyết định truy tố về các tội danh liên quan đến việc trốn thuế và giả mạo ngân hàng.
Ông Abraham Simmons, phát ngôn viên của Phòng Công Tố cho biết rằng từ năm 2005 đến 2008, Đức Ông Hiền đã ký thác 14 chi phiếu đóng góp tiền cho giáo xứ vào trương mục của riêng mình. Tổng cộng 14 tấm chi phiếu này lên đến 19.000 đollars. Và từ năm 2008 đến 2011, Đức Ông đã không khai thuế lợi tức của mình lên tới 1.1 triệu đollars cho Sở Thuế Liên Bang.
Đức Ông Hiền đã bị bắt giữ tại Fort Lauderdale, Florida vào thứ Bẩy, ngày18-4-2015 và bị đưa ra trước Đại Bồi Thẩm Đoàn ngày thứ Hai, 20-4 vừa qua. Đức Ông bị truy tố về 14 tội danh lường gạt ngân hàng và 4 tội danh trốn thuế.
Bản cáo trạng ghi rõ rằng Đức Ông Hiền đã trốn thuế lợi tức cá nhân vào các năm:
-năm 2008 là 337.516 đollars,
-năm 2009 là 376.500 đollars,
- năm 2010 là 335.456 đollar
-năm 2011 là 93.012 đollars.
Phát ngôn viên Sở Thuế Vụ Liên Bang cho hay Đức Ông Hiền sẽ được áp tải về Tòa Án Liên Bang ở San Jose bắc California để được xét xử.
Tính đến nay, Đức Ông Hiền, 55 tuổi, đã phục vụ tại Giáo Phận San Jose được 20 năm. Từ năm 2001 đền 2011, LM Hiền giữ chức vụ Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo San Jose Tháng 2, 2011, Lm. Nguyễn Minh Hiền được Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI vinh thăng Đức Ông cùng với 4 linh mục khác trong GP San Jose. Đến tháng 7, 2012, Đức Ông đột ngột bị Địa Phận San Jose thuyên chuyển khỏi hai chức vụ Chánh Xứ GXVN và Giám Đốc Trung Tâm CG, mất luôn chức Đại Diện Giám Mục đặc trách người Công Giáo Việt Nam tại San Jose. Từ đó giáo dân Việt Nam tại San Jose không biết Đức Ông Hiền ở đâu, làm việc gì ?
Tòa Giám Mục San Jose cho biết thêm Đức Ông Hiền đã được nghỉ nhiệm vụ dài hạn từ ngày 6-12-2013.
ĐGM Patrick McGrath của GP San Jose đã công bố một văn thư, trong đó có viết rằng: “Giáo Phận đã hợp tác với Sở Thuế trong việc điều tra về việc làm của Đức Ông Nguyễn Minh Hiền kể từ tháng 10-2012.” Văn thư còn cho biết thêm là việc công bố kết quả cuộc điều tra là trách nhiệm của Sở Thuế và thể theo lời yêu cầu của cơ quan này, Giáo Phận đã hạn chế tối đa việc liên lạc với Đức Ông trong tiến trình điều tra.
Dưới đây là bản tin của Đài ABC đã loan vào sáng ngày 21-4-2015:
Xem bản tin của đài ABC loan vào ngày 21-4-2015
Đức Ông Nguyễn Minh Hiền thuộc Giáo Phận San Jose vừa bị Chính Quyền Liên Bang Hoa Kỳ Truy Tố.
Đức Giám Patrick McGrath của giáo phận San Jose, California, trong ngày thứ Hai 20 tháng 4 năm 2015 đã chính thức ra thông cáo đăng trong mạng lưới điện toán của giáo phận San Jose về việc chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ bắt giữ Đức Ông Nguyễn Minh Hiền
Xem thông báo của tòa Giám Mục San Jose
Đức Ông Nguyễn Minh Hiền, chịu chức Linh Mục năm 1985, nguyên là Chánh Xứ Giáo xứ Việt Nam San Jose, nguyên Giám Đốc Trung Tâm CGVN, và nguyên Tổng Quản đặc trách Mục Vụ cho người CGVN tại San Jose, vừa bị Bồi Thẩm Đoàn Liên Bang HK tại Florida quyết định truy tố về các tội danh liên quan đến việc trốn thuế và giả mạo ngân hàng.
Ông Abraham Simmons, phát ngôn viên của Phòng Công Tố cho biết rằng từ năm 2005 đến 2008, Đức Ông Hiền đã ký thác 14 chi phiếu đóng góp tiền cho giáo xứ vào trương mục của riêng mình. Tổng cộng 14 tấm chi phiếu này lên đến 19.000 đollars. Và từ năm 2008 đến 2011, Đức Ông đã không khai thuế lợi tức của mình lên tới 1.1 triệu đollars cho Sở Thuế Liên Bang.
Đức Ông Hiền đã bị bắt giữ tại Fort Lauderdale, Florida vào thứ Bẩy, ngày18-4-2015 và bị đưa ra trước Đại Bồi Thẩm Đoàn ngày thứ Hai, 20-4 vừa qua. Đức Ông bị truy tố về 14 tội danh lường gạt ngân hàng và 4 tội danh trốn thuế.
Bản cáo trạng ghi rõ rằng Đức Ông Hiền đã trốn thuế lợi tức cá nhân vào các năm:
-năm 2008 là 337.516 đollars,
-năm 2009 là 376.500 đollars,
- năm 2010 là 335.456 đollar
-năm 2011 là 93.012 đollars.
Phát ngôn viên Sở Thuế Vụ Liên Bang cho hay Đức Ông Hiền sẽ được áp tải về Tòa Án Liên Bang ở San Jose bắc California để được xét xử.
Tính đến nay, Đức Ông Hiền, 55 tuổi, đã phục vụ tại Giáo Phận San Jose được 20 năm. Từ năm 2001 đền 2011, LM Hiền giữ chức vụ Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo San Jose Tháng 2, 2011, Lm. Nguyễn Minh Hiền được Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI vinh thăng Đức Ông cùng với 4 linh mục khác trong GP San Jose. Đến tháng 7, 2012, Đức Ông đột ngột bị Địa Phận San Jose thuyên chuyển khỏi hai chức vụ Chánh Xứ GXVN và Giám Đốc Trung Tâm CG, mất luôn chức Đại Diện Giám Mục đặc trách người Công Giáo Việt Nam tại San Jose. Từ đó giáo dân Việt Nam tại San Jose không biết Đức Ông Hiền ở đâu, làm việc gì ?
Tòa Giám Mục San Jose cho biết thêm Đức Ông Hiền đã được nghỉ nhiệm vụ dài hạn từ ngày 6-12-2013.
ĐGM Patrick McGrath của GP San Jose đã công bố một văn thư, trong đó có viết rằng: “Giáo Phận đã hợp tác với Sở Thuế trong việc điều tra về việc làm của Đức Ông Nguyễn Minh Hiền kể từ tháng 10-2012.” Văn thư còn cho biết thêm là việc công bố kết quả cuộc điều tra là trách nhiệm của Sở Thuế và thể theo lời yêu cầu của cơ quan này, Giáo Phận đã hạn chế tối đa việc liên lạc với Đức Ông trong tiến trình điều tra.
Dưới đây là bản tin của Đài ABC đã loan vào sáng ngày 21-4-2015:
Xem bản tin của đài ABC loan vào ngày 21-4-2015
Gậy Ông Đập Lưng Ông
Khi tôi còn học tại Đại học Vạn Hạnh, tôi được quen với một người bạn Công-giáo, trong lúc thất tình và đầy biến động trong lòng tôi đã ngỏ ý là muốn vào chùa tu. Người bạn tôi suy nghĩ và không e ngại bảo tôi: “Nếu muốn đi tu, mày nên rửa tội rồi xin vào một nhà dòng hay chủng viện nào đó mà tu. Sau này làm linh mục mới có thể có cơ hội giúp đỡ gia đình về tài chánh còn lại làm cha thiên hạ. Hơn nữa đi đâu cũng có kẻ lạy, kẻ bẩm, nhất là mày có thể lợi dụng toà giảng muốn chửi muốn mắng ai, không ai dám lên tiếng, vì lên tiếng phàn nàn mày sẽ đổ tội cho chúng là vu oan cáo vạ… là ma qủy…. dám nói động tới chức thánh…. chứ tu chùa làm sư thì nghèo suốt đời”.
Quả thật, ngày đó khi nghe bạn tôi nói thế, tôi đã không thể hiểu nổi, vì lúc đó tôi không hề biết nhiều và nghe nhiều về chuyện của các linh-mục công giáo, vì tôi là người “ngoại đạo” hay nói nôm na theo mấy người công-giáo tự cho mình là người có đạo, chúng tôi là: “Những người không có đạo”. Quả đây là một sự sai lầm khi tự cho: chỉ người công-giáo mới là người có đạo, còn tất cả những người theo tôn giáo khác là “không có đạo”. Vì khi nói ra điều này, các linh-mục và những người công-giáo chẳng đã qúa khích lắm sao, nếu không muốn nói là quá “tự phụ”, “độc đoán”, “kêu ngạo”, “hiềm khích”… và đầy “ác tính” hoàn toàn khác với giáo lý công-giáo
Nhưng tất cả điều này sau này tôi mới hiểu, nhất là tôi có một vài người bạn công-giáo đã luôn than phiền trước những thái quá, các linh-mục luôn đã dùng thần quyền để bao dung và tự cho mình “quyền thế” hầu lũng đoạn và bất trị chính bản thân mình, đúng như câu nói mà vị linh-mục đã tự than tự trách qua bài đọc trước trên trang mạng Ánh Sáng Sự Thật: “Lại thêm một thằng mất dậy”… Vì khi chịu chức linh mục xong là không ai còn dậy được nữa…
Khi đọc bài này, tôi giật mình vì tự hỏi không biết người nói điều này có bị vạ tuyệt thông không? Nhưng rồi suy nghĩ, không có lửa làm sao có khói. Hơn nữa, nếu là một linh-mục thật sự thì hiển nhiên sẽ tôn trọng ý kiến và hiểu đâu là: “Chống đối” và đâu là: “Nói sự thật”. Và chính điều này đã khiến tôi nhớ lại lời tôi nghe trên đài của linh mục Vũ Thành đã “kết tội” những người chống đối là “ma qủy”, trong khi cũng chính ông đã giảng tại nhà thờ CTTĐVN, mà do một người giáo dân đã kể cho tôi khi tôi bàn đến câu nói của ông trên đài: “khi nghe lời giảng thì cứ nghe còn chuyện các linh mục làm sai lời giảng là chuyện của các linh mục đừng có kết án ai” .
““Đừng kết án”, nhưng “lại “Kết án”… tôi hy vọng linh mục Vũ Thành đã học qua:Cẩn ngôn vô tội, cẩn tắc vô ưu. Chứ không giữ gìn mà bạ đâu nói đó, nhất là nói trên đài không chỉ cho những người công giáo của ông, mà còn chúng tôi, những người “không có đạo” nữa, thì quả là bất hạnh cho không chỉ mình linh mục, mà còn cho những người công-giáo bị vạ lây…. Vì chúng ta phải phân biệt sự khác biệt giữa chống đối và dám nói sự thật… các linh mục đã luôn lợi dụng quyền “là cha” và sự kính nể của giáo dân để che lấp “cả vú lập miệng em”. Linh mục chửi mắng và buộc tội ai cũng được, nhưng ai mà nói tới là tự phán ngay là “ma qủy cám dỗ”. Chẳng lẽ những người chống đối cộng sản cũng bị ma qủy cám dỗ hay là ma qủy chăng? Tôi hy vọng khi đọc bài này, sẽ không có một bài giảng mắng chửi hay bẻ sai ý tưởng.. Nhưng có cũng không sao, vì tôi “không có đạo”, nên không đến nhà thờ… may ra bạn tôi sẽ kể lại là cùng... Hơn nữa, hãy nhìn lại mình một cách chân chính… linh mục có thật sự công bằng, có thật sự giữ luật đời, luật đạo… đã sống ngay thật và đã không vì đồng tiền nên đã tự dùng quyền, dùng chức phận, để tô vẽ, để tổ chức tiệc này tiệc nọ, không một lần mà còn hơn một lần… làm phiền đến giáo dân vất vả, từ miếng lớn miếng nhỏ… những người thành thật chất phát, tin theo chân lý… với lý do này, lý do nọ… khoe khoang bạn bè gia tộc.. và rồi có giống như Hilary Clinton khi đi thuyết giảng ở các trường đại học đã lấy hơn hai trăm ngàn mỹ kim cho một lần thuyết giảng, một số tiền quá lớn, nhất là các trường đại học đang bị trở ngại về ngân khoản. Khi hỏi là vì sao mà lấy giá cao như vậy, Hilary đã trả lời: “Không, tôi lấy là để quyên góp cho những cơ quan từ thiện..” Nhưng không một ai có thể chứng minh là số tiền đó thật sự được trao cho các cơ quan từ thiện… nói như người công giáo: có Chúa biết… còn với tôi thì may ra có “Phật biết”..
Tôi đọc báo, và rất ngưỡng ngươi công giáo đã có một vị chủ chăn đầy khiêm tốn như Đức Thánh Cha Francis, một chủ chăn hết sức khiêm nhường và sống trong sự khó nghèo… một gương sáng hoàn mỹ… ngay cả ngày kỷ niệm một năm cũng tự trốn để khỏi làm phiền đến con chiên… nhưng tiếc thay những thừa sai của Ngài sao lại phô trương và mặc tính “đời” mù loà đến thế… quả là tiếc thay…. Chẳng phải tự mình đã khoe “cá tính” của mình… gậy ông đập lưng ông…
Người Không Có Đạo
Khi tôi còn học tại Đại học Vạn Hạnh, tôi được quen với một người bạn Công-giáo, trong lúc thất tình và đầy biến động trong lòng tôi đã ngỏ ý là muốn vào chùa tu. Người bạn tôi suy nghĩ và không e ngại bảo tôi: “Nếu muốn đi tu, mày nên rửa tội rồi xin vào một nhà dòng hay chủng viện nào đó mà tu. Sau này làm linh mục mới có thể có cơ hội giúp đỡ gia đình về tài chánh còn lại làm cha thiên hạ. Hơn nữa đi đâu cũng có kẻ lạy, kẻ bẩm, nhất là mày có thể lợi dụng toà giảng muốn chửi muốn mắng ai, không ai dám lên tiếng, vì lên tiếng phàn nàn mày sẽ đổ tội cho chúng là vu oan cáo vạ… là ma qủy…. dám nói động tới chức thánh…. chứ tu chùa làm sư thì nghèo suốt đời”.
Quả thật, ngày đó khi nghe bạn tôi nói thế, tôi đã không thể hiểu nổi, vì lúc đó tôi không hề biết nhiều và nghe nhiều về chuyện của các linh-mục công giáo, vì tôi là người “ngoại đạo” hay nói nôm na theo mấy người công-giáo tự cho mình là người có đạo, chúng tôi là: “Những người không có đạo”. Quả đây là một sự sai lầm khi tự cho: chỉ người công-giáo mới là người có đạo, còn tất cả những người theo tôn giáo khác là “không có đạo”. Vì khi nói ra điều này, các linh-mục và những người công-giáo chẳng đã qúa khích lắm sao, nếu không muốn nói là quá “tự phụ”, “độc đoán”, “kêu ngạo”, “hiềm khích”… và đầy “ác tính” hoàn toàn khác với giáo lý công-giáo
Nhưng tất cả điều này sau này tôi mới hiểu, nhất là tôi có một vài người bạn công-giáo đã luôn than phiền trước những thái quá, các linh-mục luôn đã dùng thần quyền để bao dung và tự cho mình “quyền thế” hầu lũng đoạn và bất trị chính bản thân mình, đúng như câu nói mà vị linh-mục đã tự than tự trách qua bài đọc trước trên trang mạng Ánh Sáng Sự Thật: “Lại thêm một thằng mất dậy”… Vì khi chịu chức linh mục xong là không ai còn dậy được nữa…
Khi đọc bài này, tôi giật mình vì tự hỏi không biết người nói điều này có bị vạ tuyệt thông không? Nhưng rồi suy nghĩ, không có lửa làm sao có khói. Hơn nữa, nếu là một linh-mục thật sự thì hiển nhiên sẽ tôn trọng ý kiến và hiểu đâu là: “Chống đối” và đâu là: “Nói sự thật”. Và chính điều này đã khiến tôi nhớ lại lời tôi nghe trên đài của linh mục Vũ Thành đã “kết tội” những người chống đối là “ma qủy”, trong khi cũng chính ông đã giảng tại nhà thờ CTTĐVN, mà do một người giáo dân đã kể cho tôi khi tôi bàn đến câu nói của ông trên đài: “khi nghe lời giảng thì cứ nghe còn chuyện các linh mục làm sai lời giảng là chuyện của các linh mục đừng có kết án ai” .
““Đừng kết án”, nhưng “lại “Kết án”… tôi hy vọng linh mục Vũ Thành đã học qua:Cẩn ngôn vô tội, cẩn tắc vô ưu. Chứ không giữ gìn mà bạ đâu nói đó, nhất là nói trên đài không chỉ cho những người công giáo của ông, mà còn chúng tôi, những người “không có đạo” nữa, thì quả là bất hạnh cho không chỉ mình linh mục, mà còn cho những người công-giáo bị vạ lây…. Vì chúng ta phải phân biệt sự khác biệt giữa chống đối và dám nói sự thật… các linh mục đã luôn lợi dụng quyền “là cha” và sự kính nể của giáo dân để che lấp “cả vú lập miệng em”. Linh mục chửi mắng và buộc tội ai cũng được, nhưng ai mà nói tới là tự phán ngay là “ma qủy cám dỗ”. Chẳng lẽ những người chống đối cộng sản cũng bị ma qủy cám dỗ hay là ma qủy chăng? Tôi hy vọng khi đọc bài này, sẽ không có một bài giảng mắng chửi hay bẻ sai ý tưởng.. Nhưng có cũng không sao, vì tôi “không có đạo”, nên không đến nhà thờ… may ra bạn tôi sẽ kể lại là cùng... Hơn nữa, hãy nhìn lại mình một cách chân chính… linh mục có thật sự công bằng, có thật sự giữ luật đời, luật đạo… đã sống ngay thật và đã không vì đồng tiền nên đã tự dùng quyền, dùng chức phận, để tô vẽ, để tổ chức tiệc này tiệc nọ, không một lần mà còn hơn một lần… làm phiền đến giáo dân vất vả, từ miếng lớn miếng nhỏ… những người thành thật chất phát, tin theo chân lý… với lý do này, lý do nọ… khoe khoang bạn bè gia tộc.. và rồi có giống như Hilary Clinton khi đi thuyết giảng ở các trường đại học đã lấy hơn hai trăm ngàn mỹ kim cho một lần thuyết giảng, một số tiền quá lớn, nhất là các trường đại học đang bị trở ngại về ngân khoản. Khi hỏi là vì sao mà lấy giá cao như vậy, Hilary đã trả lời: “Không, tôi lấy là để quyên góp cho những cơ quan từ thiện..” Nhưng không một ai có thể chứng minh là số tiền đó thật sự được trao cho các cơ quan từ thiện… nói như người công giáo: có Chúa biết… còn với tôi thì may ra có “Phật biết”..
Tôi đọc báo, và rất ngưỡng ngươi công giáo đã có một vị chủ chăn đầy khiêm tốn như Đức Thánh Cha Francis, một chủ chăn hết sức khiêm nhường và sống trong sự khó nghèo… một gương sáng hoàn mỹ… ngay cả ngày kỷ niệm một năm cũng tự trốn để khỏi làm phiền đến con chiên… nhưng tiếc thay những thừa sai của Ngài sao lại phô trương và mặc tính “đời” mù loà đến thế… quả là tiếc thay…. Chẳng phải tự mình đã khoe “cá tính” của mình… gậy ông đập lưng ông…
Người Không Có Đạo
Tự
bạch của một linh mục
Nguyễn Vĩnh Căn
Bản tính của tôi vốn ngỗ ngáo hay thẳng mực tàu đau lòng gỗ, nên chẳng mấy ai ưa. Tuy nhiên tôi cũng có được ít đứa bạn, kể cả vài Linh Mục cũng khá thân và chiều được cái tính càn rỡ, ưa lý sự cùn của tôi. Tiếng là bộc trực thẳng thắn, nhưng những chuyện như dưới đây, búa bổ vào chức Linh mục, thì ông cố nội tôi sống dậy cũng chẳng dám nữa là tôi. Bởi tôi chẳng dại chi đụng đến cái thiên chức đang được mọi người trọng vọng, kính nể. Và cái câu: “Lời của các cha là vàng ngọc” vẫn đang còn đang tiềm tàng trong mỗi người giáo dân xứ đạo miền quê, thì hệ luỵ của sự xúc phạm đó là rất khôn lường. Một án tử, loại ra khỏi cuộc chơi của giáo xứ là không tránh khỏi. Rồi râm vang cả làng nước: thằng nớ bêu rếu các cha, rối đạo.
Nhưng rồi một hôm, có Linh mục bạn thân đến nhờ tôi làm cái chuyện tày trời đó. Ngài nói: “Mi hay viết lách có chút văn vẻ, tao nhờ mi viết lại cái tự sự của cuộc đời tao”. Thấy tôi có vẻ ái ngại, cha liền trấn an: “Mi đừng lo, có chi tao bảo kê cho”. Thôi thì vâng lời Ngài mà viết, chứ chuyện tai bay vạ gió là khó tránh khỏi.
*
Chuyện kể rằng…
Tôi được thụ phong linh mục vào cái tuổi 38. Cái tuổi khá cứng cáp để bước vào đời. Không kể mấy năm làm cha phó xứ, thì gần 20 năm làm chủ chăn ở 5 giáo xứ; trông coi 5 GIÁO Xứ xây 6 nhà thờ, còn nhà xứ, phòng sinh hoạt, nhà trường, hoa viên, đường sá…thì không biết bao nhiêu mà kể. Rồi còn được nhận nhiều bằng khen của nhà nước về: Xây dựng các thôn văn hoá. Sáng kiến đưa nghề truyền thống về cho giáo dân có công ăn việc làm. Nâng cao trình độ văn hoá cho con em và khai sáng cho người giáo dân nhận thức được vấn đề sinh đẻ có trách nhiệm, để nuôi dạy tốt…
Có lẽ, với bảng thành tích như thế của một Linh mục, đã làm tôi cảm thấy ấm lòng để tự tin xen lẫn chút hãnh diện khi được các giáo dân ngưỡng mộ và trầm trồ: một ông cha linh hoạt và tận tình phục vụ giáo dân, thì xứ nào mà chẳng mơ được ước thấy một ông cha như thế!
Nhưng rồi lòng tự tin và chút kiêu hãnh về bảng thành tích đó, đã hoàn toàn sụp đổ. Mà khốn thay, sự sụp đổ đó lại không xuất phát nơi những người giáo dân ngoan đạo, mà lại nơi mấy thằng bạn đời ngông nghênh, ăn tục nói phét và khô khốc đạo nghĩa mới phiền cơ chứ!
Bữa đó, một Linh mục Việt kiều về nước, rủ rê mấy thằng bạn một thời chung lớp, lên xứ tôi ăn nhậu hàn huyên tâm sự chuyện đời giông dài. Sau vài chung rượu, tán phét hết các chuyện thời sự trong ngoài nước, đến chuyện đạo bên trời Âu với nhiều Scandan của các Linh mục…Rồi chuyện thay ngôi đổi chủ của giáo hội Việt Nam. Và luôn miệng, tôi thông báo cho bọn bạn biết: “Thằng Nhân em thằng Lân, sắp thụ phong Linh mục”. Nghe thế, thằng Sơn Ba Rọi lên tiếng: “Nả, lại thêm một thằng mất dạy nữa rồi”. Tôi đớ người ra, tưởng như bị nghe lầm. Nhưng rồi hắn tiếp lời: “Anh quân ngạc nhiên lắm phải không? Khi lên làm Linh Mục rồi, các cha có còn nghe ai dạy dỗ nữa mô mà không mất dạy! Cha mẹ cũng nghiêng mình cúi chào “lạy cha” thì còn chi mà răn dạy nữa kia chứ! Mà có răn dạy, thì các cha có chịu nghe nữa không? Rồi xưng hùng xưng bá ở các giáo xứ; khi đó có còn vâng phục các Đấng bản quyền nữa chăng? Đến Toà Thánh Vatican mà còn phải đau đâu “kính nhi viễn chi” với các Linh mục đồng tính luyến ái, linh mục đòi hỏi huỷ bỏ độc thân…nữa là…”. Linh mục Việt kiều cười khẩy và hùa vô. Ngài có vẻ thích thú với những kiểu nói sống sượng đầy xúc phạm, và cho đó là chuyện bình thường. Đúng là Linh mục Tây có khác! Còn tôi thì như bị gáo nước lạnh dội vào làm bàng hoàng ngơ ngác. Nhưng rồi, tôi cũng ráng gượng nhẹ: “Thì tụi bây cũng vừa vừa với chứ! Mất gì mà không gọi một tiếng ông”. Tuấn đen cười nhăn nhở: “Đã mất dạy thì trong ngôn từ VN chỉ có “thằng mất dạy” chứ làm chi có “ông mất dạy”.
Rồi Trọng đỉu xía vô: “Ngày thụ phong, các Linh mục chưa kịp mặc áo Thiên chức với ba lời khấn: Khó nghèo, Thanh tịnh, Vâng lời thì đã vội mặc cho mình những thuộc tính tham sân si của con người trần tục: sĩ diện, bảo thủ, tự mãn, kiêu kỳ, bệnh thành tích….mất rồi”. Hắn dẫn chứng ra một danh sách dài các Linh mục, khi còn làm thầy thì xuề xoà, nhẹ nhàng, khiêm tốn, thân thương với bạn bè lắm, nhưng rồi khi lên chức cha thì lên mặt kiêu kỳ, hãnh tiến, bậc thứ, quan liêu….chẳng những với giáo dân mà còn với cả bạn bè nữa. Sự tự tôn đó, có lẽ, là do sự tôn kính quá đáng của các giáo dân, đã khiến cho các ngài được kích lên quá cao, để quên rằng, mình chỉ là tôi tớ phục vụ cho con chiên bổn đạo mà thôi.
Đó là lần đầu tiên trong hơn 20 năm làm Linh mục, tôi được nghe những lời chia sẽ hết sức tâm tình, và thấu đáo của bạn bè về Thiên chức Linh mục; nhưng nghe ra cũng thật nhức nhối. Những lời phản ánh này, lúc đầu nghe phản cảm đối với tôi lắm; bởi đời Linh mục của tôi chưa bao giờ được nghe ai nói sàm sở, thô nhám, và báng bổ về thiên chức Linh mục như thế cả. Mà cũng phải thôi, còn ai dám thổ lộ tâm tình chân thật hơn ngoài bạn bè. Giáo dân thì không dám hó hé chuyện sai trái của các Linh mục, vì sợ trù dập vạ tuyệt thông thì khốn! Các Linh mục thì xuê xoà với nhau, chứ dại chi vạch lá tìm sâu, mà đức hạnh chắc gì ai đã hơn ai? Còn các Đấng Bản Quyền thì xa xôi quá. Các Ngài làm sao biết hết ngọn ngành các chuyện tác oai tác quái của Linh mục ở các Giáo xứ. Giáo dân có viết thư phản ánh, Toà giám cũng lưỡng lự để tìm hiểu; Bởi nếu có sự thật như thế thì, Toà giám cũng ngại ngần để góp ý với các Linh mục đó. Vì đã từng có Linh mục toáng lên to chuyện, bất mãn Toà giám, rồi về trù dập giáo dân. Thành ra lợi bất cập hại, nên Toà giám cũng chỉ đánh cú lơ, rồi xin hai chữ bình yên mà thôi.
Và đúng là bị mất dạy thật rồi!
Những đêm sau đó, tôi đã phải thao thức, trăn trở để soát xét lại hơn 20 năm làm Linh mục của đời tôi.
Những năm đầu tiên, khi tôi về làm Linh mục phó của GIÁO Xứ K…thì mọi việc đã không mấy xuôn sẽ, mặc dầu có cha chính chỉ vẽ và hướng dẫn tôi trong các công việc mục vụ. Đó là khi bắt tay vào làm việc với các đoàn thể trong giáo xứ, mới nẩy sinh ra nhiều việc đụng chạm, kể cả có khi cha con phải lên tiếng đôi co nhau.
Ngày ấy, lúc mới về, bầu nhiệt huyết trào dâng trong tôi, đã khiến tôi làm việc không biết mệt nhọc. Và hậu quả của sự hăng say đó là, sự ôm đồm nhiều việc, để cuối cùng chẳng việc gì ra việc gì. Sự ôm đồm đó xuất phát từ suy nghĩ: nhân sự một giáo xứ miền quê không đủ năng lực để cáng đáng. Đó là sai lầm đầu tiên khi đánh giá thấp trình độ của người giáo dân. Và giữa cái lý thuyết và thực hành không phải luôn đi song hành với nhau, đã dẫn đến những mâu thuẫn nội tại giữa cha và con. Và cuối cùng, là cách làm và suy nghĩ của mỗi GIÁO Xứ mỗi khác, nhưng lại đem đến những kết quả rất khả quan giống nhau.
Những thất bại đầu đời của một Linh mục trong các việc xây dựng: cấu trúc đoàn thể, các phong trào vui chơi học giáo lý, văn nghệ, và nâng cao trình độ văn hoá, đã cho tôi một bài học: phải biết lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của hết mọi người. Phải biết tin tưởng và tôn trọng các cộng sự viên của mình. Phải biết biến hoá và tuỳ nơi, tuỳ lúc, tuỳ lớp tuổi, tuỳ cộng đoàn, tuỳ giáo xứ mà hành xử khoan nhặt cho thích ứng. Và yếu tố thất bại buổi đầu đời đó, chắc chắn cũng do bởi sự: chủ quan, bảo thủ, hiếu thắng và tự mãn nơi tôi.
Khi tôi bắt đầu nhận làm cha chính cho một giáo xứ thì, mọi việc nhiêu khê hơn tôi tưởng. Tôi suýt sa chân làm hỏng cái ơn gọi thanh tịnh nơi một Linh mục. Khi tôi về GIÁO Xứ nọ, hầu như không có người phụ trách ca đoàn, tôi đã say sưa đem lòng nhiệt tình ra bao thầu hết việc tập hát ca đoàn. Một lần nọ, đã xẩy ra một tình huống hết sức dễ sa ngã. Thông thường thì việc tập bè hay tiểu khúc thường được chỉ định cho một vài giọng nữ ở những buổi chiều khác. Hôm đó, vì muốn cho ca viên nữ nghe băng, bản nhạc sắp tập, nên tôi cho tập hát ngay tại phòng riêng. Và ngẫu nhiên lại chỉ có một cô bé khá xinh xắn tập hát. Đang khi tập hát, cô bé bỗng ngã ra, ngất xỉu ngay trong phòng tôi. Tôi thật bối rối, và không biết xoay xở ra sao? Kêu bà bọ –người nấu ăn - hay ai khác thì không tiện, vì người ngoài sẽ dị nghi là ông cha này làm chi mà con bé bị ngất xỉu. Nhưng nếu để lâu mà cô bé chết trong phòng một Linh mục cũng tai tiếng, biết ăn nói làm sao đây? Thế là cuối cùng tôi phải liều đánh gió cho cô bé khắp cả thân người, như mẹ tôi đã từng đánh gió cho tôi hồi còn bé. Đó là lần đầu tiên tôi cảm nhận được cái dáng vóc đường cong tuyệt mỹ nơi thân thể một người phụ nữ. Trong khi tôi run rẫy để đánh gió cho cô bé thì, ý nghĩ chiếm hữu thể xác đang chạy rần rật trong dòng máu nóng của cơ thể tôi. Đó là cái cảm xúc nhục thể giữa người nam và người nữ đã làm cho đầu óc tôi tê cứng không còn đủ lý trí tỉnh táo để chống đỡ. Thật may, cô bé tỉnh lại rất mau đã cứu tôi khỏi một tình huống phạm tội rất cụ thể.
Sau lần đó, tôi nhớ lại bài giảng cấm phòng của một Linh mục: “Hãy tránh xa và đừng tạo cơ hội cho ngọn lửa tình dục trong con người bùng cháy, vì nó sẽ đốt cháy con người chúng ta trong truỵ lạc. Chớ có thách đố hay đùa giỡn với tình dục. Ai vướng vào sẽ khó dứt nổi, vì nó còn quỷ quyệt hơn cả con nghiện ma tuý”.
Đó là lần hú vía, để sau này tôi không thể lập lại sai phạm. Và một Linh mục khác đã cho tôi cái kinh nghiệm để tránh xa chước cám dỗ của dục tình: “Khi tiếp xúc phụ nữ, không bao giờ cho phép tiếp trong phòng riêng. Khi tiếp xúc với phụ nữ không nên nhìn trực diện vào người đó. Và khi tiếp chuyện phụ nữ nên có một người thứ ba làm việc quanh quẩn đâu đó - để cho bà bọ lau quét nhà, dọn dẹp, hay cho các chú sửa soạn lại phòng ốc… Khi thấy câu chuyện với người phụ nữ không cần thiết, thì ra hiệu cho bà bọ vào báo là cha có người cần gặp để tránh ngồi giông dài với người phụ nữ kia”. Bởi vì, tôi cũng đã thấy bài học đáng tiếc nơi một vài Linh mục, chỉ vì coi thường chủ quan và dễ dãi với phụ nữ để không kịp hối tiếc. Và cuộc đời tôi từ đó đến nay, luôn được cảnh báo và đề cao được ơn gọi thanh tịnh trong tâm hồn.
Nhưng rồi ơn gọi khó nghèo của một Linh mục là cái cớ để lũ bạn tôi diễu cợt. Tụi hắn bảo: “Các Linh mục khôn quá, khấn đức “khó nghèo”, hèn chi không thấy Linh mục nào nghèo, mà chỉ thấy Linh mục giàu có. Nào là vi tính lên mạng Pentum 4 đời mới cáo, Latop xách tay. TV, tủ lạnh, máy điều hoà, băng đĩa máy hát xập xình. Lên đời hết xe này đến xe kia, và thậm chí là còn có cả xế hộp. Chơi chim chóc, cây hoa cảnh, trông vào nhà xứ như một tiểu đế vương vậy. Rồi như mốt thời thượng, các Linh mục đua nhau kiếm cớ đi chữa bệnh hay chơi ở nước ngoài mang về ít ngàn đô nhẹ nhàng. Nói lên điều này tôi cũng hơi chột dạ, vì nếu không có trục trặc thì, có lẽ, tôi cũng đã có chuyến qua Mỹ năm ngoái.
Rồi thằng Minh đen đưa ra gương khó nghèo như cha Bân(đã chết), cha Lễ: “Người nhà sắm cho biết bao nhiêu nồi niêu xoong chảo…chăn gối mùng mền, chỉ mấy tháng sau là không còn gì trong nhà xứ nữa. Người nhà thấy thương tội nghiệp thì sắm lại biết bao lần, thế mà đồ đạc áo quần không cánh cứ bay đi. Nhưng rồi cũng chỉ là chia sẽ cho người nghèo khổ thì ai dám trách cứ kia chứ!”.
Ai thì tôi không biết, nhưng cha Bân tôi biết khá rõ. Có lần lên thăm cha đau nặng, lúc tỉnh dậy cha bảo: “May mình không chết! Nếu chết thì mất linh hồn rồi!”. Nghe vậy tôi hỏi Ngài: “Tội chi mà ghê gớm vậy cha!”. Cha bảo: “Tiền họ xin lễ mình tiêu hết rồi, không có mà chuyển lại cho cha khác”. Tôi hỏi tiếp: “Cha làm việc chi mà tiêu tốn vậy”. “Cho mấy người nghèo, chứ có ăn tiêu chi mô”. Tôi bỗng cảm động và thương cảm cho một người cha già sống khó nghèo và chân chất đến thế là cùng.
Rồi Hoàng róm dẫn chứng gương một cha phó nọ: “Chỉ sắm một chiếc xe cúp 50 vừa đủ chạy, và chỉ chạy những lúc cần, còn bình thường thì cọc cạch chiếc xe đạp đi mục vụ giáo dân, khiến giáo dân ai cũng thương mến”. Và đúng như tụi nó nói: “Rao giảng lời Chúa rát họng, không bằng hành động sống đức khó nghèo trong đời thường”.
Có lẽ lời khấn thứ ba, về đức vâng lời tụi nó ít biết về quan hệ giữa Linh mục và Toà Giám Mục nên tụi nó đành bỏ qua. Và Linh mục Việt kiều đỡ lời là, Linh mục Hải ngoại thường hay vi phạm hơn, vì quyền tự do được tôn trọng, nên các Linh mục thường đi quá giới hạn hơn ở VN, với những đòi hỏi bỏ quy chế Linh mục độc thân…
Nhưng tôi lại nhận thấy nơi chính mình cũng đã có lần bất phục tùng bài sai Đấng Bản Quyền: với một lý do mà tôi tự nghĩ là rất chính đáng. Năm đó, tôi đang xây dở dang công trình nhà thờ, và mọi tài khoản kế hoạch đang nắm độc quyền trong tay, nên tôi xin phép được ở lại để hoàn thành công trình xây cất nhà thờ. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy mọi lý do cũng chỉ là sự bao biện cho sự bất phục tùng; bởi vì “Tiên vàn hãy phục tùng Đấng Bản Quyền”.
Nếu đức vâng lời tụi nó bỏ qua, thì trái lại việc điều hành giáo xứ (GX) tụi nó lên án gắt gao về sự độc đoán, chuyên quyền, bảo thủ và sự tự mãn nơi các LINH MụCQX. Hầu như các quyền hành điều phối tiền bạc, xây dựng các công trình đều tập trung vào đấng chủ chăn GIÁO Xứ. Về việc nay, thằng Đức Xê đưa ra những trường hợp cụ thể ở GIÁO Xứ nọ…là đã từng có những LINH MụCQX vẽ ra những công trình xây cất của GIÁO Xứ, mà chẳng hề đưa ra bàn bạc thảo luận với HĐGIÁO Xứ và giáo dân. Và HĐGIÁO Xứ chỉ biết có nhiệm vụ quyên tiền cho công trình tiến hành xây cất mà thôi. Và như thế, vô hình chung xem thường vai trò của HĐGIÁO Xứ, và đẩy HĐGIÁO Xứ vào vai trò đầy tớ trung thành để LINH MụCQX sai vặt.
Vai trò của HĐGIÁO Xứ vốn đã non kém, lại không có điều kiện để phát huy tinh thần tự chủ, thì làm sao trưởng thành được? Có lẽ, những phản ánh trên cũng có phần đúng, bởi lúc đó chưa có quy chế rõ ràng như ngày nay, mà nếu có, thì quyền lực cũng luôn nghiêng về các LINH MụCQX hơn là HĐGIÁO Xứ. Phần tôi, sống qua năm Ban HĐGIÁO Xứ khác nhau, tuy khá suôn sẽ, không có điều gì cha con phải lớn tiếng, nhưng những phản ánh trên cũng cho tôi nhiều suy nghĩ và trăn trở về những việc làm đã qua của một LINH MụCQX.
20 năm làm việc trong các giáo xứ, hầu như tôi nắm hết quyền chấp chánh. Dĩ nhiên là các đề án công trình xây dựng giáo xứ của tôi luôn được đưa ra bàn thảo, nhưng hầu như tôi biết chắc là sẽ được các ban ngành dễ tính thông qua. Thực ra, những người giáo dân trình độ khó tính, hay soi mói lý sự, thì làm sao có thể nằm trong các thành phần tham dự. Và như thế, chẳng khác nào bản đề án được đưa ra hội thảo chỉ cho có lệ mà thôi. Đến bây giờ, tôi mới thấy mình đã lấn sân quá nhiều với HĐGIÁO Xứ. Lẽ ra, chức năng đó phải để HĐGIÁO Xứ và giáo dân tự quyết định, và vai trò của LINH MụCQX cũng chỉ là tham mưu, tư vấn mà thôi. Phải xác định rằng: LINH MụCQX luôn là một người khách, nay đây mai đó. Và vai trò của HĐGIÁO Xứ và giáo dân mới chính là chủ sự. Bây giờ nghĩ lại, tôi nhận thấy: không phải việc gì suôn sẽ cũng làm cho người LINH MụC an tâm rằng, mình đã đi đúng hướng. Nhiệm vụ của LINH MụCQX là làm cho người giáo dân tự trưởng thành trên đôi chân của chính họ.
Và bệnh thành tích là điều làm tôi nhức nhối khi nghe tụi nó phê phán. Hầu như đó là tâm lý chung của các Linh mục khi về bất cứ GIÁO Xứ giàu hay nghèo chẳng cần biết. Chỉ biết là mình phải phấn đấu làm cho được nhiều hạng mục công trình GIÁO Xứ, thì mới thể hiện là một Linh mục tài năng tháo vát. Nhưng buồn thay, nỗi vất vả truân chuyên lại đè nặng trên đôi vai của người giáo dân, vốn đã còm cõi trong cái nhục nhằn nợ cơm áo gạo tiền thì, những công trình đó lại càng làm còm cõi người giáo dân hơn. Đành rằng, việc xây dựng nhà Chúa là điều tốt đẹp, ai cũng hằng mong muốn, nhưng là muốn trong điều kiện kinh tế cho phép, chứ không phải ngậm đắng nuốt cay đóng góp trong sự ép uổng.
Và rồi đôi khi, cũng có những động tác dân chủ biểu quyết cho phải cách, nhưng giữa đại hội như thế ai dám phát biểu ngược những điều LINH MụCQX đã quyết định. Chính tôi bây giờ nhớ lại lần đại hội của GIÁO Xứ nọ để làm nhà thờ, mà chính ra nhà thờ đó cũng chỉ mới xây dựng được chưa quá 40 năm, vẫn còn khá khang trang. Sau một lúc bàn thảo một số người đã đưa ra ý kiến: “Vì thời giá cà phê xuống trầm trọng, chưa phải là lúc thuận tiện để xây dựng nhà thờ mới”. Nhưng rồi, một số nhân lực chủ chốt của HĐGIÁO Xứ đã lái chuyện trở lại làm nhà thờ, với nhiều lý lẽ, thì giáo dân cũng phải ngậm bồ hòn làm ngọt vậy. Và một cuộc ra mặt đối đầu như thế, làm sao thắng nổi những tính toan đã được sắp đặt sẵn cơ chứ!
Tụi nó đưa ra lời của LINH MụC Ngữ: “Làm nhà thờ mà giáo dân phải thắt lưng buộc bụng thì Linh mục nào mà chẳng làm được. Cái hay của một LINH MụCQX là tần tảo chạy chọt hết nơi này đến nơi kia, để kinh tài về cho GIÁO Xứ mới là giỏi”. Và chẳng lẽ giáo dân khổ ải để cho bảng thành tích LINH MụC thêm dài hay sao?
Có lẽ chuyện về LINH MụCQX sẽ còn là những câu chuyện rất dài. Ngay cả khi tôi còn làm thầy Sáu, tôi cũng đã thấy những điều chướng tai gai mắt của các Linh mục. Đã có những Linh mục giam xác chết ở ngoài không cho vào nhà thờ mất mấy tiếng, chỉ vì những hiềm khích nhỏ nhặt với người sống. Có những đôi tân hôn bị Linh mục hành không chịu làm lễ cưới hết năm này tháng nọ, đến Toà Giám cũng phải chịu bó tay để phải đứng ra làm lễ cưới ở Toà giám. Có Linh mục đã nóng giận để ra vạ tuyệt thông vô cớ một cụ già 80 tuổi, chỉ vì chuyện con gái lấy người ngoại đạo rồi dở dang chưa kịp học giáo lý hôn nhân, nhưng rồi khi đi khỏi xứ cũng không nhớ giải vạ, đến nỗi sau này, cụ già hoảng quá phải vào xin LINH MụCQX mới giải vạ để lo các phép khi gần chết.
Chuyện một Linh mục nọ lấy ca đoàn làm bức bình phong cho những chuyện dán díu tư tình với ca viên nữ…Chuyện trù dập người này, nâng đỡ người kia…Và tất cả những chuyện trên, hầu như không có gì xa lạ với người giáo dân. Có điều họ biết, nhưng không bao giờ dám nói ra. Và cũng chính vì thế mà Linh mục khá an tâm để không nhận ra cái sai phạm tày liếp của mình để có cơ hội sửa sai.
Chuyện sai phạm của các Linh mục ở các GIÁO Xứ là chuyện sai phạm muôn thủa của cô dâu về nhà chồng, quen việc nhà mạ (tu viện)lạ việc nhà chồng(GIÁO Xứ) là thế đấy. Chỉ khác là cô dâu nào có to gan thì cũng chỉ to tiếng cãi trả mẹ chồng, chứ không phải như các Linh mục đè đầu cỡi cổ bà gia( giáo dân).
Nhưng dầu gì đi nữa, Linh mục cũng chỉ là con người hết sức trần tục. Trong con người họ có đủ mọi chứng hư nết xấu và cảm tính đời thường: hỉ, nộ, ái, ố, như muôn người. Có lẽ người giáo dân đã đánh bóng và quá thần tượng về thiên chức Linh mục, để đẩy họ lên một tầm cao vượt hẳn trên mọi giáo dân, để rồi khi phạm sai lầm, người giáo dân hầu như không chịu chấp nhận.
Thân phận tầm thường của Linh mục chúng tôi bị đè nặng trên đôi vai còm cõi biết bao trọng trách nặng nề để làm máng thông ơn cho Chúa. Và Linh mục luôn là người làm dâu trăm họ giáo dân và cả cho ông bà gia phép tắc cao đạo là Chúa và Mẹ nữa, chứ có phải chuyện làm Linh mục sung sướng chi đâu mà sách hoạch cho tội các Ngài vậy.
Và nếu Linh mục có điều gì sai phạm, xin mọi người giáo dân hãy vào cha con trao đổi tâm tình và chỉ bảo nhau, hoặc viết thư nặc danh cho Linh mục. Đừng biết sai phạm của Linh mục mà lặng thinh, thì chính giáo dân cũng có lỗi khi để Linh mục chìm đắm trong tội lỗi mà không ra tay cứu vớt. Nhưng hơn hết là xin mọi người giáo dân hãy cầu nguyện cho họ được sống chu toàn thiên chức mà Chúa đã trao ban.
Để giải bày đôi chút tâm sự tự bạch về đời sống Linh mục, tôi xin trích đoạn, bài viết của Linh mục Aug Hoàng Đức Toàn viết thư giải đáp cho một người bạn đã hỏi: Ân hận vì đã làm Linh mục? Đăng trong kỷ yếu 50 năm Thánh Mẫu năm 2005.
“…..Giá hơn 30 năm trước đây, anh đặt câu hỏi này, hẳn tôi đã trả lời không cần nghĩ ngợi: “Không! Không bao giờ ân hận! Tôi sẽ rất hạnh phúc”
Ngày tôi được thụ phong, tôi cảm thấy như đời mình được chắp cánh. Thế rồi với năm tháng, những hình ảnh rất đẹp ban đầu đó, đã mờ dần và biến mất. Những thực tế của đời Linh mục như những viên đá cứng đã đụng mạnh vào đời tôi, làm tôi đau và dần dần tỉnh lại, kéo tôi ra khỏi giấc mơ tuổi trẻ.
Thực tế đầu tiên mà tôi thấy, đó là Linh mục, hay ai chăng nữa, cũng vẫn là con người, là nhân loại. Yếu tố nhân loại này mãnh liệt lắm và cũng rất dai dẳng, xen lấn vào mọi lãnh vực của đời Linh Mục: tình cảm, phán đoán, quyết định, hành động, xử trí…Trong chuyện tin người, dùng người, tiến cử người, thương ghét người trong giáo xứ, trong giáo phận ….nhân loại lắm! Cũng là chuyện có thật và không phải là hiếm thấy.
Linh mục cũng là người như mọi người. Chúa chọn họ chẳng phải tại họ, cũng chẳng phải tại gia đình. Nhưng người giáo dân thường đòi hỏi Linh mục quá đáng. Họ đòi Linh mục của họ phải có đời sống thánh thiện phi thường “vô phương trách cứ”. Họ muốn gần như bắt linh mục của họ phải là những người, không những không được có tội, và ngay cả khuyết điểm cũng không!
Có lẽ, người ta đã lầm lẫn thiên chức Linh Mục và con người Linh mục. Hiểu theo nghĩa trừu tượng lý tưởng là như thế. Nhưng chức Linh mục đã mang lấy huyết nhục, để trở thành Linh mục, mang trên mình những yếu hèn của huyết nhục; Linh mục được chọn giữa người phàm, “Ex hominibus assumptus”. Đó là ý nghĩa hiện sinh của hai chữ Linh mục “Thánh Chức không làm thay đổi bản tính con người,
không làm cho con người lãnh nhận Thánh Chức trở thành Thiên Sứ, trở thành Thánh Nhân”. Vì thế, Chức Linh mục quá to lớn so với tầm vóc bé nhỏ của con người. Quả thực, ngoài những trợ lực siêu nhiên, nếu không có những linh mục thân thiết, những giáo dân tin cậy, thì làm Linh mục, thực tình rất dễ là điều ân hận.
Khi Linh mục còn trẻ, còn khoẻ, còn làm được việc thì người ta hoan nghênh, người ta tiếp đón, người ta trong dụng. Nhưng khi đau ốm, về già thì chỉ là….hắt hiu cô quạnh.
Thư đã dài rồi, tôi ngừng lại trả lời anh hỏi: “Có ân hận không? Không, tôi không ân hận vì đã làm Linh mục. Một vài khoảng khắc chao đảo chẳng là bao, so với với quãng đường dài đã hơn một phần ba thế kỷ sống theo ơn gọi của riêng mình. Có ân hận chăng thì chỉ là ân hận về cách làm chưa tốt, còn vương vấn nhiều yếu tố nhân loại….Tôi hết lòng tạ ơn Chúa vì người đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Quả là “châu ngọc đựng bình sành”
Xin đừng ai bắt Linh mục phải sống ngang với tầm cao của thánh Thần, dù rằng chính Ngài cũng ước muốn như vậy”.
Có lẽ, cái câu : “Ngày thụ phong Linh mục là thêm một thằng mất dạy” của anh bạn tôi, nửa đùa nửa thật, nghe có vẽ bổ báng và xúc phạm thiên chức Linh mục, cũng chỉ là một sự thao thức mong muốn một cách cầu toàn về thiên chức Linh mục mà thôi.
Và những lời tự bạch trên đây đã phần nào giải bày cho mấy anh bạn tôi về Thiên chức Linh mục, để họ hiểu và thông cảm nhiều hơn cho Thiên Chức Linh mục chúng tôi.
Phần tôi, ngẫm đi nghĩ lại, vẫn thấy cái câu của anh bạn tôi, thật đúng vào trường hợp của riêng mình.
Quả thế, 20 năm qua, tôi chưa hề có ai dạy bảo chỉ vẽ cho tôi biết những việc làm sai trái để tôi có cơ hội sửa sai. Và hầu như tôi đã bị hư mất trong sự chủ quan của những lời xưng tụng, bốc khen, ninh nọt đã làm cho tôi yên ngủ trong niềm tự hào xen chút kiêu hãnh.
“Thêm một thằng mất dạy” là câu châm ngôn rất cần thiết để cảnh báo và để sửa mình cho tôi trong những năm tháng còn lại của đời Linh mục. Vì chính khi mình thấu đáo để biết mình đang bị “mất dạy”, thì cũng chính là khi mình đang “tự dạy dỗ lấy bản thân mình” vậy./.
Nguyễn Vĩnh Căn
Ngày đăng: 21.01.2010
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11979
Nguyễn Vĩnh Căn
Tên thật là Nguyễn Văn Kính.
Sinh 1952, tại Đức Thọ Hà Tĩnh.
Cựu sinh viên Văn khoa Sài Gòn trước 75.
Hiện ở Châu Sơn, BanMê, Daklak.
Email : [email protected]
Cùng một tác giả
Mùa xuân héo hon đợi chờ (truyện ngắn)
Khát vọng sống (truyện ngắn)
Chạm đến tâm linh (truyện ngắn)
Chuyện của Dần (truyện ngắn)
Đôi mắt ấy… (truyện ngắn)
Nguỵ Quân Tử, Một thực tại sống ? (tiểu luận)
Luỵ đời (truyện ngắn)
Còn đâu bóng mẹ yêu (truyện ngắn)
Gã ngố ! (truyện ngắn)
Một mảnh đời… (truyện ngắn)
Tự bạch của một linh mục (ký)
Dường như niềm tuyệt vọng (truyện ngắn)
Tu luật, hay sự nhẫn tâm? (truyện ngắn)
Nguyễn Vĩnh Căn
Bản tính của tôi vốn ngỗ ngáo hay thẳng mực tàu đau lòng gỗ, nên chẳng mấy ai ưa. Tuy nhiên tôi cũng có được ít đứa bạn, kể cả vài Linh Mục cũng khá thân và chiều được cái tính càn rỡ, ưa lý sự cùn của tôi. Tiếng là bộc trực thẳng thắn, nhưng những chuyện như dưới đây, búa bổ vào chức Linh mục, thì ông cố nội tôi sống dậy cũng chẳng dám nữa là tôi. Bởi tôi chẳng dại chi đụng đến cái thiên chức đang được mọi người trọng vọng, kính nể. Và cái câu: “Lời của các cha là vàng ngọc” vẫn đang còn đang tiềm tàng trong mỗi người giáo dân xứ đạo miền quê, thì hệ luỵ của sự xúc phạm đó là rất khôn lường. Một án tử, loại ra khỏi cuộc chơi của giáo xứ là không tránh khỏi. Rồi râm vang cả làng nước: thằng nớ bêu rếu các cha, rối đạo.
Nhưng rồi một hôm, có Linh mục bạn thân đến nhờ tôi làm cái chuyện tày trời đó. Ngài nói: “Mi hay viết lách có chút văn vẻ, tao nhờ mi viết lại cái tự sự của cuộc đời tao”. Thấy tôi có vẻ ái ngại, cha liền trấn an: “Mi đừng lo, có chi tao bảo kê cho”. Thôi thì vâng lời Ngài mà viết, chứ chuyện tai bay vạ gió là khó tránh khỏi.
*
Chuyện kể rằng…
Tôi được thụ phong linh mục vào cái tuổi 38. Cái tuổi khá cứng cáp để bước vào đời. Không kể mấy năm làm cha phó xứ, thì gần 20 năm làm chủ chăn ở 5 giáo xứ; trông coi 5 GIÁO Xứ xây 6 nhà thờ, còn nhà xứ, phòng sinh hoạt, nhà trường, hoa viên, đường sá…thì không biết bao nhiêu mà kể. Rồi còn được nhận nhiều bằng khen của nhà nước về: Xây dựng các thôn văn hoá. Sáng kiến đưa nghề truyền thống về cho giáo dân có công ăn việc làm. Nâng cao trình độ văn hoá cho con em và khai sáng cho người giáo dân nhận thức được vấn đề sinh đẻ có trách nhiệm, để nuôi dạy tốt…
Có lẽ, với bảng thành tích như thế của một Linh mục, đã làm tôi cảm thấy ấm lòng để tự tin xen lẫn chút hãnh diện khi được các giáo dân ngưỡng mộ và trầm trồ: một ông cha linh hoạt và tận tình phục vụ giáo dân, thì xứ nào mà chẳng mơ được ước thấy một ông cha như thế!
Nhưng rồi lòng tự tin và chút kiêu hãnh về bảng thành tích đó, đã hoàn toàn sụp đổ. Mà khốn thay, sự sụp đổ đó lại không xuất phát nơi những người giáo dân ngoan đạo, mà lại nơi mấy thằng bạn đời ngông nghênh, ăn tục nói phét và khô khốc đạo nghĩa mới phiền cơ chứ!
Bữa đó, một Linh mục Việt kiều về nước, rủ rê mấy thằng bạn một thời chung lớp, lên xứ tôi ăn nhậu hàn huyên tâm sự chuyện đời giông dài. Sau vài chung rượu, tán phét hết các chuyện thời sự trong ngoài nước, đến chuyện đạo bên trời Âu với nhiều Scandan của các Linh mục…Rồi chuyện thay ngôi đổi chủ của giáo hội Việt Nam. Và luôn miệng, tôi thông báo cho bọn bạn biết: “Thằng Nhân em thằng Lân, sắp thụ phong Linh mục”. Nghe thế, thằng Sơn Ba Rọi lên tiếng: “Nả, lại thêm một thằng mất dạy nữa rồi”. Tôi đớ người ra, tưởng như bị nghe lầm. Nhưng rồi hắn tiếp lời: “Anh quân ngạc nhiên lắm phải không? Khi lên làm Linh Mục rồi, các cha có còn nghe ai dạy dỗ nữa mô mà không mất dạy! Cha mẹ cũng nghiêng mình cúi chào “lạy cha” thì còn chi mà răn dạy nữa kia chứ! Mà có răn dạy, thì các cha có chịu nghe nữa không? Rồi xưng hùng xưng bá ở các giáo xứ; khi đó có còn vâng phục các Đấng bản quyền nữa chăng? Đến Toà Thánh Vatican mà còn phải đau đâu “kính nhi viễn chi” với các Linh mục đồng tính luyến ái, linh mục đòi hỏi huỷ bỏ độc thân…nữa là…”. Linh mục Việt kiều cười khẩy và hùa vô. Ngài có vẻ thích thú với những kiểu nói sống sượng đầy xúc phạm, và cho đó là chuyện bình thường. Đúng là Linh mục Tây có khác! Còn tôi thì như bị gáo nước lạnh dội vào làm bàng hoàng ngơ ngác. Nhưng rồi, tôi cũng ráng gượng nhẹ: “Thì tụi bây cũng vừa vừa với chứ! Mất gì mà không gọi một tiếng ông”. Tuấn đen cười nhăn nhở: “Đã mất dạy thì trong ngôn từ VN chỉ có “thằng mất dạy” chứ làm chi có “ông mất dạy”.
Rồi Trọng đỉu xía vô: “Ngày thụ phong, các Linh mục chưa kịp mặc áo Thiên chức với ba lời khấn: Khó nghèo, Thanh tịnh, Vâng lời thì đã vội mặc cho mình những thuộc tính tham sân si của con người trần tục: sĩ diện, bảo thủ, tự mãn, kiêu kỳ, bệnh thành tích….mất rồi”. Hắn dẫn chứng ra một danh sách dài các Linh mục, khi còn làm thầy thì xuề xoà, nhẹ nhàng, khiêm tốn, thân thương với bạn bè lắm, nhưng rồi khi lên chức cha thì lên mặt kiêu kỳ, hãnh tiến, bậc thứ, quan liêu….chẳng những với giáo dân mà còn với cả bạn bè nữa. Sự tự tôn đó, có lẽ, là do sự tôn kính quá đáng của các giáo dân, đã khiến cho các ngài được kích lên quá cao, để quên rằng, mình chỉ là tôi tớ phục vụ cho con chiên bổn đạo mà thôi.
Đó là lần đầu tiên trong hơn 20 năm làm Linh mục, tôi được nghe những lời chia sẽ hết sức tâm tình, và thấu đáo của bạn bè về Thiên chức Linh mục; nhưng nghe ra cũng thật nhức nhối. Những lời phản ánh này, lúc đầu nghe phản cảm đối với tôi lắm; bởi đời Linh mục của tôi chưa bao giờ được nghe ai nói sàm sở, thô nhám, và báng bổ về thiên chức Linh mục như thế cả. Mà cũng phải thôi, còn ai dám thổ lộ tâm tình chân thật hơn ngoài bạn bè. Giáo dân thì không dám hó hé chuyện sai trái của các Linh mục, vì sợ trù dập vạ tuyệt thông thì khốn! Các Linh mục thì xuê xoà với nhau, chứ dại chi vạch lá tìm sâu, mà đức hạnh chắc gì ai đã hơn ai? Còn các Đấng Bản Quyền thì xa xôi quá. Các Ngài làm sao biết hết ngọn ngành các chuyện tác oai tác quái của Linh mục ở các Giáo xứ. Giáo dân có viết thư phản ánh, Toà giám cũng lưỡng lự để tìm hiểu; Bởi nếu có sự thật như thế thì, Toà giám cũng ngại ngần để góp ý với các Linh mục đó. Vì đã từng có Linh mục toáng lên to chuyện, bất mãn Toà giám, rồi về trù dập giáo dân. Thành ra lợi bất cập hại, nên Toà giám cũng chỉ đánh cú lơ, rồi xin hai chữ bình yên mà thôi.
Và đúng là bị mất dạy thật rồi!
Những đêm sau đó, tôi đã phải thao thức, trăn trở để soát xét lại hơn 20 năm làm Linh mục của đời tôi.
Những năm đầu tiên, khi tôi về làm Linh mục phó của GIÁO Xứ K…thì mọi việc đã không mấy xuôn sẽ, mặc dầu có cha chính chỉ vẽ và hướng dẫn tôi trong các công việc mục vụ. Đó là khi bắt tay vào làm việc với các đoàn thể trong giáo xứ, mới nẩy sinh ra nhiều việc đụng chạm, kể cả có khi cha con phải lên tiếng đôi co nhau.
Ngày ấy, lúc mới về, bầu nhiệt huyết trào dâng trong tôi, đã khiến tôi làm việc không biết mệt nhọc. Và hậu quả của sự hăng say đó là, sự ôm đồm nhiều việc, để cuối cùng chẳng việc gì ra việc gì. Sự ôm đồm đó xuất phát từ suy nghĩ: nhân sự một giáo xứ miền quê không đủ năng lực để cáng đáng. Đó là sai lầm đầu tiên khi đánh giá thấp trình độ của người giáo dân. Và giữa cái lý thuyết và thực hành không phải luôn đi song hành với nhau, đã dẫn đến những mâu thuẫn nội tại giữa cha và con. Và cuối cùng, là cách làm và suy nghĩ của mỗi GIÁO Xứ mỗi khác, nhưng lại đem đến những kết quả rất khả quan giống nhau.
Những thất bại đầu đời của một Linh mục trong các việc xây dựng: cấu trúc đoàn thể, các phong trào vui chơi học giáo lý, văn nghệ, và nâng cao trình độ văn hoá, đã cho tôi một bài học: phải biết lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của hết mọi người. Phải biết tin tưởng và tôn trọng các cộng sự viên của mình. Phải biết biến hoá và tuỳ nơi, tuỳ lúc, tuỳ lớp tuổi, tuỳ cộng đoàn, tuỳ giáo xứ mà hành xử khoan nhặt cho thích ứng. Và yếu tố thất bại buổi đầu đời đó, chắc chắn cũng do bởi sự: chủ quan, bảo thủ, hiếu thắng và tự mãn nơi tôi.
Khi tôi bắt đầu nhận làm cha chính cho một giáo xứ thì, mọi việc nhiêu khê hơn tôi tưởng. Tôi suýt sa chân làm hỏng cái ơn gọi thanh tịnh nơi một Linh mục. Khi tôi về GIÁO Xứ nọ, hầu như không có người phụ trách ca đoàn, tôi đã say sưa đem lòng nhiệt tình ra bao thầu hết việc tập hát ca đoàn. Một lần nọ, đã xẩy ra một tình huống hết sức dễ sa ngã. Thông thường thì việc tập bè hay tiểu khúc thường được chỉ định cho một vài giọng nữ ở những buổi chiều khác. Hôm đó, vì muốn cho ca viên nữ nghe băng, bản nhạc sắp tập, nên tôi cho tập hát ngay tại phòng riêng. Và ngẫu nhiên lại chỉ có một cô bé khá xinh xắn tập hát. Đang khi tập hát, cô bé bỗng ngã ra, ngất xỉu ngay trong phòng tôi. Tôi thật bối rối, và không biết xoay xở ra sao? Kêu bà bọ –người nấu ăn - hay ai khác thì không tiện, vì người ngoài sẽ dị nghi là ông cha này làm chi mà con bé bị ngất xỉu. Nhưng nếu để lâu mà cô bé chết trong phòng một Linh mục cũng tai tiếng, biết ăn nói làm sao đây? Thế là cuối cùng tôi phải liều đánh gió cho cô bé khắp cả thân người, như mẹ tôi đã từng đánh gió cho tôi hồi còn bé. Đó là lần đầu tiên tôi cảm nhận được cái dáng vóc đường cong tuyệt mỹ nơi thân thể một người phụ nữ. Trong khi tôi run rẫy để đánh gió cho cô bé thì, ý nghĩ chiếm hữu thể xác đang chạy rần rật trong dòng máu nóng của cơ thể tôi. Đó là cái cảm xúc nhục thể giữa người nam và người nữ đã làm cho đầu óc tôi tê cứng không còn đủ lý trí tỉnh táo để chống đỡ. Thật may, cô bé tỉnh lại rất mau đã cứu tôi khỏi một tình huống phạm tội rất cụ thể.
Sau lần đó, tôi nhớ lại bài giảng cấm phòng của một Linh mục: “Hãy tránh xa và đừng tạo cơ hội cho ngọn lửa tình dục trong con người bùng cháy, vì nó sẽ đốt cháy con người chúng ta trong truỵ lạc. Chớ có thách đố hay đùa giỡn với tình dục. Ai vướng vào sẽ khó dứt nổi, vì nó còn quỷ quyệt hơn cả con nghiện ma tuý”.
Đó là lần hú vía, để sau này tôi không thể lập lại sai phạm. Và một Linh mục khác đã cho tôi cái kinh nghiệm để tránh xa chước cám dỗ của dục tình: “Khi tiếp xúc phụ nữ, không bao giờ cho phép tiếp trong phòng riêng. Khi tiếp xúc với phụ nữ không nên nhìn trực diện vào người đó. Và khi tiếp chuyện phụ nữ nên có một người thứ ba làm việc quanh quẩn đâu đó - để cho bà bọ lau quét nhà, dọn dẹp, hay cho các chú sửa soạn lại phòng ốc… Khi thấy câu chuyện với người phụ nữ không cần thiết, thì ra hiệu cho bà bọ vào báo là cha có người cần gặp để tránh ngồi giông dài với người phụ nữ kia”. Bởi vì, tôi cũng đã thấy bài học đáng tiếc nơi một vài Linh mục, chỉ vì coi thường chủ quan và dễ dãi với phụ nữ để không kịp hối tiếc. Và cuộc đời tôi từ đó đến nay, luôn được cảnh báo và đề cao được ơn gọi thanh tịnh trong tâm hồn.
Nhưng rồi ơn gọi khó nghèo của một Linh mục là cái cớ để lũ bạn tôi diễu cợt. Tụi hắn bảo: “Các Linh mục khôn quá, khấn đức “khó nghèo”, hèn chi không thấy Linh mục nào nghèo, mà chỉ thấy Linh mục giàu có. Nào là vi tính lên mạng Pentum 4 đời mới cáo, Latop xách tay. TV, tủ lạnh, máy điều hoà, băng đĩa máy hát xập xình. Lên đời hết xe này đến xe kia, và thậm chí là còn có cả xế hộp. Chơi chim chóc, cây hoa cảnh, trông vào nhà xứ như một tiểu đế vương vậy. Rồi như mốt thời thượng, các Linh mục đua nhau kiếm cớ đi chữa bệnh hay chơi ở nước ngoài mang về ít ngàn đô nhẹ nhàng. Nói lên điều này tôi cũng hơi chột dạ, vì nếu không có trục trặc thì, có lẽ, tôi cũng đã có chuyến qua Mỹ năm ngoái.
Rồi thằng Minh đen đưa ra gương khó nghèo như cha Bân(đã chết), cha Lễ: “Người nhà sắm cho biết bao nhiêu nồi niêu xoong chảo…chăn gối mùng mền, chỉ mấy tháng sau là không còn gì trong nhà xứ nữa. Người nhà thấy thương tội nghiệp thì sắm lại biết bao lần, thế mà đồ đạc áo quần không cánh cứ bay đi. Nhưng rồi cũng chỉ là chia sẽ cho người nghèo khổ thì ai dám trách cứ kia chứ!”.
Ai thì tôi không biết, nhưng cha Bân tôi biết khá rõ. Có lần lên thăm cha đau nặng, lúc tỉnh dậy cha bảo: “May mình không chết! Nếu chết thì mất linh hồn rồi!”. Nghe vậy tôi hỏi Ngài: “Tội chi mà ghê gớm vậy cha!”. Cha bảo: “Tiền họ xin lễ mình tiêu hết rồi, không có mà chuyển lại cho cha khác”. Tôi hỏi tiếp: “Cha làm việc chi mà tiêu tốn vậy”. “Cho mấy người nghèo, chứ có ăn tiêu chi mô”. Tôi bỗng cảm động và thương cảm cho một người cha già sống khó nghèo và chân chất đến thế là cùng.
Rồi Hoàng róm dẫn chứng gương một cha phó nọ: “Chỉ sắm một chiếc xe cúp 50 vừa đủ chạy, và chỉ chạy những lúc cần, còn bình thường thì cọc cạch chiếc xe đạp đi mục vụ giáo dân, khiến giáo dân ai cũng thương mến”. Và đúng như tụi nó nói: “Rao giảng lời Chúa rát họng, không bằng hành động sống đức khó nghèo trong đời thường”.
Có lẽ lời khấn thứ ba, về đức vâng lời tụi nó ít biết về quan hệ giữa Linh mục và Toà Giám Mục nên tụi nó đành bỏ qua. Và Linh mục Việt kiều đỡ lời là, Linh mục Hải ngoại thường hay vi phạm hơn, vì quyền tự do được tôn trọng, nên các Linh mục thường đi quá giới hạn hơn ở VN, với những đòi hỏi bỏ quy chế Linh mục độc thân…
Nhưng tôi lại nhận thấy nơi chính mình cũng đã có lần bất phục tùng bài sai Đấng Bản Quyền: với một lý do mà tôi tự nghĩ là rất chính đáng. Năm đó, tôi đang xây dở dang công trình nhà thờ, và mọi tài khoản kế hoạch đang nắm độc quyền trong tay, nên tôi xin phép được ở lại để hoàn thành công trình xây cất nhà thờ. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy mọi lý do cũng chỉ là sự bao biện cho sự bất phục tùng; bởi vì “Tiên vàn hãy phục tùng Đấng Bản Quyền”.
Nếu đức vâng lời tụi nó bỏ qua, thì trái lại việc điều hành giáo xứ (GX) tụi nó lên án gắt gao về sự độc đoán, chuyên quyền, bảo thủ và sự tự mãn nơi các LINH MụCQX. Hầu như các quyền hành điều phối tiền bạc, xây dựng các công trình đều tập trung vào đấng chủ chăn GIÁO Xứ. Về việc nay, thằng Đức Xê đưa ra những trường hợp cụ thể ở GIÁO Xứ nọ…là đã từng có những LINH MụCQX vẽ ra những công trình xây cất của GIÁO Xứ, mà chẳng hề đưa ra bàn bạc thảo luận với HĐGIÁO Xứ và giáo dân. Và HĐGIÁO Xứ chỉ biết có nhiệm vụ quyên tiền cho công trình tiến hành xây cất mà thôi. Và như thế, vô hình chung xem thường vai trò của HĐGIÁO Xứ, và đẩy HĐGIÁO Xứ vào vai trò đầy tớ trung thành để LINH MụCQX sai vặt.
Vai trò của HĐGIÁO Xứ vốn đã non kém, lại không có điều kiện để phát huy tinh thần tự chủ, thì làm sao trưởng thành được? Có lẽ, những phản ánh trên cũng có phần đúng, bởi lúc đó chưa có quy chế rõ ràng như ngày nay, mà nếu có, thì quyền lực cũng luôn nghiêng về các LINH MụCQX hơn là HĐGIÁO Xứ. Phần tôi, sống qua năm Ban HĐGIÁO Xứ khác nhau, tuy khá suôn sẽ, không có điều gì cha con phải lớn tiếng, nhưng những phản ánh trên cũng cho tôi nhiều suy nghĩ và trăn trở về những việc làm đã qua của một LINH MụCQX.
20 năm làm việc trong các giáo xứ, hầu như tôi nắm hết quyền chấp chánh. Dĩ nhiên là các đề án công trình xây dựng giáo xứ của tôi luôn được đưa ra bàn thảo, nhưng hầu như tôi biết chắc là sẽ được các ban ngành dễ tính thông qua. Thực ra, những người giáo dân trình độ khó tính, hay soi mói lý sự, thì làm sao có thể nằm trong các thành phần tham dự. Và như thế, chẳng khác nào bản đề án được đưa ra hội thảo chỉ cho có lệ mà thôi. Đến bây giờ, tôi mới thấy mình đã lấn sân quá nhiều với HĐGIÁO Xứ. Lẽ ra, chức năng đó phải để HĐGIÁO Xứ và giáo dân tự quyết định, và vai trò của LINH MụCQX cũng chỉ là tham mưu, tư vấn mà thôi. Phải xác định rằng: LINH MụCQX luôn là một người khách, nay đây mai đó. Và vai trò của HĐGIÁO Xứ và giáo dân mới chính là chủ sự. Bây giờ nghĩ lại, tôi nhận thấy: không phải việc gì suôn sẽ cũng làm cho người LINH MụC an tâm rằng, mình đã đi đúng hướng. Nhiệm vụ của LINH MụCQX là làm cho người giáo dân tự trưởng thành trên đôi chân của chính họ.
Và bệnh thành tích là điều làm tôi nhức nhối khi nghe tụi nó phê phán. Hầu như đó là tâm lý chung của các Linh mục khi về bất cứ GIÁO Xứ giàu hay nghèo chẳng cần biết. Chỉ biết là mình phải phấn đấu làm cho được nhiều hạng mục công trình GIÁO Xứ, thì mới thể hiện là một Linh mục tài năng tháo vát. Nhưng buồn thay, nỗi vất vả truân chuyên lại đè nặng trên đôi vai của người giáo dân, vốn đã còm cõi trong cái nhục nhằn nợ cơm áo gạo tiền thì, những công trình đó lại càng làm còm cõi người giáo dân hơn. Đành rằng, việc xây dựng nhà Chúa là điều tốt đẹp, ai cũng hằng mong muốn, nhưng là muốn trong điều kiện kinh tế cho phép, chứ không phải ngậm đắng nuốt cay đóng góp trong sự ép uổng.
Và rồi đôi khi, cũng có những động tác dân chủ biểu quyết cho phải cách, nhưng giữa đại hội như thế ai dám phát biểu ngược những điều LINH MụCQX đã quyết định. Chính tôi bây giờ nhớ lại lần đại hội của GIÁO Xứ nọ để làm nhà thờ, mà chính ra nhà thờ đó cũng chỉ mới xây dựng được chưa quá 40 năm, vẫn còn khá khang trang. Sau một lúc bàn thảo một số người đã đưa ra ý kiến: “Vì thời giá cà phê xuống trầm trọng, chưa phải là lúc thuận tiện để xây dựng nhà thờ mới”. Nhưng rồi, một số nhân lực chủ chốt của HĐGIÁO Xứ đã lái chuyện trở lại làm nhà thờ, với nhiều lý lẽ, thì giáo dân cũng phải ngậm bồ hòn làm ngọt vậy. Và một cuộc ra mặt đối đầu như thế, làm sao thắng nổi những tính toan đã được sắp đặt sẵn cơ chứ!
Tụi nó đưa ra lời của LINH MụC Ngữ: “Làm nhà thờ mà giáo dân phải thắt lưng buộc bụng thì Linh mục nào mà chẳng làm được. Cái hay của một LINH MụCQX là tần tảo chạy chọt hết nơi này đến nơi kia, để kinh tài về cho GIÁO Xứ mới là giỏi”. Và chẳng lẽ giáo dân khổ ải để cho bảng thành tích LINH MụC thêm dài hay sao?
Có lẽ chuyện về LINH MụCQX sẽ còn là những câu chuyện rất dài. Ngay cả khi tôi còn làm thầy Sáu, tôi cũng đã thấy những điều chướng tai gai mắt của các Linh mục. Đã có những Linh mục giam xác chết ở ngoài không cho vào nhà thờ mất mấy tiếng, chỉ vì những hiềm khích nhỏ nhặt với người sống. Có những đôi tân hôn bị Linh mục hành không chịu làm lễ cưới hết năm này tháng nọ, đến Toà Giám cũng phải chịu bó tay để phải đứng ra làm lễ cưới ở Toà giám. Có Linh mục đã nóng giận để ra vạ tuyệt thông vô cớ một cụ già 80 tuổi, chỉ vì chuyện con gái lấy người ngoại đạo rồi dở dang chưa kịp học giáo lý hôn nhân, nhưng rồi khi đi khỏi xứ cũng không nhớ giải vạ, đến nỗi sau này, cụ già hoảng quá phải vào xin LINH MụCQX mới giải vạ để lo các phép khi gần chết.
Chuyện một Linh mục nọ lấy ca đoàn làm bức bình phong cho những chuyện dán díu tư tình với ca viên nữ…Chuyện trù dập người này, nâng đỡ người kia…Và tất cả những chuyện trên, hầu như không có gì xa lạ với người giáo dân. Có điều họ biết, nhưng không bao giờ dám nói ra. Và cũng chính vì thế mà Linh mục khá an tâm để không nhận ra cái sai phạm tày liếp của mình để có cơ hội sửa sai.
Chuyện sai phạm của các Linh mục ở các GIÁO Xứ là chuyện sai phạm muôn thủa của cô dâu về nhà chồng, quen việc nhà mạ (tu viện)lạ việc nhà chồng(GIÁO Xứ) là thế đấy. Chỉ khác là cô dâu nào có to gan thì cũng chỉ to tiếng cãi trả mẹ chồng, chứ không phải như các Linh mục đè đầu cỡi cổ bà gia( giáo dân).
Nhưng dầu gì đi nữa, Linh mục cũng chỉ là con người hết sức trần tục. Trong con người họ có đủ mọi chứng hư nết xấu và cảm tính đời thường: hỉ, nộ, ái, ố, như muôn người. Có lẽ người giáo dân đã đánh bóng và quá thần tượng về thiên chức Linh mục, để đẩy họ lên một tầm cao vượt hẳn trên mọi giáo dân, để rồi khi phạm sai lầm, người giáo dân hầu như không chịu chấp nhận.
Thân phận tầm thường của Linh mục chúng tôi bị đè nặng trên đôi vai còm cõi biết bao trọng trách nặng nề để làm máng thông ơn cho Chúa. Và Linh mục luôn là người làm dâu trăm họ giáo dân và cả cho ông bà gia phép tắc cao đạo là Chúa và Mẹ nữa, chứ có phải chuyện làm Linh mục sung sướng chi đâu mà sách hoạch cho tội các Ngài vậy.
Và nếu Linh mục có điều gì sai phạm, xin mọi người giáo dân hãy vào cha con trao đổi tâm tình và chỉ bảo nhau, hoặc viết thư nặc danh cho Linh mục. Đừng biết sai phạm của Linh mục mà lặng thinh, thì chính giáo dân cũng có lỗi khi để Linh mục chìm đắm trong tội lỗi mà không ra tay cứu vớt. Nhưng hơn hết là xin mọi người giáo dân hãy cầu nguyện cho họ được sống chu toàn thiên chức mà Chúa đã trao ban.
Để giải bày đôi chút tâm sự tự bạch về đời sống Linh mục, tôi xin trích đoạn, bài viết của Linh mục Aug Hoàng Đức Toàn viết thư giải đáp cho một người bạn đã hỏi: Ân hận vì đã làm Linh mục? Đăng trong kỷ yếu 50 năm Thánh Mẫu năm 2005.
“…..Giá hơn 30 năm trước đây, anh đặt câu hỏi này, hẳn tôi đã trả lời không cần nghĩ ngợi: “Không! Không bao giờ ân hận! Tôi sẽ rất hạnh phúc”
Ngày tôi được thụ phong, tôi cảm thấy như đời mình được chắp cánh. Thế rồi với năm tháng, những hình ảnh rất đẹp ban đầu đó, đã mờ dần và biến mất. Những thực tế của đời Linh mục như những viên đá cứng đã đụng mạnh vào đời tôi, làm tôi đau và dần dần tỉnh lại, kéo tôi ra khỏi giấc mơ tuổi trẻ.
Thực tế đầu tiên mà tôi thấy, đó là Linh mục, hay ai chăng nữa, cũng vẫn là con người, là nhân loại. Yếu tố nhân loại này mãnh liệt lắm và cũng rất dai dẳng, xen lấn vào mọi lãnh vực của đời Linh Mục: tình cảm, phán đoán, quyết định, hành động, xử trí…Trong chuyện tin người, dùng người, tiến cử người, thương ghét người trong giáo xứ, trong giáo phận ….nhân loại lắm! Cũng là chuyện có thật và không phải là hiếm thấy.
Linh mục cũng là người như mọi người. Chúa chọn họ chẳng phải tại họ, cũng chẳng phải tại gia đình. Nhưng người giáo dân thường đòi hỏi Linh mục quá đáng. Họ đòi Linh mục của họ phải có đời sống thánh thiện phi thường “vô phương trách cứ”. Họ muốn gần như bắt linh mục của họ phải là những người, không những không được có tội, và ngay cả khuyết điểm cũng không!
Có lẽ, người ta đã lầm lẫn thiên chức Linh Mục và con người Linh mục. Hiểu theo nghĩa trừu tượng lý tưởng là như thế. Nhưng chức Linh mục đã mang lấy huyết nhục, để trở thành Linh mục, mang trên mình những yếu hèn của huyết nhục; Linh mục được chọn giữa người phàm, “Ex hominibus assumptus”. Đó là ý nghĩa hiện sinh của hai chữ Linh mục “Thánh Chức không làm thay đổi bản tính con người,
không làm cho con người lãnh nhận Thánh Chức trở thành Thiên Sứ, trở thành Thánh Nhân”. Vì thế, Chức Linh mục quá to lớn so với tầm vóc bé nhỏ của con người. Quả thực, ngoài những trợ lực siêu nhiên, nếu không có những linh mục thân thiết, những giáo dân tin cậy, thì làm Linh mục, thực tình rất dễ là điều ân hận.
Khi Linh mục còn trẻ, còn khoẻ, còn làm được việc thì người ta hoan nghênh, người ta tiếp đón, người ta trong dụng. Nhưng khi đau ốm, về già thì chỉ là….hắt hiu cô quạnh.
Thư đã dài rồi, tôi ngừng lại trả lời anh hỏi: “Có ân hận không? Không, tôi không ân hận vì đã làm Linh mục. Một vài khoảng khắc chao đảo chẳng là bao, so với với quãng đường dài đã hơn một phần ba thế kỷ sống theo ơn gọi của riêng mình. Có ân hận chăng thì chỉ là ân hận về cách làm chưa tốt, còn vương vấn nhiều yếu tố nhân loại….Tôi hết lòng tạ ơn Chúa vì người đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Quả là “châu ngọc đựng bình sành”
Xin đừng ai bắt Linh mục phải sống ngang với tầm cao của thánh Thần, dù rằng chính Ngài cũng ước muốn như vậy”.
Có lẽ, cái câu : “Ngày thụ phong Linh mục là thêm một thằng mất dạy” của anh bạn tôi, nửa đùa nửa thật, nghe có vẽ bổ báng và xúc phạm thiên chức Linh mục, cũng chỉ là một sự thao thức mong muốn một cách cầu toàn về thiên chức Linh mục mà thôi.
Và những lời tự bạch trên đây đã phần nào giải bày cho mấy anh bạn tôi về Thiên chức Linh mục, để họ hiểu và thông cảm nhiều hơn cho Thiên Chức Linh mục chúng tôi.
Phần tôi, ngẫm đi nghĩ lại, vẫn thấy cái câu của anh bạn tôi, thật đúng vào trường hợp của riêng mình.
Quả thế, 20 năm qua, tôi chưa hề có ai dạy bảo chỉ vẽ cho tôi biết những việc làm sai trái để tôi có cơ hội sửa sai. Và hầu như tôi đã bị hư mất trong sự chủ quan của những lời xưng tụng, bốc khen, ninh nọt đã làm cho tôi yên ngủ trong niềm tự hào xen chút kiêu hãnh.
“Thêm một thằng mất dạy” là câu châm ngôn rất cần thiết để cảnh báo và để sửa mình cho tôi trong những năm tháng còn lại của đời Linh mục. Vì chính khi mình thấu đáo để biết mình đang bị “mất dạy”, thì cũng chính là khi mình đang “tự dạy dỗ lấy bản thân mình” vậy./.
Nguyễn Vĩnh Căn
Ngày đăng: 21.01.2010
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=11979
Nguyễn Vĩnh Căn
Tên thật là Nguyễn Văn Kính.
Sinh 1952, tại Đức Thọ Hà Tĩnh.
Cựu sinh viên Văn khoa Sài Gòn trước 75.
Hiện ở Châu Sơn, BanMê, Daklak.
Email : [email protected]
Cùng một tác giả
Mùa xuân héo hon đợi chờ (truyện ngắn)
Khát vọng sống (truyện ngắn)
Chạm đến tâm linh (truyện ngắn)
Chuyện của Dần (truyện ngắn)
Đôi mắt ấy… (truyện ngắn)
Nguỵ Quân Tử, Một thực tại sống ? (tiểu luận)
Luỵ đời (truyện ngắn)
Còn đâu bóng mẹ yêu (truyện ngắn)
Gã ngố ! (truyện ngắn)
Một mảnh đời… (truyện ngắn)
Tự bạch của một linh mục (ký)
Dường như niềm tuyệt vọng (truyện ngắn)
Tu luật, hay sự nhẫn tâm? (truyện ngắn)
NGHỀ NÀO KIẾM TIỀN DỄ?
Là những người Công Giáo, cũng như một số Tôn Giáo bạn từ trong nước Việt Nam đến Hải Ngoại. Nhất là sau biến cố đau thương 30 tháng 4 năm 1975. Không ai mà không biết đến người Mẹ thứ hai của chúng ta đó là ĐỨC MẸ LA VANG. Thật vậy, hiện nay có rất nhiều nhà thờ Việt Nam ở Hải Ngoại lấy tước hiệu là ĐỨC MẸ LA VANG.
Chúng ta thấy có hiện tượng TRĂM HOA ĐUA NỞ ở rất nhiều nhà Dòng, Giáo Xứ Việt Nam tại Hải Ngoại, mỗi năm Bề Trên các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức kính Đức Mẹ La Vang tại địa phương mình đang làm Mục Vụ với những cái tên thật kêu, thật nổ như ĐẠI HỘI này…..! ĐẠI HỘI kia……! HÀNH HƯƠNG này……! HÀNH HƯƠNG nọ…….! Song song với những bích chương quảng cáo thật rầm rộ trên những truyền thông, truyền hình, báo chí là có những Đức Cha này, Đức Cha kia, Linh Mục này, Linh Mục nọ, Thuyết Trình viên này, thuyết trình viên kia, dàn Ca Sĩ của trung tâm nổi tiếng này, trung tâm nổi tiếng kia. Chúa, Mẹ, Các Thánh, thức ăn, sổ số được rao bán thật náo nhiệt. (Không biết có náo loạn không?) Không những thế lại còn những lều đạo đức để xin khấn ơn này, xin khấn ơn nọ, lều bảo trợ này, lều bảo trợ kia. TIỀN TIỀN TIỀN vào như nước.
Không biết những SỐ TIỀN của giáo dân khi đi đến những nhà lều xin khấn, Giáo Xứ và Giáo Phận địa phương có được hưởng SỐ TIỀN này không? Hay các Cha Xứ và nhà Dòng lấy hết. Nghe nói SỐ TIỀN xin khấn này nhiều nhiều nhiều lắm....Không dưới 5 con SỐ. Quá Trời.
XIN HỎI: Có thật sự các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức những Đại Hội này, Hành Hương kia tại địa phương mình đang làm Mục Vụ để con dân từ muôn phương qui tụ về bên Đức Mẹ La Vang cảm tạ Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta muôn ơn lành. Hay chỉ vì thấy nhà Dòng này tổ chức thành công quá, Dòng tôi không chịu thua cũng phải tổ chức. Giáo Xứ này tổ chức kiếm được nhiều TIỀN nhỉ. Tại sao Giáo Xứ ta lại ngồi khoanh tay.
Thời buổi KIM TIỀN ngày nay. Người dân Việt Nam ta có câu ví von:
KHÔNG NGHỀ NÀO KIẾM TIỀN DỄ BẰNG NGHỀ CỦA MẤY ÔNG LINH MỤC.
Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại
Là những người Công Giáo, cũng như một số Tôn Giáo bạn từ trong nước Việt Nam đến Hải Ngoại. Nhất là sau biến cố đau thương 30 tháng 4 năm 1975. Không ai mà không biết đến người Mẹ thứ hai của chúng ta đó là ĐỨC MẸ LA VANG. Thật vậy, hiện nay có rất nhiều nhà thờ Việt Nam ở Hải Ngoại lấy tước hiệu là ĐỨC MẸ LA VANG.
Chúng ta thấy có hiện tượng TRĂM HOA ĐUA NỞ ở rất nhiều nhà Dòng, Giáo Xứ Việt Nam tại Hải Ngoại, mỗi năm Bề Trên các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức kính Đức Mẹ La Vang tại địa phương mình đang làm Mục Vụ với những cái tên thật kêu, thật nổ như ĐẠI HỘI này…..! ĐẠI HỘI kia……! HÀNH HƯƠNG này……! HÀNH HƯƠNG nọ…….! Song song với những bích chương quảng cáo thật rầm rộ trên những truyền thông, truyền hình, báo chí là có những Đức Cha này, Đức Cha kia, Linh Mục này, Linh Mục nọ, Thuyết Trình viên này, thuyết trình viên kia, dàn Ca Sĩ của trung tâm nổi tiếng này, trung tâm nổi tiếng kia. Chúa, Mẹ, Các Thánh, thức ăn, sổ số được rao bán thật náo nhiệt. (Không biết có náo loạn không?) Không những thế lại còn những lều đạo đức để xin khấn ơn này, xin khấn ơn nọ, lều bảo trợ này, lều bảo trợ kia. TIỀN TIỀN TIỀN vào như nước.
Không biết những SỐ TIỀN của giáo dân khi đi đến những nhà lều xin khấn, Giáo Xứ và Giáo Phận địa phương có được hưởng SỐ TIỀN này không? Hay các Cha Xứ và nhà Dòng lấy hết. Nghe nói SỐ TIỀN xin khấn này nhiều nhiều nhiều lắm....Không dưới 5 con SỐ. Quá Trời.
XIN HỎI: Có thật sự các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức những Đại Hội này, Hành Hương kia tại địa phương mình đang làm Mục Vụ để con dân từ muôn phương qui tụ về bên Đức Mẹ La Vang cảm tạ Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta muôn ơn lành. Hay chỉ vì thấy nhà Dòng này tổ chức thành công quá, Dòng tôi không chịu thua cũng phải tổ chức. Giáo Xứ này tổ chức kiếm được nhiều TIỀN nhỉ. Tại sao Giáo Xứ ta lại ngồi khoanh tay.
Thời buổi KIM TIỀN ngày nay. Người dân Việt Nam ta có câu ví von:
KHÔNG NGHỀ NÀO KIẾM TIỀN DỄ BẰNG NGHỀ CỦA MẤY ÔNG LINH MỤC.
Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại
Khi linh mục biết nhảy “cha cha cha"! (Kỳ Ba - Hết)
Biết Văn
Khi tôi đang viết dang dở những dòng này thì vụ Vatileaks ở Giáo triều Rôma bùng nổ.
Thiên Chúa thật quan phòng khi muốn mọi người chúng ta biết rằng căn nhà chung của Giáo Hội chúng ta đã không còn được trong sạch và thánh thiện nên cần phải được quét dọn và canh tân. Sự cấu xé, tranh chấp, và ảnh hưởng giành quyền lực cùa các linh mục, các giám mục mượn danh thánh Chúa mà đồng hành cùng thế tục có lẽ đó là sự khai mào và dòng thác canh tân nhà Chúa ở khắp mọi nơi trên thế giới- Vì “"Được lời lãi cả thế gian mà mất phần rỗi nào có ích chi?”(Mt 16, 26) các quyền lực thuộc thế gian này thì nó sẽ hư mất nhưng lời Chúa không bao giờ hư mất.
Một anh bạn kể một câu chuyện đau lòng về sự bế tắc tâm linh của anh về cái power của một linh mục nọ. Số là sau khi đi cải tạo từ ngục tù cộng sản về thì vợ ở nhà đã có chồng khác. Kế tiếp anh sang Mỹ theo diện H.O. Trên xứ lạ quê người, tứ cố vô thân và đầu đã điểm bạc, anh làm quen với một phụ nữ góa chồng và hai người muốn chấp nối phần còn lại của cuộc đời “sớm tối có nhau”. Hai người quyết định dắt tay nhau tìm gặp một Cha xứ và trình bày hoàn cảnh éo le của mình nhờ Cha giúp đỡ cho làm phép “giao” hay phép “hôn phối”. Thay vì dùng thời gian 6 tháng học giáo lý tân tòng và giáo lý hôn phối để anh ta có thời gian lấy giấy li dị từ vợ cũ và người phụ nữ kia có thể update giấy độc thân (giấy khai tử của chồng) thì vị linh mục này từ chối thẳng thừng là hai người không thể đến nhà thờ làm hôn phối vì thiếu các giấy tờ chứng minh họ “độc thân” hay “vợ hay chồng” qua đời. Cả hai người này năn nỉ vị linh mục này để tìm biện pháp giúp đỡ họ để họ có thể được Chúa chúc phúc khi sống chung với nhau. Thay vì làm đúng công tác mục vụ của mình, vị linh mục này cúi xuống nói chuyện với con chó đang rên rỉ dưới chân: “Con không muốn Cha ở đây nữa hả, con muốn Cha dẫn con đi vô sao? OK ”.
Và rồi vị linh mục kia phủi áo từ giã hai người đi vào với con chó thân yêu của ngài để lại hai tâm hồn mà trước khi bước vào nhà Chúa với bao nhiêu thanh thản và mộng ước thì giờ đây bước ra với sự ngỡ ngàng, thổn thức và tôi không nói đến là họ sẽ phạm thêm tội “nói xấu ông Cha đó!”
Ai là người phải chịu trách nhiệm về tâm linh cho hai người họ đây?
Chúa Giêsu đã từng nói “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt” (Lc 10,2) vậy hai chữ “linh mục” không có ý nghĩa với các ngài hay sao? Tôi xin mạn phép định nghĩa thêm một lần nữa hai chữ “linh mục” để dư luận gần xa có thể biết thêm về vai trò đầy ân sủng của họ chứ không phải là một chức năng nghề nghiệp, hay là một “công chức” của Giáo Hội mà có thể nghĩ là power, là leader theo nghĩa thế gian:
Vậy linh mục là gì? Linh mục là hình bóng Chúa trong kiếp người; linh mục là muối ướp cho trần gian; linh mục là cây cầu nối giữa đất với trời; linh mục là tinh hoa của Giáo Hội; linh mục là ngọn hải đăng thắp trên dương trần; linh mục là Alter Christus; linh mục là người chiến sỹ chết cạnh bàn thờ; linh mục là “người phu quét lá”; linh mục là “cái thùng rác” của tội nhân v.v…
Pastores Dabo Vobis khẳng định: “Linh mục thông phần vào sự thánh hiến và vào sứ vụ của Đức Kitô bằng một thể thức loại biệt và chính hiệu, nghĩa là bằng bí tích Truyền Chức Thánh là bí tích đã biến đổi linh mục, ngay trong chính hữu thể của mình, nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử. Linh mục tham dự vào sứ vụ “loan báo Tin Mừng cho người nghèo” nhân danh Chúa Kitô và thay mặt Chúa Kitô” (PDV, số 18).
Mọi linh mục phải tìm thấy căn tính (identity) mình nơi căn tính của Đức Kitô, là Đầu và Mục Tử qua việc trở nên giống Đức Kitô. Nhờ ân sủng của Thánh Thần tác động, khi chịu chức qua bí tích Truyền Chức mang lại một sự thay đổi kỳ diệu về hữu thể (ontological change) trong con người của các tân linh mục. Vì thế, linh mục được mặc lấy Đức Kitô mà đảm nhận ba tác vụ thánh: rao giảng, thánh hóa và lãnh đạo cộng đoàn trong một tư thế mới mẻ trong Con Người Chúa Kitô và nhân danh Giáo Hội “in persona Christi et in nomine ecclesiae”. Thật là không trưởng thành cho các linh mục mặc nhiên xem đó là quyền lực chăng? Vậy tại sao vị linh mục trên kia lại có power trên chính các anh em của Đức Kitô đau khổ vậy? Linh mục có quyền quyết định ai lấy ai sao? Linh mục có quyền tước đoạt đi tình yêu của những cặp yêu nhau sao? Tôi thiết nghĩ Chúa cũng chẳng chấp nư tội ai và hai người đến xin cưới nhau đó cũng vậy. Thế gian cũng sẽ chúc phúc cho họ nếu họ dắt tay nhau lên Las Vegas, một đám cưới mất có $199 đồng (vẫn rẻ hơn dắt nhau vào nhà thờ!)…và bỏ mặc vị linh mục với con chó kia.
Thánh Giám mục Valentine ở thành La Mã xưa, cùng Thánh Marius đã chống lại sắc lệnh của vị hoàng đế hùng mạnh Claudius II bấy giờ (vì cho rằng nguyên nhân chính mà đàn ông La Mã không muốn gia nhập quân đội vì họ không muốn rời xa gia đình hay người yêu của họ và hôn nhân chỉ làm người đàn ông yếu mềm đi) ra lệnh cấm tổ chức các đám cưới hoặc lễ đính hôn để tập trung cho các cuộc chiến. Thánh nhân vẫn tiếp tục cử hành lễ cưới cho các đôi vợ chồng trẻ trong bí mật. Khi bị phát hiện, ngài đã bị bắt và kết án tử hình bằng hình thức kéo lê và bị ném đá cho đến chết và sau đó phải bị chặt đầu. Chúng ta đã nhìn thấy một nhân chứng cho Chúa Kitô, một “power” cho sự phục vụ vì yêu thương và tận tụy cho đến chết. Một sự khác biệt và rất khác xa với hình bóng vị linh mục và con chó trên kia. Một “power of love” mà mãi đến hôm nay, trong ngày Valentine mọi người đều nhớ với bút danh “From your Valentine!”
Nhiều người nói với tôi: “Cha, thầy cái quái gì mà Cha thầy, tu hành gì tu hành! Linh mục phải biết làm gương cho giáo dân chứ! Linh mục gì mà dâng thánh lễ thì chiếu lệ, giải tội thì cho qua giờ, ít sốt sắng đọc kinh nhật tụng, bỏ bê hầu hết những việc sùng kính, rồi nhậu nhẹt, rồi mê gái, rồi abuse con nít, trẻ gái…” Điều này làm gương xấu cho người trẻ thì nản lòng, làm cho giáo dân tuyệt vọng, thất vọng và xem linh mục như là một “công chức” Giáo Hội được cộng đoàn trả thù lao vậy. Đây là sự yếu kém của linh mục trong khi thi hành chức năng thứ hai, thánh hóa các linh hồn và vì đồng tiền nên bị tha hóa. Người ta xưng tụng là Cha mà ngữa tay lấy tiền của các con không biết ngượng. Lễ cưới “Cha” cũng lấy tiền, lễ tang “Cha” cũng lấy tiền, lễ tân gia, tân niên “Cha” cũng lấy tiền, lễ cho các đẳng linh hồn “Cha” cũng lấy tiền, lễ sinh nhật cho con nít “Cha” cũng lấy tiền…v.v. thử hỏi trên thế gian này có ông “Cha” nào ngửa tay lấy tiền của con cháu nhiều bằng các ông linh mục được Chúa sai đi không? Thử hỏi các ông linh mục mang danh tu hành mà lấy nhiều thứ tiền như thế để làm gì?
Các linh mục không vì phải đối mặt với quá nhiều thách đố và khó khăn, nên xuất hiện nguy cơ là các linh mục rơi vào tình trạng thỏa hiệp với chính mình. Điều cần lưu ý ở đây là một khi họ đã sống thỏa hiệp với bản thân, họ rất dễ sa vào những hành vi không còn phù hợp với đời sống Kitô hữu và đặc biệt là không còn phù hợp với đời sống linh mục nữa.
Có nhiều linh mục tôi biết đã cố biện minh cho những hành vi sai trái của mình với suy nghĩ là: “Tôi đáng được hưởng những điều này, vì tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa mà.” Hay là: “Tôi cần những thứ ấy để có thể tiếp tục những công việc mục vụ khó khăn của tôi.” Tuy nhiên, những suy nghĩ như trên chẳng giúp gì hơn cho cuộc sống của các ngài, mà trái lại nó lại càng gây thêm rắc rối cho đời sống tâm linh của họ. Những suy nghĩ và hành động như thế là dấu chỉ cho thấy muối chứng nhân của họ phần nào đã bị nhạt và lúc này họ đã thật sự cần phải có sự hoán cải chính mình bằng cách xét mình, xưng tội (các linh mục ngày nay không biết đi xưng tội bao giờ) hay retreat (cấm phòng.)
Có lần tôi nghe anh bạn tôi xin lỗi hỏi Chúa rằng: “Tại sao con làm lương lớn hơn các linh mục, con siêng năng không biếng việc mà sao con cứ chỉ có chiếc xe cà tàng, cũ mèn để đi học hỏi lời Chúa…còn các vị linh mục bộ Chúa “bảo kê” cho họ hay sao mà ông nào cũng tươi mát và ông nào đi xe đời mới bóng lộn?” Tôi cười buồn thầm nghĩ vì mỉa may thay họ là hình bóng của Chúa? nhưng Chúa mọn hèn và hay thương xót? Còn họ đang tập dợt để đóng kịch cho “giống Chúa” hay sao?
"Redde Caesari quae sunt Caesaris, et quae sunt Dei Deo." Tức là “Của César, trả cho César. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa” ( Mt 22,21 ). Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa là điều chính đáng bởi vì Ngài đòi chúng ta trả lại cho Ngài sự trong trắng vẹn tuyền khi Ngài tạo dựng con người. Hãy trả lại sự trong sạch và thánh thiện cho Thiên Chức linh mục vì đó là hình bóng Chúa trong kiếp người, là muối ướp cho đời, là ánh sáng của thế gian, là hy sinh phục vụ…
Xã hội chúng ta đã trở nên thân thuộc với sự sở hữu, sự đam mê dục vọng với những khái niệm sai lạc. Chính ở trong những bối cảnh xã hội như thế, đời sống linh mục xin hãy đừng luôn đề cao chức vị và tôn thờ bản thân. Xin cho đời sống linh mục hãy mang lấy một dấu chỉ của sự đối nghịch: sống trong thế giới nhưng lại không thuộc về thế giới, được thấm nhuần tinh thần và ân sủng của Tin Mừng, người linh mục sống giữa thế gian nhưng không bị những đam mê trần tục làm nhạt đi tính chất muối cho trần gian của mình. Nếu như một linh mục đã thực sự đam mê có được mọi thứ của cải thế gian, ưa thích một cuộc sống xa hoa và thoải mái sang trọng, họ cần phải dừng lại liên tục để quan sát xem họ đang sống như thế nào, và nếu cần đôi khi họ cũng phải nhờ tới vị linh hướng hay phải đi xưng tội (không biết các linh mục ngày nay c ó bao giờ đi xưng tội hay không hay chỉ ngồi toà nghe tội người khác?) Nếu cần các ngài còn phải chạy tới những chuyên gia tâm lý, các bác sĩ để giúp họ biện phân về cách sống của mình - để xem phải chăng họ vẫn luôn là chứng tá cho Tin Mừng.
Đời sống và sự chiến đấu hằng ngày của đời linh mục thật sự rất là căng thẳng và có giá trị đặc biệt, nó mang chiều kích “ân sủng.” Đời sống con người luôn đầy thách đố, bất kể ơn gọi nào ta được kêu gọi để sống nó đều đòi hỏi nhiều hy sinh và kiên trì. Tuy nhiên, đời sống linh mục vẫn mang một nét khó khăn đặc biệt.
Mỗi người chúng ta không bác bỏ ơn những linh mục đã đi trước, đầy chông gai mở ra con đường cho chúng ta bằng chính đức tin và sự tử đạo hy sinh của họ. Đời sống linh mục là một đời sống đầy cam go, thách thức nhưng thật giá trị. Nó đòi hỏi phải được sống trong sự trong sạch, sự chân thực, thánh thiện, và đầy can đảm tìm kiếm và theo đuổi cùng ơn gọi này.
Hỡi các vị linh mục của chúng tôi ơi, những người đang vất vả trên đường thập giá, hãy can đảm lên. Sự hy sinh vất vả của các vị chính là sự đồng hành, đồng dạng với đời sống của Chúa Kitô, và đó là điều thiết yếu các vị đang sống đời linh mục chân thực và làm chứng nhân cho Chúa Kitô. Chính Thánh Phaolô đã minh chứng và can đảm thốt lên rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.
Xin mượn lời ca “Bỏ Ngài con đi với ai” như vạn lời nhắn nhủ tri ân cho các linh mục của chúng ta của hôm nay cũng như tương lai mai sau. Hãy vì đấng đã hứa: “Chén của ta anh em sẽ thật sự uống.”(Mt 20: 23) mà đừng bỏ Ngài; bởi vì Ngài yêu chúng ta nên đã quá nhiều đau khổ rồi, xin đừng đóng đinh ngài thêm nữa.
Bỏ Ngài con đi với ai vì Ngài có lời ban sự sống .
Bỏ Ngài thân con héo hon , đời cô liêu trên trốn dương gian .
Bỏ Ngài con đi với ai đường xa lắm tương lai mịt mờ nào ai dẫn con trên đường dài .
Bỏ Ngài con đi với ai ?
California June 1, 2012
Biết Văn
Biết Văn
Khi tôi đang viết dang dở những dòng này thì vụ Vatileaks ở Giáo triều Rôma bùng nổ.
Thiên Chúa thật quan phòng khi muốn mọi người chúng ta biết rằng căn nhà chung của Giáo Hội chúng ta đã không còn được trong sạch và thánh thiện nên cần phải được quét dọn và canh tân. Sự cấu xé, tranh chấp, và ảnh hưởng giành quyền lực cùa các linh mục, các giám mục mượn danh thánh Chúa mà đồng hành cùng thế tục có lẽ đó là sự khai mào và dòng thác canh tân nhà Chúa ở khắp mọi nơi trên thế giới- Vì “"Được lời lãi cả thế gian mà mất phần rỗi nào có ích chi?”(Mt 16, 26) các quyền lực thuộc thế gian này thì nó sẽ hư mất nhưng lời Chúa không bao giờ hư mất.
Một anh bạn kể một câu chuyện đau lòng về sự bế tắc tâm linh của anh về cái power của một linh mục nọ. Số là sau khi đi cải tạo từ ngục tù cộng sản về thì vợ ở nhà đã có chồng khác. Kế tiếp anh sang Mỹ theo diện H.O. Trên xứ lạ quê người, tứ cố vô thân và đầu đã điểm bạc, anh làm quen với một phụ nữ góa chồng và hai người muốn chấp nối phần còn lại của cuộc đời “sớm tối có nhau”. Hai người quyết định dắt tay nhau tìm gặp một Cha xứ và trình bày hoàn cảnh éo le của mình nhờ Cha giúp đỡ cho làm phép “giao” hay phép “hôn phối”. Thay vì dùng thời gian 6 tháng học giáo lý tân tòng và giáo lý hôn phối để anh ta có thời gian lấy giấy li dị từ vợ cũ và người phụ nữ kia có thể update giấy độc thân (giấy khai tử của chồng) thì vị linh mục này từ chối thẳng thừng là hai người không thể đến nhà thờ làm hôn phối vì thiếu các giấy tờ chứng minh họ “độc thân” hay “vợ hay chồng” qua đời. Cả hai người này năn nỉ vị linh mục này để tìm biện pháp giúp đỡ họ để họ có thể được Chúa chúc phúc khi sống chung với nhau. Thay vì làm đúng công tác mục vụ của mình, vị linh mục này cúi xuống nói chuyện với con chó đang rên rỉ dưới chân: “Con không muốn Cha ở đây nữa hả, con muốn Cha dẫn con đi vô sao? OK ”.
Và rồi vị linh mục kia phủi áo từ giã hai người đi vào với con chó thân yêu của ngài để lại hai tâm hồn mà trước khi bước vào nhà Chúa với bao nhiêu thanh thản và mộng ước thì giờ đây bước ra với sự ngỡ ngàng, thổn thức và tôi không nói đến là họ sẽ phạm thêm tội “nói xấu ông Cha đó!”
Ai là người phải chịu trách nhiệm về tâm linh cho hai người họ đây?
Chúa Giêsu đã từng nói “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt” (Lc 10,2) vậy hai chữ “linh mục” không có ý nghĩa với các ngài hay sao? Tôi xin mạn phép định nghĩa thêm một lần nữa hai chữ “linh mục” để dư luận gần xa có thể biết thêm về vai trò đầy ân sủng của họ chứ không phải là một chức năng nghề nghiệp, hay là một “công chức” của Giáo Hội mà có thể nghĩ là power, là leader theo nghĩa thế gian:
Vậy linh mục là gì? Linh mục là hình bóng Chúa trong kiếp người; linh mục là muối ướp cho trần gian; linh mục là cây cầu nối giữa đất với trời; linh mục là tinh hoa của Giáo Hội; linh mục là ngọn hải đăng thắp trên dương trần; linh mục là Alter Christus; linh mục là người chiến sỹ chết cạnh bàn thờ; linh mục là “người phu quét lá”; linh mục là “cái thùng rác” của tội nhân v.v…
Pastores Dabo Vobis khẳng định: “Linh mục thông phần vào sự thánh hiến và vào sứ vụ của Đức Kitô bằng một thể thức loại biệt và chính hiệu, nghĩa là bằng bí tích Truyền Chức Thánh là bí tích đã biến đổi linh mục, ngay trong chính hữu thể của mình, nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử. Linh mục tham dự vào sứ vụ “loan báo Tin Mừng cho người nghèo” nhân danh Chúa Kitô và thay mặt Chúa Kitô” (PDV, số 18).
Mọi linh mục phải tìm thấy căn tính (identity) mình nơi căn tính của Đức Kitô, là Đầu và Mục Tử qua việc trở nên giống Đức Kitô. Nhờ ân sủng của Thánh Thần tác động, khi chịu chức qua bí tích Truyền Chức mang lại một sự thay đổi kỳ diệu về hữu thể (ontological change) trong con người của các tân linh mục. Vì thế, linh mục được mặc lấy Đức Kitô mà đảm nhận ba tác vụ thánh: rao giảng, thánh hóa và lãnh đạo cộng đoàn trong một tư thế mới mẻ trong Con Người Chúa Kitô và nhân danh Giáo Hội “in persona Christi et in nomine ecclesiae”. Thật là không trưởng thành cho các linh mục mặc nhiên xem đó là quyền lực chăng? Vậy tại sao vị linh mục trên kia lại có power trên chính các anh em của Đức Kitô đau khổ vậy? Linh mục có quyền quyết định ai lấy ai sao? Linh mục có quyền tước đoạt đi tình yêu của những cặp yêu nhau sao? Tôi thiết nghĩ Chúa cũng chẳng chấp nư tội ai và hai người đến xin cưới nhau đó cũng vậy. Thế gian cũng sẽ chúc phúc cho họ nếu họ dắt tay nhau lên Las Vegas, một đám cưới mất có $199 đồng (vẫn rẻ hơn dắt nhau vào nhà thờ!)…và bỏ mặc vị linh mục với con chó kia.
Thánh Giám mục Valentine ở thành La Mã xưa, cùng Thánh Marius đã chống lại sắc lệnh của vị hoàng đế hùng mạnh Claudius II bấy giờ (vì cho rằng nguyên nhân chính mà đàn ông La Mã không muốn gia nhập quân đội vì họ không muốn rời xa gia đình hay người yêu của họ và hôn nhân chỉ làm người đàn ông yếu mềm đi) ra lệnh cấm tổ chức các đám cưới hoặc lễ đính hôn để tập trung cho các cuộc chiến. Thánh nhân vẫn tiếp tục cử hành lễ cưới cho các đôi vợ chồng trẻ trong bí mật. Khi bị phát hiện, ngài đã bị bắt và kết án tử hình bằng hình thức kéo lê và bị ném đá cho đến chết và sau đó phải bị chặt đầu. Chúng ta đã nhìn thấy một nhân chứng cho Chúa Kitô, một “power” cho sự phục vụ vì yêu thương và tận tụy cho đến chết. Một sự khác biệt và rất khác xa với hình bóng vị linh mục và con chó trên kia. Một “power of love” mà mãi đến hôm nay, trong ngày Valentine mọi người đều nhớ với bút danh “From your Valentine!”
Nhiều người nói với tôi: “Cha, thầy cái quái gì mà Cha thầy, tu hành gì tu hành! Linh mục phải biết làm gương cho giáo dân chứ! Linh mục gì mà dâng thánh lễ thì chiếu lệ, giải tội thì cho qua giờ, ít sốt sắng đọc kinh nhật tụng, bỏ bê hầu hết những việc sùng kính, rồi nhậu nhẹt, rồi mê gái, rồi abuse con nít, trẻ gái…” Điều này làm gương xấu cho người trẻ thì nản lòng, làm cho giáo dân tuyệt vọng, thất vọng và xem linh mục như là một “công chức” Giáo Hội được cộng đoàn trả thù lao vậy. Đây là sự yếu kém của linh mục trong khi thi hành chức năng thứ hai, thánh hóa các linh hồn và vì đồng tiền nên bị tha hóa. Người ta xưng tụng là Cha mà ngữa tay lấy tiền của các con không biết ngượng. Lễ cưới “Cha” cũng lấy tiền, lễ tang “Cha” cũng lấy tiền, lễ tân gia, tân niên “Cha” cũng lấy tiền, lễ cho các đẳng linh hồn “Cha” cũng lấy tiền, lễ sinh nhật cho con nít “Cha” cũng lấy tiền…v.v. thử hỏi trên thế gian này có ông “Cha” nào ngửa tay lấy tiền của con cháu nhiều bằng các ông linh mục được Chúa sai đi không? Thử hỏi các ông linh mục mang danh tu hành mà lấy nhiều thứ tiền như thế để làm gì?
Các linh mục không vì phải đối mặt với quá nhiều thách đố và khó khăn, nên xuất hiện nguy cơ là các linh mục rơi vào tình trạng thỏa hiệp với chính mình. Điều cần lưu ý ở đây là một khi họ đã sống thỏa hiệp với bản thân, họ rất dễ sa vào những hành vi không còn phù hợp với đời sống Kitô hữu và đặc biệt là không còn phù hợp với đời sống linh mục nữa.
Có nhiều linh mục tôi biết đã cố biện minh cho những hành vi sai trái của mình với suy nghĩ là: “Tôi đáng được hưởng những điều này, vì tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa mà.” Hay là: “Tôi cần những thứ ấy để có thể tiếp tục những công việc mục vụ khó khăn của tôi.” Tuy nhiên, những suy nghĩ như trên chẳng giúp gì hơn cho cuộc sống của các ngài, mà trái lại nó lại càng gây thêm rắc rối cho đời sống tâm linh của họ. Những suy nghĩ và hành động như thế là dấu chỉ cho thấy muối chứng nhân của họ phần nào đã bị nhạt và lúc này họ đã thật sự cần phải có sự hoán cải chính mình bằng cách xét mình, xưng tội (các linh mục ngày nay không biết đi xưng tội bao giờ) hay retreat (cấm phòng.)
Có lần tôi nghe anh bạn tôi xin lỗi hỏi Chúa rằng: “Tại sao con làm lương lớn hơn các linh mục, con siêng năng không biếng việc mà sao con cứ chỉ có chiếc xe cà tàng, cũ mèn để đi học hỏi lời Chúa…còn các vị linh mục bộ Chúa “bảo kê” cho họ hay sao mà ông nào cũng tươi mát và ông nào đi xe đời mới bóng lộn?” Tôi cười buồn thầm nghĩ vì mỉa may thay họ là hình bóng của Chúa? nhưng Chúa mọn hèn và hay thương xót? Còn họ đang tập dợt để đóng kịch cho “giống Chúa” hay sao?
"Redde Caesari quae sunt Caesaris, et quae sunt Dei Deo." Tức là “Của César, trả cho César. Của Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa” ( Mt 22,21 ). Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa là điều chính đáng bởi vì Ngài đòi chúng ta trả lại cho Ngài sự trong trắng vẹn tuyền khi Ngài tạo dựng con người. Hãy trả lại sự trong sạch và thánh thiện cho Thiên Chức linh mục vì đó là hình bóng Chúa trong kiếp người, là muối ướp cho đời, là ánh sáng của thế gian, là hy sinh phục vụ…
Xã hội chúng ta đã trở nên thân thuộc với sự sở hữu, sự đam mê dục vọng với những khái niệm sai lạc. Chính ở trong những bối cảnh xã hội như thế, đời sống linh mục xin hãy đừng luôn đề cao chức vị và tôn thờ bản thân. Xin cho đời sống linh mục hãy mang lấy một dấu chỉ của sự đối nghịch: sống trong thế giới nhưng lại không thuộc về thế giới, được thấm nhuần tinh thần và ân sủng của Tin Mừng, người linh mục sống giữa thế gian nhưng không bị những đam mê trần tục làm nhạt đi tính chất muối cho trần gian của mình. Nếu như một linh mục đã thực sự đam mê có được mọi thứ của cải thế gian, ưa thích một cuộc sống xa hoa và thoải mái sang trọng, họ cần phải dừng lại liên tục để quan sát xem họ đang sống như thế nào, và nếu cần đôi khi họ cũng phải nhờ tới vị linh hướng hay phải đi xưng tội (không biết các linh mục ngày nay c ó bao giờ đi xưng tội hay không hay chỉ ngồi toà nghe tội người khác?) Nếu cần các ngài còn phải chạy tới những chuyên gia tâm lý, các bác sĩ để giúp họ biện phân về cách sống của mình - để xem phải chăng họ vẫn luôn là chứng tá cho Tin Mừng.
Đời sống và sự chiến đấu hằng ngày của đời linh mục thật sự rất là căng thẳng và có giá trị đặc biệt, nó mang chiều kích “ân sủng.” Đời sống con người luôn đầy thách đố, bất kể ơn gọi nào ta được kêu gọi để sống nó đều đòi hỏi nhiều hy sinh và kiên trì. Tuy nhiên, đời sống linh mục vẫn mang một nét khó khăn đặc biệt.
Mỗi người chúng ta không bác bỏ ơn những linh mục đã đi trước, đầy chông gai mở ra con đường cho chúng ta bằng chính đức tin và sự tử đạo hy sinh của họ. Đời sống linh mục là một đời sống đầy cam go, thách thức nhưng thật giá trị. Nó đòi hỏi phải được sống trong sự trong sạch, sự chân thực, thánh thiện, và đầy can đảm tìm kiếm và theo đuổi cùng ơn gọi này.
Hỡi các vị linh mục của chúng tôi ơi, những người đang vất vả trên đường thập giá, hãy can đảm lên. Sự hy sinh vất vả của các vị chính là sự đồng hành, đồng dạng với đời sống của Chúa Kitô, và đó là điều thiết yếu các vị đang sống đời linh mục chân thực và làm chứng nhân cho Chúa Kitô. Chính Thánh Phaolô đã minh chứng và can đảm thốt lên rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.
Xin mượn lời ca “Bỏ Ngài con đi với ai” như vạn lời nhắn nhủ tri ân cho các linh mục của chúng ta của hôm nay cũng như tương lai mai sau. Hãy vì đấng đã hứa: “Chén của ta anh em sẽ thật sự uống.”(Mt 20: 23) mà đừng bỏ Ngài; bởi vì Ngài yêu chúng ta nên đã quá nhiều đau khổ rồi, xin đừng đóng đinh ngài thêm nữa.
Bỏ Ngài con đi với ai vì Ngài có lời ban sự sống .
Bỏ Ngài thân con héo hon , đời cô liêu trên trốn dương gian .
Bỏ Ngài con đi với ai đường xa lắm tương lai mịt mờ nào ai dẫn con trên đường dài .
Bỏ Ngài con đi với ai ?
California June 1, 2012
Biết Văn
ĐỒNG TIỀN TRỌNG HƠN LỜI KHẤN KHÓ NGHÈO
Càng đọc bài "Giáo hội, cụ thể là Giáo sĩ Tu sĩ có thực sự sống cái nghèo của Phúc Âm chưa?" của LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn trong trang báo: http://www.vietcatholic.org/News/Html/83999.htm , đăng ngày 28 tháng 9 năm 2010.
Con phải cúi đầu cảm phục LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn đã can đảm viết ra những vấn đề của Giáo sĩ Tu sĩ ngày nay mà chính các Đức Giám Mục, Đức Ông, các đấng Bề Trên của các Dòng và những Linh Mục Việt Nam có mấy ai dám nói và viết ra những sự thật, rất thật như thế không?
Thật vậy, khi các Linh Mục đi giảng phòng hoặc đứng trên tòa giảng trong các Thánh Lễ, các Ngài rao giảng về những giới luật cho người khác sống, thi hành và tuân giữ như "Yêu Thương, Đức Bác Ái, Công Bằng và nhất là về Tinh Thần Nghèo Khó của Chúa Kitô", nhưng chính các Ngài. Có mấy ai đã và đang sống những gì mình dạy cho giáo dân phải sống và thi hành không?
Thực tế và cuốc sống của một số Linh Mục hiện nay mà chúng ta đã nhìn thấy rất rõ và có thật trong đoạn viết của LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn "Chưa hết, là Linh Mục, hình ảnh của Chúa Kitô khó nghèo mà vênh vang đi những xe hơi đắt tiền nhu BMW, Lexus, Mercedes v.v... đeo đồng hồ Rolex, Omega...."
Về kinh tài. Hàng năm các Linh Mục Triều cũng như Dòng đang làm mục vụ trong các giáo xứ tại hải ngoại thường xuyên tổ chức những chuyến đi hành hương Âu Châu, Đất Thánh cho 1 số giáo dân nay đã có cuộc sống vững vàng thoải mái về TIỀN. Lợi dụng Chúa Mẹ tổ chức hành hương, hội chợ, xin khấn, bảo trợ, từ thiện, ca nhạc. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi biết được có những Linh Mục trong ngân hàng TIỀN có cả BẠC TRIỆU, có nhà riêng ở thoải mái và nhiều nhiều nhiều....!
Dân gian ngày nay có câu:
Không nghề nào nhà cao cửa rộng, ăn ngon, ngủ kỹ, đồ hiệu, xe sang, TIỀN xài thoải mái bằng nghề ĐI TU.
Ánh Sáng Sự Thật
Xin mời Quí Vị cùng đọc bài:
Giáo hội, cụ thể là Giáo sĩ Tu sĩ có thực sự sống cái nghèo của Phúc Âm chưa?
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn 9/28/2010
http://www.vietcatholic.org/News/Html/83999.htm
Vì yêu mến Giáo Hội, cũng như tha thiết với sứ mệnh của Giáo Hội trong trần gian nên tôi muốn suy tư thêm một lần nữa về vấn đề này và muốn chia sẻ với những ai có chung một ưu tư và đồng cảm.
Những ai không đồng ý thì chắc chắn sẽ lên án tôi là ‘đạo đực giả, không thực tế, không biết thông cảm v.v... nhưng tôi không quan tâm gì về điều này. Tôi cần nói lên những suy tư của riêng tôi vì mục đích góp phần xây dựng cho Giáo Hội được ngày một trở nên nhân chứng đích thực của Chúa Kitô, “ Người vốn giàu sang, phú quý, nhưng đã trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cor 8:9)
Chúa Kitô có thực sự sống khó nghèo để nêu gương nghèo khó cho chúng ta không?
Chỉ cần đọc lại sơ qua Tin Mừng, người ta, dù với nhãn quan nào, cũng tìm ngay được giải đáp đích đáng cho câu hỏi trên.
Thật vậy, khi sinh ra làm người trên trần thế này, Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nơi quyền quí, cao sang, mà lại chọn sinh ra nơi hang bò lừa trong thân hình “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (Lc 2:13) giữa mùa đông giá rét. Có lẽ trong lịch sử loài người, không một ai đã sinh ra trong cảnh khó nghèo hơn Chúa Cứu Thế Giêsu,và chắc chắn cũng không có ai đã chết cách nhục nhã và khó nghèo hơn Chúa, khi Người bị treo trần trụi trên cây thập giá. Vì nghèo nên Chúa đã không có chỗ để an táng khiến môn đệ phải mượn ngôi mội trống của ông Giuse cho Chúa nằm tạm trong 3 ngày, chờ phục sinh.(Ga 19:41)
Như thế, còn ai nghèo khó hơn Chúa, cũng như ai dám hoài nghi gương khó nghèo của Người?
Trong khi còn đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu đã căn dặn các môn đệ như sau: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép.” (Lc 10:4)
Nói thế không phải vì Chúa không thực tế, không nhìn thấy sự cần thiết của nhu cầu vật chất: như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, phương tiện di chuyển. Thực ra Chúa chỉ muốn các môn đệ trước đây, và mọi tông đồ ngày nay phải sống tình thần nghèo khó mà chính Người đã làm gương cho họ mà thôi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. (Mt 8:20).
Tinh thần này Chúa đã nói rõ trong Bài Giảng Trên Núi hay còn gọi là Tám Mối Phúc Thật sau đây:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
Vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:3, Lc 6:20)
Có tinh thần nghèo khó thì chỉ dùng tiền của, xe cộ nhà ở, như phương tiện cần thiết để sống và làm mục vụ cần di chuyển, chứ không vì mục đích phải kiếm tìm. Mục đích phải kiếm tìm chính là Thiên Chúa và Vương Quốc của Người như Chúa đã nói rõ với các môn đệ xưa kia: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho.” (Mt 6:33)
Sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm
Như vậy, có tinh thần nghèo khó của Phúc Âm, thì không được chạy theo tiền của và xa hoa vật chất; khiến coi thường người nghèo để chỉ quí trọng hay làm thân với những người giầu có và quyền thế. Cụ thể, đối với người nghèo và không quen biết thì áp dụng luật cứng nhắc như không cho đem xác người chết vào nhà thờ, không cho thân nhân người quá cố là linh mục được đồng tế trong lễ an táng (chuyện có thật xẩy ra ở bên nhà do một nhân chứng kể lại) hay lễ cưới của gia đình nghèo. Ngược lại, với gia đình giàu có và thân quen thì lại cho hàng mấy chục linh mục khác đồng tế trong tang lễ cũng như cho đem xác người chết vào trong nhà thờ !!!, Như thế thì làm sao có thể là nhân chứng đích thực cho Chúa Kitô khó nghèo, thương yêu và công bằng với hết mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, da đen, da trắng, hay da vàng?
Lại nữa, có và sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm thì không thể coi việc dâng lễ theo ý chỉ của người xin như việc buôn bán, để ai đưa tiền nhiều thì ưu tiên làm lễ trước cũng như cho rao tên trong nhà thờ, trong khi người có ít tiền thì bị từ chối hoặc lấy lý do là đã có đủ lễ rồi, không nhận thêm nữa!... Tệ hại hơn nữa, có những cặp hôn phối chưa được phép chuẩn (annulment) của tòa hôn phối hoặc không được chuẩn nhưng cha vẫn bất chấp giáo luật cứ âm thầm chứng hôn cho họ lấy nhau vì họ đã biếu cha một số tiền lớn để hậu tạ! Cha còn dặn thêm là đừng nói cho ai biết. Nhưng người ta vẫn nói nhỏ cho người thân biết, để hợp thức hóa việc họ sống chung trong gia đìnn thân tộc!
Chưa hết, là linh mục, hình ảnh của Chúa Kitô khó nghèo mà vênh vang đi những xe hơi đắt tiền nhu BMW, Lexus, Mercedes v.v... đeo đồng hồ Rolex, Omega.... thì làm sao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho người khác và thuyết phục được ai sống tinh thần khó nghèo này? Một tệ nạn ở các Giáo Xứ hay Công Đoàn Việt Nam ở Mỹ là tình trạng có nhiều linh mục (có khi trên 20 vị) đồng tế trong các lễ tang, lễ cưới. Đáng lẽ chỉ nên đi đồng tế cho những gia đình thực sự thân quen hay có liên hệ gia đình mà thôi. Nhưng thực tế có nhiều linh mục đi đồng tế vì được mời cho đông, cho thêm phần long trọng của gia chủ, chứ không vì thân quen hay có liên hệ gia đình. Điều này sẽ gây buồn tủi cho những gia đình không quen biết nhiều cha để mời.
Về vấn đề này, tôi đã có đôi lần nói rõ là: ơn thánh Chúa ban cho người quá cố hay cho các đôi tân hôn không hề lệ thuộc vào con số linh mục đồng tế, nhất là vì số tiền to nhỏ mà gia chủ đã chi ra trong những dịp này.
Nói khác đi, nếu một người khi còn sống không “lo thu tích vào kho tàng chẳng thể hao mòn ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá" (Lc 12:33) mà chỉ lo tìm kiếm tiền của, lợi lãi và vui thú trần thế, đến nỗi quên mất Chúa, không dành cho Người một chỗ nào trong tâm hồn mình, thì khi chết dẫu có Đức Thánh Cha chủ lễ với hàng trăm Hồng Y Giám mục,và linh mục đồng tế thì cũng vô ích mà thôi. Ngược lại, một người đã thực tâm yêu mến Chúa và cố gắng sống theo đường lối của Chúa suốt cả đời mình thì khi chết dẫu không được linh mục nào đến đồng tế cầu nguyện cho, hoặc tệ hại hơn nữa là xác không được cho đem vào nhà thờ, vì không “thân quen với cha xứ, nên bị đối xử tàn tệ, thì cũng không hề thiệt thòi chút nào khi ra trước mặt Chúa để được đón nhận vào chốn vinh phúc đời đời, nơi tiền của, thân quen và vinh quang trần thế không thể mua hay đổi chác được!
Chắc chắn là chốn vinh phúc đời đời, nơi tiền của, thân quen và vinh quang trần thế không thể mua hay đổi chác được!
Do đó, linh mục phải làm gương trước tiên và có bổn phận và trách nhiệm giảng dạy cho giáo dân hiểu rõ chân lý trên đây, thay vì chiều theo thị hiếu của một số người ưa thích khoa trương bề ngoài, thích mời nhiều cha đến đồng tế trong mọi dịp vui buồn khiến nẩy sinh tệ trạng linh mục “chạy sô” (show) cuối tuần giống như ca sĩ đi show trình diễn văn nghệ ở nhiều nơi hàng tuần! Có điều khó coi, theo thiển ý, là các gia chủ thường tặng “phong bì” ngay sau lễ ở cuối nhà thờ trước mắt nhiều giáo dân ra về sau lễ. Linh mục đến đâng lễ để cầu nguyện cho người quá cố hay cho đôi tân hôn chứ không phải đến để nhận “phong bì”. Xin mọi người hiểu rõ như vậy để giúp các linh mục sống tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, nghĩa là đừng “làm hư” các ngài vì tiền bạc.
Cũng trong tinh thần sống khó nghèo của Phúc Âm, người tông đồ lớn nhỏ của Chúa Kitô ngày nay cũng nên chấm dứt việc thường xuyên đi nước ngoài để xin tiền. Tuy một số vị không công khai xin tiền như trước, nhưng sự có mặt thường xuyên của các vị khách này cũng cho giáo dân hiểu là họ muốn được giúp đỡ cho nhu cầu “vô tận” của họ! Nhưng thử hỏi: giáo hội địa phương có nhiều nhu cầu đến thế hay không mà quá nhiều vị đã bỏ bê đoàn chiên, giáo xứ ở nhà để đi qua đi lại không biết bao nhiêu lần để làm gì? Nếu để xin tiền xây cất cơ sở cho thêm đồ sộ để khoa trương với du khách thì đây không phải là nhu cầu chính đáng để phải vất vả đi lại nhiều lần như thế.
Nhu cầu chính đáng, quan trọng và cần thiết nhất là phải xây cơ sở thiêng liêng, nơi tâm hồn mọi tín hữu mà mình có sứ mạng coi sóc, và làm gương sáng cho đoàn chiên được giao phó cho mình chăn dắt. Đây mới thực sự là nhu cầu phải thỏa mãn, cần thiết phải đầu tư tâm trí và thì giờ để tìm kiếm cho bằng được.
Sống trong một xã hội thụt hậu thê thảm về đạo đức, luân lý, trong khi nhiều giáo dân nói riêng và người dân nói chung còn thiếu thốn mọi mặt, thì những ngôi thánh đường lộng lẫy, những nhà xứ sang trọng đã trở thành dấu phản chứng rõ nét nhất cho tinh thần khó nghèo mà Chúa Kitô đã sống và rao giảng. Chắc chấn Chúa không hài lòng được ngự trong những nơi trang hoàng lộng lẫy giữa đám dân nghèo như vậy.
Linh mục, Đức Kitô thứ hai (Alter Christus), có sứ mạng rất cao cả là mang Chúa Kitô đầy yêu thương, tha thứ, đến với mọi người không phân biệt giầu nghèo, sang hèn Nghĩa là, qua sứ vụ được lãnh nhận từ bí Tích Truyền Chức Thánh (không phải là trao tác vụ linh mục như có người vẫn nói sai) linh mục không những phải rao giảng điều mình tin và nhất là phải sống điều mình giảng dạy, để làm chứng cho Chúa Kitô, “Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người.” Mt 20: 28).
Chính hàng giáo sĩ, tức các vị lãnh đạo tinh thần, những người “cha thiêng liêng” của dân Chúa đã, đang và sẽ đẩy giáo dân ra khỏi Giáo Hội, và làm mất đức tin của họ; khi họ nhìn thấy đời sống của các ngài không phản ảnh trung thực những gì các ngài rao giảng. Chúa Kitô xưa kia đã nhiều lần nặng lời lên án nhóm Luật Sĩ và Biệt phái vì họ nói mà không làm, giảng luật cho người khác tuân giữ nhưng chính họ lại không sống những gì họ dạy người khác phải sống và thi hành.
Tóm lại muốn tránh bị Chúa quở trách, than phiền như Người đã chỉ trích nhóm Biệt Phái và Luật sĩ xưa kia, người tông đồ ngày nay đã học kỹ bài học “giả hình” của bọn người này chưa, để sống trung thực với lời mình rao giảng về tình thương, về đức bác ái, công bằng và nhất là về tinh thần nghèo khó của Chúa Kitô, hầu thuyết phục giáo dân thêm tin yêu Chúa qua đời sống chứng nhân của chính mình ở giữa họ.
Việc rao giảng Tin Mừng sẽ vô hiệu quả khi lời nói không đi đôi với việc làm, nghĩa là không sống và làm chứng cho điều mình giảng dạy cho người khác.
Càng đọc bài "Giáo hội, cụ thể là Giáo sĩ Tu sĩ có thực sự sống cái nghèo của Phúc Âm chưa?" của LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn trong trang báo: http://www.vietcatholic.org/News/Html/83999.htm , đăng ngày 28 tháng 9 năm 2010.
Con phải cúi đầu cảm phục LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn đã can đảm viết ra những vấn đề của Giáo sĩ Tu sĩ ngày nay mà chính các Đức Giám Mục, Đức Ông, các đấng Bề Trên của các Dòng và những Linh Mục Việt Nam có mấy ai dám nói và viết ra những sự thật, rất thật như thế không?
Thật vậy, khi các Linh Mục đi giảng phòng hoặc đứng trên tòa giảng trong các Thánh Lễ, các Ngài rao giảng về những giới luật cho người khác sống, thi hành và tuân giữ như "Yêu Thương, Đức Bác Ái, Công Bằng và nhất là về Tinh Thần Nghèo Khó của Chúa Kitô", nhưng chính các Ngài. Có mấy ai đã và đang sống những gì mình dạy cho giáo dân phải sống và thi hành không?
Thực tế và cuốc sống của một số Linh Mục hiện nay mà chúng ta đã nhìn thấy rất rõ và có thật trong đoạn viết của LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn "Chưa hết, là Linh Mục, hình ảnh của Chúa Kitô khó nghèo mà vênh vang đi những xe hơi đắt tiền nhu BMW, Lexus, Mercedes v.v... đeo đồng hồ Rolex, Omega...."
Về kinh tài. Hàng năm các Linh Mục Triều cũng như Dòng đang làm mục vụ trong các giáo xứ tại hải ngoại thường xuyên tổ chức những chuyến đi hành hương Âu Châu, Đất Thánh cho 1 số giáo dân nay đã có cuộc sống vững vàng thoải mái về TIỀN. Lợi dụng Chúa Mẹ tổ chức hành hương, hội chợ, xin khấn, bảo trợ, từ thiện, ca nhạc. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi biết được có những Linh Mục trong ngân hàng TIỀN có cả BẠC TRIỆU, có nhà riêng ở thoải mái và nhiều nhiều nhiều....!
Dân gian ngày nay có câu:
Không nghề nào nhà cao cửa rộng, ăn ngon, ngủ kỹ, đồ hiệu, xe sang, TIỀN xài thoải mái bằng nghề ĐI TU.
Ánh Sáng Sự Thật
Xin mời Quí Vị cùng đọc bài:
Giáo hội, cụ thể là Giáo sĩ Tu sĩ có thực sự sống cái nghèo của Phúc Âm chưa?
LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn 9/28/2010
http://www.vietcatholic.org/News/Html/83999.htm
Vì yêu mến Giáo Hội, cũng như tha thiết với sứ mệnh của Giáo Hội trong trần gian nên tôi muốn suy tư thêm một lần nữa về vấn đề này và muốn chia sẻ với những ai có chung một ưu tư và đồng cảm.
Những ai không đồng ý thì chắc chắn sẽ lên án tôi là ‘đạo đực giả, không thực tế, không biết thông cảm v.v... nhưng tôi không quan tâm gì về điều này. Tôi cần nói lên những suy tư của riêng tôi vì mục đích góp phần xây dựng cho Giáo Hội được ngày một trở nên nhân chứng đích thực của Chúa Kitô, “ Người vốn giàu sang, phú quý, nhưng đã trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cor 8:9)
Chúa Kitô có thực sự sống khó nghèo để nêu gương nghèo khó cho chúng ta không?
Chỉ cần đọc lại sơ qua Tin Mừng, người ta, dù với nhãn quan nào, cũng tìm ngay được giải đáp đích đáng cho câu hỏi trên.
Thật vậy, khi sinh ra làm người trên trần thế này, Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nơi quyền quí, cao sang, mà lại chọn sinh ra nơi hang bò lừa trong thân hình “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (Lc 2:13) giữa mùa đông giá rét. Có lẽ trong lịch sử loài người, không một ai đã sinh ra trong cảnh khó nghèo hơn Chúa Cứu Thế Giêsu,và chắc chắn cũng không có ai đã chết cách nhục nhã và khó nghèo hơn Chúa, khi Người bị treo trần trụi trên cây thập giá. Vì nghèo nên Chúa đã không có chỗ để an táng khiến môn đệ phải mượn ngôi mội trống của ông Giuse cho Chúa nằm tạm trong 3 ngày, chờ phục sinh.(Ga 19:41)
Như thế, còn ai nghèo khó hơn Chúa, cũng như ai dám hoài nghi gương khó nghèo của Người?
Trong khi còn đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu đã căn dặn các môn đệ như sau: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép.” (Lc 10:4)
Nói thế không phải vì Chúa không thực tế, không nhìn thấy sự cần thiết của nhu cầu vật chất: như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, phương tiện di chuyển. Thực ra Chúa chỉ muốn các môn đệ trước đây, và mọi tông đồ ngày nay phải sống tình thần nghèo khó mà chính Người đã làm gương cho họ mà thôi: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. (Mt 8:20).
Tinh thần này Chúa đã nói rõ trong Bài Giảng Trên Núi hay còn gọi là Tám Mối Phúc Thật sau đây:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
Vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:3, Lc 6:20)
Có tinh thần nghèo khó thì chỉ dùng tiền của, xe cộ nhà ở, như phương tiện cần thiết để sống và làm mục vụ cần di chuyển, chứ không vì mục đích phải kiếm tìm. Mục đích phải kiếm tìm chính là Thiên Chúa và Vương Quốc của Người như Chúa đã nói rõ với các môn đệ xưa kia: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho.” (Mt 6:33)
Sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm
Như vậy, có tinh thần nghèo khó của Phúc Âm, thì không được chạy theo tiền của và xa hoa vật chất; khiến coi thường người nghèo để chỉ quí trọng hay làm thân với những người giầu có và quyền thế. Cụ thể, đối với người nghèo và không quen biết thì áp dụng luật cứng nhắc như không cho đem xác người chết vào nhà thờ, không cho thân nhân người quá cố là linh mục được đồng tế trong lễ an táng (chuyện có thật xẩy ra ở bên nhà do một nhân chứng kể lại) hay lễ cưới của gia đình nghèo. Ngược lại, với gia đình giàu có và thân quen thì lại cho hàng mấy chục linh mục khác đồng tế trong tang lễ cũng như cho đem xác người chết vào trong nhà thờ !!!, Như thế thì làm sao có thể là nhân chứng đích thực cho Chúa Kitô khó nghèo, thương yêu và công bằng với hết mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, da đen, da trắng, hay da vàng?
Lại nữa, có và sống tinh thần nghèo khó của Phúc Âm thì không thể coi việc dâng lễ theo ý chỉ của người xin như việc buôn bán, để ai đưa tiền nhiều thì ưu tiên làm lễ trước cũng như cho rao tên trong nhà thờ, trong khi người có ít tiền thì bị từ chối hoặc lấy lý do là đã có đủ lễ rồi, không nhận thêm nữa!... Tệ hại hơn nữa, có những cặp hôn phối chưa được phép chuẩn (annulment) của tòa hôn phối hoặc không được chuẩn nhưng cha vẫn bất chấp giáo luật cứ âm thầm chứng hôn cho họ lấy nhau vì họ đã biếu cha một số tiền lớn để hậu tạ! Cha còn dặn thêm là đừng nói cho ai biết. Nhưng người ta vẫn nói nhỏ cho người thân biết, để hợp thức hóa việc họ sống chung trong gia đìnn thân tộc!
Chưa hết, là linh mục, hình ảnh của Chúa Kitô khó nghèo mà vênh vang đi những xe hơi đắt tiền nhu BMW, Lexus, Mercedes v.v... đeo đồng hồ Rolex, Omega.... thì làm sao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho người khác và thuyết phục được ai sống tinh thần khó nghèo này? Một tệ nạn ở các Giáo Xứ hay Công Đoàn Việt Nam ở Mỹ là tình trạng có nhiều linh mục (có khi trên 20 vị) đồng tế trong các lễ tang, lễ cưới. Đáng lẽ chỉ nên đi đồng tế cho những gia đình thực sự thân quen hay có liên hệ gia đình mà thôi. Nhưng thực tế có nhiều linh mục đi đồng tế vì được mời cho đông, cho thêm phần long trọng của gia chủ, chứ không vì thân quen hay có liên hệ gia đình. Điều này sẽ gây buồn tủi cho những gia đình không quen biết nhiều cha để mời.
Về vấn đề này, tôi đã có đôi lần nói rõ là: ơn thánh Chúa ban cho người quá cố hay cho các đôi tân hôn không hề lệ thuộc vào con số linh mục đồng tế, nhất là vì số tiền to nhỏ mà gia chủ đã chi ra trong những dịp này.
Nói khác đi, nếu một người khi còn sống không “lo thu tích vào kho tàng chẳng thể hao mòn ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá" (Lc 12:33) mà chỉ lo tìm kiếm tiền của, lợi lãi và vui thú trần thế, đến nỗi quên mất Chúa, không dành cho Người một chỗ nào trong tâm hồn mình, thì khi chết dẫu có Đức Thánh Cha chủ lễ với hàng trăm Hồng Y Giám mục,và linh mục đồng tế thì cũng vô ích mà thôi. Ngược lại, một người đã thực tâm yêu mến Chúa và cố gắng sống theo đường lối của Chúa suốt cả đời mình thì khi chết dẫu không được linh mục nào đến đồng tế cầu nguyện cho, hoặc tệ hại hơn nữa là xác không được cho đem vào nhà thờ, vì không “thân quen với cha xứ, nên bị đối xử tàn tệ, thì cũng không hề thiệt thòi chút nào khi ra trước mặt Chúa để được đón nhận vào chốn vinh phúc đời đời, nơi tiền của, thân quen và vinh quang trần thế không thể mua hay đổi chác được!
Chắc chắn là chốn vinh phúc đời đời, nơi tiền của, thân quen và vinh quang trần thế không thể mua hay đổi chác được!
Do đó, linh mục phải làm gương trước tiên và có bổn phận và trách nhiệm giảng dạy cho giáo dân hiểu rõ chân lý trên đây, thay vì chiều theo thị hiếu của một số người ưa thích khoa trương bề ngoài, thích mời nhiều cha đến đồng tế trong mọi dịp vui buồn khiến nẩy sinh tệ trạng linh mục “chạy sô” (show) cuối tuần giống như ca sĩ đi show trình diễn văn nghệ ở nhiều nơi hàng tuần! Có điều khó coi, theo thiển ý, là các gia chủ thường tặng “phong bì” ngay sau lễ ở cuối nhà thờ trước mắt nhiều giáo dân ra về sau lễ. Linh mục đến đâng lễ để cầu nguyện cho người quá cố hay cho đôi tân hôn chứ không phải đến để nhận “phong bì”. Xin mọi người hiểu rõ như vậy để giúp các linh mục sống tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, nghĩa là đừng “làm hư” các ngài vì tiền bạc.
Cũng trong tinh thần sống khó nghèo của Phúc Âm, người tông đồ lớn nhỏ của Chúa Kitô ngày nay cũng nên chấm dứt việc thường xuyên đi nước ngoài để xin tiền. Tuy một số vị không công khai xin tiền như trước, nhưng sự có mặt thường xuyên của các vị khách này cũng cho giáo dân hiểu là họ muốn được giúp đỡ cho nhu cầu “vô tận” của họ! Nhưng thử hỏi: giáo hội địa phương có nhiều nhu cầu đến thế hay không mà quá nhiều vị đã bỏ bê đoàn chiên, giáo xứ ở nhà để đi qua đi lại không biết bao nhiêu lần để làm gì? Nếu để xin tiền xây cất cơ sở cho thêm đồ sộ để khoa trương với du khách thì đây không phải là nhu cầu chính đáng để phải vất vả đi lại nhiều lần như thế.
Nhu cầu chính đáng, quan trọng và cần thiết nhất là phải xây cơ sở thiêng liêng, nơi tâm hồn mọi tín hữu mà mình có sứ mạng coi sóc, và làm gương sáng cho đoàn chiên được giao phó cho mình chăn dắt. Đây mới thực sự là nhu cầu phải thỏa mãn, cần thiết phải đầu tư tâm trí và thì giờ để tìm kiếm cho bằng được.
Sống trong một xã hội thụt hậu thê thảm về đạo đức, luân lý, trong khi nhiều giáo dân nói riêng và người dân nói chung còn thiếu thốn mọi mặt, thì những ngôi thánh đường lộng lẫy, những nhà xứ sang trọng đã trở thành dấu phản chứng rõ nét nhất cho tinh thần khó nghèo mà Chúa Kitô đã sống và rao giảng. Chắc chấn Chúa không hài lòng được ngự trong những nơi trang hoàng lộng lẫy giữa đám dân nghèo như vậy.
Linh mục, Đức Kitô thứ hai (Alter Christus), có sứ mạng rất cao cả là mang Chúa Kitô đầy yêu thương, tha thứ, đến với mọi người không phân biệt giầu nghèo, sang hèn Nghĩa là, qua sứ vụ được lãnh nhận từ bí Tích Truyền Chức Thánh (không phải là trao tác vụ linh mục như có người vẫn nói sai) linh mục không những phải rao giảng điều mình tin và nhất là phải sống điều mình giảng dạy, để làm chứng cho Chúa Kitô, “Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người.” Mt 20: 28).
Chính hàng giáo sĩ, tức các vị lãnh đạo tinh thần, những người “cha thiêng liêng” của dân Chúa đã, đang và sẽ đẩy giáo dân ra khỏi Giáo Hội, và làm mất đức tin của họ; khi họ nhìn thấy đời sống của các ngài không phản ảnh trung thực những gì các ngài rao giảng. Chúa Kitô xưa kia đã nhiều lần nặng lời lên án nhóm Luật Sĩ và Biệt phái vì họ nói mà không làm, giảng luật cho người khác tuân giữ nhưng chính họ lại không sống những gì họ dạy người khác phải sống và thi hành.
Tóm lại muốn tránh bị Chúa quở trách, than phiền như Người đã chỉ trích nhóm Biệt Phái và Luật sĩ xưa kia, người tông đồ ngày nay đã học kỹ bài học “giả hình” của bọn người này chưa, để sống trung thực với lời mình rao giảng về tình thương, về đức bác ái, công bằng và nhất là về tinh thần nghèo khó của Chúa Kitô, hầu thuyết phục giáo dân thêm tin yêu Chúa qua đời sống chứng nhân của chính mình ở giữa họ.
Việc rao giảng Tin Mừng sẽ vô hiệu quả khi lời nói không đi đôi với việc làm, nghĩa là không sống và làm chứng cho điều mình giảng dạy cho người khác.
NÓI THÊM VỀ VIỆC XIN LỄ và CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN
Trong hai bài trước đây,tôi đã có dịp trình bày về tội simonia, về ơn cưú độ, về việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội (purgatory) cũng như nói về cái gọi là “Hội Đời Đời” do một số người lập ra với mục đích cầu nguyện cho các linh hồn và “bảo hiểm” cho những người còn sống hoặc đã qua đời.
Vì có một số độc giả thắc mắc nên tôi xin được nói thêm về vấn đề này như sau :
Truớc hết, tôi phải nhấn mạnh một lần nữa về nguyên tắc căn bản sau đây :
Khi bàn cãi hoặc đề cập đến bất cứ vấn đề gì liên quan đến đức tin của người tín hữu Công giáo, nhất là liên quan đến Giáo Hội nói chung thì nhất thiết phải căn cứ vào những tiêu chuẩn căn bản như Thánh Kinh,(Sacred Scripture) Thánh Truyền (Sacred Tradition), Giáo Lý (Doctrine)Tín Lý (Dogma), Giáo luật (Canon law) Văn kiện Công Đồng (Conciliar Documents) Tông Thư, Tông Huấn (Encyclical Letters) của các Đức Giáo Hoàng, chứ không thể dựa vào suy luận cá nhân hay căn cứ vào những tài liệu bên ngoài Giáo Hội để tham khảo được.
Từ nguyên tắc này, chúng ta hãy tìm hiểu xem Giáo Hội dạy về việc cầu nguyện cho người sống và người chết như thế nào :
A-Cầu nguyện cho ngươì đã qua đời :
Sách 2 Ma-ca-bê kể lại việc “ Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền và gửi về Giêrusalem để xin dâng hy tế tạ tội ; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quí này vì cho rằng ngươì chết sẽ sống lại…Đó là lý do khiến ông xin dâng hy tế đền tội cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” ( x. 2 Macabê 12:43-46)
Đây là nguồn gốc trong Kinh Thánh Cựu Ước về việc cầu nguyện cho người quá cố vì có niềm tin vào sự sống lại của kẻ chết .
Niềm tin này đã được củng cố vững vàng hơn với biến cố lich sử về cuộc tử nạn và phục sinh của chính Chúa Kitô Giêsu như Kinh Thánh Tân Ước đã tường thuật tỉ mỉ.(x. Mt.27-28; Mc 15-15, Lc 23-24; Ga 19-20).
Từ đó, việc cầu nguyện cho kẻ chết đã trở thành truyền thống trong Giáo Hội cho đến nay vì niềm tin vào sự sống lại của kẻ chết và vì tín điều các Thánh Thông Công .
Sách Giáo Lý mới của Giáo Hội đã khuyến khích việc cầu nguyện cho kẻ chết dựa vào niềm tin nói trên và vào lời dạy của Thánh Gioan Kim Khẩu (John Chrysostom :344-407) sau đây :
“Chúng ta hãy cứu giúp và tuởng nhớ đến những ngươì đã qua đời.Nếu con cái Ông Job được thanh luyện nhờ sự hy sinh của Ông, thì tại sao chúng ta lại nghi ngờ rằng những việc hiến dâng của chúng ta sẽ đem lại an ủi cho các linh hồn ấy? Vậy chúng ta đừng ngần ngại cứu giúp những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ” (x.John Chrysostom,Hom. In 1 Cor.41,5:PG 61,361;cf. job,5)
I- Luyên Tội ( Purgatory)và hình phạt hữu hạn (temporal punishment)
Theo Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì tất cả những ai chết trong ơn phúc của Chúa đều được bảo đảm phần rỗi đời đời (eternal salvation). Nhưng nếu chưa được thanh sạch hoàn toàn sau khi chết thì phải được thanh luyện lần cuối cùng trong nơi gọi là Luyện tội (Purgatory) trước khi được vào hưởng niềm vui Thiên Đàng. ( x. Sách Giáo Lý Công Giáo số 1030).
Đây là lý do vì sao Giáo Hội khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi chốn thanh luyện cuối cùng này để giúp họ được mau vào vui hưởng Thánh Nhan Chúa.
Cũng theo giaó lý của Giáo Hội thì có hai loại tội cần phân biệt: tội trọng(mortal sin) và tội nhẹ (venialsin) xét theo hậu qủa của tội gây thương tổn nhiều hay ít đến mối thân tình giữa Chúa và hối nhân cũng như giữa hối nhân và Cộng đồng Giáo Hội.
Tội trọng phá tan đức ái và cắt đứt tức khắc mọi hiệp thông với Chúa.Vì thế, khi một người mắc tội trọng, nếu chết mà không kịp ăn năn và được tha thứ qua bí tích hoà giải thì sẽ bị án phạt đời đời trong nơi gọi là hoả ngục.(hell) Ở nơi này, các linh hồn bị phạt sẽ đời đời lìa xa Thiên Chúa và Cộng đồng các Thánh.(x. Sđd ,số 1033).
Tội nhẹ không phá hủy hoàn toàn đức ái nhưng cũng gây thương tổn phần nào cho sự hiệp thông với Chúa và với Giáo Hội nên cũng cần được tẩy xóa qua bí tích hoà giải .
Tộị trọng và tội nhẹ đều có thể được tha thứ qua bí tích hoà giải –trừ tội phạm đến Đức Chúa Thánh Thần, tức là chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn-(x. Mt 12,31).
Sau khi đã được hoà giải với Chúa và với Giáo Hội , hối nhân phải làm việc “đền tội” (penance)cho mọi tội trọng và nhẹ đã được tha qua bí tích hoà giải.Đây là hình phạt hữu hạn (temporal punishment) màhối nhân phải thi hành để “ sửa lại những xáo trộn mà tội đã gây nên” theo lời dạy của Công Đồng Trentô (xCĐ Trentô DS 1712)..
Việc “đền tội”này, nếu không được làm đầy đủ khi còn sống,thì phải được thanh luyện sau cùng trong Luyện Tội sau khi chết. .Ở đây các linh hồn có thể trông cậy vào sự cứu giúp của Đức Mẹ ,của các Thánh và của các tín hữu còn sống đang hiệp thông trong Giáo Hội lữ hành. Các linh hồn cũng có thể cầu bầu cho các tín hữu còn sống nhưng không thể tự giúp mình được vì thời giờ làm việc lành phúc đức đã hết
Các Thánh trên Thiên Đàng có thể nguyện giúp cầu thay cho các linh hồn trong luyện tội và cho các tín hữu còn sống nhưng không cần ai trợ giúp nữa vì đã được hưởng trọn vẹn Nhan Thánh Chúa rồi.
Đây là tất cả ý nghĩa về Tín điều các Thánh thông công (communion of Saints) trong Giáo Hội Công Giáo.
II- Các tín hữu còn sống có thể giúp gì cho các linh hồn nơi Luyện tội ?
Như đã giả thích ở trên, Luyện tôi là nơi thanh luyện cuối cùng cho những linh hồn đã chết đi trong ơn nghiã Chúa nhưng chưa đuợc thánh thiện đủ để được vào Thiên Đàng hưởng Nhan Thánh Chúa cùng các Thánh . Họ phải lưu lại nơi đây trong một thơì gian để được thanh luyện theo lượng từ bi và công bằng của Chúa đòi hỏi.Nhưng Luyện tội không phải là chốn các linh hồn phải xa Chúa đời đời như những linh hồn ở nơi gọi là hoả ngục. Vì thế không có vấn đề cầu nguyện đời đời cho các linh hồn nơi luyện tội vì họ không đời đời ở đó. Các tín hữu còn sống trên trần gian có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện tội bằng những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, làm việc bác ái và nhất là xin dâng Thánh Lễ cầu cho họ.Sự giúp đỡ thiêng liêng này rất hữu ích nhưng không phải là yếu tố quyết định phần cứu rỗi cho một linh hồn nào.
Yếu tố quyết định là chính tình thương của Chúa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cộng với phần đóng góp của cá nhân khi còn sống trên trần thế này.
Khi còn sống, nếu một người đã tư ý chọn lựa xa cách Thiên Chúa, khước từ tình thương của Người để qui hướng đời mình hoàn toàn về những mục tiêu trần thế cho đến giờ chết thì chắc chắn Chúakhông thể cứu được người đó vì họ đã tự ý chọn lựa từ chối Người trong suốt cuộc đời trên trần thế này rồi .Chúa không ngăn cản sự chọn lựa này vì Ngài tôn trọng ý chí tự do (free will) của con người. Trong trường hợp này mọi việc cứu giúp của chúng ta như cầu nguyện, xin Lễ.v.v. sẽ là vô ích vì người ta đã chọn lựa khước từ Chúa và ơn cứu độ của Người khi còn sống rồi
Tuy nhiên đây chỉ là nguyên tắc thần học phải suy luận và tin mà thôi.Trong thực hành , chúng ta không thể biết được ai đã thực sự rơi vào trường hợp này để khỏi phải cầu nguyện cho họ nữa. Chúng ta cũng không được phép phán đoán ai sẽ lên Thiên Đàng, ai phải xuống hoả ngục dù biết họ sống ra sao trên trần gian này. Vì thế , chúng ta cứ vì bác ái mà cầu cho mọi người đã qua đời ngay cả cho những người đã tự tử hay công khai sống “bê bối” trước khi chết.. Chỉ có Chúa mới biết chính xác được lòng người và phán đoán công minh về phần rỗi của mỗi cá nhân.
Bao lâu còn sống thì ta cứ cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết, không giới hạn thời gian, nhưng không thể nói cầu “đời đời” được vì chính mình cũng không sống vĩnh viễn ở đời này thì làm sao mà mà cầu “đời đời”cho ai được.?
B--Vấn đề xin “Lễ đời đời” và mua “Hậu” cho người còn sống hay đã qua đời
Tôi phải đặc biệt nói thêm về vấn đề này vì thực chất sai trái giáo lý trầm trọng của những việc làm này đã và đang còn diễn ra ở một số nơi trong và ngoài ViệtNam.
Như đã nói ở trên, việc cầu nguyện cho các người đã qua đời chỉ hữu ích cho các linh hồn thánh (holy souls) trong nơi luyện tội mà thôi, chứ tuyệt đối không ích gì cho những ai đã tự ý chọn lựa xa lìa Thiên Chúa và đang bị phạt ở nơi gọi là hoả ngục.
Lý do : chỉ có sự hiệp thông giữa các Thánh trên Trời, các linh hồn nơi luyện tội và các tín hữu còn sống trên trần gian mà thôi,chứ không có sự hiệp thông nào vơí các linh hồn nơi hoả ngục.Vì thế, không có giáo lý nào của Giáo Hội dạy hay khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn trong hoả ngục cả vì họ đã lìa xa Chúa đời đời rồi.(x. Sđd. Số 1033-1036)
Vậy xin Lễ đời đời để cầu cho ai ?
Rõ ràng đây là một ý niệm mơ hồ không có căn bản giáo lý, tín lý nào vì như đã giải thích ở trên: các linh hồn trong luyện tôi không cần sự giúp đỡ “đời đời”, các Thánh trên Thiên Đàng không cần ai trợ giúp nữa, còn những linh hồn trong hoả ngục thì không thể giúp được vì không còn sự hiệp thông nào với nơi này. Hơn thế nữa, làm sao người nhận tiền xin Lễ đời đời có thể thực hành được điều này khi mà chính người đó hay Tu Hội ,Cộng Đoàn nào làm việc này cũng không tồn tại “đời đời” trên trần thế này thì làm sao có thể cầu nguyện hay dâng lễ đời đời cho ai để hưởng số tiền to bây giờ của những người xin vì không am hiểu giáo lý ?
Việc “mua,bán hậu” lại càng vô lý và sai trái giaó lý hơn nữa.
Trước hết là không hề có giaó lý nào cho phép làm việc này.Sau nữa, chủ đích của việc làm này hoàn toàn sai trái về mặt thần học , về ơn cứu độ vì lý do sau đây :
Nói đến sống đời đời là nói đến hy vọng được hưởng ơn cứu độ của Chúa nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô. Mà muốn hưởng ơn này thì nhất thiết phải “hoán cải và tin vào Tin Mừng” như Chúa Giêsu đã đòi hỏi ( x. Mc 1:15) . Hoán cải hay sám hối để chừa bỏ tội lỗi và tin vào Tin Mừng có nghĩa là thực sự mến Chúa và yêu người. Đây chính là phần đóng góp cần thiết của mỗi cá nhân vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô để được hưởng ơn cứu độ của Người. Không ai có thể làm thay người khác trong việc quá hệ trọng này cũng như không thể dùng tiền bạc để đút lót cho ai lo hộ mình việc tối quan trọng này.
Như vậy , “mua hậu” để làm gì ? có phải là bỏ nhiều tiền ra bây giờ để mua “bảo hiểm đời sau” cho cả người sống và người chết của một vài nơi đã và đang rao bán dịch vụ mại thánh (simony) này để lừa dối những người không am hiểu giaó lý về ơn cứu độ không ?
Chúng ta phải xác tín rằng việc cứu rỗi không bao giờ có thể đổi chác hay mua đuợc bằng tiền bạc hoặc của cải vật chất dù trị giá có thể cao đến đâu. Nếu sống mà không quyết tâm tìm Chúa và đi theo đường lối của Người thì có bỏ ra hàng trăm triệu đôla để mua hàng ngàn “cái hậu” cũng vô ích mà thôi vì tuyệt đối những thứ này không có chút giá trị cứu rỗi nào cho ai hết.
Tôi quả quyết như vậy và thách đố ai trưng ra được căn bản thần học, giaó lý, Kinh Thánh nào khuyến khích hay cho phép làm việc này trong Giáo Hội.
Là tín hữu ,chúng ta chỉ được kêu gọi sống đức tin ,đức cậy, và đức mến cách thích đáng nghiã là thực tâm tin, yêu Chúa và yêu mến tha nhân như Chúa đòi hỏi để được hưởng ơn cứu độ. Và đây mới thực sự là thứ “bảo hiểm” có giá trị nhất ,hơn bất cứ loại “hậu hay bảo hiểm” nào khác mà một số người không am hiểu giáo lý đã và đang làm để trục lợi về tiền bạc và lừa dối người khác qua dịch vụ “buôn thần bán thánh” này trong cộng đồng Công giáo Việtnam ở trong nước cũng như ở Mỹ này.
Tóm lại, không có “cái hậu” nào có giá trị cứu rỗi ,bảo đảm đời sau hơn chính nỗ lực của cá nhân cộng tác với ơn Chúa ngay trong cuộc sống này cho đến ngày giờ sau hết để được hưởng ơn cứu độ như giáo lý Công Giáo dạy.
Vậy phải dứt khoát loại trừ những việc sai trái về cái gọi là “Lể đời đời” và mua bán “hậu”đời sau nếu muốn thực hành đức tin cách chính đáng trong Giáo Hội.
Đó là tất cả những điều tôi cần nói thêm về vấn đề cầu nguyện cho các linh hồn ,về điều kiện để được cứu rỗi và về những sai trái quanh vấn đề này.
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Trong hai bài trước đây,tôi đã có dịp trình bày về tội simonia, về ơn cưú độ, về việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội (purgatory) cũng như nói về cái gọi là “Hội Đời Đời” do một số người lập ra với mục đích cầu nguyện cho các linh hồn và “bảo hiểm” cho những người còn sống hoặc đã qua đời.
Vì có một số độc giả thắc mắc nên tôi xin được nói thêm về vấn đề này như sau :
Truớc hết, tôi phải nhấn mạnh một lần nữa về nguyên tắc căn bản sau đây :
Khi bàn cãi hoặc đề cập đến bất cứ vấn đề gì liên quan đến đức tin của người tín hữu Công giáo, nhất là liên quan đến Giáo Hội nói chung thì nhất thiết phải căn cứ vào những tiêu chuẩn căn bản như Thánh Kinh,(Sacred Scripture) Thánh Truyền (Sacred Tradition), Giáo Lý (Doctrine)Tín Lý (Dogma), Giáo luật (Canon law) Văn kiện Công Đồng (Conciliar Documents) Tông Thư, Tông Huấn (Encyclical Letters) của các Đức Giáo Hoàng, chứ không thể dựa vào suy luận cá nhân hay căn cứ vào những tài liệu bên ngoài Giáo Hội để tham khảo được.
Từ nguyên tắc này, chúng ta hãy tìm hiểu xem Giáo Hội dạy về việc cầu nguyện cho người sống và người chết như thế nào :
A-Cầu nguyện cho ngươì đã qua đời :
Sách 2 Ma-ca-bê kể lại việc “ Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền và gửi về Giêrusalem để xin dâng hy tế tạ tội ; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quí này vì cho rằng ngươì chết sẽ sống lại…Đó là lý do khiến ông xin dâng hy tế đền tội cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” ( x. 2 Macabê 12:43-46)
Đây là nguồn gốc trong Kinh Thánh Cựu Ước về việc cầu nguyện cho người quá cố vì có niềm tin vào sự sống lại của kẻ chết .
Niềm tin này đã được củng cố vững vàng hơn với biến cố lich sử về cuộc tử nạn và phục sinh của chính Chúa Kitô Giêsu như Kinh Thánh Tân Ước đã tường thuật tỉ mỉ.(x. Mt.27-28; Mc 15-15, Lc 23-24; Ga 19-20).
Từ đó, việc cầu nguyện cho kẻ chết đã trở thành truyền thống trong Giáo Hội cho đến nay vì niềm tin vào sự sống lại của kẻ chết và vì tín điều các Thánh Thông Công .
Sách Giáo Lý mới của Giáo Hội đã khuyến khích việc cầu nguyện cho kẻ chết dựa vào niềm tin nói trên và vào lời dạy của Thánh Gioan Kim Khẩu (John Chrysostom :344-407) sau đây :
“Chúng ta hãy cứu giúp và tuởng nhớ đến những ngươì đã qua đời.Nếu con cái Ông Job được thanh luyện nhờ sự hy sinh của Ông, thì tại sao chúng ta lại nghi ngờ rằng những việc hiến dâng của chúng ta sẽ đem lại an ủi cho các linh hồn ấy? Vậy chúng ta đừng ngần ngại cứu giúp những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ” (x.John Chrysostom,Hom. In 1 Cor.41,5:PG 61,361;cf. job,5)
I- Luyên Tội ( Purgatory)và hình phạt hữu hạn (temporal punishment)
Theo Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì tất cả những ai chết trong ơn phúc của Chúa đều được bảo đảm phần rỗi đời đời (eternal salvation). Nhưng nếu chưa được thanh sạch hoàn toàn sau khi chết thì phải được thanh luyện lần cuối cùng trong nơi gọi là Luyện tội (Purgatory) trước khi được vào hưởng niềm vui Thiên Đàng. ( x. Sách Giáo Lý Công Giáo số 1030).
Đây là lý do vì sao Giáo Hội khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi chốn thanh luyện cuối cùng này để giúp họ được mau vào vui hưởng Thánh Nhan Chúa.
Cũng theo giaó lý của Giáo Hội thì có hai loại tội cần phân biệt: tội trọng(mortal sin) và tội nhẹ (venialsin) xét theo hậu qủa của tội gây thương tổn nhiều hay ít đến mối thân tình giữa Chúa và hối nhân cũng như giữa hối nhân và Cộng đồng Giáo Hội.
Tội trọng phá tan đức ái và cắt đứt tức khắc mọi hiệp thông với Chúa.Vì thế, khi một người mắc tội trọng, nếu chết mà không kịp ăn năn và được tha thứ qua bí tích hoà giải thì sẽ bị án phạt đời đời trong nơi gọi là hoả ngục.(hell) Ở nơi này, các linh hồn bị phạt sẽ đời đời lìa xa Thiên Chúa và Cộng đồng các Thánh.(x. Sđd ,số 1033).
Tội nhẹ không phá hủy hoàn toàn đức ái nhưng cũng gây thương tổn phần nào cho sự hiệp thông với Chúa và với Giáo Hội nên cũng cần được tẩy xóa qua bí tích hoà giải .
Tộị trọng và tội nhẹ đều có thể được tha thứ qua bí tích hoà giải –trừ tội phạm đến Đức Chúa Thánh Thần, tức là chối bỏ Thiên Chúa hoàn toàn-(x. Mt 12,31).
Sau khi đã được hoà giải với Chúa và với Giáo Hội , hối nhân phải làm việc “đền tội” (penance)cho mọi tội trọng và nhẹ đã được tha qua bí tích hoà giải.Đây là hình phạt hữu hạn (temporal punishment) màhối nhân phải thi hành để “ sửa lại những xáo trộn mà tội đã gây nên” theo lời dạy của Công Đồng Trentô (xCĐ Trentô DS 1712)..
Việc “đền tội”này, nếu không được làm đầy đủ khi còn sống,thì phải được thanh luyện sau cùng trong Luyện Tội sau khi chết. .Ở đây các linh hồn có thể trông cậy vào sự cứu giúp của Đức Mẹ ,của các Thánh và của các tín hữu còn sống đang hiệp thông trong Giáo Hội lữ hành. Các linh hồn cũng có thể cầu bầu cho các tín hữu còn sống nhưng không thể tự giúp mình được vì thời giờ làm việc lành phúc đức đã hết
Các Thánh trên Thiên Đàng có thể nguyện giúp cầu thay cho các linh hồn trong luyện tội và cho các tín hữu còn sống nhưng không cần ai trợ giúp nữa vì đã được hưởng trọn vẹn Nhan Thánh Chúa rồi.
Đây là tất cả ý nghĩa về Tín điều các Thánh thông công (communion of Saints) trong Giáo Hội Công Giáo.
II- Các tín hữu còn sống có thể giúp gì cho các linh hồn nơi Luyện tội ?
Như đã giả thích ở trên, Luyện tôi là nơi thanh luyện cuối cùng cho những linh hồn đã chết đi trong ơn nghiã Chúa nhưng chưa đuợc thánh thiện đủ để được vào Thiên Đàng hưởng Nhan Thánh Chúa cùng các Thánh . Họ phải lưu lại nơi đây trong một thơì gian để được thanh luyện theo lượng từ bi và công bằng của Chúa đòi hỏi.Nhưng Luyện tội không phải là chốn các linh hồn phải xa Chúa đời đời như những linh hồn ở nơi gọi là hoả ngục. Vì thế không có vấn đề cầu nguyện đời đời cho các linh hồn nơi luyện tội vì họ không đời đời ở đó. Các tín hữu còn sống trên trần gian có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện tội bằng những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, làm việc bác ái và nhất là xin dâng Thánh Lễ cầu cho họ.Sự giúp đỡ thiêng liêng này rất hữu ích nhưng không phải là yếu tố quyết định phần cứu rỗi cho một linh hồn nào.
Yếu tố quyết định là chính tình thương của Chúa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cộng với phần đóng góp của cá nhân khi còn sống trên trần thế này.
Khi còn sống, nếu một người đã tư ý chọn lựa xa cách Thiên Chúa, khước từ tình thương của Người để qui hướng đời mình hoàn toàn về những mục tiêu trần thế cho đến giờ chết thì chắc chắn Chúakhông thể cứu được người đó vì họ đã tự ý chọn lựa từ chối Người trong suốt cuộc đời trên trần thế này rồi .Chúa không ngăn cản sự chọn lựa này vì Ngài tôn trọng ý chí tự do (free will) của con người. Trong trường hợp này mọi việc cứu giúp của chúng ta như cầu nguyện, xin Lễ.v.v. sẽ là vô ích vì người ta đã chọn lựa khước từ Chúa và ơn cứu độ của Người khi còn sống rồi
Tuy nhiên đây chỉ là nguyên tắc thần học phải suy luận và tin mà thôi.Trong thực hành , chúng ta không thể biết được ai đã thực sự rơi vào trường hợp này để khỏi phải cầu nguyện cho họ nữa. Chúng ta cũng không được phép phán đoán ai sẽ lên Thiên Đàng, ai phải xuống hoả ngục dù biết họ sống ra sao trên trần gian này. Vì thế , chúng ta cứ vì bác ái mà cầu cho mọi người đã qua đời ngay cả cho những người đã tự tử hay công khai sống “bê bối” trước khi chết.. Chỉ có Chúa mới biết chính xác được lòng người và phán đoán công minh về phần rỗi của mỗi cá nhân.
Bao lâu còn sống thì ta cứ cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết, không giới hạn thời gian, nhưng không thể nói cầu “đời đời” được vì chính mình cũng không sống vĩnh viễn ở đời này thì làm sao mà mà cầu “đời đời”cho ai được.?
B--Vấn đề xin “Lễ đời đời” và mua “Hậu” cho người còn sống hay đã qua đời
Tôi phải đặc biệt nói thêm về vấn đề này vì thực chất sai trái giáo lý trầm trọng của những việc làm này đã và đang còn diễn ra ở một số nơi trong và ngoài ViệtNam.
Như đã nói ở trên, việc cầu nguyện cho các người đã qua đời chỉ hữu ích cho các linh hồn thánh (holy souls) trong nơi luyện tội mà thôi, chứ tuyệt đối không ích gì cho những ai đã tự ý chọn lựa xa lìa Thiên Chúa và đang bị phạt ở nơi gọi là hoả ngục.
Lý do : chỉ có sự hiệp thông giữa các Thánh trên Trời, các linh hồn nơi luyện tội và các tín hữu còn sống trên trần gian mà thôi,chứ không có sự hiệp thông nào vơí các linh hồn nơi hoả ngục.Vì thế, không có giáo lý nào của Giáo Hội dạy hay khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn trong hoả ngục cả vì họ đã lìa xa Chúa đời đời rồi.(x. Sđd. Số 1033-1036)
Vậy xin Lễ đời đời để cầu cho ai ?
Rõ ràng đây là một ý niệm mơ hồ không có căn bản giáo lý, tín lý nào vì như đã giải thích ở trên: các linh hồn trong luyện tôi không cần sự giúp đỡ “đời đời”, các Thánh trên Thiên Đàng không cần ai trợ giúp nữa, còn những linh hồn trong hoả ngục thì không thể giúp được vì không còn sự hiệp thông nào với nơi này. Hơn thế nữa, làm sao người nhận tiền xin Lễ đời đời có thể thực hành được điều này khi mà chính người đó hay Tu Hội ,Cộng Đoàn nào làm việc này cũng không tồn tại “đời đời” trên trần thế này thì làm sao có thể cầu nguyện hay dâng lễ đời đời cho ai để hưởng số tiền to bây giờ của những người xin vì không am hiểu giáo lý ?
Việc “mua,bán hậu” lại càng vô lý và sai trái giaó lý hơn nữa.
Trước hết là không hề có giaó lý nào cho phép làm việc này.Sau nữa, chủ đích của việc làm này hoàn toàn sai trái về mặt thần học , về ơn cứu độ vì lý do sau đây :
Nói đến sống đời đời là nói đến hy vọng được hưởng ơn cứu độ của Chúa nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô. Mà muốn hưởng ơn này thì nhất thiết phải “hoán cải và tin vào Tin Mừng” như Chúa Giêsu đã đòi hỏi ( x. Mc 1:15) . Hoán cải hay sám hối để chừa bỏ tội lỗi và tin vào Tin Mừng có nghĩa là thực sự mến Chúa và yêu người. Đây chính là phần đóng góp cần thiết của mỗi cá nhân vào công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô để được hưởng ơn cứu độ của Người. Không ai có thể làm thay người khác trong việc quá hệ trọng này cũng như không thể dùng tiền bạc để đút lót cho ai lo hộ mình việc tối quan trọng này.
Như vậy , “mua hậu” để làm gì ? có phải là bỏ nhiều tiền ra bây giờ để mua “bảo hiểm đời sau” cho cả người sống và người chết của một vài nơi đã và đang rao bán dịch vụ mại thánh (simony) này để lừa dối những người không am hiểu giaó lý về ơn cứu độ không ?
Chúng ta phải xác tín rằng việc cứu rỗi không bao giờ có thể đổi chác hay mua đuợc bằng tiền bạc hoặc của cải vật chất dù trị giá có thể cao đến đâu. Nếu sống mà không quyết tâm tìm Chúa và đi theo đường lối của Người thì có bỏ ra hàng trăm triệu đôla để mua hàng ngàn “cái hậu” cũng vô ích mà thôi vì tuyệt đối những thứ này không có chút giá trị cứu rỗi nào cho ai hết.
Tôi quả quyết như vậy và thách đố ai trưng ra được căn bản thần học, giaó lý, Kinh Thánh nào khuyến khích hay cho phép làm việc này trong Giáo Hội.
Là tín hữu ,chúng ta chỉ được kêu gọi sống đức tin ,đức cậy, và đức mến cách thích đáng nghiã là thực tâm tin, yêu Chúa và yêu mến tha nhân như Chúa đòi hỏi để được hưởng ơn cứu độ. Và đây mới thực sự là thứ “bảo hiểm” có giá trị nhất ,hơn bất cứ loại “hậu hay bảo hiểm” nào khác mà một số người không am hiểu giáo lý đã và đang làm để trục lợi về tiền bạc và lừa dối người khác qua dịch vụ “buôn thần bán thánh” này trong cộng đồng Công giáo Việtnam ở trong nước cũng như ở Mỹ này.
Tóm lại, không có “cái hậu” nào có giá trị cứu rỗi ,bảo đảm đời sau hơn chính nỗ lực của cá nhân cộng tác với ơn Chúa ngay trong cuộc sống này cho đến ngày giờ sau hết để được hưởng ơn cứu độ như giáo lý Công Giáo dạy.
Vậy phải dứt khoát loại trừ những việc sai trái về cái gọi là “Lể đời đời” và mua bán “hậu”đời sau nếu muốn thực hành đức tin cách chính đáng trong Giáo Hội.
Đó là tất cả những điều tôi cần nói thêm về vấn đề cầu nguyện cho các linh hồn ,về điều kiện để được cứu rỗi và về những sai trái quanh vấn đề này.
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
HÃY THỨC TỈNH
Phải công nhận Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại Vinh Sơn Liêm hiện nay có những Linh Mục đầu óc rất giỏi về kinh doanh, biết làm những chương trình quảng cáo thật rầm rộ trong các ngày Lễ Hội, gây quĩ tại các giáo xứ mà nhà Dòng đang làm mục vụ, vì thế không lạ gì khi chúng ta thấy Cơ Sở và TIỀN BẠC của Dòng ở Canada có trong nhà băng hơn 10.000.000,00 triệu đồng tiền Canada (hơn mười triệu đô la) chưa kể những cơ sở, nhà cửa, ở bên Hoa Kỳ, ở Việt Nam, Thái Lan, vv…? mà chúng ta chưa được biết rõ.
Vì có đầu óc về kinh doanh, cho nên những Giáo Xứ mà nhà Dòng đang coi sóc về Mục Vụ. Họ thường tổ chức cho giáo dân buôn bán mỗi cuối tuần. Một năm tổ chức mấy Lễ Hội, quảng cáo thật rầm rộ, lộng lẫy Ca Sĩ này, Ca Sĩ kia trong website, trong Bản Tin Mục Vụ cả tháng trời, lại còn tốn tiền cho cả truyền thông, báo chí ngoài đời nữa chứ. Chưa kể Giáo Xứ này vừa mới tổ chức xong thì lại đến Giáo Xứ kia tổ chức tiếp. Vì "Con Gà Ghét Nhau Tiếng Gáy" cho nên, dù là những Linh Mục, Tu Sĩ, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh, các Ban Nghành, Đoàn Thể đều là Anh Em một Cha trên trời, nhưng vì "Tiếng Gáy", nên khi tổ chức buôn bán, tổ chức các Lễ Hội, họ phải tìm đủ mọi cách để quảng cáo sao cho thật rầm rộ, thật lộng lẫy hơn Giáo Xứ bên kia để kiếm thật nhiều TIỀN, và lấy TIẾNG hơn thì mới bằng lòng.
Cũng vì quá bận rộn suy nghĩ về kinh doanh để lo kiếm TIỀN, mà sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Dòng cho dân chúng càng ngày càng rỗng tuếch, nhạt nhẽo mà lại quá phức tạp, lại còn nói mánh, nói khóe. Vì thế, những lời mời gọi giới trẻ vào Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại để tìm hiểu ơn gọi đi tu giống như "Tiếng Kêu Trong Xa Mạc".
Xin đính kèm Financial statement 2013-2014 của Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại
http://www.cra-arc.gc.ca/ebci/haip/srch/t3010form23sched6-eng.action?b=893224162RR0001&fpe=2013-12-31&n=VIETNAMESE+DOMINICAN+VICARIATE+OF+ALBERTA+SOCIETY&r=http://www.cra-arc.gc.ca:80/ebci/haip/srch/t3010form23-eng.action?b%3D893224162RR0001%26amp%3bfpe%3D2013-12-31%26amp%3bn%3DVIETNAMESE%2BDOMINICAN%2BVICARIATE%2BOF%2BALBERTA%2BSOCIETY%26amp%3br%3Dhttp%253A%252F%252Fwww.cra-arc.gc.ca%253A80%252Febci%252Fhaip%252Fsrch%252Fbasicsearchresult-eng.action%253Fs%253Dregistered%2525
Ánh Sáng Sự Thật
Phải công nhận Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại Vinh Sơn Liêm hiện nay có những Linh Mục đầu óc rất giỏi về kinh doanh, biết làm những chương trình quảng cáo thật rầm rộ trong các ngày Lễ Hội, gây quĩ tại các giáo xứ mà nhà Dòng đang làm mục vụ, vì thế không lạ gì khi chúng ta thấy Cơ Sở và TIỀN BẠC của Dòng ở Canada có trong nhà băng hơn 10.000.000,00 triệu đồng tiền Canada (hơn mười triệu đô la) chưa kể những cơ sở, nhà cửa, ở bên Hoa Kỳ, ở Việt Nam, Thái Lan, vv…? mà chúng ta chưa được biết rõ.
Vì có đầu óc về kinh doanh, cho nên những Giáo Xứ mà nhà Dòng đang coi sóc về Mục Vụ. Họ thường tổ chức cho giáo dân buôn bán mỗi cuối tuần. Một năm tổ chức mấy Lễ Hội, quảng cáo thật rầm rộ, lộng lẫy Ca Sĩ này, Ca Sĩ kia trong website, trong Bản Tin Mục Vụ cả tháng trời, lại còn tốn tiền cho cả truyền thông, báo chí ngoài đời nữa chứ. Chưa kể Giáo Xứ này vừa mới tổ chức xong thì lại đến Giáo Xứ kia tổ chức tiếp. Vì "Con Gà Ghét Nhau Tiếng Gáy" cho nên, dù là những Linh Mục, Tu Sĩ, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh, các Ban Nghành, Đoàn Thể đều là Anh Em một Cha trên trời, nhưng vì "Tiếng Gáy", nên khi tổ chức buôn bán, tổ chức các Lễ Hội, họ phải tìm đủ mọi cách để quảng cáo sao cho thật rầm rộ, thật lộng lẫy hơn Giáo Xứ bên kia để kiếm thật nhiều TIỀN, và lấy TIẾNG hơn thì mới bằng lòng.
Cũng vì quá bận rộn suy nghĩ về kinh doanh để lo kiếm TIỀN, mà sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Dòng cho dân chúng càng ngày càng rỗng tuếch, nhạt nhẽo mà lại quá phức tạp, lại còn nói mánh, nói khóe. Vì thế, những lời mời gọi giới trẻ vào Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại để tìm hiểu ơn gọi đi tu giống như "Tiếng Kêu Trong Xa Mạc".
Xin đính kèm Financial statement 2013-2014 của Dòng Đa Minh Việt Nam Hải Ngoại
http://www.cra-arc.gc.ca/ebci/haip/srch/t3010form23sched6-eng.action?b=893224162RR0001&fpe=2013-12-31&n=VIETNAMESE+DOMINICAN+VICARIATE+OF+ALBERTA+SOCIETY&r=http://www.cra-arc.gc.ca:80/ebci/haip/srch/t3010form23-eng.action?b%3D893224162RR0001%26amp%3bfpe%3D2013-12-31%26amp%3bn%3DVIETNAMESE%2BDOMINICAN%2BVICARIATE%2BOF%2BALBERTA%2BSOCIETY%26amp%3br%3Dhttp%253A%252F%252Fwww.cra-arc.gc.ca%253A80%252Febci%252Fhaip%252Fsrch%252Fbasicsearchresult-eng.action%253Fs%253Dregistered%2525
Ánh Sáng Sự Thật
Giá trị thiêng liêng của việc dâng cúng tiền của giúp cho các Giáo xứ, nhà Dòng, Tu Viện…
Hỏi :
1- Các nhà Dòng , Tu viện , giáo xứ, mỗi khi muốn xây cất và quyên tiền của giáo dân , thường đặt các hạng dâng cúng như ân nhân thì đóng góp bao nhiêu, được ghi tên trên bảng vàng thì bao nhiêu tiền v.v
Vậy, việc dâng cúng và những hạng danh dự nói trên có giá trị thiêng liêng hay cưú rỗi gì không?
2- Thánh Lễ có giá trị thế nào với những giá tiền xin khác nhau như 10 đô, 50 đô, 100 đô v,v? Nếu dâng cho nhà Dòng , nhà thờ số tiền 1000 hay 5000 đôla thì tương đương với bao nhiêu thánh lễ ?
Trả lời :
1-Việc dâng cúng để giúp các nhà Dòng, Tu Viện, Giáo xứ trong việc xây cất, tu sửa là việc bác ái đáng khen và khuyến khích, vì nếu không có sự giúp đỡ rộng rãi của các ân nhân thì các nhà thờ, nhà dòng, chủng viện, nhà thương, trường học, nhà xứ,v.v khó có thể thực hiện được các chương trình kiến thiết hay chỉnh trang cần thiết cho nhu cầu của cơ sở mình. Tuy nhiên, không thể đánh giá về mặt thiêng liêng mức độ trợ giúp vật chất này.Nói rõ hơn, việc ghi tên ân nhân vào bảng danh dự hay bảng vàng, bảng đồng chỉ là cách tri ân của cơ sở hay người được thụ hưởng mà thôi, chứ không có giá trị gì về mặt thiêng liêng liêng hay cưú rỗi cho ai hết. Sở dĩ thế, vì không có giáo lý hay luật nào của Giáo Hội dạy rằng dâng cúng bao nhiêu tiền vào Nhà thờ, nhà Dòng, Tu Hội , Chủng viện v.v thì sẽ được bao nhiêu ơn huệ thiêng liêng (ân xá chẳng hạn) , hay hứa hẹn sẽ được ơn cưú rỗi sau này. Ai hứa hẹn điều này là mắc tội “buôn thần bán thánh” (simonia) vì muốn dùng tiền của để mua ơn phúc thiêng liêng. Ân sủng của Chúa ban cho con người là nhưng không (gratuitous) , nghĩa là không thể mua, bán được bằng tiền của vật chất. Làm việc bác ái với thành tâm thiện chí thì chắc chắn Chúa sẽ chúc lành, thưởng công cho, như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa kia : “ ..Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em : kẻ ấy sẽ không mất phần thưởng đâu.” ( Mt 10:42).Nhưng cần lưu ý điều quan trọng này: dâng cúng ít mà vì lòng bác ái thực sự thì vẫn đẹp lòng Chúa hơn là cho nhiều để khoe khoang và được tiếng khen là rộng rãi. Đó là trường hợp của những người giầu bỏ tiền vào Đền Thờ xưa kia nhưng Chúa Giêsu chỉ khen một bà goá bỏ có hai xu : “ Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết.” (Lc 21:3).Bà bỏ vì lòng thành, trong khi những người giầu bỏ nhiều tiền hơn nhưng thiếu lòng ngay thẳng này. Tóm lại, dâng cúng tiền của để giúp các cơ sở của Giáo Hội làm việc tông đồ và phục vụ là điều cần thiết và cũng là hành động đức tin thể hiện bằng đức ái. Tuy nhiên , chúng ta cần lưu tâm là việc bác ái này phải được thực hiện vì lòng mến Chúa và yêu Giáo Hội, thông cảm với những khó khăn vật chất chính đáng của mọi bộ phận lớn nhỏ trong toàn cơ cấu hoạt động của Giáo Hội. Chúa thưởng công cho người dâng cúng tiền của vào Nhà thờ, nhà Dòng ..vì lòng thành của người cho chứ không vì mức độ nhiều ít của số tiền dâng cúng. Như vậy, bảng danh dự , bảng đồng , bảng vàng chỉ có giá trị với người đời chứ không có giá trị gì về mặt thiêng liêng hay bảo đảm gì về lợi ích phần rỗi cho người dâng cúng.
2- Không thể so sánh việc dâng cúng tiền bạc cho các giáo xứ, nhà dòng, chủng viện… với việc xin lễ được.Nhưng trước hết, xin nhắc lại về mục đích và giá trị của tiền xin lễ. Như tôi đã đôi lần giải thích, tiền xin lễ hay bổng lễ ( mass stipend) là số tiền tối thiểu mà Giáo quyền địa phương ấn định cho các linh mục được hưởng khi dâng một thánh lễ cầu cho ai, hay cho việc gì. Cụ thể ở Mỹ , đa sốc các Giáo phận đều qui định mức bổng lễ này là 5 đôla cho mỗi ý lễ. Như vậy, linh mục không được phép đòi người xin lễ số tiền cao hơn mức qui định này, và không được gây cho ai ngộ nhận là xin lễ với bổng lễ to thì được ích lợi thiêng liêng nhiều hơn lễ với bổng lễ nhỏ hay không có bổng lễ.Tuy nhiên, nếu giáo dân tự ý đưa số tiền cao hơn mức qui định trên thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì.
Nhưng số tiền xin lễ nhiều hay ít không ảnh hưởng gì đến việc Chúa ban ơn qua thánh lễ. Nghĩa là xin một lễ với bổng lễ 500 đô hay 5 đô la thì chỉ có giá trị vật chất cho linh mục cử hành thánh lễ chứ không có giá trị gì trong việc Chúa ban ơn cho người thụ hưởng vì ơn Chúa là vô giá, nghĩa là không thể mua được bằng tiền của vật chất.
Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai lầm tưởng rằng bỏ nhiều tiền ra xin lễ thì chắc sẽ được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là ít hay không có tiền. (không có bổng lễ, linh mục vẫn làm lễ theo ý người xin).
Tiền dâng cúng cho các cơ quan từ thiện hay cho nhà thờ, nhà dòng là việc bác ái không mong hoàn trả, nên khác với tiền xin lễ. Nói rõ hơn, tiền dâng cúng để giúp cho công cuộc xây cất hay tu bổ của các nhà dòng, nhà thờ… thì được hiểu là tiền cho không để giúp những công việc đó.Dĩ nhiên Chúa sẽ trả công cho những ai có lòng hảo tâm giúp đỡ các công tác từ thiện này. Ngược lại, tiền xin lễ là bổng lễ dâng theo qui định của Giáo quyền để trả công tượng trưng cho thừa tác viên cử hành thánh lễ được hưởng trong tinh thần Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ xưa : “…người ta cho ăn uống thức gì thì anh em hãy dùng thức đó vì làm thợ thì đáng trả công.” (Lc 10:7) . Thánh Phaolô cũng dạy : “ Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao ? Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.”( 1Cr 9:13-14).
Như vậy, không thể so sánh hay coi số tiền dâng cúng vào nhà dòng, chủng viện hay nhà thờ như tiền xin lễ được ví lý do phân tích trên đây.
LM . Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
Hỏi :
1- Các nhà Dòng , Tu viện , giáo xứ, mỗi khi muốn xây cất và quyên tiền của giáo dân , thường đặt các hạng dâng cúng như ân nhân thì đóng góp bao nhiêu, được ghi tên trên bảng vàng thì bao nhiêu tiền v.v
Vậy, việc dâng cúng và những hạng danh dự nói trên có giá trị thiêng liêng hay cưú rỗi gì không?
2- Thánh Lễ có giá trị thế nào với những giá tiền xin khác nhau như 10 đô, 50 đô, 100 đô v,v? Nếu dâng cho nhà Dòng , nhà thờ số tiền 1000 hay 5000 đôla thì tương đương với bao nhiêu thánh lễ ?
Trả lời :
1-Việc dâng cúng để giúp các nhà Dòng, Tu Viện, Giáo xứ trong việc xây cất, tu sửa là việc bác ái đáng khen và khuyến khích, vì nếu không có sự giúp đỡ rộng rãi của các ân nhân thì các nhà thờ, nhà dòng, chủng viện, nhà thương, trường học, nhà xứ,v.v khó có thể thực hiện được các chương trình kiến thiết hay chỉnh trang cần thiết cho nhu cầu của cơ sở mình. Tuy nhiên, không thể đánh giá về mặt thiêng liêng mức độ trợ giúp vật chất này.Nói rõ hơn, việc ghi tên ân nhân vào bảng danh dự hay bảng vàng, bảng đồng chỉ là cách tri ân của cơ sở hay người được thụ hưởng mà thôi, chứ không có giá trị gì về mặt thiêng liêng liêng hay cưú rỗi cho ai hết. Sở dĩ thế, vì không có giáo lý hay luật nào của Giáo Hội dạy rằng dâng cúng bao nhiêu tiền vào Nhà thờ, nhà Dòng, Tu Hội , Chủng viện v.v thì sẽ được bao nhiêu ơn huệ thiêng liêng (ân xá chẳng hạn) , hay hứa hẹn sẽ được ơn cưú rỗi sau này. Ai hứa hẹn điều này là mắc tội “buôn thần bán thánh” (simonia) vì muốn dùng tiền của để mua ơn phúc thiêng liêng. Ân sủng của Chúa ban cho con người là nhưng không (gratuitous) , nghĩa là không thể mua, bán được bằng tiền của vật chất. Làm việc bác ái với thành tâm thiện chí thì chắc chắn Chúa sẽ chúc lành, thưởng công cho, như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa kia : “ ..Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em : kẻ ấy sẽ không mất phần thưởng đâu.” ( Mt 10:42).Nhưng cần lưu ý điều quan trọng này: dâng cúng ít mà vì lòng bác ái thực sự thì vẫn đẹp lòng Chúa hơn là cho nhiều để khoe khoang và được tiếng khen là rộng rãi. Đó là trường hợp của những người giầu bỏ tiền vào Đền Thờ xưa kia nhưng Chúa Giêsu chỉ khen một bà goá bỏ có hai xu : “ Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết.” (Lc 21:3).Bà bỏ vì lòng thành, trong khi những người giầu bỏ nhiều tiền hơn nhưng thiếu lòng ngay thẳng này. Tóm lại, dâng cúng tiền của để giúp các cơ sở của Giáo Hội làm việc tông đồ và phục vụ là điều cần thiết và cũng là hành động đức tin thể hiện bằng đức ái. Tuy nhiên , chúng ta cần lưu tâm là việc bác ái này phải được thực hiện vì lòng mến Chúa và yêu Giáo Hội, thông cảm với những khó khăn vật chất chính đáng của mọi bộ phận lớn nhỏ trong toàn cơ cấu hoạt động của Giáo Hội. Chúa thưởng công cho người dâng cúng tiền của vào Nhà thờ, nhà Dòng ..vì lòng thành của người cho chứ không vì mức độ nhiều ít của số tiền dâng cúng. Như vậy, bảng danh dự , bảng đồng , bảng vàng chỉ có giá trị với người đời chứ không có giá trị gì về mặt thiêng liêng hay bảo đảm gì về lợi ích phần rỗi cho người dâng cúng.
2- Không thể so sánh việc dâng cúng tiền bạc cho các giáo xứ, nhà dòng, chủng viện… với việc xin lễ được.Nhưng trước hết, xin nhắc lại về mục đích và giá trị của tiền xin lễ. Như tôi đã đôi lần giải thích, tiền xin lễ hay bổng lễ ( mass stipend) là số tiền tối thiểu mà Giáo quyền địa phương ấn định cho các linh mục được hưởng khi dâng một thánh lễ cầu cho ai, hay cho việc gì. Cụ thể ở Mỹ , đa sốc các Giáo phận đều qui định mức bổng lễ này là 5 đôla cho mỗi ý lễ. Như vậy, linh mục không được phép đòi người xin lễ số tiền cao hơn mức qui định này, và không được gây cho ai ngộ nhận là xin lễ với bổng lễ to thì được ích lợi thiêng liêng nhiều hơn lễ với bổng lễ nhỏ hay không có bổng lễ.Tuy nhiên, nếu giáo dân tự ý đưa số tiền cao hơn mức qui định trên thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì.
Nhưng số tiền xin lễ nhiều hay ít không ảnh hưởng gì đến việc Chúa ban ơn qua thánh lễ. Nghĩa là xin một lễ với bổng lễ 500 đô hay 5 đô la thì chỉ có giá trị vật chất cho linh mục cử hành thánh lễ chứ không có giá trị gì trong việc Chúa ban ơn cho người thụ hưởng vì ơn Chúa là vô giá, nghĩa là không thể mua được bằng tiền của vật chất.
Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai lầm tưởng rằng bỏ nhiều tiền ra xin lễ thì chắc sẽ được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là ít hay không có tiền. (không có bổng lễ, linh mục vẫn làm lễ theo ý người xin).
Tiền dâng cúng cho các cơ quan từ thiện hay cho nhà thờ, nhà dòng là việc bác ái không mong hoàn trả, nên khác với tiền xin lễ. Nói rõ hơn, tiền dâng cúng để giúp cho công cuộc xây cất hay tu bổ của các nhà dòng, nhà thờ… thì được hiểu là tiền cho không để giúp những công việc đó.Dĩ nhiên Chúa sẽ trả công cho những ai có lòng hảo tâm giúp đỡ các công tác từ thiện này. Ngược lại, tiền xin lễ là bổng lễ dâng theo qui định của Giáo quyền để trả công tượng trưng cho thừa tác viên cử hành thánh lễ được hưởng trong tinh thần Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ xưa : “…người ta cho ăn uống thức gì thì anh em hãy dùng thức đó vì làm thợ thì đáng trả công.” (Lc 10:7) . Thánh Phaolô cũng dạy : “ Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao ? Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.”( 1Cr 9:13-14).
Như vậy, không thể so sánh hay coi số tiền dâng cúng vào nhà dòng, chủng viện hay nhà thờ như tiền xin lễ được ví lý do phân tích trên đây.
LM . Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
MA CHÊ CƯỚI TRÁCH
Ma Chê Cưới Trách. Vâng, đó là câu nói trong dân gian mà cũng là câu chuyện bình thường khó tránh nghe nói tới mỗi khi trong gia đình, người thân, bạn bè gặp hữu sự.
Dù không dám “Vẽ rắn thêm chân” nhưng cũng không thể im lặng đứng nhìn những sự việc xảy ra trước mắt, vì thế, xin viết lên những suy tư gửi đến quí vị cùng đọc và tìm hiểu xem thế nào?
Tại đất nước Hoa Kỳ, một số Giáo Phận thiếu Linh Mục triều chăm sóc các Giáo Xứ, vì thế các Giám Mục địa phương thường liên lạc các nhà dòng để ký hợp đồng và giao cho nhà dòng đó bao nhiêu Giáo Xứ tùy theo nhu cầu Giáo Phận cần. Có 1 nhà dòng kia ở ngoài nước Hoa Kỳ đã ký được hợp đồng với 4 Giáo Phận chăm sóc 5 Giáo Xứ trong đất nước Hoa Kỳ.
Nhà dòng bài sai một Linh Mục đi chăm sóc một Giáo Xứ ở 1 Giáo Phận nọ. Khi mới đến Linh Mục này là Phó Xứ, sau mấy năm thì lên làm Chính Xứ, ở Giáo Xứ này được mười mấy năm, vị Linh Muc này lại được nhà dòng bài sai đi tới 1 Giáo Phận ở Tiểu Bang khác để chăm sóc 1 Giáo Xứ nữa, được 2 năm thì vị Linh Mục này xin về hưu.
Về hưu chưa được bao lâu thì Linh Mục này qua đời. May mắn lúc đó Cha Bề Trên của dòng đang có mặt tại giáo xứ, nên Tang Lễ của vị Linh Mục này được Cha Bề Trên tổ chức như sau:
4 ngày canh thức của các ban ngành đoàn thể và cá nhân, từ 8:00 sáng đến sau Thánh Lễ Cầu Hồn 7:00 tối.
Ngày thứ 5. Thánh Lễ Đồng Tế tiễn biệt, sau đó quan tài của vị Linh Mục này được đưa lên máy bay để đi tới 1 Giáo Xứ ở Tiểu Bang khác, nơi mà vị Linh Mục này đã chăm sóc mười mấy năm.
Chương trình Canh Thức của các ban ngành đoàn thể và cá nhân cũng được Giáo Xứ này tổ chức như sau:
2 ngày từ 7:30 tối đến 9:00 tối.
Ngày thứ 3, từ 7:00 sáng đến 9:00 tối.
Ngày thứ 4, từ 7:00 đến 10:00 sáng.
11:00 sáng cùng ngày là Thánh Lễ Đồng Tế tiễn biệt.
Tiếp đến, quan tài của vị Linh Mục này được đưa lên máy bay ra ngoài nước Hoa Kỳ để về nhà Dòng thăm viếng và cầu nguyện.
1 ngày từ 8:00 tối đến 10:00 tối.
Ngày hôm sau, Thánh Lễ An Táng được cử hành vào lúc 11:00 sáng và sau cùng Linh Mục được an nghỉ tại Đất Thánh với Anh Em dòng.
Không biết đây có phải là truyền thống của nhà dòng này, mỗi khi có 1 Linh Mục đi chăm sóc các Giáo Xứ mà qua đời thì được mang xác đi tới những Giáo Xứ đó để giáo dân thăm viếng và cầu nguyện không?
Nếu đúng như vậy, trong tương lai, có thể sẽ có những vị Linh Mục của nhà dòng này, khi qua đời sẽ được mang xác đi tới 5 Giáo Xứ của 4 Giáo Phận, thuộc 3 Tiểu Bang trên đất nước Hoa Kỳ, và các Giáo Xứ ở ngoài nước Hoa Kỳ, như vậy, phải hơn 1 tháng viếng xác.
Không biết từ xưa tới nay đã có được một Đức Thánh Cha, Hồng Y, Giám Mục, các Bề Trên, Linh Mục dòng hoặc các Linh Mục triều nào khi còn sống mà được bài sai đi chăm sóc các Giáo Xứ, khi qua đời, xác được đem tới các Giáo Xứ đó để giáo dân thăm viếng cầu nguyện không? hay tất cả các Giáo Xứ khi biết tin vị Linh Mục qua đời chỉ tưởng nhớ, cầu nguyện ngay cho vị Linh Mục đó trong các Thánh Lễ Cầu Hồn.
Đặc Biệt: Dù biết quan tài của vị Linh Mục này sẽ được mang về nước và chôn cất tại Đất Thánh của Dòng, nhưng cũng có vài Linh Mục mua vé máy bay từ nhà dòng đi tới 2 Tiểu Bang trên đất Hoa Kỳ để cùng chia buồn với giáo dân. Ôi thật quí hóa tình nghĩa Anh Em Linh Mục. Còn phúng điếu thì Cha Bề Trên thông báo không nhận vòng hoa. Nhưng nhận hiện kim, để dùng cho việc nuôi dưỡng ơn gọi, cũng như mua máy lạnh mới cho 1 Giáo Xứ.
Giáo Xứ nào ở Mỹ mà may mắn thế, được Cha Bề Trên này lấy TIỀN phúng điếu tặng cho Giáo Xứ mua máy lạnh mới? Hay tại vì Cha Xứ, Cha Phó, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh đã dấu diếm những gì trong quá khứ để bây giờ Cha Bề Trên phải ra tay cứu giúp? Hay Cha Bề Trên có ẩn ý gì đây? Chỉ có Chúa và các Ngài mới biết.
Xin Cha Bề Trên và các Linh Mục của nhà dòng này đọc lại bài giảng ngày 11-1-2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô phê bình Linh Mục kinh tài, Linh Mục phô trương. http://vi.radiovaticana.va/news/2014/01/11/%C4%91%E1%BB%A9c_th%C3%A1nh_cha_ph%C3%AA_b%C3%ACnh_linh_m%E1%BB%A5c_kinh_t%C3%A0i%2c_linh_m%E1%BB%A5c_ph%C3%B4_tr%C6%B0%C6%A1ng/vie-763139
Trong các Giáo Xứ, có những người biết rất rõ sự thật của 1 số Linh Mục làm những việc sai trái, nhưng ngậm miệng, nhắm mắt, gật đầu làm ngơ, đôi khi lại còn phán "Chỉ có Chúa mới có quyền phán xét các Linh Mục, còn loài người chúng ta, không ai được xúc phạm đến các Linh Mục", nếu có ai viết hoặc nói ra những sự thật đó, thì luôn luôn được buộc cho 1 câu rất ư là dễ thương: "MA QUỈ NÓ XÚI DỤC".
Ánh Sáng Sự Thật
Ma Chê Cưới Trách. Vâng, đó là câu nói trong dân gian mà cũng là câu chuyện bình thường khó tránh nghe nói tới mỗi khi trong gia đình, người thân, bạn bè gặp hữu sự.
Dù không dám “Vẽ rắn thêm chân” nhưng cũng không thể im lặng đứng nhìn những sự việc xảy ra trước mắt, vì thế, xin viết lên những suy tư gửi đến quí vị cùng đọc và tìm hiểu xem thế nào?
Tại đất nước Hoa Kỳ, một số Giáo Phận thiếu Linh Mục triều chăm sóc các Giáo Xứ, vì thế các Giám Mục địa phương thường liên lạc các nhà dòng để ký hợp đồng và giao cho nhà dòng đó bao nhiêu Giáo Xứ tùy theo nhu cầu Giáo Phận cần. Có 1 nhà dòng kia ở ngoài nước Hoa Kỳ đã ký được hợp đồng với 4 Giáo Phận chăm sóc 5 Giáo Xứ trong đất nước Hoa Kỳ.
Nhà dòng bài sai một Linh Mục đi chăm sóc một Giáo Xứ ở 1 Giáo Phận nọ. Khi mới đến Linh Mục này là Phó Xứ, sau mấy năm thì lên làm Chính Xứ, ở Giáo Xứ này được mười mấy năm, vị Linh Muc này lại được nhà dòng bài sai đi tới 1 Giáo Phận ở Tiểu Bang khác để chăm sóc 1 Giáo Xứ nữa, được 2 năm thì vị Linh Mục này xin về hưu.
Về hưu chưa được bao lâu thì Linh Mục này qua đời. May mắn lúc đó Cha Bề Trên của dòng đang có mặt tại giáo xứ, nên Tang Lễ của vị Linh Mục này được Cha Bề Trên tổ chức như sau:
4 ngày canh thức của các ban ngành đoàn thể và cá nhân, từ 8:00 sáng đến sau Thánh Lễ Cầu Hồn 7:00 tối.
Ngày thứ 5. Thánh Lễ Đồng Tế tiễn biệt, sau đó quan tài của vị Linh Mục này được đưa lên máy bay để đi tới 1 Giáo Xứ ở Tiểu Bang khác, nơi mà vị Linh Mục này đã chăm sóc mười mấy năm.
Chương trình Canh Thức của các ban ngành đoàn thể và cá nhân cũng được Giáo Xứ này tổ chức như sau:
2 ngày từ 7:30 tối đến 9:00 tối.
Ngày thứ 3, từ 7:00 sáng đến 9:00 tối.
Ngày thứ 4, từ 7:00 đến 10:00 sáng.
11:00 sáng cùng ngày là Thánh Lễ Đồng Tế tiễn biệt.
Tiếp đến, quan tài của vị Linh Mục này được đưa lên máy bay ra ngoài nước Hoa Kỳ để về nhà Dòng thăm viếng và cầu nguyện.
1 ngày từ 8:00 tối đến 10:00 tối.
Ngày hôm sau, Thánh Lễ An Táng được cử hành vào lúc 11:00 sáng và sau cùng Linh Mục được an nghỉ tại Đất Thánh với Anh Em dòng.
Không biết đây có phải là truyền thống của nhà dòng này, mỗi khi có 1 Linh Mục đi chăm sóc các Giáo Xứ mà qua đời thì được mang xác đi tới những Giáo Xứ đó để giáo dân thăm viếng và cầu nguyện không?
Nếu đúng như vậy, trong tương lai, có thể sẽ có những vị Linh Mục của nhà dòng này, khi qua đời sẽ được mang xác đi tới 5 Giáo Xứ của 4 Giáo Phận, thuộc 3 Tiểu Bang trên đất nước Hoa Kỳ, và các Giáo Xứ ở ngoài nước Hoa Kỳ, như vậy, phải hơn 1 tháng viếng xác.
Không biết từ xưa tới nay đã có được một Đức Thánh Cha, Hồng Y, Giám Mục, các Bề Trên, Linh Mục dòng hoặc các Linh Mục triều nào khi còn sống mà được bài sai đi chăm sóc các Giáo Xứ, khi qua đời, xác được đem tới các Giáo Xứ đó để giáo dân thăm viếng cầu nguyện không? hay tất cả các Giáo Xứ khi biết tin vị Linh Mục qua đời chỉ tưởng nhớ, cầu nguyện ngay cho vị Linh Mục đó trong các Thánh Lễ Cầu Hồn.
Đặc Biệt: Dù biết quan tài của vị Linh Mục này sẽ được mang về nước và chôn cất tại Đất Thánh của Dòng, nhưng cũng có vài Linh Mục mua vé máy bay từ nhà dòng đi tới 2 Tiểu Bang trên đất Hoa Kỳ để cùng chia buồn với giáo dân. Ôi thật quí hóa tình nghĩa Anh Em Linh Mục. Còn phúng điếu thì Cha Bề Trên thông báo không nhận vòng hoa. Nhưng nhận hiện kim, để dùng cho việc nuôi dưỡng ơn gọi, cũng như mua máy lạnh mới cho 1 Giáo Xứ.
Giáo Xứ nào ở Mỹ mà may mắn thế, được Cha Bề Trên này lấy TIỀN phúng điếu tặng cho Giáo Xứ mua máy lạnh mới? Hay tại vì Cha Xứ, Cha Phó, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh đã dấu diếm những gì trong quá khứ để bây giờ Cha Bề Trên phải ra tay cứu giúp? Hay Cha Bề Trên có ẩn ý gì đây? Chỉ có Chúa và các Ngài mới biết.
Xin Cha Bề Trên và các Linh Mục của nhà dòng này đọc lại bài giảng ngày 11-1-2014 của Đức Thánh Cha Phanxicô phê bình Linh Mục kinh tài, Linh Mục phô trương. http://vi.radiovaticana.va/news/2014/01/11/%C4%91%E1%BB%A9c_th%C3%A1nh_cha_ph%C3%AA_b%C3%ACnh_linh_m%E1%BB%A5c_kinh_t%C3%A0i%2c_linh_m%E1%BB%A5c_ph%C3%B4_tr%C6%B0%C6%A1ng/vie-763139
Trong các Giáo Xứ, có những người biết rất rõ sự thật của 1 số Linh Mục làm những việc sai trái, nhưng ngậm miệng, nhắm mắt, gật đầu làm ngơ, đôi khi lại còn phán "Chỉ có Chúa mới có quyền phán xét các Linh Mục, còn loài người chúng ta, không ai được xúc phạm đến các Linh Mục", nếu có ai viết hoặc nói ra những sự thật đó, thì luôn luôn được buộc cho 1 câu rất ư là dễ thương: "MA QUỈ NÓ XÚI DỤC".
Ánh Sáng Sự Thật
GIÁ TRỊ THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH LỄ MISA
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Hỏi : Xin cha giải thích thắc mắc sau đây:
1- xin lễ với giá tiền cao và có nhiều cha đồng tế thì có lợi ích thế nào so với lễ Chỉ có một linh mục làm và người xin chỉ có ít tiền xin lễ ?
2- linh mục có được phép đi làm quảng cáo thương mại cho ai , và có nên xưng “con” với mọi người ở nơi công cộng hay không ?
Trả lời :
1- Về câu hỏi thứ nhất, xin được trả lời như sau:
Như tôi đã có đôi lần viết về vấn đề này , nhưng nay xin được nói lại một lần nữa về lợi ích thiêng liêng của Thánh Lễ Tạ Ơn ( Eucharist) hay Lễ Misa (Missa ).
Thánh lễ này được dâng trên bàn thờ ở khắp mọi nơi trong Giáo Hội ngày nay để diễn lại cách bí tích Bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với Nhóm Mười Hai Tông Đồ và Hy tế đền tội mà Chúa dâng lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa để một lần đền tội thay cho toàn thể nhận loại khỏi phải phạt và chết đời đời vì tội.
Vì thế, Thánh Lễ Tạ Ơn hay Thánh Lễ Misa là đỉnh cao của đời sống Giáo Hội và của toàn thể Dân Chúa đang hiệp thông với Giáo Hội, vì Thánh Lễ là nguồn ban phát ơn Cứu Độ của Chúa Kitô cho chúng ta ngày nay cùng thể thức và mục đích của Hy Tế thập giá mà Chúa Kitô đã dâng lên Chúa Cha trên đồi Calvary xưa kia; đúng như Giáo Hội đã dạy trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, là “ mỗi lần hy tế thập giá được dâng trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế ( 1 Cor 5:7) thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” ( LG số 3)
Nghĩa là qua Thánh Lễ , chúng ta hiệp thông cùng Giáo Hội dâng lời cảm tạ Chúa Cha cùng với Chúa Kitô và được lãnh nhận ơn cứu chuộc của Chúa một lần nữa lại tái diễn và ban phát cho ta ngày nay mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành ở khắp nơi trong Giáo Hội. Vì mục đích cao trọng này của Thánh Lễ nói chung, nên không có sự khác biệt nào giữa Thánh Lễ do một linh mục tầm thường cử hành , hay do Giám mục và cả Đức Thánh Cha cử hành cũng vậy, vì các vị này chỉ là thừa tác viên ( ministers) khi dâng Thánh Lễ nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christ).Nghĩa là chính Chúa Kitô cử hành Thánh Lễ hay ban phát bất cứ bí tích nào qua tay thừa tác viên con người là Linh mục, Giáo mục hay Đức Thánh Cha.
Vì thế, không hề có sự khác biệt nào về mục đích và ơn ích thiêng liêng của Thánh Lễ do một linh mục cử hành hay do chính Đức Thánh Cha dâng trên bàn thờ như đã nói ở trên. Nói rõ hơn, dù Thánh Lễ chỉ có một linh mục tầm thường cử hành hay có giám mục và nhiều linh mục đồng tế thì cũng không có gì khác biệt về mục đích và ân sủng của Thánh Lễ. Phải nói lại điều này để đừng ai lầm tưởng rằng Thánh Lễ có nhiều linh mục đồng tế thì có giá trị thiêng liêng hơn Thánh Lễ chỉ có một linh mục cử hành.
Liên quan đến vấn đền vấn đề bổng lễ ( mass stipends) tức là số tiền người xin lễ bỏ ra để xin một hay nhiều lễ cầu cho ai, thì cần thiết phải nói lại rằng : tiền xin lễ chỉ có mục đích trả thù lao cho linh mục cử hành, theo qui định của Giáo quyền địa phương và theo giáo luật.Thí dụ ở Mỹ, số tiền này được ấn định là 5 hay 10 đôla tùy mỗi giáo phận. Số tiền này chỉ có mục đích đãi ngộ cho linh mục cử hành Thánh Lễ theo tinh thần lời dạy sau đây của Thánh Phaolô :
“ anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao?. Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.” ( 1 Cor 9: 13-14)
Nghĩa là linh mục được quyền hưởng bổng lễ của người xin lễ theo qui định của giáo quyền địa phương.
Nhưng nếu giáo dân nghèo túng, không có tiền xin lễ, thì linh mục vẫn được khuyến cáo dâng lễ cho họ ( giáo luật số 945 & 2) nghĩa là không được từ chối dâng lễ chỉ vì người xin không có tiền dâng cúng.
Một điều quan trọng nữa cần nói lại là linh mục không được phép đòi hỏi người xin lễ dâng số tiền cao hơn mức qui định của giáo quyền địa phương. Đòi tiền nhiều mới chịu dâng lễ là phạm tội mại thánh ( simony) cần phải tránh.
Mặt khác, cũng cần phải nói lại ở đây một lần nữa là số tiền người xin lễ dâng cúng dù to hay nhỏ, dù chỉ có 5 đô hay 500 đô do hảo tâm của người xin lễ bỏ ra, thì cũng không hề có ảnh hưởng gì đến việc Chúa ban ơn thánh của Ngài cho ai được hưởng ý lễ. Nghĩa là ơn thánh của Chúa không thể mua được bằng tiền bạc và Thánh Lễ là vô giá ( invaluable) vì không thể mua hay đổi trác được bằng bất cứ báu vật nào của con người.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai lầm tưởng rằng hễ bỏ ra nhiều tiền xin lễ, để được rao tên trong nhà thờ , được thắp thêm đèn nến và kéo chuông inh ỏi thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là chỉ có 5 đô xin lễ và linh mục âm thầm cử hành không ai biết đến. Số tiền nhiều hay ít chỉ có giá trị đãi ngộ cho một hay nhiều linh mục dâng và đồng tế Thánh Lễ chứ không có giá trị xin ơn thánh của Chúa ban cho người sống hay cho các linh hồn đã ly trần.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai phải áy náy khi không có nhiều tiền bỏ ra xin lễ, và có đông linh mục đồng tế, hay chỉ có ít tiền xin một lễ không ai biết đến.
Nếu người chết mà khi còn sống đã quyết tâm yêu mến Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa thì dù sau khi chết, không được linh mục nào dâng lễ hay đồng tế, và cho dù xác của mình không được phép mang vào trong nhà thờ như đã xảy ra ở một địa phương kía bên nhà, thì cũng không thiệt thòi gì về mặt thiêng liêng. Ngược lại, một người khi còn sống đã xa lìa hay hoàn toàn chối bỏ Chúa bằng chính đời sống của mình cho đến khi chết, thì dù tang lễ , hay lễ giỗ có cả Hồng Y, giám mục và hàng trăm linh mục đồng tế thì cũng vô ích mà thôi.Chắc chắn như vậy.
Tóm lại, ơn thánh Chúa ban cho ai là hoàn toàn do lòng nhân hậu và công bằng của Chúa chứ không hề dính dáng gì đến số tiền lớn nhỏ của người xin lễ. Và một thánh Lễ do một linh mục dâng cũng có giá trị như Thánh Lễ của Giám mục , Hồng Y hay chính Đức Thánh Cha, vì không phải cá nhân và phẩm chất của người cử hành mà là chính Chúa Kitô dâng lại hy tế thập giá và diễn lại Bữa Ăn sau hết của Người qua tay các thừa tác viên con người là linh mục, giám mục hay Đức Thánh Cha, cũng là giám mục trong chức năng ( competence) như mọi linh mục và giám mục khác. Cho nên, không thể nói là tham dự Thánh Lễ của giám mục, hay của Đức Thánh Cha thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là tham dự Lễ của một linh mục không tên tuổi. Xin nhớ kỹ điều này mỗi khi đi tham dự Thánh Lễ.
2- Về câu hỏi thứ 2 , xin được nói lại một lần nữa là linh mục của Chúa không thể kiêm thêm “nghề thương mại” để đi làm quảng cáo bán hàng cho một cơ sở thương mại nào; như một linh mục kia đã nằm dài trên chiếc ghế đấm bóp để quảng cáo cho công dụng của loại ghế này. Làm như vây là đã hạ giá vai trò và chức năng linh mục của mình, tự đồng hóa mình với những người buôn bán cạnh tranh trên thị trường thương mại, với những thủ đoạn lường gạt, xảo trá để mong bán hàng cho thật nhiều, bất kể hàng hóa của mình tốt hay xấu, cơ lợi hay làm hại người tiêu thụ.
Với chức năng ( competence) là linh mục, thì chỗ đứng và nơi trình diễn của mình phải là bàn thánh,( Altar) giảng đài ( pulpit) tòa giải tội (confessional) và giường bệnh nhân, chứ không thể là khán đài với micrô cầm tay để kể chuyện tếu, hay hát những bài ca ướt át để giúp vui trong các tiệc cưới hay hội họp công cộng, nhất là đi rao hàng cho người khác trên truyền thanh và truyền hình.
Linh mục của Chúa Kitô không bao giờ được phép làm những việc này của người đời, nếu muốn sống và hành xử đúng cương vị của mình là linh mục.
Một đều đáng nói nữa là linh mục, khi đứng trước công chúng, thì không đươc tự hạ mình (cách giả dối, không xứng hợp) khi xưng “con” với hết mọi người lớn nhỏ.
Mình không được phép xưng “ cha” với ai – trừ với mấy trẻ em , nhưng cũng không nên khiêm nhường giả tạo, lễ độ không đúng chỗ khi tự xưng “con” với hết mọi người trước công chúng.
Trong phạm vi riêng tư, như nói chuyện với mấy cụ già đáng tuổi cha mẹ mình thì linh mục có thể xưng “con” với họ theo văn hóa Viêt Nam. Nhưng trước công chúng, với nhiều thành phần nam nữ lớn nhỏ, và thuộc các tôn giáo khác nhau, thì xưng “ con” với mọi người là điều không chính đáng với tư cách là linh mục và cũng không phù hợp với lễ phép theo văn hóa Việt Nam. Xưng hô như thế vừa tự hạ giá mình không chính đáng mà còn gây khó nghe cho người khác, trong đó có nhiều người còn nhỏ tuổi hơn mình và không phải là tín hữu công giáo. Tại sao không xử dụng cách xưng hô bình thường và không có gì là thiếu lịch sự hay lễ độ như xưng “ tôi” hay “chúng tôi” với người nghe, mà phải hạ mình cách không thích hợp khi xưng “con” với hết mọi người như vậy ? Đức khiêm nhường ( humility) của Kitô giáo không đòi hỏi phải làm như vậy.
Vì ngôn ngữ Việt Nam đặc thù hơn mọi ngôn ngữ khác, nên cách xưng hô cũng cần áp dụng cho đúng nơi đúng chỗ. Nếu người trẻ mà xưng tao gọi mày với người lớn là vô lễ, là thiếu giáo dục , thì linh mục mà xưng “con” với cả những người trẻ tuổi hơn mình thì lại là điều chướng tai, gai mắt xét về mặt văn hóa và theo phép lịch sự thông thường.
Ước mong ai đang vô tình hay hữu ý xưng hô không thích hợp như trên cần sử lại cách xưng hô của mình trước công chúng để không làm phiền cho người nghe nói chung và cho người Công giáo nói riêng
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Hỏi : Xin cha giải thích thắc mắc sau đây:
1- xin lễ với giá tiền cao và có nhiều cha đồng tế thì có lợi ích thế nào so với lễ Chỉ có một linh mục làm và người xin chỉ có ít tiền xin lễ ?
2- linh mục có được phép đi làm quảng cáo thương mại cho ai , và có nên xưng “con” với mọi người ở nơi công cộng hay không ?
Trả lời :
1- Về câu hỏi thứ nhất, xin được trả lời như sau:
Như tôi đã có đôi lần viết về vấn đề này , nhưng nay xin được nói lại một lần nữa về lợi ích thiêng liêng của Thánh Lễ Tạ Ơn ( Eucharist) hay Lễ Misa (Missa ).
Thánh lễ này được dâng trên bàn thờ ở khắp mọi nơi trong Giáo Hội ngày nay để diễn lại cách bí tích Bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với Nhóm Mười Hai Tông Đồ và Hy tế đền tội mà Chúa dâng lên Chúa Cha trên thập giá năm xưa để một lần đền tội thay cho toàn thể nhận loại khỏi phải phạt và chết đời đời vì tội.
Vì thế, Thánh Lễ Tạ Ơn hay Thánh Lễ Misa là đỉnh cao của đời sống Giáo Hội và của toàn thể Dân Chúa đang hiệp thông với Giáo Hội, vì Thánh Lễ là nguồn ban phát ơn Cứu Độ của Chúa Kitô cho chúng ta ngày nay cùng thể thức và mục đích của Hy Tế thập giá mà Chúa Kitô đã dâng lên Chúa Cha trên đồi Calvary xưa kia; đúng như Giáo Hội đã dạy trong Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium, là “ mỗi lần hy tế thập giá được dâng trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế ( 1 Cor 5:7) thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện.” ( LG số 3)
Nghĩa là qua Thánh Lễ , chúng ta hiệp thông cùng Giáo Hội dâng lời cảm tạ Chúa Cha cùng với Chúa Kitô và được lãnh nhận ơn cứu chuộc của Chúa một lần nữa lại tái diễn và ban phát cho ta ngày nay mỗi khi Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành ở khắp nơi trong Giáo Hội. Vì mục đích cao trọng này của Thánh Lễ nói chung, nên không có sự khác biệt nào giữa Thánh Lễ do một linh mục tầm thường cử hành , hay do Giám mục và cả Đức Thánh Cha cử hành cũng vậy, vì các vị này chỉ là thừa tác viên ( ministers) khi dâng Thánh Lễ nhân danh Chúa Kitô ( in persona Christ).Nghĩa là chính Chúa Kitô cử hành Thánh Lễ hay ban phát bất cứ bí tích nào qua tay thừa tác viên con người là Linh mục, Giáo mục hay Đức Thánh Cha.
Vì thế, không hề có sự khác biệt nào về mục đích và ơn ích thiêng liêng của Thánh Lễ do một linh mục cử hành hay do chính Đức Thánh Cha dâng trên bàn thờ như đã nói ở trên. Nói rõ hơn, dù Thánh Lễ chỉ có một linh mục tầm thường cử hành hay có giám mục và nhiều linh mục đồng tế thì cũng không có gì khác biệt về mục đích và ân sủng của Thánh Lễ. Phải nói lại điều này để đừng ai lầm tưởng rằng Thánh Lễ có nhiều linh mục đồng tế thì có giá trị thiêng liêng hơn Thánh Lễ chỉ có một linh mục cử hành.
Liên quan đến vấn đền vấn đề bổng lễ ( mass stipends) tức là số tiền người xin lễ bỏ ra để xin một hay nhiều lễ cầu cho ai, thì cần thiết phải nói lại rằng : tiền xin lễ chỉ có mục đích trả thù lao cho linh mục cử hành, theo qui định của Giáo quyền địa phương và theo giáo luật.Thí dụ ở Mỹ, số tiền này được ấn định là 5 hay 10 đôla tùy mỗi giáo phận. Số tiền này chỉ có mục đích đãi ngộ cho linh mục cử hành Thánh Lễ theo tinh thần lời dạy sau đây của Thánh Phaolô :
“ anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao?. Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng.” ( 1 Cor 9: 13-14)
Nghĩa là linh mục được quyền hưởng bổng lễ của người xin lễ theo qui định của giáo quyền địa phương.
Nhưng nếu giáo dân nghèo túng, không có tiền xin lễ, thì linh mục vẫn được khuyến cáo dâng lễ cho họ ( giáo luật số 945 & 2) nghĩa là không được từ chối dâng lễ chỉ vì người xin không có tiền dâng cúng.
Một điều quan trọng nữa cần nói lại là linh mục không được phép đòi hỏi người xin lễ dâng số tiền cao hơn mức qui định của giáo quyền địa phương. Đòi tiền nhiều mới chịu dâng lễ là phạm tội mại thánh ( simony) cần phải tránh.
Mặt khác, cũng cần phải nói lại ở đây một lần nữa là số tiền người xin lễ dâng cúng dù to hay nhỏ, dù chỉ có 5 đô hay 500 đô do hảo tâm của người xin lễ bỏ ra, thì cũng không hề có ảnh hưởng gì đến việc Chúa ban ơn thánh của Ngài cho ai được hưởng ý lễ. Nghĩa là ơn thánh của Chúa không thể mua được bằng tiền bạc và Thánh Lễ là vô giá ( invaluable) vì không thể mua hay đổi trác được bằng bất cứ báu vật nào của con người.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai lầm tưởng rằng hễ bỏ ra nhiều tiền xin lễ, để được rao tên trong nhà thờ , được thắp thêm đèn nến và kéo chuông inh ỏi thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là chỉ có 5 đô xin lễ và linh mục âm thầm cử hành không ai biết đến. Số tiền nhiều hay ít chỉ có giá trị đãi ngộ cho một hay nhiều linh mục dâng và đồng tế Thánh Lễ chứ không có giá trị xin ơn thánh của Chúa ban cho người sống hay cho các linh hồn đã ly trần.Xin nhớ kỹ điều này để đừng ai phải áy náy khi không có nhiều tiền bỏ ra xin lễ, và có đông linh mục đồng tế, hay chỉ có ít tiền xin một lễ không ai biết đến.
Nếu người chết mà khi còn sống đã quyết tâm yêu mến Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa thì dù sau khi chết, không được linh mục nào dâng lễ hay đồng tế, và cho dù xác của mình không được phép mang vào trong nhà thờ như đã xảy ra ở một địa phương kía bên nhà, thì cũng không thiệt thòi gì về mặt thiêng liêng. Ngược lại, một người khi còn sống đã xa lìa hay hoàn toàn chối bỏ Chúa bằng chính đời sống của mình cho đến khi chết, thì dù tang lễ , hay lễ giỗ có cả Hồng Y, giám mục và hàng trăm linh mục đồng tế thì cũng vô ích mà thôi.Chắc chắn như vậy.
Tóm lại, ơn thánh Chúa ban cho ai là hoàn toàn do lòng nhân hậu và công bằng của Chúa chứ không hề dính dáng gì đến số tiền lớn nhỏ của người xin lễ. Và một thánh Lễ do một linh mục dâng cũng có giá trị như Thánh Lễ của Giám mục , Hồng Y hay chính Đức Thánh Cha, vì không phải cá nhân và phẩm chất của người cử hành mà là chính Chúa Kitô dâng lại hy tế thập giá và diễn lại Bữa Ăn sau hết của Người qua tay các thừa tác viên con người là linh mục, giám mục hay Đức Thánh Cha, cũng là giám mục trong chức năng ( competence) như mọi linh mục và giám mục khác. Cho nên, không thể nói là tham dự Thánh Lễ của giám mục, hay của Đức Thánh Cha thì được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn là tham dự Lễ của một linh mục không tên tuổi. Xin nhớ kỹ điều này mỗi khi đi tham dự Thánh Lễ.
2- Về câu hỏi thứ 2 , xin được nói lại một lần nữa là linh mục của Chúa không thể kiêm thêm “nghề thương mại” để đi làm quảng cáo bán hàng cho một cơ sở thương mại nào; như một linh mục kia đã nằm dài trên chiếc ghế đấm bóp để quảng cáo cho công dụng của loại ghế này. Làm như vây là đã hạ giá vai trò và chức năng linh mục của mình, tự đồng hóa mình với những người buôn bán cạnh tranh trên thị trường thương mại, với những thủ đoạn lường gạt, xảo trá để mong bán hàng cho thật nhiều, bất kể hàng hóa của mình tốt hay xấu, cơ lợi hay làm hại người tiêu thụ.
Với chức năng ( competence) là linh mục, thì chỗ đứng và nơi trình diễn của mình phải là bàn thánh,( Altar) giảng đài ( pulpit) tòa giải tội (confessional) và giường bệnh nhân, chứ không thể là khán đài với micrô cầm tay để kể chuyện tếu, hay hát những bài ca ướt át để giúp vui trong các tiệc cưới hay hội họp công cộng, nhất là đi rao hàng cho người khác trên truyền thanh và truyền hình.
Linh mục của Chúa Kitô không bao giờ được phép làm những việc này của người đời, nếu muốn sống và hành xử đúng cương vị của mình là linh mục.
Một đều đáng nói nữa là linh mục, khi đứng trước công chúng, thì không đươc tự hạ mình (cách giả dối, không xứng hợp) khi xưng “con” với hết mọi người lớn nhỏ.
Mình không được phép xưng “ cha” với ai – trừ với mấy trẻ em , nhưng cũng không nên khiêm nhường giả tạo, lễ độ không đúng chỗ khi tự xưng “con” với hết mọi người trước công chúng.
Trong phạm vi riêng tư, như nói chuyện với mấy cụ già đáng tuổi cha mẹ mình thì linh mục có thể xưng “con” với họ theo văn hóa Viêt Nam. Nhưng trước công chúng, với nhiều thành phần nam nữ lớn nhỏ, và thuộc các tôn giáo khác nhau, thì xưng “ con” với mọi người là điều không chính đáng với tư cách là linh mục và cũng không phù hợp với lễ phép theo văn hóa Việt Nam. Xưng hô như thế vừa tự hạ giá mình không chính đáng mà còn gây khó nghe cho người khác, trong đó có nhiều người còn nhỏ tuổi hơn mình và không phải là tín hữu công giáo. Tại sao không xử dụng cách xưng hô bình thường và không có gì là thiếu lịch sự hay lễ độ như xưng “ tôi” hay “chúng tôi” với người nghe, mà phải hạ mình cách không thích hợp khi xưng “con” với hết mọi người như vậy ? Đức khiêm nhường ( humility) của Kitô giáo không đòi hỏi phải làm như vậy.
Vì ngôn ngữ Việt Nam đặc thù hơn mọi ngôn ngữ khác, nên cách xưng hô cũng cần áp dụng cho đúng nơi đúng chỗ. Nếu người trẻ mà xưng tao gọi mày với người lớn là vô lễ, là thiếu giáo dục , thì linh mục mà xưng “con” với cả những người trẻ tuổi hơn mình thì lại là điều chướng tai, gai mắt xét về mặt văn hóa và theo phép lịch sự thông thường.
Ước mong ai đang vô tình hay hữu ý xưng hô không thích hợp như trên cần sử lại cách xưng hô của mình trước công chúng để không làm phiền cho người nghe nói chung và cho người Công giáo nói riêng
TẠI SAO PHẢI THỰC SỰ KHÓ NGHÈO VÀ CÔNG BẰNG ĐỂ RAO GIẢNG CHÚA KITÔ MỘT CÁCH HỮU HIỆU CHO NGƯỜI KHÁC ?
Lm Phanxicô Xaviê NGÔ TÔN HUẤN
Đức Thánh Cha Phanxicô quả thực là người đã sống và rao giảng cách thuyết phục tinh thần khó nghèo của Phúc Âm nói chung và của Thánh Phanxicô khó khăn thành Assisi cách riêng.
Đây là môt gương sáng chói cho mọi người trong Giáo Hội noi theo để Giáo Hội của Chuá Kitô không chỉ rao giảng mà thực sự phải sống tinh thần khó nghèo của Chúa “Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà cho anh em trở nên giầu có” (2 Cr 8:9).
Nhưng nghèo khó ở đây không có nghĩa là phải đói rách, vô gia cư về mặt thể lý, mà cốt yếu là phải thực sự khinh chê của cải, tiền bạc và xa hoa vật chất cùng danh vọng phù phiếm ở đời này. Phải khinh chê để không chạy theo và làm nô lệ cho của cải, và tiền bạc, khiến sao nhãng việc trọng yếu hơn là rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô và sống điều mình rao giảng để trở nên nhân chứng đích thực cho Chúa và nhiên hậu thuyết phục được người khác tin và sống điều mình rao giảng cho họ.
Phải nói lại điều này một lần nữa, vì thực trạng sống của hàng giáo sĩ ở trong và ngoài nước quả có mâu thuẫn với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, của Chúa Kitô, Đấng thực sự khó nghèo đến nỗi “không có chỗ dựa đầu, trong khi chim trời có tổ và con chồn có hang” (Mt 8:20).
Ai dám nói là Chúa đã đóng kịch khó nghèo, hay dạy ta điều không thể thực hiện được?
Nếu không, quả thật Chúa đã đích thực sống khó nghèo ngay từ khi sinh ra trong chuồng bò, lớn lên sống lang thang như người vô gia cư, và chết trần trụi trên thập giá để “hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20:28) được cứu độ để sống hạnh phúc, giầu sang phú quí với Chúa trên Nước Trời mai sau.
Như vậy, rao giảng Chúa cho người khác thì không thể bỏ quên nét đặc thù này trong đời sống của Chúa Kitô. Nghĩa là không phải chỉ nói suông, giảng mơ hồ về lý thuyết mà quan trọng là phải thực sự sống cái tinh thần khó nghèo của Chúa từ trong tâm hồn ra đến đời sống bên ngoài, thì lời giảng dạy của mình mới có sức thuyệt phục người nghe. Nói khác đi, là linh mục, nếu không sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô để ham mê tiền của, chỉ muốn đi đến các xứ giầu có để kiếm tiền, làm thân với người giầu để trục lợi cá nhân, chê lễ có bổng lễ (mass stipend) thấp, hay không có bổng lễ , để chỉ nhận làm lễ có bổng lễ cao… thì làm sao nói được là sống “cái nghèo” của Chúa Kitô? Và như thế, lời giảng dạy của mình về đức khó nghèo sẽ thuyết phục được ai nghe nữa?
Liên quan việc này, phải nói thêm về thực trạng chỉ có ở bên nhà (Việt Nam).
Đó là các linh mục không được trả lương, khiến ít ai muốn đến phục vụ cho những xứ nghèo và ở xa xôi nơi miền quê. Ai cũng muốn đến những xứ giầu có ở thành thị để có được nhiều bổng lộc. Đây là một tệ trạng, bất công gây ra bởi giáo quyền từ bao đời nay đã không quan tâm giải quyết cách thỏa đáng vấn đề này để các linh mục được an tâm phục vụ, không bị chi phối với nhu cầu vật chất thiết thực như có của nuôi thân, có phương tiện chữa bệnh khi đau yếu, có chỗ an dưỡng khi về hưu. Câu ngạn ngữ “có thực mới vực được đạo” rất chính xác áp dụng vào trường hợp này.
Nếu cứ để tình trạng hiện này kéo dài thì chính giáo quyền đã và đang là nguyên nhân khiến cho một số linh mục phải bon chen tìm về những xứ giầu, chê xứ nghèo không có nguồn lợi vật chất. Đây là thực trạng phải nhìn nhận để giải quyết, chứ không phải là điều tưởng tượng nhằm phê phán.
Tại sao không thể làm được như các giáo hội Âu Mỹ là trả lương tối thiểu đồng đều cho các linh mục đi coi xứ hay làm việc trong giáo phận, còn tài sản của giáo xứ thì thuộc quyền quản trị của giáo xứ? Nếu giáo xứ không đủ khả năng trả lương theo qui định của giáo quyền địa phương thì địa phận liên hệ phải trả lương cho linh mục phục vụ ở các xứ nghèo, thiếu thốn kia. Có làm được việc này thì mới giải quyết được bất công trong việc bổ nhiệm linh mục đi phục vụ ở các xứ đạo trong toàn địa phận. Nói khác đi, nếu cứ duy trì tình trạng hiện nay thì tệ trạng sẽ vẫn tiếp diễn, nếu giáo xứ giầu thì cha xứ giầu, xứ nghèo thì cha xứ không có những phương tiện sống tối thiểu, khiến cứ phải chạy đi đâu đó để kiếm tiền, và sao lãng bổn phận thiêng liêng là rao giảng Tin Mừng và làm nhân chứng cho Chúa Kitô, “Đấng đến không phải để được người ta phục vu, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20:28).
Phải chăng vì thế mà cho đến nay, vẫn còn nhiều linh muc và tu sĩ nam nữ thi nhau ra nước ngoài kiếm tiền cho những nhu cầu dường như bất tận ở bên nhà?
Mặc dù ở Mỹ người ta đã cấm xin tiền từ lâu rồi, nhưng ở những nơi có đông người Công giáo Việt Nam như Houston, Dallas, New Orleans và California, mỗi Chúa Nhật, người ta vẫn thấy có các cha, các nữ tu đến gặp giáo dân ngoài cửa nhà thờ hay đi đến các tư gia để xin tiền!
Nhưng thử hỏi: tiền xin được đem về có ai biết được là bao nhiêu và dùng vào việc gì hay không? Lại nữa, nếu người này đi và xin được nhiều tiền, thì sẽ lôi kéo người khác đi theo, và tình trạng này sẽ không bao giờ chấm dứt được chỉ vì hấp lực của đồng tiền, gây trở ngại lớn lao cho người tông đồ lớn nhỏ sống và thực thi tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô. Đây là thực tế không thể chối cãi hay biện minh cách nào khác cho hợp lý được.
Chưa hết, còn tệ trạng này nữa: thông thường trong Giáo Hội, linh mục hay tu sĩ chỉ nên ghi nhớ kỷ niệm thụ phong hay khấn Dòng của mình được 25 năm (ngân khánh) hay 50 năm (kim khánh) mà thôi. Chứ không bao giờ năm nào cũng kỷ niệm, hay cứ 10 năm, 15 năm, 35 năm, 40 năm lại mừng kỷ niệm để mời nhiều khách đến ăn ở nhà hàng hầu kiếm lợi cho mình và làm phiền cho nhiều người khác. Phải nói là làm phiền vì lâu lâu lại được mời đi dự kỷ niệm thụ phong, 25 năm, 35 năm, 40 năm và sẽ 45 năm… của ai mà không biết ngượng, khi cứ mời mãi mọi người quen biết đến dự kỷ niệm thụ phong của mình. Muốn mừng nhiều lần như vậy thì sao không âm thầm mừng riêng trong gia đình mình thôi, mà lại phải ồn ào mời khách đến nhà hàng để họ phải mừng tiền cho mình làm giầu như vậy thì làm sao sống được “cái nghèo” của Chúa Kitô?
Dù sống ở Mỹ, Canada hay Úc châu, đời sống của giáo dân không phải ai ai cũng có dư tiền của để chi phí xã giao hay làm việc bác ái. Có nhiều gia đình đã than là mỗi tuần nhận được 3, 4 thiệp cưới nên không thể đi dự hết được. Dầu vậy vẫn phải gửi tiền mừng. Nếu mỗi tuần nhận được 2 thiệp cưới lại thêm thiệp mừng 35 năm, 40, 45 năm của linh mục nào nữa thì ngân sách gia đình có lợi tức thấp làm sao cung ứng cho đủ??? Mà nếu cứ phải đi mừng thì người ta có vui để làm việc này hay không? Vậy, hãy đặt mình vào trường hợp đa số người có lợi tức thấp, hay những ông bà già sống bằng tiền già hay trợ cấp SSI, thì mời họ đi dự tiệc của mình nhiều lần như vậy có phải là việc xã giao bác ái phải làm, hay chỉ là lợi dụng lòng tốt của người ta để kiếm lợi cho mình???
Thử hỏi với số khách mời trên dưới 1.000 người và ăn ở nhà hàng sang trọng thì lợi tức thu về sẽ là bao nhiêu, và người tổ chức dùng số tiền khổng lồ này vào việc gì cho xứng đáng và phù hợp với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm mà mình được mong đợi phải sống để làm gương và thuyết phục người khác tin điều mình rao giảng về đức khó nghèo cho họ.
Chúa nói: “Ai có tai nghe thì nghe” (Mt 13:43; Mc 7:16; Lc 8:8).
Chưa hết, ở bên Mỹ còn có tệ trạng này nữa là các linh mục, ở một vài nơi có đông giáo dân VN, thường đua nhau đi “đồng tế” cuối tuần trong các lễ cưới, lễ tang để nhận phong bì của gia chủ.
Đi đồng tế vì thân quen với gia đình có đám cưới hay tang lễ thì không nói làm gì. Nhưng đi “đồng tế” chỉ vì được mời cho có đông linh mục để gia chủ được hãnh diện với công đoàn giáo xứ thì đây là điều không nên làm. Không nên làm để tránh nhận phong bì của gia chủ, khiến cho mình khó sống tinh thần nghèo khó, vì linh mục ở Mỹ đều có lương của giáo xứ. Do đó, nếu mỗi cuối tuần kiếm thêm vài ba trăm nữa là điều không cần thiết cho nhu cầu của bản thân. Hơn nữa, còn làm cho các gia đình nghèo, không quen biết nhiều linh mục, buồn tủi vì lễ cưới hay lễ tang của gia đình họ không có nhiều cha đồng tế.
Liên quan việc này, tôi thấy cần phải nói lại một lần nữa là ơn Chúa ban xuống cho ai còn sống hay đã qua đời tuyệt đối không dính dáng gì đến việc có nhiều linh mục hay không có linh mục nào đồng tế.
Nếu sống mà không đi tìm Chúa, không yêu mến Chúa trên hết mọi sự, mà chỉ đi tìm những vui thú, lợi lãi tội lỗi ở đời này thì khi chết, dẫu có cả trăm linh mục, giám mục, hồng y dâng lễ và đồng tế, cũng là vô ích mà thôi.
Ngược lại, nếu đã thực tâm yêu mến Chúa và sống theo đường lối của Người thì khi chết, dẫu không có ai làm lễ an táng, hay không có linh mục nào đồng tế thì cũng không hề thiệt thòi gì về mặt thiêng liêng, vì đời sống của mình trên trần thế đã đủ để được Chúa đoái thương và ân thưởng phúc trường sinh. Đây là điều các linh mục phải dạy bảo cho giáo dân biết để không ai bị lừa dối chạy theo những vẻ hào nhoáng bề ngoài như đốt nhiều đèn nến trong nhà thờ, kéo chuông ầm ỹ và có nhiều linh mục đồng tế.
Chúa là tình thương và giầu lòng tha thứ. Tuy nhiên, con người cũng phải tỏ thiện chí muốn đáp lại tình thương của Chúa bằng quyết tâm từ bỏ ma quỉ và mọi quyến rũ của thế gian và ham muốn tội lỗi của xác thịt. Nếu cứ lấy cớ Chúa nhân từ để buông mình sống theo thế gian, gian tham lừa dối, thay chồng đổi vợ, nhất là làm sự dữ vô cùng khốn nạn và ghê sợ là hiếp dâm con gái mới 4, 5 tuổi, rồi bán chúng cho bọn buôn người vô nhân đạo; theo tin cho biết của một linh mục đang xả thân lo cho các trẻ em nạn nhân, Chúa cũng không thể cứu những người đó được, dù họ có bỏ ra bao nhiêu tiền xin lễ, mời đông linh mục đồng tế khi chết thì cũng vô ích mà thôi. Chắc chắn như vậy!
Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô sống trong thế giới tục hóa ngày nay, mọi người, từ hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, đều được mong đợi sống nhân chứng cho Chúa về tinh thần khó nghèo, về đức công bằng, thực thi bác ái, giầu lòng nhân đạo và trong sạch, để đẩy lui bóng đen của tội lỗi, gian ác và sự dữ vô luân, vô đạo đang lộng hành ở khắp nơi trong và ngoài nước hiện nay.
Lm Phanxicô Xaviê NGÔ TÔN HUẤN
Lm Phanxicô Xaviê NGÔ TÔN HUẤN
Đức Thánh Cha Phanxicô quả thực là người đã sống và rao giảng cách thuyết phục tinh thần khó nghèo của Phúc Âm nói chung và của Thánh Phanxicô khó khăn thành Assisi cách riêng.
Đây là môt gương sáng chói cho mọi người trong Giáo Hội noi theo để Giáo Hội của Chuá Kitô không chỉ rao giảng mà thực sự phải sống tinh thần khó nghèo của Chúa “Đấng vốn giầu sang phú quí, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà cho anh em trở nên giầu có” (2 Cr 8:9).
Nhưng nghèo khó ở đây không có nghĩa là phải đói rách, vô gia cư về mặt thể lý, mà cốt yếu là phải thực sự khinh chê của cải, tiền bạc và xa hoa vật chất cùng danh vọng phù phiếm ở đời này. Phải khinh chê để không chạy theo và làm nô lệ cho của cải, và tiền bạc, khiến sao nhãng việc trọng yếu hơn là rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô và sống điều mình rao giảng để trở nên nhân chứng đích thực cho Chúa và nhiên hậu thuyết phục được người khác tin và sống điều mình rao giảng cho họ.
Phải nói lại điều này một lần nữa, vì thực trạng sống của hàng giáo sĩ ở trong và ngoài nước quả có mâu thuẫn với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm, của Chúa Kitô, Đấng thực sự khó nghèo đến nỗi “không có chỗ dựa đầu, trong khi chim trời có tổ và con chồn có hang” (Mt 8:20).
Ai dám nói là Chúa đã đóng kịch khó nghèo, hay dạy ta điều không thể thực hiện được?
Nếu không, quả thật Chúa đã đích thực sống khó nghèo ngay từ khi sinh ra trong chuồng bò, lớn lên sống lang thang như người vô gia cư, và chết trần trụi trên thập giá để “hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20:28) được cứu độ để sống hạnh phúc, giầu sang phú quí với Chúa trên Nước Trời mai sau.
Như vậy, rao giảng Chúa cho người khác thì không thể bỏ quên nét đặc thù này trong đời sống của Chúa Kitô. Nghĩa là không phải chỉ nói suông, giảng mơ hồ về lý thuyết mà quan trọng là phải thực sự sống cái tinh thần khó nghèo của Chúa từ trong tâm hồn ra đến đời sống bên ngoài, thì lời giảng dạy của mình mới có sức thuyệt phục người nghe. Nói khác đi, là linh mục, nếu không sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô để ham mê tiền của, chỉ muốn đi đến các xứ giầu có để kiếm tiền, làm thân với người giầu để trục lợi cá nhân, chê lễ có bổng lễ (mass stipend) thấp, hay không có bổng lễ , để chỉ nhận làm lễ có bổng lễ cao… thì làm sao nói được là sống “cái nghèo” của Chúa Kitô? Và như thế, lời giảng dạy của mình về đức khó nghèo sẽ thuyết phục được ai nghe nữa?
Liên quan việc này, phải nói thêm về thực trạng chỉ có ở bên nhà (Việt Nam).
Đó là các linh mục không được trả lương, khiến ít ai muốn đến phục vụ cho những xứ nghèo và ở xa xôi nơi miền quê. Ai cũng muốn đến những xứ giầu có ở thành thị để có được nhiều bổng lộc. Đây là một tệ trạng, bất công gây ra bởi giáo quyền từ bao đời nay đã không quan tâm giải quyết cách thỏa đáng vấn đề này để các linh mục được an tâm phục vụ, không bị chi phối với nhu cầu vật chất thiết thực như có của nuôi thân, có phương tiện chữa bệnh khi đau yếu, có chỗ an dưỡng khi về hưu. Câu ngạn ngữ “có thực mới vực được đạo” rất chính xác áp dụng vào trường hợp này.
Nếu cứ để tình trạng hiện này kéo dài thì chính giáo quyền đã và đang là nguyên nhân khiến cho một số linh mục phải bon chen tìm về những xứ giầu, chê xứ nghèo không có nguồn lợi vật chất. Đây là thực trạng phải nhìn nhận để giải quyết, chứ không phải là điều tưởng tượng nhằm phê phán.
Tại sao không thể làm được như các giáo hội Âu Mỹ là trả lương tối thiểu đồng đều cho các linh mục đi coi xứ hay làm việc trong giáo phận, còn tài sản của giáo xứ thì thuộc quyền quản trị của giáo xứ? Nếu giáo xứ không đủ khả năng trả lương theo qui định của giáo quyền địa phương thì địa phận liên hệ phải trả lương cho linh mục phục vụ ở các xứ nghèo, thiếu thốn kia. Có làm được việc này thì mới giải quyết được bất công trong việc bổ nhiệm linh mục đi phục vụ ở các xứ đạo trong toàn địa phận. Nói khác đi, nếu cứ duy trì tình trạng hiện nay thì tệ trạng sẽ vẫn tiếp diễn, nếu giáo xứ giầu thì cha xứ giầu, xứ nghèo thì cha xứ không có những phương tiện sống tối thiểu, khiến cứ phải chạy đi đâu đó để kiếm tiền, và sao lãng bổn phận thiêng liêng là rao giảng Tin Mừng và làm nhân chứng cho Chúa Kitô, “Đấng đến không phải để được người ta phục vu, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20:28).
Phải chăng vì thế mà cho đến nay, vẫn còn nhiều linh muc và tu sĩ nam nữ thi nhau ra nước ngoài kiếm tiền cho những nhu cầu dường như bất tận ở bên nhà?
Mặc dù ở Mỹ người ta đã cấm xin tiền từ lâu rồi, nhưng ở những nơi có đông người Công giáo Việt Nam như Houston, Dallas, New Orleans và California, mỗi Chúa Nhật, người ta vẫn thấy có các cha, các nữ tu đến gặp giáo dân ngoài cửa nhà thờ hay đi đến các tư gia để xin tiền!
Nhưng thử hỏi: tiền xin được đem về có ai biết được là bao nhiêu và dùng vào việc gì hay không? Lại nữa, nếu người này đi và xin được nhiều tiền, thì sẽ lôi kéo người khác đi theo, và tình trạng này sẽ không bao giờ chấm dứt được chỉ vì hấp lực của đồng tiền, gây trở ngại lớn lao cho người tông đồ lớn nhỏ sống và thực thi tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô. Đây là thực tế không thể chối cãi hay biện minh cách nào khác cho hợp lý được.
Chưa hết, còn tệ trạng này nữa: thông thường trong Giáo Hội, linh mục hay tu sĩ chỉ nên ghi nhớ kỷ niệm thụ phong hay khấn Dòng của mình được 25 năm (ngân khánh) hay 50 năm (kim khánh) mà thôi. Chứ không bao giờ năm nào cũng kỷ niệm, hay cứ 10 năm, 15 năm, 35 năm, 40 năm lại mừng kỷ niệm để mời nhiều khách đến ăn ở nhà hàng hầu kiếm lợi cho mình và làm phiền cho nhiều người khác. Phải nói là làm phiền vì lâu lâu lại được mời đi dự kỷ niệm thụ phong, 25 năm, 35 năm, 40 năm và sẽ 45 năm… của ai mà không biết ngượng, khi cứ mời mãi mọi người quen biết đến dự kỷ niệm thụ phong của mình. Muốn mừng nhiều lần như vậy thì sao không âm thầm mừng riêng trong gia đình mình thôi, mà lại phải ồn ào mời khách đến nhà hàng để họ phải mừng tiền cho mình làm giầu như vậy thì làm sao sống được “cái nghèo” của Chúa Kitô?
Dù sống ở Mỹ, Canada hay Úc châu, đời sống của giáo dân không phải ai ai cũng có dư tiền của để chi phí xã giao hay làm việc bác ái. Có nhiều gia đình đã than là mỗi tuần nhận được 3, 4 thiệp cưới nên không thể đi dự hết được. Dầu vậy vẫn phải gửi tiền mừng. Nếu mỗi tuần nhận được 2 thiệp cưới lại thêm thiệp mừng 35 năm, 40, 45 năm của linh mục nào nữa thì ngân sách gia đình có lợi tức thấp làm sao cung ứng cho đủ??? Mà nếu cứ phải đi mừng thì người ta có vui để làm việc này hay không? Vậy, hãy đặt mình vào trường hợp đa số người có lợi tức thấp, hay những ông bà già sống bằng tiền già hay trợ cấp SSI, thì mời họ đi dự tiệc của mình nhiều lần như vậy có phải là việc xã giao bác ái phải làm, hay chỉ là lợi dụng lòng tốt của người ta để kiếm lợi cho mình???
Thử hỏi với số khách mời trên dưới 1.000 người và ăn ở nhà hàng sang trọng thì lợi tức thu về sẽ là bao nhiêu, và người tổ chức dùng số tiền khổng lồ này vào việc gì cho xứng đáng và phù hợp với tinh thần khó nghèo của Phúc Âm mà mình được mong đợi phải sống để làm gương và thuyết phục người khác tin điều mình rao giảng về đức khó nghèo cho họ.
Chúa nói: “Ai có tai nghe thì nghe” (Mt 13:43; Mc 7:16; Lc 8:8).
Chưa hết, ở bên Mỹ còn có tệ trạng này nữa là các linh mục, ở một vài nơi có đông giáo dân VN, thường đua nhau đi “đồng tế” cuối tuần trong các lễ cưới, lễ tang để nhận phong bì của gia chủ.
Đi đồng tế vì thân quen với gia đình có đám cưới hay tang lễ thì không nói làm gì. Nhưng đi “đồng tế” chỉ vì được mời cho có đông linh mục để gia chủ được hãnh diện với công đoàn giáo xứ thì đây là điều không nên làm. Không nên làm để tránh nhận phong bì của gia chủ, khiến cho mình khó sống tinh thần nghèo khó, vì linh mục ở Mỹ đều có lương của giáo xứ. Do đó, nếu mỗi cuối tuần kiếm thêm vài ba trăm nữa là điều không cần thiết cho nhu cầu của bản thân. Hơn nữa, còn làm cho các gia đình nghèo, không quen biết nhiều linh mục, buồn tủi vì lễ cưới hay lễ tang của gia đình họ không có nhiều cha đồng tế.
Liên quan việc này, tôi thấy cần phải nói lại một lần nữa là ơn Chúa ban xuống cho ai còn sống hay đã qua đời tuyệt đối không dính dáng gì đến việc có nhiều linh mục hay không có linh mục nào đồng tế.
Nếu sống mà không đi tìm Chúa, không yêu mến Chúa trên hết mọi sự, mà chỉ đi tìm những vui thú, lợi lãi tội lỗi ở đời này thì khi chết, dẫu có cả trăm linh mục, giám mục, hồng y dâng lễ và đồng tế, cũng là vô ích mà thôi.
Ngược lại, nếu đã thực tâm yêu mến Chúa và sống theo đường lối của Người thì khi chết, dẫu không có ai làm lễ an táng, hay không có linh mục nào đồng tế thì cũng không hề thiệt thòi gì về mặt thiêng liêng, vì đời sống của mình trên trần thế đã đủ để được Chúa đoái thương và ân thưởng phúc trường sinh. Đây là điều các linh mục phải dạy bảo cho giáo dân biết để không ai bị lừa dối chạy theo những vẻ hào nhoáng bề ngoài như đốt nhiều đèn nến trong nhà thờ, kéo chuông ầm ỹ và có nhiều linh mục đồng tế.
Chúa là tình thương và giầu lòng tha thứ. Tuy nhiên, con người cũng phải tỏ thiện chí muốn đáp lại tình thương của Chúa bằng quyết tâm từ bỏ ma quỉ và mọi quyến rũ của thế gian và ham muốn tội lỗi của xác thịt. Nếu cứ lấy cớ Chúa nhân từ để buông mình sống theo thế gian, gian tham lừa dối, thay chồng đổi vợ, nhất là làm sự dữ vô cùng khốn nạn và ghê sợ là hiếp dâm con gái mới 4, 5 tuổi, rồi bán chúng cho bọn buôn người vô nhân đạo; theo tin cho biết của một linh mục đang xả thân lo cho các trẻ em nạn nhân, Chúa cũng không thể cứu những người đó được, dù họ có bỏ ra bao nhiêu tiền xin lễ, mời đông linh mục đồng tế khi chết thì cũng vô ích mà thôi. Chắc chắn như vậy!
Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô sống trong thế giới tục hóa ngày nay, mọi người, từ hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, đều được mong đợi sống nhân chứng cho Chúa về tinh thần khó nghèo, về đức công bằng, thực thi bác ái, giầu lòng nhân đạo và trong sạch, để đẩy lui bóng đen của tội lỗi, gian ác và sự dữ vô luân, vô đạo đang lộng hành ở khắp nơi trong và ngoài nước hiện nay.
Lm Phanxicô Xaviê NGÔ TÔN HUẤN
Lời Bày Tỏ Sự Thật…
Bạn bạo gan thật, tớ muốn liên hệ với bạn không biết bạn có cho không.
Tớ đoán bạn cũng bằng tuổi tớ, con gái mà bạo qúa, bạn thật tuyệt vời.
Nhưng nói chung thì phải cám ơn trang mạng Ánh Sáng Sự Thật đã cho chúng mình cơ hội để liên hệ và nhất trí với việc làm lợi ích cho Giáo-hội, là không toa rập và tránh liên hệ mật thiết với các linh-mục, nhất là các linh-mục thiếu lòng tự trọng, trá hình, không biết phân biệt trắng đen…..
Nhưng đọc bài của cậu tớ thấy cậu viết sai, không phải “hi hí mắt lươn” mà là “ti hí mắt lươn” tớ là dân bắc kỳ chính tông, hiệu con nai vàng, nên khi du học bên này mấy bạn miền Nam không thích tớ, gán ghép cho tớ đủ điều khiến tới giờ vẫn không có bạn trai…. do đó tớ còn nhớ rõ cả câu ca dao mà tớ ghét lắm, vì tớ cũng ti hí mắt lươn, nên mấy bạn thường đùa với tớ: “những ngưòi ti hí mắt lươn, trai thì trộm cắp gái buôn chồng người”. Vì thế tớ đã phải đi cắt mí tốn tiền đấy cậu ạ.
Nhưng thực ra chuyện bạn viết cũng chỉ một phần thôi, tớ còn nghe nhiều chuyện về linh-mục phó xứ giáo xứ CTTĐ ở Houston này, trường đại-học Houston mà tớ đang học cũng đầy các sinh viên thuộc giáo xứ CTTĐ, nên tớ nghe bàn tán ra vào không ít… đây là một vị linh-mục đã xuất thân từ dòng Đa Minh, đã dùng mánh khoé du học qua bên Ý và cuối cùng không hiểu sao đã trở thành linh-mục phó xứ GXCTTĐVN ở Houston…
Nhưng thôi chuyện đó thì chẳng ăn nhập gì với tớ, vì con cái thế gian bao giờ cũng khôn ngoan hơn con cái “ánh sáng sự thật”, mà lại là linh mục thì “ánh sáng sự thật” làm sao mà sánh bằng… nên lúc này, tớ chỉ muốn suy nghĩ chút đỉnh riêng về chuyện mà cậu viết mà thôi thì cũng đã làm tớ lung lay đời sống đức tin, vì tớ nghĩ, nếu ai không biết những điều này thì vẫn lầm tưởng đây là một linh-mục thánh thiện… nhưng ngờ đâu lại hư hỏng đến thế… ai mà làm linh-mục phó xứ mới mấy năm mà gia tài đã cả nửa triệu, tớ không biết tiền từ đâu? Mà linh mục phó xứ kiếm nhiều tiền như thế thì hiển nhiên các linh-mục chánh xứ thì còn giầu đến độ nào… tớ hay bị tụi bạn trong trường chê bôi tớ là con cộng sản hút máu dân… nhưng tớ hỏi bạn, nếu thực sự một linh mục mà kiếm tiền dễ như thế thì hút máu ai???
Ngoài ra, tớ còn nghe chuyện linh-mục này còn lăng nhăng chuyện gì đó.. như uống chung một ly nước với bà hoá tại một quán ăn trước mặt quần hung, đấy là chưa kể đi đêm, đi hôm chung với bà hóa… lý do thăm kẻ liệt….. Tớ là con gái chứ nếu là con trai chắc tớ cũng làm linh mục, để lấy lý do ngao du bất chính che mắt thế nhân…. Và cũng chính vì đi đêm đi ngày quá nhiều nên vị linh-mục này mới khoe với bạn, một vị linh-mục từ Việt Nam qua, chứng tỏ là mình sốt sắng và siêng năng, là một tuần đi thăm 50 kẻ liệt… ngờ đâu linh mục bạn đã tưởng thật nên khoe với giáo dân ngay trên toà giảng… Ôi kẻ liệt đâu mà lắm thế….. không biết thăm 50 kẻ liệt hay thăm một “kẻ liệt” 50 lần mỗi tuần….
Nhưng rồi tớ lại làm tính nhẩm và thấy linh-mục phó xứ này có thể còn đi thăm kẻ liệt hay bệnh nhân gì đó có khi hơn cả con số 50 lần một tuần, vì người Việt Nam mình ưa dấm dí tiền và phong bì cho các “cha” lắm… xin cha cầu nguyện cho con ấy mà… và như vậy, nếu mỗi bệnh nhân rẻ đi chăng nữa thì cũng phaỉ năm chục, một trăm… và nếu 1 tuần 50 người, 1 người trung bình “dúi” 50 dollars… như vậy vị chi là $2,500 dollars một tuần… Wow… ghé thăm, có tiền… vì nếu không có tiền đố mà thấy bóng dáng các vị đâu… vì các linh-mục công bằng, có đưa mới có tới… đúng không? Biểu sao mà chỉ mấy năm, đã có cả nửa triệu… các ông các bà công giáo chúng ta vì thương yêu qúy thánh mà quên là chính mình đã cầm cờ cho qúy linh mục đi vào đường xa đoạ…
À mà tớ hỏi thật cậu, bạn đã uống chung cùng một ly nước với con trai bao giờ chưa? Tớ thì chưa, mới nghĩ tới nước bọt và môi của người khác, nhất là con trai tớ đã rùng mình rồi… Tớ tự hỏi không biết linh-mục này nghĩ gì và cảm thấy gì khi uống chung ly nước với bà hoá… chắc là phê lắm phải không bạn…
Điều mà tớ tiu ngỉu là làm sao mà toà giám mục thờ ơ và phớt lờ như thế, nhất là linh mục chánh ứ phải chăng cũng “đồng môn” với linh mục phó xứ… Ôi cuộc đời này quả biết tin ai bây giờ…. Linh mục mà còn thế thì giáo dân thế nào…. Chắc mình phải suy nghĩ lại trước những bao che và làm ngơ của các linh mục với nhau… và ngay cả toà giám mục…
Xin linh mục đại diện linh mục Việt Nam hãy “nhắc nhở” toà giám mục hãy cho các linh mục trẻ khác có cơ hội.. đừng để mọc rễ mà hãy thay đổi hầu giáo dân được nhờ không phải xuống hoả ngục vì những linh-mục bất trị làm ô uế hàng giáo sĩ…
À mà trước khi dừng bút, tớ còn bật mí với cậu một chuyện khác là nghe đâu linh mục phó xứ này còn liên hệ tính sửa nhà riêng làm nhà nguyện… ôi nếu thật như vậy thì quả hoành tráng…. vì biết đâu tương lai sẽ trở thành một nơi thương mại chính danh che mắt mọi người…. làm ăn đêm chưa đủ còn tính cả đến ban ngày… hy vọng qúy bà nhà ta cảnh giác… đứng có quá “đạo đức” mà hiến dâng u muội, mang tiếng chồng con và gia đình….
Bạn nhớ liên hệ nhé, tớ xắp phải về rồi, năm nay là năm cuối của tớ.
Xin nhờ ánh sánh Sự Thật chuyển.
Sinh H. Du
Bạn bạo gan thật, tớ muốn liên hệ với bạn không biết bạn có cho không.
Tớ đoán bạn cũng bằng tuổi tớ, con gái mà bạo qúa, bạn thật tuyệt vời.
Nhưng nói chung thì phải cám ơn trang mạng Ánh Sáng Sự Thật đã cho chúng mình cơ hội để liên hệ và nhất trí với việc làm lợi ích cho Giáo-hội, là không toa rập và tránh liên hệ mật thiết với các linh-mục, nhất là các linh-mục thiếu lòng tự trọng, trá hình, không biết phân biệt trắng đen…..
Nhưng đọc bài của cậu tớ thấy cậu viết sai, không phải “hi hí mắt lươn” mà là “ti hí mắt lươn” tớ là dân bắc kỳ chính tông, hiệu con nai vàng, nên khi du học bên này mấy bạn miền Nam không thích tớ, gán ghép cho tớ đủ điều khiến tới giờ vẫn không có bạn trai…. do đó tớ còn nhớ rõ cả câu ca dao mà tớ ghét lắm, vì tớ cũng ti hí mắt lươn, nên mấy bạn thường đùa với tớ: “những ngưòi ti hí mắt lươn, trai thì trộm cắp gái buôn chồng người”. Vì thế tớ đã phải đi cắt mí tốn tiền đấy cậu ạ.
Nhưng thực ra chuyện bạn viết cũng chỉ một phần thôi, tớ còn nghe nhiều chuyện về linh-mục phó xứ giáo xứ CTTĐ ở Houston này, trường đại-học Houston mà tớ đang học cũng đầy các sinh viên thuộc giáo xứ CTTĐ, nên tớ nghe bàn tán ra vào không ít… đây là một vị linh-mục đã xuất thân từ dòng Đa Minh, đã dùng mánh khoé du học qua bên Ý và cuối cùng không hiểu sao đã trở thành linh-mục phó xứ GXCTTĐVN ở Houston…
Nhưng thôi chuyện đó thì chẳng ăn nhập gì với tớ, vì con cái thế gian bao giờ cũng khôn ngoan hơn con cái “ánh sáng sự thật”, mà lại là linh mục thì “ánh sáng sự thật” làm sao mà sánh bằng… nên lúc này, tớ chỉ muốn suy nghĩ chút đỉnh riêng về chuyện mà cậu viết mà thôi thì cũng đã làm tớ lung lay đời sống đức tin, vì tớ nghĩ, nếu ai không biết những điều này thì vẫn lầm tưởng đây là một linh-mục thánh thiện… nhưng ngờ đâu lại hư hỏng đến thế… ai mà làm linh-mục phó xứ mới mấy năm mà gia tài đã cả nửa triệu, tớ không biết tiền từ đâu? Mà linh mục phó xứ kiếm nhiều tiền như thế thì hiển nhiên các linh-mục chánh xứ thì còn giầu đến độ nào… tớ hay bị tụi bạn trong trường chê bôi tớ là con cộng sản hút máu dân… nhưng tớ hỏi bạn, nếu thực sự một linh mục mà kiếm tiền dễ như thế thì hút máu ai???
Ngoài ra, tớ còn nghe chuyện linh-mục này còn lăng nhăng chuyện gì đó.. như uống chung một ly nước với bà hoá tại một quán ăn trước mặt quần hung, đấy là chưa kể đi đêm, đi hôm chung với bà hóa… lý do thăm kẻ liệt….. Tớ là con gái chứ nếu là con trai chắc tớ cũng làm linh mục, để lấy lý do ngao du bất chính che mắt thế nhân…. Và cũng chính vì đi đêm đi ngày quá nhiều nên vị linh-mục này mới khoe với bạn, một vị linh-mục từ Việt Nam qua, chứng tỏ là mình sốt sắng và siêng năng, là một tuần đi thăm 50 kẻ liệt… ngờ đâu linh mục bạn đã tưởng thật nên khoe với giáo dân ngay trên toà giảng… Ôi kẻ liệt đâu mà lắm thế….. không biết thăm 50 kẻ liệt hay thăm một “kẻ liệt” 50 lần mỗi tuần….
Nhưng rồi tớ lại làm tính nhẩm và thấy linh-mục phó xứ này có thể còn đi thăm kẻ liệt hay bệnh nhân gì đó có khi hơn cả con số 50 lần một tuần, vì người Việt Nam mình ưa dấm dí tiền và phong bì cho các “cha” lắm… xin cha cầu nguyện cho con ấy mà… và như vậy, nếu mỗi bệnh nhân rẻ đi chăng nữa thì cũng phaỉ năm chục, một trăm… và nếu 1 tuần 50 người, 1 người trung bình “dúi” 50 dollars… như vậy vị chi là $2,500 dollars một tuần… Wow… ghé thăm, có tiền… vì nếu không có tiền đố mà thấy bóng dáng các vị đâu… vì các linh-mục công bằng, có đưa mới có tới… đúng không? Biểu sao mà chỉ mấy năm, đã có cả nửa triệu… các ông các bà công giáo chúng ta vì thương yêu qúy thánh mà quên là chính mình đã cầm cờ cho qúy linh mục đi vào đường xa đoạ…
À mà tớ hỏi thật cậu, bạn đã uống chung cùng một ly nước với con trai bao giờ chưa? Tớ thì chưa, mới nghĩ tới nước bọt và môi của người khác, nhất là con trai tớ đã rùng mình rồi… Tớ tự hỏi không biết linh-mục này nghĩ gì và cảm thấy gì khi uống chung ly nước với bà hoá… chắc là phê lắm phải không bạn…
Điều mà tớ tiu ngỉu là làm sao mà toà giám mục thờ ơ và phớt lờ như thế, nhất là linh mục chánh ứ phải chăng cũng “đồng môn” với linh mục phó xứ… Ôi cuộc đời này quả biết tin ai bây giờ…. Linh mục mà còn thế thì giáo dân thế nào…. Chắc mình phải suy nghĩ lại trước những bao che và làm ngơ của các linh mục với nhau… và ngay cả toà giám mục…
Xin linh mục đại diện linh mục Việt Nam hãy “nhắc nhở” toà giám mục hãy cho các linh mục trẻ khác có cơ hội.. đừng để mọc rễ mà hãy thay đổi hầu giáo dân được nhờ không phải xuống hoả ngục vì những linh-mục bất trị làm ô uế hàng giáo sĩ…
À mà trước khi dừng bút, tớ còn bật mí với cậu một chuyện khác là nghe đâu linh mục phó xứ này còn liên hệ tính sửa nhà riêng làm nhà nguyện… ôi nếu thật như vậy thì quả hoành tráng…. vì biết đâu tương lai sẽ trở thành một nơi thương mại chính danh che mắt mọi người…. làm ăn đêm chưa đủ còn tính cả đến ban ngày… hy vọng qúy bà nhà ta cảnh giác… đứng có quá “đạo đức” mà hiến dâng u muội, mang tiếng chồng con và gia đình….
Bạn nhớ liên hệ nhé, tớ xắp phải về rồi, năm nay là năm cuối của tớ.
Xin nhờ ánh sánh Sự Thật chuyển.
Sinh H. Du
Tội Mại Thánh (Simonia, Simony) là Tội gì?
Sách Tông Đồ Công Vụ kể chuyện một người phù thủy tên là Simon từng làm nhiều trò ảo thuật để mê hoặc dân chúng về “quyền năng vĩ đại” của mình. Anh này cũng đến nghe các Tông Đồ giảng và được chịu phép rửa tội. Thấy các Tông Đồ đặt tay ban ơn Chúa Thánh Thần cho các tín hữu, anh rất thích thú nên đã ngỏ ý biếu tiền cho các Tông Đồ để xin đặc quyền ban ơn ấy, nhưng đã bị Thánh Phêrô quở trách nặng nề như sau: “tiền bạc của anh sẽ tiêu tan luôn với anh, vì anh tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa sao?” (cf. Acts 8: 9-24). Nghe thế, anh phù thủy kia sợ hãi và van xin Phêrô và Gioan xin Chúa cho anh khỏi bị án phạt đó.
Từ câu chuyện này, Giáo Hội đã dùng tên anh phù thủy Simon này để chỉ một loại tội gọi là “Tội Mại Thánh (simonia, simony) mà Giáo Luật đã minh nhiên ngăn cấm qua những điều khoản sau đây:
c.149, triệt 3: “Sự chỉ định chức vụ nhờ việc mại thánh đương nhiên vô giá tri.”
c.848: “Khi ban các Bí Tích, thừa tác viên không được đòi thêm cái gì khác ngoài số tiền thù lao mà nhà chức trách có thẩm quyền đã ấn định; và phải cẩn thận đừng để những người nghèo không được lãnh nhận Bí Tích vì lý do túng thiếu.”
c.947: “Trong vấn đề bổng lễ, phải xa tránh hoàn toàn mọi hình thức buôn bán hay thương mại.”
Sách Giáo Lý Công Giáo (SGLCG) cũng đề cập đến tội này và ngăn cấm như sau:
c.2121: “Tội buôn thần bán thánh (simony) là mua hoặc bán các thực tại thiêng liêng. Pháp sư Simon muốn mua quyền lực linh thiêng ông ta thấy tác động nơi các Tông đồ, nhưng Phêrô đã trả lời ông: “tiền bạc của ngươi hãy hủy hoại đi với ngươi, vì ngươi đã tưởng lấy tiền bạc mà mua được hồng ân của Thiên Chúa” (Cv 8, 20). Thánh Phêrô đã hành động đúng như lời Chúa Giêsu dạy: “các ngươi đã nhận được nhưng không thì cũng hãy ban tặng nhưng không” (Mt 10,8).
Không thể chiếm lấy các lợi ích thiêng liêng làm của riêng mình và tùy ý sử dụng như kiểu một người sở hữu chủ hoặc một ông chủ, bởi vì các ơn ích thiêng liêng này bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể nhận được từ nơi Thiên Chúa, cách nhưng không.
c.2122: “Ngoài những khoản dâng cúng do thẩm quyền ấn định, thừa tác viên không được đòi hỏi gì cho việc ban các bí tích, và phải lo liệu để những người nghèo túng không mất ơn nhận lãnh các bí tích vì cảnh nghèo khó của họ.Thẩm quyền ấn định ‘các khoản dâng cúng’ này dựa trên nguyên tắc dân Kitô giáo phải cấp dưỡng cho các thừa tác viên của Giáo Hội “người thợ đáng được của nuôi thân” (Mt 10,10).
Dựa trên những điều Giáo Hội dạy và ngăn cấm trên đây liên quan đến “tội mại thánh” chúng ta cần hiểu rõ những áp dụng cụ thể để tránh gương xấu về loại tội này trong thực hành.
I- Lý Do Giáo Hội cho phép Giáo sĩ nhận bổng lễ (missarum, mass stipends)
Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng mặc dù việc phục vụ của giáo sĩ là bổn phận thiêng liêng chính yếu của Sứ vụ và Ơn gọi, nhưng về mặt tự nhiên giáo sĩ cũng là người như mọi người, nên phải có những nhu cầu thiết yếu và chính đáng về ăn, ở, thuốc men, quần áo, phương tiên di chuyển (đặc biệt là nhu cầu xe cộ cho các giáo sĩ làm mục vụ ở Âu Mỹ, Úc và Canada). Và để thỏa mãn những nhu cầu tối cần này, thì giáo sĩ phải được chăm sóc xứng đáng để an tâm chu toàn trách nhiệm thiêng liêng của mình. Vì thế, ở khắp nơi trong Giáo Hội – trừ Việtnam cho đến nay – giáo sĩ (Giám mục, linh mục) được trả lương tối thiểu (ngân quỹ của Địa phận hay giáo xứ) để giúp chi phí cho những nhu cầu thiết yếu về ăn, ở, thuốc men và phương tiện di chuyển.
Khoản tiền lương tối thiểu này nhiều ít khác nhau từ địa phận này sang địa phận khác, và từ quốc gia này đến quốc gia kia. (Riêng ở Đức, chánh phủ trả lương cho các giáo sĩ của mọi Giáo Hội như trả lương cho công chức). Ngoài tiền lương tối thiểu trên, Giáo Hội còn cho phép giáo sĩ được nhận thêm bổng lễ (missarum) cử hành theo ý của giáo dân xin. (Ở Mỹ, các linh mục phải khai và đóng thuế lợi tức cuối năm về tiền lương và những bổng lễ, tiền dâng cúng nhận được, nếu có, trong các dịp rửa tội, chứng hôn và cử hành nghi thức an táng).
Giáo Hội chăm lo và cho phép nhận bổng lễ dựa vào lời Chúa dạy sau đây:
- “… Hãy ở lại nhà ấy và người ta cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó vì thợ đáng được trả công” (Lk 10,7).
- “Đi đường, đừng mang bao bì, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy hay cầm gậy, vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (Mt 10,10).
- “Anh em không biết rằng người lo cho các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao? Cũng vậy Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng” (1Cr 9: 13-14).
- “Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ tọa cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người vất vả phục vụ lời Chúa và giảng dạy. Quả vậy, Kinh Thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò đang đạp luá, và làm thợ thì đáng được trả công” (1 Tim 5: 17-18).
Trên đây là tất cả nền tảng Kinh Thánh cho việc chăm lo cho đời sống vật chất của giáo sĩ trong đó có sự cho phép nhận tiền dâng cúng trong các dịch vụ thánh được trao ban trong Giáo Hội, cụ thể như sau:
1- Bổng Lễ (Missarum, Mass stipends): các linh mục dâng Thánh lễ cầu nguyện theo ý chỉ (Intentio Missae = mass intentions) của người xin thì được hưởng một bổng lễ theo mức qui định của Tòa Giám Mục sở tại. Ở Mỹ, nói chung, thì mức bỗng lễ này là 5 dollars (có nơi qui định 10 đôla) cho đến nay. Qui định này áp dụng chung cho mọi giáo xứ, cộng đoàn tín hữu trong Địa phận, chứ không chỉ riêng cho linh mục Mỹ ở các giáo xứ Mỹ. Các linh mục ViệtNam làm việc trong các giáo xứ hay cộng đoàn ViệtNam cũng phải theo chung qui định này, nghĩa là không được phép tự ý miễn trừ cho mình để có thể lấy bổng lễ gấp đôi, gấp ba tùy tiện.
2. Tóm lại, linh mục không được phép tự ý đòi hỏi người xin lễ trả cao hơn mức qui định trên của giáo quyền địa phuơng, vì như vậy là trái với khoản Giáo luật số 848. Xin nhấn mạnh: linh mục không được phép đòi bỗng lễ cao hơn mức Giáo quyền địa phương qui định và cho phép; thí dụ đòi 20, 50 hay 100 dollars để dâng một Thánh Lễ hoặc chê ít tiền để từ chối dâng Lễ giáo dân xin.
Tuy nhiên, nếu vì hảo tâm người xin Lễ tự ý dâng cúng số tiền cao hơn mức qui định thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì. Người xin Lễ cần hiểu rõ điều này để đừng tự ý đưa nhiều tiền xin một Thánh Lễ rồi lại nghĩ tại linh mục muốn đòi như vậy. Thực ra không phải tất cả các linh mục đều đòi hỏi như thế trừ người nào có ý vi phạm giáo luật vì tham tiền cách trái phép mà thôi.
Mỗi Thánh Lễ, linh mục chỉ được hưởng một bổng lễ thôi, và nếu có nhiều người xin Lễ thì linh mục không được phép gom tất cả ý lễ lại để hưởng trọn mọi bổng lễ trong một Thánh lễ. Nếu vì nhu cầu mục vụ phải gom chung trong một thánh lễ ngày Chúa nhật thì sau đó linh mục phải làm bù lại cho đủ các ý lễ với bổng lễ riêng như Giáo Luật số 948 qui định: “Phải áp dụng từng Thánh lễ cho mỗi ý chỉ vì đó mà bổng lễ đã được dâng và nhận, cho dù bổng lễ đã nhận là bé nhỏ”.
Mặt khác, tuy Giáo luật cho phép linh mục nhận bổng lễ cho mỗi Thánh Lễ, nhưngnếu giáo dân nghèo túng không có khả năng dâng cúng thì linh mục cũng được khuyên nhủ phải dâng lễ cầu theo ý người xin dù không có bổng lễ. (cf.can.945, triệt 2), nghĩa là không bó buộc phải có bổng lễ mới dâng Thánh Lễ, vì Thánh Lễ là vô giá (invaluable) không thể mua được bằng tiền bạc hay của cải vật chất nào.
2- Ban Bí tích, chủ sự lễ cưới, đám tang, làm phép nhà, xe cộ, tầu bè, nơi buôn bán v.v.
Không có khoản Giáo luật nào cho phép thừa tác viên có chức thánh (Giám mục, linh mục, phó tế) đòi tiền dâng cúng để ban một bí tích như Rửa tội, Xưng tội, Thêm sức, Xức dầu bệnh nhân, truyền Chức Thánh, hay chứng hôn hoặc cử hành nghi thức an táng. Việc dâng cúng, nếu có, là hoàn toàn do người lãnh nhận bí tích hay dịch vụ thánh tự nguyện (volunteer) dâng cho chứ không bị buộc phải làm như vậy.
Nếu thừa tác viên đòi tiền cho bất cứ dịch vụ thánh nào thì đã hành động ngược với điều Giáo Hội cho phép và biến thừa tác vụ (ministry) của mình thành hoạt động thương mại trần tục, và hiển nhiên mắc tội “mại thánh = simonia”.
Ngay cả khi được yêu cầu làm những dịch vụ thánh khác như làm phép nhà, cơ sở buôn bán, xe, tầu v.v. Giáo sĩ cũng không được phép đòi trả công nơi người xin và chỉ được phép nhận tiền hay tặng vật dâng cúng, nếu có, hoàn toàn do lòng hảo tâm của người thụ hưởng tự ý dành cho mà thôi. Đây là điểm độc đáo khác biệt giữa Giáo Hội Công Giáo và nhiều giáo phái ngoài Công Giáo. Thí dụ, các linh mục Công Giáo không được phép đòi các đôi tân hôn hay tang chủ phải trả thù lao cho việc chứng hôn hay cử hành nghi thức an táng ở nhà quàn hay nghĩa trang, trong khi các dịch vụ này đòi hỏi phải được trả thù lao ở các giáo phái khác. Có thừa tác viên (ministers) của giáo phái kia đã đòi phải trả 200 đollars cho mỗi nghi thức an táng họ cử hành (tiết lộ của nhân viên nhà quàn Mỹ ở Houston).
Riêng về việc thu lệ phí của các giáo xứ trong việc chuẩn bị và cử hành các bí tích rửa tội, thêm sức và hôn phối, cần phân biệt mục đích như sau:
Thông thường, nhiều giáo xứ ở Mỹ có thu lệ phí (10, 15, hay 20 đôla) của mỗi gia đình có con em rửa tội. Lệ phí này giúp trả phí tổn mua nến và áo trắng để phát cho các trẻ được rửa tội. Nhưng nếu vì nghèo túng, ai không thể đóng được lệ phí này thì giáo xứ cũng không được phép từ chối cho lãnh bí tích, vì bí tích không bao giờ được ban vì tiền bạc cả. Mặt khác, việc dạy giáo lý cho cha mẹ có con em xin rửa tội là trách nhiệm mục vụ của cha xứ hay linh mục đặc trách. Không hề có luật nào cho phép đòi tiền trong dịch vụ này. Nếu người thụ hưởng tự ý dâng cúng tiền đãi ngộ thì linh mục được phép nhận. Nhưng nếu đòi phải trả tiền mới cho học và cho lãnh bí tích thì đây lại là hành vi mại thánh và rõ ràng muốn gắn tiền bạc vào điều kiện để lãnh nhận bí tích.
Việc dạy giáo lý và chứng hôn cũng thế. Nếu làm vì tiền thì chắc chắn là sai trái. Tuy nhiên, cần phân biệt tiền đòi ở đây khác với lệ phí giáo xứ thu để tập dượt (rehearsal) cho đôi tân hôn và cho sử dụng nhà thờ để cử hành bí tích hôn phối hoặc lệ phí phải trả cho ca đoàn hát lễ cưới.
II- Tội Mại Thánh (Simonia, Simony)
Việc nhận bổng lễ theo ý và trong khuôn khổ cho phép của Giáo Hội hoàn toàn khác với chủ ý đòi bổng lể để cử hành Thánh lễ hay ban các Bí tích và làm các dịch vụ thánh khác. Do đó, trước hết trong nội bộ Giáo Hội, nếu ai để tiền bạc chi phối trong việc tiến cử người vào các chức vụ lãnh đạo Gíáo phận, Dòng tu, trong việc tuyển chọn và truyền chức thánh, trong việc nhận và cho khấn Dòng thì chắc chắn đã phạm tội simonia, làm gương xấu cho người khác, và làm ô nhục cho Giáo Hội. Những ai đã và đang còn âm thầm làm việc bất chính này thì hãy chuẩn bị để trả lời trước Chúa công thẳng về tội “buôn thần bán thánh” của mình. Trong thực hành, người xin và người làm các dịch vụ thánh như xin Lễ, ban Bí tích, làm phép người hay đồ vật, cầu nguyện cho ai với mục đích lấy tiền thì đó là tội mại thánh đáng bị lên án trong Giáo Hội.
Phải nói ngay ở đây là tiền bạc hay tặng phẩm vật chất chỉ có giá trị giúp đỡ cho giáo sĩ có chức thánh thi hành nhiệm vụ thánh trong tinh thần “người phục vụ Bàn Thánh thì được hưởng lộc bàn thờ” (1 Cr 9:13) như Thánh Phao lô dạy mà thôi, chứ hoàn toàn không hề có giá trị cứu rỗi hay lợi ích thiêng liêng nào cho ai, nhất là cho các linh hồn nơi luyện tội. Việc cầu nguyện hay xin Lễ cầu cho các linh hồn là việc bác ái thiêng liêng cao quí rất đáng khuyến khích trong Giáo Hội, nhưng đừng ai hiểu lầm rằng hễ bỏ ra nhiều tiền, xin nhiều lễ thì linh hồn mau được cứu rỗi. Tiền bạc chắn chắn không thể mua ơn Cứu độ và Nước Thiên Đàng, vì nếu có như vậy, thì người ta khỏi cần sống Đạo cho hẳn hoi, cứ việc ăn chơi thỏa thích rồi tiết kiệm nhiều tiền để khi chết nhờ người khác xin Lễ cho là xong.
Ngược lại, chúng ta phải hiểu rằng Ơn Cứu Độ được ban trước hết do lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và cậy nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cộng thêm phần đóng góp của cá nhân vào Ơn Cứu Độ này khi còn sống trên đời. Nhưng nếu không có lòng thương xót và công nghiệp của Chúa Cứu Thế Giêsu thì không ai được cứu rỗi, cho dù người ta có bao nhiêu tiền của và xin bao nhiêu Thánh lễ, nhờ muôn ngàn người cầu nguyện cho.
Ngược lại, nếu chỉ dựa vào công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô thôi và không cộng tác chút nào vào công nghiệp này bằng nỗ lực cải thiện đời sống theo tinh thần Phúc Âm và thực hành những giới răn căn bản thì Chúa không thể cứu ai được, nói chi đến việc nhờ người khác xin Lễ cầu nguyện thay cho mình. Đây là căn bản tín lý và thần học về việc cứu rỗi (salvation).
Nhân đây, tôi phải nói đến một việc rất sai trái đã và đang được làm ở một vài nơi liên quan đến việc xin Lễ cầu cho các linh hồn. Đó là việc một vài nhà Dòng, Tu Hội địa phương đã đưa sáng kiến xin “Lễ đời đời” cho các linh hồn và nhận tiền hội viên vào “Hội đời đời” hay mua “hậu” cho những người còn sống. Tôi quả quyết việc làm này hoàn toàn sai thần học và tín lý Công giáo và mang tính mại thánh rất trầm trọng.
Thật vậy, trước hết, làm sao ta biết một linh hồn bị phạt đời đời mà còn cầu nguyện cho họ? Theo giáo lý của Giáo Hội thì một người chết khi đang mắc tội trọng (mortal sin) không kịp ăn năn thống hối và được tha thứ qua Bí Tích Hòa Giải thì phải chịu án phạt đời đời trong nơi gọi là hỏa ngục (hell) (cf GLCG, nn. 1033-35). Mặt khác theo tín điều các Thánh thông công, thì chỉ có sự hiệp thông (communion) giữa các tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành trên trần thế, với các linh hồn thánh trong nơi luyện tội và các Thánh trên Thiên đàng. (cf. SGLCG, n. 962). Tuyệt đối không có sự hiệp thông nào với những người bị án phạt đời đời (eternity) trong hỏa ngục.
Vậy xin và làm Lễ đời đời để cầu nguyện cho ai? Các linh hồn thánh (holy souls) chỉ ở trong Luyện tội (Purgatory) có thời hạn chứ không ở đó vĩnh viễn đời đời, nênkhông có lý do gì để “cầu đời đời cho các linh hồn nơi chốn thanh luyện cuối cùng này”.
Sau hết, làm sao người nhận tiền Lễ đời đời có thể sống mãi trên trần gian này để thi hành lời hứa cầu nguyện đời đời cho các linh hồn ấy? Như vậy, ý niệm cầu nguyện đời đời là hoàn toàn không có căn bản thần học và nền tảng tín lý nào.
Việc gia nhập “Hội Ðời Ðời” hay “Mua Hậu” cho người còn sống cũng là chuyện dối trá, không có căn bản giáo lý, tín lý nào. Giáo Hội chỉ khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện tội mà thôi, chứ không dạy mua “bảo hiểm đời sau” cho bất cứ ai còn sống cũng như cầu cho những người trong hỏa ngục vì “họ đã bị xa lìa khỏi Thiên Chúa đời đời” rồi (cf. SGLCG, n.1035).
Đối với những người còn sống trên trần thế, thì chỉ có giới răn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội dạy phải biết sống sao cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng Cứu Độ là mến Chúa, yêu người và cộng tác với Ơn thánh để được cứu rỗi, chứ không hề có giáo lý, tín lý, giáo luật nào đòi hỏi hay khuyên nên “khoán trắng” việc rỗi linh hồn của mình cho người khác cầu nguyện thay cho qua cái gọi là “Hội Đời Đời” hay “Mua Hậu” do ai chủ xướng với mục đích buôn thần bán thánh. Tôi quả quyết việc làm này là hoàn toàn sai trái và có tính chất mại thánh nghiêm trọng để lưu ý những ai vì không biết nên đã tham gia vào việc dối trá này, nhất là nhắc chonhững ai chủ xướng hãy chấm dứt ngay dịch vụ mại thánh nghiêm trọng này, vì nó hoàn toàn đi ngược lại với đức tin và giáo lý Công Giáo tinh tuyền.
Cũng trong phạm trù “mại thánh”, không có giáo lý, giáo luật nào cho phép giáo sĩ từ chối ban Bí tích cho ai vì lý do không ghi tên nhập giáo xứ và đóng góp tiền hỗ trợ giáo xứ. Càng không có giáo lý, giáo luật nào cho phép từ chối cử hành nghi thức an táng nếu người chết hay tang gia không phải là giáo dân có ghi tên nhập giáo xứ và đã sử dụng phong bì dâng cúng tiền (collections envelope) cho nhà thờ. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Công giáo và nhiều giáo phái Tin lành. Cụ thể, giáo phái Baptist khai trừ những thành viên nào đã ghi tên gia nhập mà không đóng tiền dâng cúng đều đặn. Dĩ nhiên, họ sẽ không còn trách nhiệm gì đối với các thành viên đã bị khai trừ ra khỏi Cộng đoàn của họ.
Ngược lại, Cha xứ Công giáo không có quyền đe dọa ai không vào giáo xứ, không dùng phong bì dâng cúng tiền, thì không được lãnh nhận bí tích và không được hưởng nghi thức an táng khi chết. Việc ghi tên nhập giáo xứ (registration for membership) chỉ có mục đích mục vụ (pastoral care) mà thôi chứ không phải là điều kiện để lãnh bí tích hay được cử hành nghi thức an táng theo giáo luật. Xin nhớ kỹ điều này.
3. Cũng xin nói rõ thêm là việc xin Lễ cầu nguyện cho các linh hồn được khuyến khích trước hết để nói lên sự hiệp thông giữa các linh hồn nơi luyện tội (Purgatory) và các tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành, cũng như với các thánh nam nữ trên Trời, như Tín điều các thánh thông công dạy. Ngoài ra, xin lễ cầu cho kẻ chết cũng nói lên lòng bác ái thiêng liêng giữa người còn sống và kẻ đã qua đời và chắc chắn việc bác ái này có ích lợi cho các linh hồn nơi luyện tội.
Nhưng tuyệt đối không có vấn đề phải xin lể với bổng lễ to, phải được rao tên trước Cộng đoàn hay phải kéo nhiều chuông, bật nhiều đèn thì sẽ được hưởng ơn ích thiêng liêng nhiều hơn là một thánh lễ làm âm thầm, không bỗng lễ, không rao, không chuông, đèn nến. Nói khác đi, xin một Thánh lễ với bổng lễ 5 dollars hay 50.000 dollars để cầu cho ai, hay cho việc gì thì chỉ có giá trị về mặt trợ giúp vật chất cho Thừa tác viên cử hành chứ không có giá trị thiêng liêng nào cho người thụ hưởng lợi ích của Thánh lễ đó. Ơn thánh Chúa ban cho người thụ hưởng nhờ lời cầu nguyện của Giáo Hội là nhưng không (gratuitous) nghĩa là không lệ thuộc vào bổng lễ ít nhiều của người xin.
Như vậy, đừng ai bao giờ nghĩ rằng xin lể hay xin cầu nguyện với bổng lễ to thì có hiệu lực thiêng liêng nhiều hơn bổng lễ nhỏ hay không có bổng lễ. Nếu xin với ý này thì đó là “muốn dùng tiền của để mua ơn thánh”, để mua Nước Trời và như vậy là mắc tội “mại thánh” về phía người xin. Ngược lại, về phía người làm (thừa tác viên) nếu gián tiếp hay trực tiếp gây cho giáo dân ngộ nhận rằng xin lễ xin cầu nguyện với bổng lễ to sẽ được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn bổng lễ nhỏ thì cũng phạm tội mại thánh cách chắc chắn. Việc có rao tên, có kéo chuông, và đốt nhiều đèn nến không có giá trị thiêng liêng nào trước mặt Chúa mà chỉ có tác dụng phô trương trước mặt người đời mà thôi.
Cũng xin nói rõ là theo Lễ Qui phụng vụ của Giáo Hội, thì có ba bậc cử hành sau đây:
1- Lễ Trọng (solemnity): dành cho những dịp đặc biệt như Lễ Chúa Giáng Sinh, Lễ Phục Sinh, Lễ Chúa Ba Ngôi, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời, Lễ Thánh Giuse 19/3, Lể Kính hai Thánh Phêrô-Phaolô, Thánh Gioan Tẩy Giả (24/6), Lễ Trọng có 3 bài đọc, có Kinh Tiền Tụng (Preface) riêng và phải đọc kinh Sáng Danh (Gloria), Kinh Tin Kinh (Creed).
2- Lễ Kính (Feast): dành để kính các Thánh quanh năm và một số dịp đặc biệt như kỷ niệm cung hiến Thánh Đường v. v. Lễ kính chỉ có bài đọc một và bài Phúc âm, đọc Kinh Sáng danh, nhưng không đọc kinh Tin kính.
3- Lễ Nhớ (memorial): trong mọi dịp ngoài hai trường hợp nói trên. Lể nhớ không phải đọc kinh Sáng Danh và kinh Tin Kính, và chỉ có 2 bài đọc.
Sự phân chia này chỉ nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng hay đặc biệt của mỗi dịp cử hành chứ không nói lên giá trị khác biệt về phụng tự (cult, worship) vì mọi Thánh Lễ đều là Hy Tế của chính Chúa Giêsu và là hành động tạ ơn, ngợi khen Thiên Chúa Cha mà Giáo Hội nhờ Chúa Giêsu dâng lên Ngài qua việc cử hành Thánh Lể. Do đó,mọi Thánh Lễ đều có giá trị tuyệt đối và không thể đo lường được bằng tiền bạc.
Ngoài ba trường hợp đặc biệt nêu trên, mọi lễ cầu nguyện theo ý người xin đều có chung một bậc là lễ nhớ, chứ không hề có bậc nhất, bậc nhì, bậc ba với giá tiền khác nhau như đã có sự lạm dụng ở nhiều nơi từ xưa đến nay. Việc tự ý phân chia bậc trong lễ cầu cho các linh hồn, kèm thêm nhửng thủ tục như rao tên người xin lể, kéo chuông trước sau Lễ, đốt thêm đèn nến trong nhà thờ chỉ là hình thức bề ngoài không có giá trị thiêng liêng nào. Tệ hại hơn nữa là nếu tạo ra những hình thức này để lấy thêm tiền và gây nhộ nhận về giá trị thiêng liêng thì đó chắc chắn là việc làm có nội dung mại thánh cần phải tránh.
Tóm lại, Thừa tác viên không bao giờ được phép cử hành thánh lễ hay ban một bí tích nào để lấy tiền cả. Giáo dân cũng không được dùng tiền của để mua ơn thánh. Do đó phải lên án và xa tránh mọi việc “buôn thần bán thánh” tức tội simonia trong việc cử hành các Bí Tích và mọi dịch vụ thánh khác trong Giáo Hội.
Việc dâng cúng tiền bạc hay tặng vật của giáo dân cho các giáo sĩ thi hành quyền thánh (sacra potestas) phải là hành động tự nguyện (voluntary) do lòng biết ơn và hảo tâm chứ không phải là việc bắt buộc, một sự đổi chác có tính thương mại. Ai làm với mục đích này thì rõ rệt đã mắc tội mại thánh (simonia).
Là Dân Chúa trong Giáo Hội, và với thiện chí xây dựng cho Giáo Hội ngày thêm tinh tuyền, thánh thiện, để phúc âm hóa hữu hiệu người khác, chúng ta cần lưu ý điều này để tránh gương xấu có hại cho uy tín của Giáo Hội, của hàng giáo sĩ thừa tác đang xả thân phục vụ cho giáo dân ở trong nước cũng như hải ngoại. Chắc chắn đây chỉ là gương xấu rất hạn chế chứ không phổ biến trong Giáo Hội vì đại đa số giáo sĩ ở khắp mọi nơi đều ý thức rõ gương xấu này và không hề dung túng hay lạm dụng trong khi thi hành sứ vụ thánh của mình.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Cảm Nghĩ khi đọc bài: Tội Mại Thánh của Linh-mục Ngô Tuân Huấn…
Xin cám ơn Linh-mục Huấn đã lý giải và đưa ra những điều mà giáo dân Việt nam bị che mờ khiến các Linh-mục xập xí xập mầu, tảng lờ, để tự ý mình cho mình quyền nhận bổng lộc với giá “cắt cổ” và nhất là đã khiến người tín hữu Việt nam mang nặng trong mình sắc thái của kẻ nô lệ, cứ tưởng đưa tiền nhiếu là phúc nhiều… nhưng ngờ đâu lại nối giáo cho giặc và mang tội “mại thánh” cho chính mình…. Xuống hoả ngục đời đời… hỡi những ai toa rập và không hiểu lý lẽ, đã tạo cơ hội cho những kẻ buôn thần bán thánh có cơ hội “cướp” tiền của giáo dân với trạng thái của kẻ trên, khiến giáo dân càng lầm tưởng và sai lệch đời sống đức tin trầm trọng…
Tuy nhiên, một điều mà người đọc thắc mắc với linh mục Ngô Tôn huấn là: Tại sao các linh-mục biết rỗ điều Hội-thánh dậy, nhưng không một linh mục chánh phó xứ nào viết thông báo hay giảng giải và nhất là nhắc nhở thường xuyên cho giáo dân rõ ràng về tiền xin lễ, mà hầu hết tất cả các linh-mục giả mù xa mưa… dối trá và trắng trợn lọc lừa giáo dân… Xin linh-mục Huấn hãy viết thêm… và thêm nữa để đánh động kẻ gian.. dù biết rằng sẽ không hữu nghiệm đi nữa, nhất là những thợ săn càng ngày càng tỏ ra bất chính và kém đạo đức… một bất hạnh cho Giáo-hội.. như một số linh-mục về giáo xứ chỉ vài năm mà đã tậu nhà, tậu xe đắt tiền…
Ngoài ra, nếu một bổng lộc cho một thánh lễ, dù có rao cả mấy chục linh hồn, thì linh hồn nào được hưởng???? và các linh hồn kia có thật sự được linh-mục làm bù hay rồi…. “tự quên xí xoá”.. vì trong một tuần cả bao nhiêu linh hồn… các linh-mục có thật sự mỗi ngày sẽ làm thêm bốn năm lễ … có khi cả chục lễ…để bù và theo ý chỉ từng lễ cho từng linh hồn như giáo-hội ấn định và bắt buộc không???? Vì nếu như vậy có lẽ linh mục không có giờ ăn, đấy là chưa nói tới đi vacation cả tháng thì giờ đâu mà làm lễ bù… Xin linh mục Ngô Tôn Huấn lấy kinh nghiệm của mình giải nghĩa và cho giáo dân câu trả lời…
Xin linh-mục Ngô Tôn Huấn cũng giải thích thêm và xác nhận về tiền xin lễ là tài sản của giáo xứ hay của cá nhân linh-mục theo luật của địa phận … Riêng về việc đóng thuế thì có lẽ chỉ có Chuá biết… vì nói ra có lẽ linh-mục nào cũng sẽ bình thản trả lời: tôi là người công chính làm gì có chuyện trốn thuế đúng không thưa linh mục Huấn...
Ngô Thực Tại Nhân
Sách Tông Đồ Công Vụ kể chuyện một người phù thủy tên là Simon từng làm nhiều trò ảo thuật để mê hoặc dân chúng về “quyền năng vĩ đại” của mình. Anh này cũng đến nghe các Tông Đồ giảng và được chịu phép rửa tội. Thấy các Tông Đồ đặt tay ban ơn Chúa Thánh Thần cho các tín hữu, anh rất thích thú nên đã ngỏ ý biếu tiền cho các Tông Đồ để xin đặc quyền ban ơn ấy, nhưng đã bị Thánh Phêrô quở trách nặng nề như sau: “tiền bạc của anh sẽ tiêu tan luôn với anh, vì anh tưởng có thể lấy tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa sao?” (cf. Acts 8: 9-24). Nghe thế, anh phù thủy kia sợ hãi và van xin Phêrô và Gioan xin Chúa cho anh khỏi bị án phạt đó.
Từ câu chuyện này, Giáo Hội đã dùng tên anh phù thủy Simon này để chỉ một loại tội gọi là “Tội Mại Thánh (simonia, simony) mà Giáo Luật đã minh nhiên ngăn cấm qua những điều khoản sau đây:
c.149, triệt 3: “Sự chỉ định chức vụ nhờ việc mại thánh đương nhiên vô giá tri.”
c.848: “Khi ban các Bí Tích, thừa tác viên không được đòi thêm cái gì khác ngoài số tiền thù lao mà nhà chức trách có thẩm quyền đã ấn định; và phải cẩn thận đừng để những người nghèo không được lãnh nhận Bí Tích vì lý do túng thiếu.”
c.947: “Trong vấn đề bổng lễ, phải xa tránh hoàn toàn mọi hình thức buôn bán hay thương mại.”
Sách Giáo Lý Công Giáo (SGLCG) cũng đề cập đến tội này và ngăn cấm như sau:
c.2121: “Tội buôn thần bán thánh (simony) là mua hoặc bán các thực tại thiêng liêng. Pháp sư Simon muốn mua quyền lực linh thiêng ông ta thấy tác động nơi các Tông đồ, nhưng Phêrô đã trả lời ông: “tiền bạc của ngươi hãy hủy hoại đi với ngươi, vì ngươi đã tưởng lấy tiền bạc mà mua được hồng ân của Thiên Chúa” (Cv 8, 20). Thánh Phêrô đã hành động đúng như lời Chúa Giêsu dạy: “các ngươi đã nhận được nhưng không thì cũng hãy ban tặng nhưng không” (Mt 10,8).
Không thể chiếm lấy các lợi ích thiêng liêng làm của riêng mình và tùy ý sử dụng như kiểu một người sở hữu chủ hoặc một ông chủ, bởi vì các ơn ích thiêng liêng này bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể nhận được từ nơi Thiên Chúa, cách nhưng không.
c.2122: “Ngoài những khoản dâng cúng do thẩm quyền ấn định, thừa tác viên không được đòi hỏi gì cho việc ban các bí tích, và phải lo liệu để những người nghèo túng không mất ơn nhận lãnh các bí tích vì cảnh nghèo khó của họ.Thẩm quyền ấn định ‘các khoản dâng cúng’ này dựa trên nguyên tắc dân Kitô giáo phải cấp dưỡng cho các thừa tác viên của Giáo Hội “người thợ đáng được của nuôi thân” (Mt 10,10).
Dựa trên những điều Giáo Hội dạy và ngăn cấm trên đây liên quan đến “tội mại thánh” chúng ta cần hiểu rõ những áp dụng cụ thể để tránh gương xấu về loại tội này trong thực hành.
I- Lý Do Giáo Hội cho phép Giáo sĩ nhận bổng lễ (missarum, mass stipends)
Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng mặc dù việc phục vụ của giáo sĩ là bổn phận thiêng liêng chính yếu của Sứ vụ và Ơn gọi, nhưng về mặt tự nhiên giáo sĩ cũng là người như mọi người, nên phải có những nhu cầu thiết yếu và chính đáng về ăn, ở, thuốc men, quần áo, phương tiên di chuyển (đặc biệt là nhu cầu xe cộ cho các giáo sĩ làm mục vụ ở Âu Mỹ, Úc và Canada). Và để thỏa mãn những nhu cầu tối cần này, thì giáo sĩ phải được chăm sóc xứng đáng để an tâm chu toàn trách nhiệm thiêng liêng của mình. Vì thế, ở khắp nơi trong Giáo Hội – trừ Việtnam cho đến nay – giáo sĩ (Giám mục, linh mục) được trả lương tối thiểu (ngân quỹ của Địa phận hay giáo xứ) để giúp chi phí cho những nhu cầu thiết yếu về ăn, ở, thuốc men và phương tiện di chuyển.
Khoản tiền lương tối thiểu này nhiều ít khác nhau từ địa phận này sang địa phận khác, và từ quốc gia này đến quốc gia kia. (Riêng ở Đức, chánh phủ trả lương cho các giáo sĩ của mọi Giáo Hội như trả lương cho công chức). Ngoài tiền lương tối thiểu trên, Giáo Hội còn cho phép giáo sĩ được nhận thêm bổng lễ (missarum) cử hành theo ý của giáo dân xin. (Ở Mỹ, các linh mục phải khai và đóng thuế lợi tức cuối năm về tiền lương và những bổng lễ, tiền dâng cúng nhận được, nếu có, trong các dịp rửa tội, chứng hôn và cử hành nghi thức an táng).
Giáo Hội chăm lo và cho phép nhận bổng lễ dựa vào lời Chúa dạy sau đây:
- “… Hãy ở lại nhà ấy và người ta cho ăn uống thức gì thì anh em dùng thức đó vì thợ đáng được trả công” (Lk 10,7).
- “Đi đường, đừng mang bao bì, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy hay cầm gậy, vì thợ thì đáng được nuôi ăn” (Mt 10,10).
- “Anh em không biết rằng người lo cho các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao? Cũng vậy Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng” (1Cr 9: 13-14).
- “Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ tọa cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người vất vả phục vụ lời Chúa và giảng dạy. Quả vậy, Kinh Thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò đang đạp luá, và làm thợ thì đáng được trả công” (1 Tim 5: 17-18).
Trên đây là tất cả nền tảng Kinh Thánh cho việc chăm lo cho đời sống vật chất của giáo sĩ trong đó có sự cho phép nhận tiền dâng cúng trong các dịch vụ thánh được trao ban trong Giáo Hội, cụ thể như sau:
1- Bổng Lễ (Missarum, Mass stipends): các linh mục dâng Thánh lễ cầu nguyện theo ý chỉ (Intentio Missae = mass intentions) của người xin thì được hưởng một bổng lễ theo mức qui định của Tòa Giám Mục sở tại. Ở Mỹ, nói chung, thì mức bỗng lễ này là 5 dollars (có nơi qui định 10 đôla) cho đến nay. Qui định này áp dụng chung cho mọi giáo xứ, cộng đoàn tín hữu trong Địa phận, chứ không chỉ riêng cho linh mục Mỹ ở các giáo xứ Mỹ. Các linh mục ViệtNam làm việc trong các giáo xứ hay cộng đoàn ViệtNam cũng phải theo chung qui định này, nghĩa là không được phép tự ý miễn trừ cho mình để có thể lấy bổng lễ gấp đôi, gấp ba tùy tiện.
2. Tóm lại, linh mục không được phép tự ý đòi hỏi người xin lễ trả cao hơn mức qui định trên của giáo quyền địa phuơng, vì như vậy là trái với khoản Giáo luật số 848. Xin nhấn mạnh: linh mục không được phép đòi bỗng lễ cao hơn mức Giáo quyền địa phương qui định và cho phép; thí dụ đòi 20, 50 hay 100 dollars để dâng một Thánh Lễ hoặc chê ít tiền để từ chối dâng Lễ giáo dân xin.
Tuy nhiên, nếu vì hảo tâm người xin Lễ tự ý dâng cúng số tiền cao hơn mức qui định thì linh mục được phép nhận mà không có lỗi gì. Người xin Lễ cần hiểu rõ điều này để đừng tự ý đưa nhiều tiền xin một Thánh Lễ rồi lại nghĩ tại linh mục muốn đòi như vậy. Thực ra không phải tất cả các linh mục đều đòi hỏi như thế trừ người nào có ý vi phạm giáo luật vì tham tiền cách trái phép mà thôi.
Mỗi Thánh Lễ, linh mục chỉ được hưởng một bổng lễ thôi, và nếu có nhiều người xin Lễ thì linh mục không được phép gom tất cả ý lễ lại để hưởng trọn mọi bổng lễ trong một Thánh lễ. Nếu vì nhu cầu mục vụ phải gom chung trong một thánh lễ ngày Chúa nhật thì sau đó linh mục phải làm bù lại cho đủ các ý lễ với bổng lễ riêng như Giáo Luật số 948 qui định: “Phải áp dụng từng Thánh lễ cho mỗi ý chỉ vì đó mà bổng lễ đã được dâng và nhận, cho dù bổng lễ đã nhận là bé nhỏ”.
Mặt khác, tuy Giáo luật cho phép linh mục nhận bổng lễ cho mỗi Thánh Lễ, nhưngnếu giáo dân nghèo túng không có khả năng dâng cúng thì linh mục cũng được khuyên nhủ phải dâng lễ cầu theo ý người xin dù không có bổng lễ. (cf.can.945, triệt 2), nghĩa là không bó buộc phải có bổng lễ mới dâng Thánh Lễ, vì Thánh Lễ là vô giá (invaluable) không thể mua được bằng tiền bạc hay của cải vật chất nào.
2- Ban Bí tích, chủ sự lễ cưới, đám tang, làm phép nhà, xe cộ, tầu bè, nơi buôn bán v.v.
Không có khoản Giáo luật nào cho phép thừa tác viên có chức thánh (Giám mục, linh mục, phó tế) đòi tiền dâng cúng để ban một bí tích như Rửa tội, Xưng tội, Thêm sức, Xức dầu bệnh nhân, truyền Chức Thánh, hay chứng hôn hoặc cử hành nghi thức an táng. Việc dâng cúng, nếu có, là hoàn toàn do người lãnh nhận bí tích hay dịch vụ thánh tự nguyện (volunteer) dâng cho chứ không bị buộc phải làm như vậy.
Nếu thừa tác viên đòi tiền cho bất cứ dịch vụ thánh nào thì đã hành động ngược với điều Giáo Hội cho phép và biến thừa tác vụ (ministry) của mình thành hoạt động thương mại trần tục, và hiển nhiên mắc tội “mại thánh = simonia”.
Ngay cả khi được yêu cầu làm những dịch vụ thánh khác như làm phép nhà, cơ sở buôn bán, xe, tầu v.v. Giáo sĩ cũng không được phép đòi trả công nơi người xin và chỉ được phép nhận tiền hay tặng vật dâng cúng, nếu có, hoàn toàn do lòng hảo tâm của người thụ hưởng tự ý dành cho mà thôi. Đây là điểm độc đáo khác biệt giữa Giáo Hội Công Giáo và nhiều giáo phái ngoài Công Giáo. Thí dụ, các linh mục Công Giáo không được phép đòi các đôi tân hôn hay tang chủ phải trả thù lao cho việc chứng hôn hay cử hành nghi thức an táng ở nhà quàn hay nghĩa trang, trong khi các dịch vụ này đòi hỏi phải được trả thù lao ở các giáo phái khác. Có thừa tác viên (ministers) của giáo phái kia đã đòi phải trả 200 đollars cho mỗi nghi thức an táng họ cử hành (tiết lộ của nhân viên nhà quàn Mỹ ở Houston).
Riêng về việc thu lệ phí của các giáo xứ trong việc chuẩn bị và cử hành các bí tích rửa tội, thêm sức và hôn phối, cần phân biệt mục đích như sau:
Thông thường, nhiều giáo xứ ở Mỹ có thu lệ phí (10, 15, hay 20 đôla) của mỗi gia đình có con em rửa tội. Lệ phí này giúp trả phí tổn mua nến và áo trắng để phát cho các trẻ được rửa tội. Nhưng nếu vì nghèo túng, ai không thể đóng được lệ phí này thì giáo xứ cũng không được phép từ chối cho lãnh bí tích, vì bí tích không bao giờ được ban vì tiền bạc cả. Mặt khác, việc dạy giáo lý cho cha mẹ có con em xin rửa tội là trách nhiệm mục vụ của cha xứ hay linh mục đặc trách. Không hề có luật nào cho phép đòi tiền trong dịch vụ này. Nếu người thụ hưởng tự ý dâng cúng tiền đãi ngộ thì linh mục được phép nhận. Nhưng nếu đòi phải trả tiền mới cho học và cho lãnh bí tích thì đây lại là hành vi mại thánh và rõ ràng muốn gắn tiền bạc vào điều kiện để lãnh nhận bí tích.
Việc dạy giáo lý và chứng hôn cũng thế. Nếu làm vì tiền thì chắc chắn là sai trái. Tuy nhiên, cần phân biệt tiền đòi ở đây khác với lệ phí giáo xứ thu để tập dượt (rehearsal) cho đôi tân hôn và cho sử dụng nhà thờ để cử hành bí tích hôn phối hoặc lệ phí phải trả cho ca đoàn hát lễ cưới.
II- Tội Mại Thánh (Simonia, Simony)
Việc nhận bổng lễ theo ý và trong khuôn khổ cho phép của Giáo Hội hoàn toàn khác với chủ ý đòi bổng lể để cử hành Thánh lễ hay ban các Bí tích và làm các dịch vụ thánh khác. Do đó, trước hết trong nội bộ Giáo Hội, nếu ai để tiền bạc chi phối trong việc tiến cử người vào các chức vụ lãnh đạo Gíáo phận, Dòng tu, trong việc tuyển chọn và truyền chức thánh, trong việc nhận và cho khấn Dòng thì chắc chắn đã phạm tội simonia, làm gương xấu cho người khác, và làm ô nhục cho Giáo Hội. Những ai đã và đang còn âm thầm làm việc bất chính này thì hãy chuẩn bị để trả lời trước Chúa công thẳng về tội “buôn thần bán thánh” của mình. Trong thực hành, người xin và người làm các dịch vụ thánh như xin Lễ, ban Bí tích, làm phép người hay đồ vật, cầu nguyện cho ai với mục đích lấy tiền thì đó là tội mại thánh đáng bị lên án trong Giáo Hội.
Phải nói ngay ở đây là tiền bạc hay tặng phẩm vật chất chỉ có giá trị giúp đỡ cho giáo sĩ có chức thánh thi hành nhiệm vụ thánh trong tinh thần “người phục vụ Bàn Thánh thì được hưởng lộc bàn thờ” (1 Cr 9:13) như Thánh Phao lô dạy mà thôi, chứ hoàn toàn không hề có giá trị cứu rỗi hay lợi ích thiêng liêng nào cho ai, nhất là cho các linh hồn nơi luyện tội. Việc cầu nguyện hay xin Lễ cầu cho các linh hồn là việc bác ái thiêng liêng cao quí rất đáng khuyến khích trong Giáo Hội, nhưng đừng ai hiểu lầm rằng hễ bỏ ra nhiều tiền, xin nhiều lễ thì linh hồn mau được cứu rỗi. Tiền bạc chắn chắn không thể mua ơn Cứu độ và Nước Thiên Đàng, vì nếu có như vậy, thì người ta khỏi cần sống Đạo cho hẳn hoi, cứ việc ăn chơi thỏa thích rồi tiết kiệm nhiều tiền để khi chết nhờ người khác xin Lễ cho là xong.
Ngược lại, chúng ta phải hiểu rằng Ơn Cứu Độ được ban trước hết do lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và cậy nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cộng thêm phần đóng góp của cá nhân vào Ơn Cứu Độ này khi còn sống trên đời. Nhưng nếu không có lòng thương xót và công nghiệp của Chúa Cứu Thế Giêsu thì không ai được cứu rỗi, cho dù người ta có bao nhiêu tiền của và xin bao nhiêu Thánh lễ, nhờ muôn ngàn người cầu nguyện cho.
Ngược lại, nếu chỉ dựa vào công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô thôi và không cộng tác chút nào vào công nghiệp này bằng nỗ lực cải thiện đời sống theo tinh thần Phúc Âm và thực hành những giới răn căn bản thì Chúa không thể cứu ai được, nói chi đến việc nhờ người khác xin Lễ cầu nguyện thay cho mình. Đây là căn bản tín lý và thần học về việc cứu rỗi (salvation).
Nhân đây, tôi phải nói đến một việc rất sai trái đã và đang được làm ở một vài nơi liên quan đến việc xin Lễ cầu cho các linh hồn. Đó là việc một vài nhà Dòng, Tu Hội địa phương đã đưa sáng kiến xin “Lễ đời đời” cho các linh hồn và nhận tiền hội viên vào “Hội đời đời” hay mua “hậu” cho những người còn sống. Tôi quả quyết việc làm này hoàn toàn sai thần học và tín lý Công giáo và mang tính mại thánh rất trầm trọng.
Thật vậy, trước hết, làm sao ta biết một linh hồn bị phạt đời đời mà còn cầu nguyện cho họ? Theo giáo lý của Giáo Hội thì một người chết khi đang mắc tội trọng (mortal sin) không kịp ăn năn thống hối và được tha thứ qua Bí Tích Hòa Giải thì phải chịu án phạt đời đời trong nơi gọi là hỏa ngục (hell) (cf GLCG, nn. 1033-35). Mặt khác theo tín điều các Thánh thông công, thì chỉ có sự hiệp thông (communion) giữa các tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành trên trần thế, với các linh hồn thánh trong nơi luyện tội và các Thánh trên Thiên đàng. (cf. SGLCG, n. 962). Tuyệt đối không có sự hiệp thông nào với những người bị án phạt đời đời (eternity) trong hỏa ngục.
Vậy xin và làm Lễ đời đời để cầu nguyện cho ai? Các linh hồn thánh (holy souls) chỉ ở trong Luyện tội (Purgatory) có thời hạn chứ không ở đó vĩnh viễn đời đời, nênkhông có lý do gì để “cầu đời đời cho các linh hồn nơi chốn thanh luyện cuối cùng này”.
Sau hết, làm sao người nhận tiền Lễ đời đời có thể sống mãi trên trần gian này để thi hành lời hứa cầu nguyện đời đời cho các linh hồn ấy? Như vậy, ý niệm cầu nguyện đời đời là hoàn toàn không có căn bản thần học và nền tảng tín lý nào.
Việc gia nhập “Hội Ðời Ðời” hay “Mua Hậu” cho người còn sống cũng là chuyện dối trá, không có căn bản giáo lý, tín lý nào. Giáo Hội chỉ khuyến khích việc cầu nguyện cho các linh hồn nơi Luyện tội mà thôi, chứ không dạy mua “bảo hiểm đời sau” cho bất cứ ai còn sống cũng như cầu cho những người trong hỏa ngục vì “họ đã bị xa lìa khỏi Thiên Chúa đời đời” rồi (cf. SGLCG, n.1035).
Đối với những người còn sống trên trần thế, thì chỉ có giới răn của Chúa và giáo lý của Giáo Hội dạy phải biết sống sao cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng Cứu Độ là mến Chúa, yêu người và cộng tác với Ơn thánh để được cứu rỗi, chứ không hề có giáo lý, tín lý, giáo luật nào đòi hỏi hay khuyên nên “khoán trắng” việc rỗi linh hồn của mình cho người khác cầu nguyện thay cho qua cái gọi là “Hội Đời Đời” hay “Mua Hậu” do ai chủ xướng với mục đích buôn thần bán thánh. Tôi quả quyết việc làm này là hoàn toàn sai trái và có tính chất mại thánh nghiêm trọng để lưu ý những ai vì không biết nên đã tham gia vào việc dối trá này, nhất là nhắc chonhững ai chủ xướng hãy chấm dứt ngay dịch vụ mại thánh nghiêm trọng này, vì nó hoàn toàn đi ngược lại với đức tin và giáo lý Công Giáo tinh tuyền.
Cũng trong phạm trù “mại thánh”, không có giáo lý, giáo luật nào cho phép giáo sĩ từ chối ban Bí tích cho ai vì lý do không ghi tên nhập giáo xứ và đóng góp tiền hỗ trợ giáo xứ. Càng không có giáo lý, giáo luật nào cho phép từ chối cử hành nghi thức an táng nếu người chết hay tang gia không phải là giáo dân có ghi tên nhập giáo xứ và đã sử dụng phong bì dâng cúng tiền (collections envelope) cho nhà thờ. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa Giáo Hội Công giáo và nhiều giáo phái Tin lành. Cụ thể, giáo phái Baptist khai trừ những thành viên nào đã ghi tên gia nhập mà không đóng tiền dâng cúng đều đặn. Dĩ nhiên, họ sẽ không còn trách nhiệm gì đối với các thành viên đã bị khai trừ ra khỏi Cộng đoàn của họ.
Ngược lại, Cha xứ Công giáo không có quyền đe dọa ai không vào giáo xứ, không dùng phong bì dâng cúng tiền, thì không được lãnh nhận bí tích và không được hưởng nghi thức an táng khi chết. Việc ghi tên nhập giáo xứ (registration for membership) chỉ có mục đích mục vụ (pastoral care) mà thôi chứ không phải là điều kiện để lãnh bí tích hay được cử hành nghi thức an táng theo giáo luật. Xin nhớ kỹ điều này.
3. Cũng xin nói rõ thêm là việc xin Lễ cầu nguyện cho các linh hồn được khuyến khích trước hết để nói lên sự hiệp thông giữa các linh hồn nơi luyện tội (Purgatory) và các tín hữu còn sống trong Giáo Hội lữ hành, cũng như với các thánh nam nữ trên Trời, như Tín điều các thánh thông công dạy. Ngoài ra, xin lễ cầu cho kẻ chết cũng nói lên lòng bác ái thiêng liêng giữa người còn sống và kẻ đã qua đời và chắc chắn việc bác ái này có ích lợi cho các linh hồn nơi luyện tội.
Nhưng tuyệt đối không có vấn đề phải xin lể với bổng lễ to, phải được rao tên trước Cộng đoàn hay phải kéo nhiều chuông, bật nhiều đèn thì sẽ được hưởng ơn ích thiêng liêng nhiều hơn là một thánh lễ làm âm thầm, không bỗng lễ, không rao, không chuông, đèn nến. Nói khác đi, xin một Thánh lễ với bổng lễ 5 dollars hay 50.000 dollars để cầu cho ai, hay cho việc gì thì chỉ có giá trị về mặt trợ giúp vật chất cho Thừa tác viên cử hành chứ không có giá trị thiêng liêng nào cho người thụ hưởng lợi ích của Thánh lễ đó. Ơn thánh Chúa ban cho người thụ hưởng nhờ lời cầu nguyện của Giáo Hội là nhưng không (gratuitous) nghĩa là không lệ thuộc vào bổng lễ ít nhiều của người xin.
Như vậy, đừng ai bao giờ nghĩ rằng xin lể hay xin cầu nguyện với bổng lễ to thì có hiệu lực thiêng liêng nhiều hơn bổng lễ nhỏ hay không có bổng lễ. Nếu xin với ý này thì đó là “muốn dùng tiền của để mua ơn thánh”, để mua Nước Trời và như vậy là mắc tội “mại thánh” về phía người xin. Ngược lại, về phía người làm (thừa tác viên) nếu gián tiếp hay trực tiếp gây cho giáo dân ngộ nhận rằng xin lễ xin cầu nguyện với bổng lễ to sẽ được nhiều ơn ích thiêng liêng hơn bổng lễ nhỏ thì cũng phạm tội mại thánh cách chắc chắn. Việc có rao tên, có kéo chuông, và đốt nhiều đèn nến không có giá trị thiêng liêng nào trước mặt Chúa mà chỉ có tác dụng phô trương trước mặt người đời mà thôi.
Cũng xin nói rõ là theo Lễ Qui phụng vụ của Giáo Hội, thì có ba bậc cử hành sau đây:
1- Lễ Trọng (solemnity): dành cho những dịp đặc biệt như Lễ Chúa Giáng Sinh, Lễ Phục Sinh, Lễ Chúa Ba Ngôi, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời, Lễ Thánh Giuse 19/3, Lể Kính hai Thánh Phêrô-Phaolô, Thánh Gioan Tẩy Giả (24/6), Lễ Trọng có 3 bài đọc, có Kinh Tiền Tụng (Preface) riêng và phải đọc kinh Sáng Danh (Gloria), Kinh Tin Kinh (Creed).
2- Lễ Kính (Feast): dành để kính các Thánh quanh năm và một số dịp đặc biệt như kỷ niệm cung hiến Thánh Đường v. v. Lễ kính chỉ có bài đọc một và bài Phúc âm, đọc Kinh Sáng danh, nhưng không đọc kinh Tin kính.
3- Lễ Nhớ (memorial): trong mọi dịp ngoài hai trường hợp nói trên. Lể nhớ không phải đọc kinh Sáng Danh và kinh Tin Kính, và chỉ có 2 bài đọc.
Sự phân chia này chỉ nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng hay đặc biệt của mỗi dịp cử hành chứ không nói lên giá trị khác biệt về phụng tự (cult, worship) vì mọi Thánh Lễ đều là Hy Tế của chính Chúa Giêsu và là hành động tạ ơn, ngợi khen Thiên Chúa Cha mà Giáo Hội nhờ Chúa Giêsu dâng lên Ngài qua việc cử hành Thánh Lể. Do đó,mọi Thánh Lễ đều có giá trị tuyệt đối và không thể đo lường được bằng tiền bạc.
Ngoài ba trường hợp đặc biệt nêu trên, mọi lễ cầu nguyện theo ý người xin đều có chung một bậc là lễ nhớ, chứ không hề có bậc nhất, bậc nhì, bậc ba với giá tiền khác nhau như đã có sự lạm dụng ở nhiều nơi từ xưa đến nay. Việc tự ý phân chia bậc trong lễ cầu cho các linh hồn, kèm thêm nhửng thủ tục như rao tên người xin lể, kéo chuông trước sau Lễ, đốt thêm đèn nến trong nhà thờ chỉ là hình thức bề ngoài không có giá trị thiêng liêng nào. Tệ hại hơn nữa là nếu tạo ra những hình thức này để lấy thêm tiền và gây nhộ nhận về giá trị thiêng liêng thì đó chắc chắn là việc làm có nội dung mại thánh cần phải tránh.
Tóm lại, Thừa tác viên không bao giờ được phép cử hành thánh lễ hay ban một bí tích nào để lấy tiền cả. Giáo dân cũng không được dùng tiền của để mua ơn thánh. Do đó phải lên án và xa tránh mọi việc “buôn thần bán thánh” tức tội simonia trong việc cử hành các Bí Tích và mọi dịch vụ thánh khác trong Giáo Hội.
Việc dâng cúng tiền bạc hay tặng vật của giáo dân cho các giáo sĩ thi hành quyền thánh (sacra potestas) phải là hành động tự nguyện (voluntary) do lòng biết ơn và hảo tâm chứ không phải là việc bắt buộc, một sự đổi chác có tính thương mại. Ai làm với mục đích này thì rõ rệt đã mắc tội mại thánh (simonia).
Là Dân Chúa trong Giáo Hội, và với thiện chí xây dựng cho Giáo Hội ngày thêm tinh tuyền, thánh thiện, để phúc âm hóa hữu hiệu người khác, chúng ta cần lưu ý điều này để tránh gương xấu có hại cho uy tín của Giáo Hội, của hàng giáo sĩ thừa tác đang xả thân phục vụ cho giáo dân ở trong nước cũng như hải ngoại. Chắc chắn đây chỉ là gương xấu rất hạn chế chứ không phổ biến trong Giáo Hội vì đại đa số giáo sĩ ở khắp mọi nơi đều ý thức rõ gương xấu này và không hề dung túng hay lạm dụng trong khi thi hành sứ vụ thánh của mình.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Cảm Nghĩ khi đọc bài: Tội Mại Thánh của Linh-mục Ngô Tuân Huấn…
Xin cám ơn Linh-mục Huấn đã lý giải và đưa ra những điều mà giáo dân Việt nam bị che mờ khiến các Linh-mục xập xí xập mầu, tảng lờ, để tự ý mình cho mình quyền nhận bổng lộc với giá “cắt cổ” và nhất là đã khiến người tín hữu Việt nam mang nặng trong mình sắc thái của kẻ nô lệ, cứ tưởng đưa tiền nhiếu là phúc nhiều… nhưng ngờ đâu lại nối giáo cho giặc và mang tội “mại thánh” cho chính mình…. Xuống hoả ngục đời đời… hỡi những ai toa rập và không hiểu lý lẽ, đã tạo cơ hội cho những kẻ buôn thần bán thánh có cơ hội “cướp” tiền của giáo dân với trạng thái của kẻ trên, khiến giáo dân càng lầm tưởng và sai lệch đời sống đức tin trầm trọng…
Tuy nhiên, một điều mà người đọc thắc mắc với linh mục Ngô Tôn huấn là: Tại sao các linh-mục biết rỗ điều Hội-thánh dậy, nhưng không một linh mục chánh phó xứ nào viết thông báo hay giảng giải và nhất là nhắc nhở thường xuyên cho giáo dân rõ ràng về tiền xin lễ, mà hầu hết tất cả các linh-mục giả mù xa mưa… dối trá và trắng trợn lọc lừa giáo dân… Xin linh-mục Huấn hãy viết thêm… và thêm nữa để đánh động kẻ gian.. dù biết rằng sẽ không hữu nghiệm đi nữa, nhất là những thợ săn càng ngày càng tỏ ra bất chính và kém đạo đức… một bất hạnh cho Giáo-hội.. như một số linh-mục về giáo xứ chỉ vài năm mà đã tậu nhà, tậu xe đắt tiền…
Ngoài ra, nếu một bổng lộc cho một thánh lễ, dù có rao cả mấy chục linh hồn, thì linh hồn nào được hưởng???? và các linh hồn kia có thật sự được linh-mục làm bù hay rồi…. “tự quên xí xoá”.. vì trong một tuần cả bao nhiêu linh hồn… các linh-mục có thật sự mỗi ngày sẽ làm thêm bốn năm lễ … có khi cả chục lễ…để bù và theo ý chỉ từng lễ cho từng linh hồn như giáo-hội ấn định và bắt buộc không???? Vì nếu như vậy có lẽ linh mục không có giờ ăn, đấy là chưa nói tới đi vacation cả tháng thì giờ đâu mà làm lễ bù… Xin linh mục Ngô Tôn Huấn lấy kinh nghiệm của mình giải nghĩa và cho giáo dân câu trả lời…
Xin linh-mục Ngô Tôn Huấn cũng giải thích thêm và xác nhận về tiền xin lễ là tài sản của giáo xứ hay của cá nhân linh-mục theo luật của địa phận … Riêng về việc đóng thuế thì có lẽ chỉ có Chuá biết… vì nói ra có lẽ linh-mục nào cũng sẽ bình thản trả lời: tôi là người công chính làm gì có chuyện trốn thuế đúng không thưa linh mục Huấn...
Ngô Thực Tại Nhân
Sự Việc Người Công Giáo Luôn Luôn Suy Nghĩ
Điều Tôi Nghe… Hội chợ Crawfish CTTĐVN, Houston
Người công giáo luôn nghĩ: “Linh mục là đại diện của Thiên Chúa”. Nhưng với cháu: “Linh mục không phaỉ là người đại diện của Thiên Chúa, mà chỉ là công cụ của Thiên Chúa mà thôi. Vì nếu là đại diện của Thiên Chúa, các linh-mục đã không sống trái với lương tâm, thiếu trách nhiệm và sống sai với bản thể của Đức Kitô”.
Cháu còn trẻ, nhưng cháu luôn cố gắng tìm cho mình phương hướng sống của một Kitô giáo hơn là chỉ là một người công giáo, nên hôm nay chaú xin kể một câu chuyện thật, rất thật vừa xảy ra cho cháu, mà cháu đã may mắn hay bất hạnh được nghe qua cháu không biết:
Hôm nay là ngày Chủ-nhật, ngày 5 tháng năm, cháu đi tham dự Thánh lễ tại giáo xứ CTTĐVN. Cháu không phải là con chiên họ đạo này, mà chỉ đi vì người bạn rủ tham dự hội chợ crawfish. Trong buổi lễ, cháu đã nghe bài giảng của vị linh-mục phó xứ. Cháu không biết vị linh-mục này, chỉ nhìn qua và có chút khái niệm, một linh-mục có cặp mắt hơi nhỏ và chút gì đó khiến cháu suy nghĩ ngay về câu nói của qúy cụ xưa: “hi hí mắt lươn”… Bài giảng xấp xỉ 30 phút, kể ra rất dài so với các linh mục khác…. Vì quanh quẩn và không cô động nên cháu không rút được điều gì đặc biệt. Hơn nữa, cháu cũng hiều rằng, một bài giảng thuyết hay, luôn là sự bắt nguồn từ con tim của người thuyết giảng, nhưng cháu không tìm thấy ở vị linh-mục này, mà chỉ cảm thấy sự phô trương đạo đức nhu mì để che mắt giáo dân mà thôi… Nhưng đây chỉ là cảm nghiệm của cháu…Tuy nhiên, cháu không muốn đào sâu và quên ngay khái niệm của mình….
Sau thánh lễ, cháu xuống hội trường, tìm một chiếc bàn.. cháu đợi bạn cháu. Và một tình cờ cháu nghe được câu chuyện của hai người bạn trẻ, trẻ hơn cháu. Họ nói rất nhỏ, nhưng vì tai cháu trời phú cho rất thính nên mặc dù rất ồn ào cháu vẫn có thể nghe dễ dàng.
Người bạn vận áo sơ mi trắng, cháu tạm gọi là A nói với người bạn vận áo T shirt màu nâu, cháu gọi là B. A nói với B:
- Mầy thấy bài giảng hôm nay thế nào.
- Dài, dai, dở…
- Theo tao cũng không dở, nhưng tao nghĩ giả dối thì đúng hơn…
- Sao mày lại nói thế, tội chết.
- Thôi thì đành chịu. Chứ mày biết không, ông linh mục phó xứ này mới về đây bốn năm năm mà đã tậu được căn nhà, ba bốn trăm ngàn ở vùng Northwest Houston. Tao hỏi mày, mày là kỷ sư, mày phải làm bao lâu mới để dành nổi một trăm ngàn mỹ kim? Đấy là chưa kể tiền cash, rồi tiền về Việt nam, đi đây đi đó. Chính vì thế tao đã nghĩ tao đổi môn học rồi xin vào chủng viện nào đó mai mốt đỗ cha, vừa muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm không có thằng tây nào dám hé môi, vì hé môi là tao phán tội xuống hoả ngục.
- Mày nói bậy, làm gì có chuyện đó.
- Ôi, rất nhiều người biết rất rõ linh mục này sống rất bề ngoài, miệng thì con.. con.. nhưng lòng thì không phải thế đâu. Chứ mày nghĩ xem, làm sao chỉ mấy năm mà gia tài cả nửa triệu dollars… đấy là chỉ là cha phó… Tao không biết, nếu mai mốt tao đi tu, làm linh mục, mà được về giáo xứ Việt Nam như giáo xứ CTTĐVN này, thì chắc tao kiếm tiền triệu dễ dàng, vừa khỏi phải vất vả, vừa muốn nói gì thì nói, mà có giờ đi đây đi đó không ai dám hé môi …
Anh A tiếp:
- Người ta còn nói, Linh mục Việt Nam nào mà muốn làm triệu phú nhanh chỉ cần toa rập hay đút lót với toà giám mục là xong ngay. Chuyện thế gian mà, các linh mục tưởng giáo dân ngu, nhưng họ không ngu đâu, nhưng vì cả nể không nói mà thôi. Người ta chửi cộng sản là kẻ bóc lột, nhưng nếu các linh mục mà không biết sống ngay lành thì có khác chi đâu đúng không?
Anh B đảo mắt nhìn quanh, thấy cháu, nên bấm anh A. Cháu tảng lờ quay đi. Một chút suy nghĩ về những câu nói của mấy người bạn cùng bàn đang rỉa rả tâm sự với nhau….
Vừa lúc đó bạn cháu cũng tới. Cháu bắt tay định đứng lên đi mua thức ăn với bạn. Nhưng bạn cháu bảo ngồi xuống để anh ấy đi mua luôn cho cháu. Con gái sướng thật, đi đâu cũng có người giúp..
Vừa lúc đó, anh A lại thản nhiên:
- Mày nghĩ gì về tiền kiếm được của hội chợ như thế này. Tao nghe người ta kháo với nhau, không biết giáo xứ làm gì với số tiền này. Mỗi năm kiếm ba bốn trăm ngàn tiền hội chợ mà giáo xứ thì đã chi trả hết, thế thì tiền này đi đâu và làm gì. Người giáo dân thì quá vất vả, giá cả thì cao, hội chợ đáng lý tổ chức ra là để tạo cơ hội cho giáo dân vui hưởng, thì lại là cơ hội làm tiền, mà lại làm tiền nơi đền Thánh mới lạ chứ… nhưng giá đồng tiền này được trang trải một phần nào cho người nghèo, khuyết tật hay cơ quan từ thiện thì không có điều gì phải đáng chê bôi phải không mày? Hơn nữa, các linh mục Việt nam lại chúa trốn thuế, ít khi mà khai báo sự thật, vì đức công bằng của các linh mục chánh phó xứ Việt Nam là khai lỗ, khai ít tiền thu chừng nào hay chừng đó… Nhất là tiền xin lễ… có mấy vị linh mục bỏ vào qũy của giáo-xứ theo đúng luật của toà giám mục không? Hay đều xập xí xập mầu “chôm” làm của riêng mình lại còn trốn thuế. Đức công bằng mà các linh mục giảng hàng ngày đi đâu???? Mày nghĩ tao nói có quá đáng không hay đây chỉ là sự thật mà linh-mục nào cũng phải thức tỉnh và hiểu rõ mình là tấm gương mà các giáo hữu noi theo. Mà còn một điều nữa nhé, mày biết không, khi về giáo xứ này, linh mục phó xứ này rất nghèo chứ không có của gì đâu… Mày nghĩ tao nên đi làm linh mục là chí lý chứ… tao sẽ bỏ nghề của tao xin đi tu…
Vừa nghe tới đây, bạn tôi trở lại… và câu chuyện bị cách quãng…
Cháu xin viết những dòng này để hy vọng chia sẻ một chút nào đó với những ai có tâm huyết thật để tránh đi phần nào những ung nhọt, một con sâu làm rầu nồi canh, nhất là nếu thật sự linh mục phó xứ CTTĐVN tại Houston mà tậu nhà, tậu xe mắc tiền như thế thì quá ư là “quá đáng” và đáng lên án… Vì tiền của linh mục phó xứ rất khiêm nhường làm sao có thể để dành, nhất là phô trương đến thế… nếu không thu góp và trái đức công bằng… Cháu cũng xin thưa, cháu chỉ viết lại những gì cháu nghe hôm hội chợ mà thôi…
Kẻ ngoài Giáo Xứ.
Hồ T.T.T
Đaị học Houston ngày 5-5-2014
Điều Tôi Nghe… Hội chợ Crawfish CTTĐVN, Houston
Người công giáo luôn nghĩ: “Linh mục là đại diện của Thiên Chúa”. Nhưng với cháu: “Linh mục không phaỉ là người đại diện của Thiên Chúa, mà chỉ là công cụ của Thiên Chúa mà thôi. Vì nếu là đại diện của Thiên Chúa, các linh-mục đã không sống trái với lương tâm, thiếu trách nhiệm và sống sai với bản thể của Đức Kitô”.
Cháu còn trẻ, nhưng cháu luôn cố gắng tìm cho mình phương hướng sống của một Kitô giáo hơn là chỉ là một người công giáo, nên hôm nay chaú xin kể một câu chuyện thật, rất thật vừa xảy ra cho cháu, mà cháu đã may mắn hay bất hạnh được nghe qua cháu không biết:
Hôm nay là ngày Chủ-nhật, ngày 5 tháng năm, cháu đi tham dự Thánh lễ tại giáo xứ CTTĐVN. Cháu không phải là con chiên họ đạo này, mà chỉ đi vì người bạn rủ tham dự hội chợ crawfish. Trong buổi lễ, cháu đã nghe bài giảng của vị linh-mục phó xứ. Cháu không biết vị linh-mục này, chỉ nhìn qua và có chút khái niệm, một linh-mục có cặp mắt hơi nhỏ và chút gì đó khiến cháu suy nghĩ ngay về câu nói của qúy cụ xưa: “hi hí mắt lươn”… Bài giảng xấp xỉ 30 phút, kể ra rất dài so với các linh mục khác…. Vì quanh quẩn và không cô động nên cháu không rút được điều gì đặc biệt. Hơn nữa, cháu cũng hiều rằng, một bài giảng thuyết hay, luôn là sự bắt nguồn từ con tim của người thuyết giảng, nhưng cháu không tìm thấy ở vị linh-mục này, mà chỉ cảm thấy sự phô trương đạo đức nhu mì để che mắt giáo dân mà thôi… Nhưng đây chỉ là cảm nghiệm của cháu…Tuy nhiên, cháu không muốn đào sâu và quên ngay khái niệm của mình….
Sau thánh lễ, cháu xuống hội trường, tìm một chiếc bàn.. cháu đợi bạn cháu. Và một tình cờ cháu nghe được câu chuyện của hai người bạn trẻ, trẻ hơn cháu. Họ nói rất nhỏ, nhưng vì tai cháu trời phú cho rất thính nên mặc dù rất ồn ào cháu vẫn có thể nghe dễ dàng.
Người bạn vận áo sơ mi trắng, cháu tạm gọi là A nói với người bạn vận áo T shirt màu nâu, cháu gọi là B. A nói với B:
- Mầy thấy bài giảng hôm nay thế nào.
- Dài, dai, dở…
- Theo tao cũng không dở, nhưng tao nghĩ giả dối thì đúng hơn…
- Sao mày lại nói thế, tội chết.
- Thôi thì đành chịu. Chứ mày biết không, ông linh mục phó xứ này mới về đây bốn năm năm mà đã tậu được căn nhà, ba bốn trăm ngàn ở vùng Northwest Houston. Tao hỏi mày, mày là kỷ sư, mày phải làm bao lâu mới để dành nổi một trăm ngàn mỹ kim? Đấy là chưa kể tiền cash, rồi tiền về Việt nam, đi đây đi đó. Chính vì thế tao đã nghĩ tao đổi môn học rồi xin vào chủng viện nào đó mai mốt đỗ cha, vừa muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm không có thằng tây nào dám hé môi, vì hé môi là tao phán tội xuống hoả ngục.
- Mày nói bậy, làm gì có chuyện đó.
- Ôi, rất nhiều người biết rất rõ linh mục này sống rất bề ngoài, miệng thì con.. con.. nhưng lòng thì không phải thế đâu. Chứ mày nghĩ xem, làm sao chỉ mấy năm mà gia tài cả nửa triệu dollars… đấy là chỉ là cha phó… Tao không biết, nếu mai mốt tao đi tu, làm linh mục, mà được về giáo xứ Việt Nam như giáo xứ CTTĐVN này, thì chắc tao kiếm tiền triệu dễ dàng, vừa khỏi phải vất vả, vừa muốn nói gì thì nói, mà có giờ đi đây đi đó không ai dám hé môi …
Anh A tiếp:
- Người ta còn nói, Linh mục Việt Nam nào mà muốn làm triệu phú nhanh chỉ cần toa rập hay đút lót với toà giám mục là xong ngay. Chuyện thế gian mà, các linh mục tưởng giáo dân ngu, nhưng họ không ngu đâu, nhưng vì cả nể không nói mà thôi. Người ta chửi cộng sản là kẻ bóc lột, nhưng nếu các linh mục mà không biết sống ngay lành thì có khác chi đâu đúng không?
Anh B đảo mắt nhìn quanh, thấy cháu, nên bấm anh A. Cháu tảng lờ quay đi. Một chút suy nghĩ về những câu nói của mấy người bạn cùng bàn đang rỉa rả tâm sự với nhau….
Vừa lúc đó bạn cháu cũng tới. Cháu bắt tay định đứng lên đi mua thức ăn với bạn. Nhưng bạn cháu bảo ngồi xuống để anh ấy đi mua luôn cho cháu. Con gái sướng thật, đi đâu cũng có người giúp..
Vừa lúc đó, anh A lại thản nhiên:
- Mày nghĩ gì về tiền kiếm được của hội chợ như thế này. Tao nghe người ta kháo với nhau, không biết giáo xứ làm gì với số tiền này. Mỗi năm kiếm ba bốn trăm ngàn tiền hội chợ mà giáo xứ thì đã chi trả hết, thế thì tiền này đi đâu và làm gì. Người giáo dân thì quá vất vả, giá cả thì cao, hội chợ đáng lý tổ chức ra là để tạo cơ hội cho giáo dân vui hưởng, thì lại là cơ hội làm tiền, mà lại làm tiền nơi đền Thánh mới lạ chứ… nhưng giá đồng tiền này được trang trải một phần nào cho người nghèo, khuyết tật hay cơ quan từ thiện thì không có điều gì phải đáng chê bôi phải không mày? Hơn nữa, các linh mục Việt nam lại chúa trốn thuế, ít khi mà khai báo sự thật, vì đức công bằng của các linh mục chánh phó xứ Việt Nam là khai lỗ, khai ít tiền thu chừng nào hay chừng đó… Nhất là tiền xin lễ… có mấy vị linh mục bỏ vào qũy của giáo-xứ theo đúng luật của toà giám mục không? Hay đều xập xí xập mầu “chôm” làm của riêng mình lại còn trốn thuế. Đức công bằng mà các linh mục giảng hàng ngày đi đâu???? Mày nghĩ tao nói có quá đáng không hay đây chỉ là sự thật mà linh-mục nào cũng phải thức tỉnh và hiểu rõ mình là tấm gương mà các giáo hữu noi theo. Mà còn một điều nữa nhé, mày biết không, khi về giáo xứ này, linh mục phó xứ này rất nghèo chứ không có của gì đâu… Mày nghĩ tao nên đi làm linh mục là chí lý chứ… tao sẽ bỏ nghề của tao xin đi tu…
Vừa nghe tới đây, bạn tôi trở lại… và câu chuyện bị cách quãng…
Cháu xin viết những dòng này để hy vọng chia sẻ một chút nào đó với những ai có tâm huyết thật để tránh đi phần nào những ung nhọt, một con sâu làm rầu nồi canh, nhất là nếu thật sự linh mục phó xứ CTTĐVN tại Houston mà tậu nhà, tậu xe mắc tiền như thế thì quá ư là “quá đáng” và đáng lên án… Vì tiền của linh mục phó xứ rất khiêm nhường làm sao có thể để dành, nhất là phô trương đến thế… nếu không thu góp và trái đức công bằng… Cháu cũng xin thưa, cháu chỉ viết lại những gì cháu nghe hôm hội chợ mà thôi…
Kẻ ngoài Giáo Xứ.
Hồ T.T.T
Đaị học Houston ngày 5-5-2014
MỘT THOÁNG SUY TƯ VỀ GIÁO HỘI CG VIỆTNAM (Bài I)
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Lời Tòa Soạn: Theo tác giả, loạt bài Một Thoáng Suy Tư Về GHCGVN được viết từ cuối năm 2004 chỉ để gửi riêng cho một số chức sắc CG ở quốc nội. Đầu năm 2005, khi chia sẻ loạt bài này với một anh em trong nhóm chủ trương DĐGD, linh mục căn dặn tuyệt đối không phổ biến. Và người anh em chúng tôi đã giữ đúng lời cam kết với ngài.
Nhưng trong những ngày đầu tháng 8, không hiểu từ đâu và vì sao, một phần loạt bài đã được đưa lên NET. Sau khi điện đàm và trao đổi thư từ với linh mục tác giả, được sự đồng ý, chúng tôi chính thức công bố để rộng đường dư luận. Và dưới đây là bài 1.
Sau loạt bài này, với tư cách là một diễn đàn của người tín hữu giáo dân, chúng tôi sẽ chính thức trình bày quan điểm của mình và cũng ước mong nhận được những ý kiến từ mọi phía.
Tuy sống xa quê nhà trên 20 năm và đã phục vụ cho Giáo Hội Hoa Kỳ trong hơn 16 năm qua, tôi vẫn luôn cảm thấy gắn bó sâu xa với Giáo Hội Việt Nam tại quê hương là người Mẹ đã sinh tôi ra trong đức tin qua phép Rửa và Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô. Đây quả thật là một món nợ thiêng liêng mà tôi không thể đền đáp cách tương xứng được. Tuy nhiên trong khả năng và thiện chí hạn hẹp, tôi cũng cố gắng trả ơn Giáo Hội Mẹ trước hết bằng lời cầu nguyện thiết tha cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội tại quê nhà để mọi người không những giữ vững đức tin mà còn sống đức tin ấy cách kiêu hùng trong mọi hoàn cảnh khó khăn của quê hương và Giáo Hội.
Thật vậy, nghĩ đến Giáo Hội Mẹ tại quê nhà, trước hết tôi luôn cảm kích mạnh mẽ về gương sống đức tin của Hàng Giáo phẩm Việt Nam, của các bậc cha anh trong hàng giáo sĩ nói riêng và của toàn thể giáo dân Việt Nam nói chung.
Giáo Hội Việt Nam, từ thuở khai sinh cho đến nay, đã trải qua biết bao gian nan thử thách, đe dọa sự sống còn của hạt giống đức tin do các thừa sai dũng cảm và nhiệt thành mang đến gieo trồng và được lớn lên nhờ máu các Thánh Tử Đạo tiền nhân anh dũng đổ ra để vun trồng cho lớn mạnh như ngày nay. Khó khăn, thách đố rõ ràng đã không cản trở được mà ngược lại còn giúp cho Giáo Hội thêm tăng trưởng, sống mạnh trong đức tin và quyết tâm gắn bó với sứ mạng của mình. Gương sống thánh thiện và nhiệt thành trong Sứ vụ (Ministerium) của biết bao vị trong hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ cũng như gương anh dũng sống đức tin của giáo dân từ Bắc xuống miền nam đã và đang như những tiếng kèn thúc quân hăng hái xông pha vào chiến trận giành thắng lợi cho Chúa Kitô trên quê hương Việt Nam, trước mọi thế lực của thù địch muốn ngăn cản sứ mệnh phúc âm hóa của Giáo Hội…
Tuy nhiên, lòng biết ơn và cảm kích sâu xa đối với hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Việt Nam tại quê nhà cũng không ngăn cản tôi muốn chân thành bày tỏ một vài quan ngại về hiện tình Giáo Hội Mẹ với ước mong góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển Giáo Hội trên quê hương.
Thật vậy, khi ta yêu mến ai thì tự nhiên muốn bệnh vực và làm tốt cho người ấy. Càng yêu mến nhiều thì càng tha thiết gắn bó hơn trong tâm tình này. Vì vậy, những điều tôi muốn nói sau đây hoàn toàn bắt nguồn và được tác động bởi lòng yêu mến và biết ơn Giáo Hội Mẹ, tuyệt đối không vì một lý do hay động lực nào khác.
Mặt khác, tôi làm việc này cũng vì lời Chúa sau đây trong Sách Ezekiel:
«Phần ngươi, hỡi con người. Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel. Người sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay ta báo cho chúng biết. Nếu ta phán với kẻ gian ác rằng «hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó. Ngược lại, nếu ngươi đã bảo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình». (Ez 33: 7-9)
Có Chúa Thánh Linh làm chứng cho lòng thành này của tôi.
Vậy tôi muốn nói những gì trong mối quan tâm của tôi về Giáo Hội Mẹ?
I- Truớc hết là vần đề các giáo sĩ, tu sĩ Việt Nam ra nước ngoài.
Từ mấy năm nay tôi luôn trăn trở về điều này: đó là việc các Giám mục, linh mục tu sĩ trong nước thi nhau ra nước ngoài và đặc biệt đến Hoa kỳ để xin trợ giúp tài chính cho công việc tái thiết, trùng tu và mục vụ tại quê nhà. Phải nói ngay là Giáo Hội bên nhà rất cần những trợ giúp này để tái thiết và phát triển sau bao nhiêu năm bị tàn phá, không được ai giúp đỡ để xây dựng lại những cơ sở tối cần cho việc thờ phượng, giáo dục và phúc âm hóa. Phải tạ ơn Chúa vì hoàn cảnh đã thay đổi cho phép các giáo sĩ có cơ hội ra nước ngoài để học hỏi và xin trợ giúp tài chính. Cho nên, nói về mục đích thì việc xin trợ giúp tài chính ở hải ngoại là hoàn toàn chính đáng, không có gì phải phàn nàn, chê trách vì thật cần thiết cho nhu cầu của Giáo Hội Mẹ.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tế của mục đích này thì thật quả lại là điều đáng quan tâm và phải nói lên sự thật để cùng suy nghĩ và kịp thời tìm phương đối phó.
Thật vậy, làm sao người ta có thể cắt nghĩa cách thuận tình, hợp lý về sự kiện có những vị lãnh đạo như Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng, Đức Cha Nguyễn Khắc Ngữ, Đức Cha Bùi Tuần… cho đến nay chưa từng đặt chân đến Hoa Kỳ, Canada hay Úc Châu để thăm viếng giáo dân Việt Nam và nhận quà, hay tìm sự giúp đỡ tài chính của ai, trong khi hầu hết các Giám Mục khác kể cả Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã đến các quốc gia trên, đặc biệt là Hoa Kỳ, ít nhất một lần và có một số vị đã đến 4, 5, thậm chí 6, 7 lần tính đến nay! Có phải vì nhu cầu «mục vụ» mà các vị này cần đến thăm giáo dân của mình nhiều lần như vậy không?
Nếu vậy thì phải chăng các vị chưa từng đi thăm ai đã «lơ là nhiệm vụ chăn chiên của mình»? Nhưng thực ra theo Giáo Luật, thì các ngài không có trách nhiệm phải mở những cuộc «kinh lý mục vụ» như vậy đối với giáo dân Việt Nam ở hải ngoại đang thuộc quyền coi sóc mục vụ của các Giám Mục địa phương. Nhưng nếu vì «tình nghĩa cha-con» mà phải lặn lội đi thăm đàn chiên hải ngoại thì tại sao có trường hợp giáo dân lại từ chối tiếp đón Giám Mục gốc của mình khi ngài đến thăm họ lần thứ 2, thứ 3? Tôi biết rõ việc này đã xẩy ra cho 2 Giám mục trong mấy năm qua ở Mỹ.
Cũng liên hệ về việc này, tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy một vị Giám mục đã sốt sắng đi ra nước ngoài nhiều hơn là chăm lo mục vụ cho đoàn chiên của mình trong Giáo phận. Bằng cớ ngài đã hơn một lần vắng mặt trong Địa phận suốt Tuần Thánh khiến không có ai làm phép Dầu Thánh (Chrism) cần thiết cho nhu cầu thiêng liêng suốt năm của Địa phận! Và riêng về ngài, thì không biết bao điều ta thán nghe được ở đây từ mấy năm nay sau lần viếng thăm thứ nhất của ngài. Vậy mà người ta vẫn thấy năm nào ngài cũng qua Mỹ một đôi lần!
Không biết ngài nghĩ sao về trách nhiệm coi sóc đoàn chiên được trao phó cho mình trong Giáo phận khi ngài thường xuyên xuất ngoại như vậy?
Đấy là về phần các Giám mục. Về phía các linh mục và nữ tu thì thực tế còn đáng quan ngại hơn nhiều. Có những linh mục và nữ tu đã sang Mỹ trên dưới 10 lần trong mấy năm qua, mà mục đích lần nào cũng chỉ để xin giúp đỡ để về xây lại nhà thờ, nhà nguyện, trường học, nhà xứ, tu viện, cư xá, nhà giữ trẻ v.v… Nhưng thực tế nghe được từ bên nhà thì thật đáng buồn: người ta rỉ tai nhau câu nói rất châm biếm này: «các đấng XÂY thì ít mà CẤT thì nhiều»! … nào có cha, sau mấy lần đi Mỹ về, đã mua xe hơi trị giá mấy chục ngàn đôla.., có cha mua nhà riêng đứng tên anh chị em, hoặc giúp gia đình mở tiệm buôn bán! Tệ hơn nữa, có Cha đã bỏ Giáo xứ trốn luôn sau mấy lần sang Mỹ và kiếm được khá nhiều tiền… nhiều cha đã đập nhà thờ cũ còn tốt để xây nhà thờ mới với mọi thiết bị đắt tiền mua ở ngoai quốc, còn sang trọng hơn cả nhiều nhà thờ bên Mỹ! Nào là trong khi giáo dân nhiều người chưa kiếm đủ ăn, đủ mặc thì cha xứ lại có đầy đủ mọi tiện nghi trong nhà như máy lạnh, tủ lạnh, TV, điện thoại Internet, cell phone, email!! ! Như vậy làm sao rao giảng Tin Mừng «phúc cho ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ»? Một cha đã nói với tôi về một cha kia như sau: cha này ra Phường xin giấy đi Mỹ thì công an hỏi: một năm linh mục xuất ngoại 3, 4 lần, mỗi lần 1, 2 tháng. Như vậy còn thời gian nào linh mục lo cho giáo dân? vậy mà ngài vẫn tỉnh bơ xuất ngoại như đi chợ, trong khi nhiều anh em linh mục khác muốn đi mà không có cơ hội nào. Việc này các Đức Giám mục và Bề Trên các Dòng có biết không? Nếu biết thì tại sao lại cho phép một số linh mục và nữ tu xuất ngoại nhiều lần như vậy? Nếu chỉ cho một số linh mục nào «khôn khéo» đi thường xuyên thôi thì công bằng, bác ái ra sao đối với các linh mục khác trong Địa phận không «biết khôn khéo» ton hót với Bề trên và chánh quyền? Tôi rất thán phục khi nghe một bà kể rằng một ngày kia bà gọi điện thoại nói chuyện với một Đức Cha. Bà khoe với ngài là bà vừa giúp một số tiền cho một linh mục Long Xuyên đang có mặt ở Mỹ và cũng gửi biếu Đức Cha chút quà. Khoe xong bà tưởng Đức Cha sẽ cám ơn và khen ngợi. Nào ngờ thấy ngài im lặng trong ít phút, tưởng đường dây bị gián đoạn, bà lên tiêng hỏi thì Đức Cha dằn giọng trả lời: từ nay tôi sẽ không cho cha nào đi nữa! Tôi thật khâm phục thái độ cương trực và tinh thần khinh chê của cải vật chất của vị Giám Mục này.
Tuy nhiên, như tôi đã nói ở phần trên, Giáo Hội bên nhà rất thiếu thốn về mọi mặt, cần được trợ giúp để thi hành sứ vụ của mình. Tôi biết rất nhiều nhà thờ bị hư hại nặng nề cần được tái thiết để có nơi thờ phượng xứng đáng. Tôi thật đau lòng khi nghĩ đến hàng ngàn trẻ em, đặc biệt nhửng trẻ mồ côi và khuyết tật, nạn nhân xã hội và bị xã hội bỏ rơi, chỉ còn sống nhờ tình thương của các cơ quan từ thiện tôn giáo hay tư nhân. Tôi thông cảm sâu xa với các nhà Dòng, Tu Hội, Chủng viện không đủ phương tiện để nuôi những thanh thiếu nữ «tu chui» không có tiền để đóng góp và công khai sống ơn gọi. Trong những hoàn cảnh này thì sự trợ giúp tài chánh từ bên ngoài thật là cần thiết và phù hợp với đức bác ái Công giáo. Tuy nhiên, nếu những đồng tiền quyên được ở ngoại quốc đem về không được dùng đúng vào những mục tiêu chính đáng ấy thì đó mới là vần đề cần được các Bề trên liên hệ, cụ thể là các Đức Giám Mục, Bề Trên các Dòng và Tu Hội đã ký giấy cho phép các linh mục, nữ tu thuộc quyền xuất ngoại, phải lưu tâm xem xét và điều chỉnh cấp thời để lấy lại niềm tin của những người hảo tâm muốn giúp đỡ. Nhưng các Giám Mục cũng phải làm gương cho linh mục, tu sĩ bằng cách giới hạn lại những cuộc Mỹ du, dù với mục đích kỷ niệm thụ phong hay xin tiền về xây nhà hưu đưỡng, phúc âm hóa… Nếu Hồng Y, Giám Mục còn xuất ngoại như đi chợ, còn vắng Giáo Phận một vài tháng mỗi lần đi, thì nói làm sao được các linh mục và tu sĩ thuộc quyền? Các Hồng Y, Giám Mục Mỹ cũng không hề «kinh lược» ngay trong Giáo Phận của mình kỹ như vậy!
Nói đến những trợ giúp của giáo dân hải ngoại, cách riêng ở Mỹ, thì tôi cần nói rõ thực trạng sau đây: trong những năm đầu khi mới có ít Giám mục, Linh mục, nữ tu được ra nước ngoài, thì những vị đầu tiên đến Hoa Kỳ đều được tiếp đón nồng hậu, rất nồng hậu. Nhưng càng về sau, khi các vị ngày một sang đông và sang thường xuyên như trong mấy năm qua thì quả thật là một «vấn đề, một gánh nặng, một khổ tâm, một tai tiếng» cho các giáo xứ có giáo dân Việt Nam mỗi cuối tuần phải đón tiếp từ 2 đến 5 vị khách từ Việt Nam đến với cùng mục đích: xin trợ giúp tiền! Giáo dân Việt Nam ở Mỹ rất hảo tâm nhưng không phải ai cũng dư dã, sung túc, may mắn như nhau. Có nhiều gia đình rất khó khăn trong cuộc sống. Nghe các Cha, các Sơ tả cảnh khó nghèo thiếu thốn ở quê nhà thì ai cũng động lòng muốn giúp đỡ nhưng khả năng nhiều người chỉ có giới hạn. Tôi không làm việc cho giáo dân Việt Nam, nhưng ngày Chúa nhật thường gặp những giáo dân Việt Nam đến xứ tôi dự lễ với giáo dân Mỹ. Khi hỏi chuyện thì có người đã thành thật nói: con ngại đi lễ Việt Nam ở giáo xứ con vì không có tiền để giúp các cha các sơ từ Việt Nam qua thường đến xin mỗi Chúa nhật! Điều này chắc hẳn quí cha, quí sơ từng đến Mỹ đã nghe, đã biết. Chính vì tình trạng có quá nhiều cha, sơ đến xin trợ giúp, và đến nhiều lần mà các Cộng đoàn và Giáo xứ Việt Nam ở California và ở Houston từ mấy năm nay đã không còn cho các Cha các Sơ đến công khai xin và quyên tiền đợt 2 (second collection) sau Thánh lễ như trước nữa. Ở Cali, đa số giáo xứ có dân Việt Nam đều nằm trong các Giáo xứ Mỹ nên các Cha sở Mỹ đã cấm không cho các Cha Quản Nhiệm (Phó xứ) Việt Nam để các Cha khách Việt Nam giảng và xin tiền trong nhà thờ nữa vì sợ ảnh hưởng đến tiền collections của giáo xứ ngày Chúa Nhật.
Vì thế, các cha Việt Nam đến chỉ được đồng tế, (có nhiều khi không được) chứ không còn được giảng để kêu gọi gì nữa. Sau Thánh lễ các cha hay sơ ra ngoài nhà thờ chào giáo dân và «kín đáo» nhận tiền ủng hộ của ai có lòng. Tình trạng này không đẹp mắt chút nào, nhất là đối với các Giám mục vì thiếu sự tế nhị và kính trọng theo văn hóa Việt Nam. (Một lần ở Houston, GM kia đến giảng và sau lễ ngài ra ngoài nhà thờ chào hỏi và để nhận quà của giáo dân. Nhưng ngài đứng một lúc rồi đi vào vì cảm thấy không vui khi đứng như vậy, khác gì người hành khất!). Đó là thực trạng hiện nay ở các cộng đoàn, giáo xứ Việt Nam ở Mỹ nơi có nhiều giám mục, linh mục, nữ tu từ Việt Nam sang thăm viếng cuối tuần. Có người công khai lên tiếng ta thán: tại sao Đức cha, cha, sơ đó đến «thăm» giáo xứ của mình nhiều lần như vậy? Tại sao các cha, sơ khác không được đi mà chỉ thấy các Cha, Sơ này thôi? Bên này, giáo dân cũng phải đóng góp cho các Địa phận Mỹ và đóng góp xây dựng giáo xứ riêng chưa đủ, lấy đâu mà giúp mãi các Đức Cha, các Cha, Sơ thường xuyên đến xin tiền như vậy! Thật quả là một gánh nặng và khổ tâm cho họ từ mấy năm nay!
Mặt khác, bọn chống phá Giáo Hội Công Giáo thì từ lâu đã nói: Công Giáo là tay sai cho mọi chế độ nên các giáo sĩ, tu sĩ Công giáo mới được ưu đãi như vậy, vì tu sĩ của các tôn giáo khác có được xuất ngoại nhiều như vậy đâu?
Trước năm 1975, mãnh lực vật chất đã làm suy thoái nhiều người trong Giáo Hội Miền Nam. Nay đồng đôla Mỹ lại đang mê hoặc nhiều linh mục, tu sĩ bên nhà khiến họ thi nhau ra nước ngoài để kiếm đôla dưới danh nghĩa «xây cất, trùng tu, bảo trợ, v.v». Tình trạng này đang là gương xấu trong dư luận Công giáo hải ngoại và là mầm mống chia rẽ, ghen tị trong hàng ngũ linh mục, tu sĩ quốc nội. Lý do là có người được đi nhiều lần, kiếm được nhiều tiền về phung phí ngạo nghễ trước anh em không may mắn chịu thiệt ở nhà, và nhất là sự cười nhạo của những giáo dân còn rất thiếu thốn trong xứ phải nghe cha giảng Phúc Âm nghèo khó của Chúa Giêsu trong khi đời sống của Cha là một phản chứng quá hùng hồn, nhưng vẫn nhắm mắt làm thinh để hưởng thụ! Như vậy làm sao phúc âm hóa hữu hiệu cho người khác được?
Giáo Hội phải thực sự nghèo, giáo sĩ, tu sĩ phải thực sự «thoát tục», thực sự nêu gương thanh bần, liêm khiết, trong sạch thì mới làm nhân chứng cho Chúa Kitô được. Ngược lại sẽ chỉ là những phản chứng hùng hồn nhất và những lời giảng dạy của mình sẽ chỉ làm trò cười cho người nghe, chứ không thuyết phục được ai. Tôi thành tâm nghĩ và tin như vậy khi đang sống và phục vụ dân Chúa trong hoàn cảnh xã hội Mỹ hiện nay.
Vẫn biết «có thực mới vực được đạo» có tiền mới làm được nhiều việc cần thiết, hữu ích trong xã hội cũng như Giáo Hội, nhưng Giáo Hội tự bản chất phải khó nghèo, giống như Đức Kitô, Đấng sinh ra và chết đi trong sự nghèo nàn cùng cực của thân phận con người. Đừng nghỉ tôi lý tưởng không thực tế và chỉ trích thiếu thông cảm. Tôi chỉ muốn nói lên một băn khoăn, trình bày một thực trạng rất mỉa mai: đó là trong khi giáo dân, nhiều người còn thiếu thốn ngay cả những nhu cầu tối thiết để sống tương xứng với nhân phẩm, trong khi đại đa số người dân còn nghèo đói, mà ... một số linh mục Công giáo ung dung hưởng thụ những tiện nghi của một nếp sống sang giầu, thì thuyết phục được ai tin vào cái bánh vẽ «công bằng, bác ái, xóa đói giảm nghèo»?
Và nhất là làm chứng thế nào được cho tinh thần khó nghèo của Phúc Âm?
II- Việc đào tạo tân linh mục ở các chủng viện:
Đào tạo linh mục là một trách nhiệm vô cùng quan trọng của Giáo Hội nhằm tuyển chọn và đào luyện những tông đồ mới cho Chúa Giêsu để tiếp tục tham gia thi hành Sứ Vụ Cứu chuộc của Người. Giáo Hội và Dân Chúa rất cần những linh mục thánh thiện, nhiệt thành, có kiến thức cần thiết và vững chắc để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, tư tế và vương đế trong hoàn cảnh Giáo Hội và Thế giới ngày nay.
Để đáp ứng nhu cầu tối quan trọng này, chắc chắn các vị có trách nhiệm thuộc các Giáo phận bên nhà đã ý thức rõ và đầy đủ trọng trách của mình và dành cho công tác này một ưu tiên và quan tâm đúng mức..
Trong hoàn cảnh khó khăn cho đến nay của Giáo Hội tại quê nhà, chúng ta vẫn mừng vui và tạ ơn Chúa về sự Quan phòng dành cho Giáo Hội trong lãnh vực này để các chủng viện vẫn được hoạt động dù chỉ được thu nhận chủng sinh mức giới hạn. Chúng ta tạ ơn Chúa đặc biệt hơn nữa về số ơn gọi phong phú hiện nay của các Giáo phận. Tuy nhiên, nếu vui mừng về mức ơn gọi không thiếu, thì người ta cũng phải dè dặt nêu thắc mắc này: sự thực có ơn gọi làm linh mục và tận hiến tu trì (vocations for priesthood and religious life) nhiều như vậy một cách chính đáng trong giới thanh niên thanh nữ ở Việt Nam lâu nay không? Sở dĩ tôi nêu câu hỏi này vì trong một dịp nói chuyện với một Đức Cha qua thăm Houston, ngài có nói với chúng tôi thế này: «bây giờ ở Việt Nam, không có nghề nào sướng bằng nghề “làm linh mục”, học mấy năm ra là được mọi ưu tiên, ưu đãi vốn dành cho các cha từ trước đến nay» (!!! ). Ngài cũng nói thêm là «thời tôi đi tu thì có lớp mới vào được đến 40, 50 anh, nhưng khi làm linh mục thì chỉ được 5, 6 người! Bây giờ vào bao nhiêu thì hầu như ra bấy nhiêu, có khó khăn như trước đâu?» Tại sao vậy? Có thể vì những khó khăn do ..., nhưng thật sự câu hỏi này chỉ có các vị đang có trách nhiệm đào tạo ở các Chủng viện mới có câu trả lời chính xác mà thôi. Riêng tôi, tôi chỉ muốn góp ý về việc này dựa vào kinh nghiệm có được ở bên Mỹ: ở các chủng viện Mỹ việc đào luyện tu đức (spiritual formation) không được chú trọng nhiều như đào luyện kiến thức học vấn (academic formation).
Hệ thống tiểu chủng viện đã bị bãi bỏ từ lâu ở hầu hết các địa phận. Chỉ còn đại chủng viện (Major Seminary) thâu nhận những thanh niên học xong trung học để huấn luyện 4 năm ở bậc College (Đại Học) và sau đó vào Trường Thần học (Theologate) học thêm 4 năm nữa để lấy văn bằng Master of Divinity (Cao học thần học) rồi đi giúp xứ (internship) một năm là được thụ phong linh mục. Như vậy với 9 năm này, chủng sinh được huấn luyện nhiều về kiến thức chuyên môn (học vấn) hơn là tu đức (spirituality). Vì thế, có thể nói đời sống thiêng liêng của chủng sinh sau 9 năm trên chưa có gì là sâu sắc, đủ để đương đầu với những «cám dỗ, thách đố» của xã hội vật chất, tiêu thụ.
Cho nên, nhiều linh mục trẻ đã bỏ ơn gọi sau ít năm làm linh mục. Lý do chỉ vì đời sống thiêng liêng thiếu vững chắc, dễ bị chao đảo trước những cám dỗ về tiền bạc, phái tính v. v.
Ở Việt Nam hiện nay, vì những biện pháp ...., các tiểu chủng viện cũng đã ngưng hoạt động từ lâu. Chủng sinh được tuyển thẳng vào Đại chủng viện sau khi qua được lưới lọc tuyển sinh.... Chính vì lưới lọc này mà nhiều ứng sinh đáng được thâu nhận hơn nhưng vì không có «lý lịch tốt» nên đã bị loại! Thời gian đào tạo vừa học vấn chuyên môn đến tu đức chỉ được từ 6 đến 8 năm thì đã đủ để ra làm mục vụ chưa? Điều quan trọng hơn nữa là liệu các chủng sinh có đang được đào tạo khác với khuôn khổ cũ của các bậc cha anh hay vẫn chung một khôn mẫu đó, để rồi sau này ra trường cũng lại nối gót cha anh, «làm cha» để được hưởng thụ, ưu đãi thay vì để phục vụ đúng với tinh thần «Ta đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ» của Chúa Kitô Linh Mục?
Linh mục phải có chiều sâu đạo đức, lòng nhiệt thành phục vụ và ý thức sâu sắc về ơn gọi và sứ vụ (priestly vocation and ministry) của mình thì mới đáp ứng hữu hiệu cho nhu cầu thiêng liêng mà người giáo dân mong đợi. Ngược lại, nếu không được đào luyện (formation) thích đáng trong chiều kích ấy và ra trường với «hào quang sẵn có» của chức vị linh mục thì sẽ chẳng làm ích bao nhiêu cho con chiên bổn đạo ngày nay. Mặt khác, cũng cần phải giáo dục rõ cho chủng sinh biết rằng: danh vị «cha» mà Giáo Hội cho phép gọi các linh mục chỉ nói lên sứ vụ và trách nhiệm thiêng liêng mà linh mục lãnh nhận qua Thánh chức để thi hành điều Thánh Công Đồng Vaticanô II đã dạy trong Hiến Chế Lumen Gentium: «linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người cha vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng qua Phép Rửa và giáo huấn» (cf. LG, no. 28). Lời dạy này căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô về vai trò: «người cha thiêng liêng» (spiritual Fatherhood) của hàng giáo sĩ (Giám Mục, linh mục) (cf. 1 Cor 4: 15, 1Tim 1, 2), Nhưng linh mục Việt Nam không nên vì thế mà lố bịch tự xưng «cha» với giáo dân, trừ với mấy em thiếu nhi nhỏ tuổi, dù được giáo dân gọi mình là «cha» và xưng «con». Tôi phải nói điều này vì thực tế đã có một số linh mục trẻ ngang nhiên «xưng cha» ngay cả với những giáo dân lớn tuổi! có những linh mục khi về với gia đình vẫn muốn cho anh chị em ruột gọi mình là «cha» trước mặt cả song thân và nghiễm nhiên chấp nhận lối xưng hô này! Điều này đã làm cho nhiều người bất mãn và lên tiếng đòi thay đổi cách xưng hô trên. Dĩ nhiên, đòi hỏi này cũng không chính đáng và tôi đã có dịp trả lời trước đây trên Vietcatholic và báo chí ở Mỹ. Điều tôi muốn nói ở đây là linh mục phải ý thức rõ sứ mạng phục vụ và chứng nhân Tin Mừng của mình, không nên hãnh diện về danh xưng «cha» khi tiếp xúc với giáo dân và không nên mong đợi những thù tiếp ưu đãi dành cho mình từ những giáo dân vẫn còn quen với cung cách tôn trọng, kính mến đến mức làm hư các linh mục vì những ưu tiên, ưu đãi đó.
Sau hết, một điều rất nghiêm trọng mà tôi phải nói ở đây là sự kiện tôi nghe được từ bên nhà: muốn được chịu chức linh mục, gia đình tân chức phải «biết điều» không nhửng với ... mà còn cả với «giáo quyền sở tại» nữa! Người ta nói rõ: sự «biết điều» này có khi lên đến mấy chục lượng vàng! Điều này, nếu đúng như vậy, thì thật là một sỉ nhục cho Giáo Hội, một phỉ nhổ vào chức thánh của linh mục. Chắc hẳn các Đức Giám Mục đã không biết, hoặc biết mà dung túng việc này, nhưng những ai ở trong cuộc, đã và đang âm thầm làm điều nhơ nhuốc này thì nên tự biết và hãy chuẩn bị trả lời trước mặt Chúa về tội simonia này. Tôi không thể tưởng tượng được một điều ô nhục như vậy lại có thể xảy ra ở Việt Nam liên quan đến «thủ tục» xin truyền chức của các tân linh mục!
Ngoài ra, tôi cũng nghe nói nhiều về những thủ đoạn «lobby» để tiến cử hay giành dật chức GM béo bở và quyền uy ở Việt Nam hiện nay. Nếu như vậy thì Chúa Thánh Thần còn hiện diện và làm việc trong Giáo Hội nữa hay không??? Và Giáo Hội sẽ đi về đâu với những luồng sóng ngầm ma quái này???
III- Linh mục và chế độ bổ nhiệm, qui chế đời sống Linh mục và quản trị các giáo xứ:
Có thể nói: Giáo Hội Việt Nam cho đến nay là Giáo Hội chậm tiến duy nhất về việc chăm lo cho đời sống của linh mục và về qui chế quản trị giáo xứ. Trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Âu, Mỹ, ÚC, Canada thì các linh mục đều được hưởng lương bổng và ngày nghỉ hàng năm hơn kém giống nhau từ nước này qua nước kia và từ giáo phận này sang giáo phận khác. Thí dụ ở Đức thì chánh phủ trả lương cho giám muc, linh mục như mọi công chức phục vụ chánh quyền. Ở Mỹ thì lương này do các giáo xứ (parish) trả theo mức qui định của Tòa Giám Mục địa phương. Mức này thay đổi ở mỗi giáo phận. Làm việc trong giáo xứ, linh mục được lương tối thiểu, được cung cấp ăn, ở, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm xe và phụ cấp xăng dầu, bảo trì xe. Tất cả mọi linh mục đều được một ngày nghỉ (dayoff) trong tuần (riêng Cha xứ = pastor có thể nghỉ thêm một ngày nữa nếu cần). Hàng năm, các linh mục được một tháng nghỉ hè (vacation). Không linh mục phó xứ nào ở quá 5 năm trong một giáo xứ, và ít khi linh mục chánh xứ ở quá 2 nhiệm kỳ 6 năm khi còn dưới 60 tuổi. Linh mục chỉ là người quản lý (steward) mọi tài sản của giáo xứ bên cạnh trách nhiệm mục vụ (pastoral duties) của mình.. Khi thuyên chuyển đi xứ khác thì mọi tài sản của giáo xứ thuộc về giáo xứ. Giáo xứ giầu hay nghèo không ảnh hưởng gì đến quyền lợi và bổn phận của linh mục chánh hay phó xứ.
Ở Việt Nam cho đến nay thì trái lại. Linh mục không có lương bổng rõ ràng như ở ngoại quốc. Ngày nghỉ chính thức dường như cũng không có. Linh mục quản lý mọi tài sản của giáo xứ và chi tiêu theo ý muốn của mình. Xứ giầu thì cha xứ có nhiều tiền. Xứ nghèo thì cha phải lo mà kiếm sống, lo tìm phương tiện xây cất, trùng tu. Tình trạng này đưa đến hậu quả là các linh mục, phần đông, chỉ muốn về những xứ béo bở và ngại hay từ chối về những xứ nghèo, không có nguồn lợi gì. Bất công to lớn không tránh được trong hàng ngũ linh mục vì có người ở mãi những nơi nghèo hèn, xa xôi trong khi có người chỉ ở thành phố và đổi từ xứ giầu này sang xứ giầu khác có tiền mua xe hơi, mua máy móc và mọi tiện nghi hiện đại trong nhà (có linh mục ở Saigòn đã từ chối ý lễ 5 đôla ở ngoại quốc gửi về, trong khi ở hầu hết các Giáo Phận bên Mỹ, bổng lễ chỉ có 5 đôla! )
Tình trạng trên cần được thay đổi gấp với những qui chế rõ ràng về quyền lợi tối thiểu vật chất của linh mục bên cạnh trách nhiệm nặng nề chính yếu về sứ vụ và mục vụ để tránh những bất công hiện nay trong việc phục vụ của linh mục trên toàn quốc.
Hoàn cảnh Giáo Hội Việt Nam hiện nay rất khó cho việc thuyên chuyển linh mục từ xứ này sang xứ khác. Nhưng đối với những linh mục đang được phép coi xứ thì cần phải có qui chế về bổn phận và quyền lợi cho công bằng, hợp lý. Cần thay đổi ngay tình trạng: xứ giầu thì cha xứ giầu, xứ nghèo thì cha xứ phải vất vả ăn xin nơi này nơi kia. Khi có thể được, cũng cần thuyên chuyển các cha đã ở quá lâu trong một giáo xứ để «cất thánh giá» đi cho giáo dân nếu chẳng may cha xứ là «cây thập giá quá nặng» đối với họ.
Sau kết, rất cần bồi dưỡng chuyên môn cho các cha đã ra trường lâu năm và không có cơ hội học hỏi để cập nhật hóa những kiến thức thần học, kinh thánh và mục vụ của mình.
Đó là những băn khoăn, và cũng là những đóng góp nhỏ bé của tôi cho Giáo Hội Mẹ.
Ước mong được đón nhận với lòng khoan dung độ lượng và tha thứ nếu có điều gì làm phật ý ai, một điều tôi không muốn khi viết lên mối quan tâm này.
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Lời Tòa Soạn: Theo tác giả, loạt bài Một Thoáng Suy Tư Về GHCGVN được viết từ cuối năm 2004 chỉ để gửi riêng cho một số chức sắc CG ở quốc nội. Đầu năm 2005, khi chia sẻ loạt bài này với một anh em trong nhóm chủ trương DĐGD, linh mục căn dặn tuyệt đối không phổ biến. Và người anh em chúng tôi đã giữ đúng lời cam kết với ngài.
Nhưng trong những ngày đầu tháng 8, không hiểu từ đâu và vì sao, một phần loạt bài đã được đưa lên NET. Sau khi điện đàm và trao đổi thư từ với linh mục tác giả, được sự đồng ý, chúng tôi chính thức công bố để rộng đường dư luận. Và dưới đây là bài 1.
Sau loạt bài này, với tư cách là một diễn đàn của người tín hữu giáo dân, chúng tôi sẽ chính thức trình bày quan điểm của mình và cũng ước mong nhận được những ý kiến từ mọi phía.
Tuy sống xa quê nhà trên 20 năm và đã phục vụ cho Giáo Hội Hoa Kỳ trong hơn 16 năm qua, tôi vẫn luôn cảm thấy gắn bó sâu xa với Giáo Hội Việt Nam tại quê hương là người Mẹ đã sinh tôi ra trong đức tin qua phép Rửa và Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô. Đây quả thật là một món nợ thiêng liêng mà tôi không thể đền đáp cách tương xứng được. Tuy nhiên trong khả năng và thiện chí hạn hẹp, tôi cũng cố gắng trả ơn Giáo Hội Mẹ trước hết bằng lời cầu nguyện thiết tha cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội tại quê nhà để mọi người không những giữ vững đức tin mà còn sống đức tin ấy cách kiêu hùng trong mọi hoàn cảnh khó khăn của quê hương và Giáo Hội.
Thật vậy, nghĩ đến Giáo Hội Mẹ tại quê nhà, trước hết tôi luôn cảm kích mạnh mẽ về gương sống đức tin của Hàng Giáo phẩm Việt Nam, của các bậc cha anh trong hàng giáo sĩ nói riêng và của toàn thể giáo dân Việt Nam nói chung.
Giáo Hội Việt Nam, từ thuở khai sinh cho đến nay, đã trải qua biết bao gian nan thử thách, đe dọa sự sống còn của hạt giống đức tin do các thừa sai dũng cảm và nhiệt thành mang đến gieo trồng và được lớn lên nhờ máu các Thánh Tử Đạo tiền nhân anh dũng đổ ra để vun trồng cho lớn mạnh như ngày nay. Khó khăn, thách đố rõ ràng đã không cản trở được mà ngược lại còn giúp cho Giáo Hội thêm tăng trưởng, sống mạnh trong đức tin và quyết tâm gắn bó với sứ mạng của mình. Gương sống thánh thiện và nhiệt thành trong Sứ vụ (Ministerium) của biết bao vị trong hàng giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ cũng như gương anh dũng sống đức tin của giáo dân từ Bắc xuống miền nam đã và đang như những tiếng kèn thúc quân hăng hái xông pha vào chiến trận giành thắng lợi cho Chúa Kitô trên quê hương Việt Nam, trước mọi thế lực của thù địch muốn ngăn cản sứ mệnh phúc âm hóa của Giáo Hội…
Tuy nhiên, lòng biết ơn và cảm kích sâu xa đối với hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Việt Nam tại quê nhà cũng không ngăn cản tôi muốn chân thành bày tỏ một vài quan ngại về hiện tình Giáo Hội Mẹ với ước mong góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng và phát triển Giáo Hội trên quê hương.
Thật vậy, khi ta yêu mến ai thì tự nhiên muốn bệnh vực và làm tốt cho người ấy. Càng yêu mến nhiều thì càng tha thiết gắn bó hơn trong tâm tình này. Vì vậy, những điều tôi muốn nói sau đây hoàn toàn bắt nguồn và được tác động bởi lòng yêu mến và biết ơn Giáo Hội Mẹ, tuyệt đối không vì một lý do hay động lực nào khác.
Mặt khác, tôi làm việc này cũng vì lời Chúa sau đây trong Sách Ezekiel:
«Phần ngươi, hỡi con người. Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel. Người sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay ta báo cho chúng biết. Nếu ta phán với kẻ gian ác rằng «hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó. Ngược lại, nếu ngươi đã bảo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình». (Ez 33: 7-9)
Có Chúa Thánh Linh làm chứng cho lòng thành này của tôi.
Vậy tôi muốn nói những gì trong mối quan tâm của tôi về Giáo Hội Mẹ?
I- Truớc hết là vần đề các giáo sĩ, tu sĩ Việt Nam ra nước ngoài.
Từ mấy năm nay tôi luôn trăn trở về điều này: đó là việc các Giám mục, linh mục tu sĩ trong nước thi nhau ra nước ngoài và đặc biệt đến Hoa kỳ để xin trợ giúp tài chính cho công việc tái thiết, trùng tu và mục vụ tại quê nhà. Phải nói ngay là Giáo Hội bên nhà rất cần những trợ giúp này để tái thiết và phát triển sau bao nhiêu năm bị tàn phá, không được ai giúp đỡ để xây dựng lại những cơ sở tối cần cho việc thờ phượng, giáo dục và phúc âm hóa. Phải tạ ơn Chúa vì hoàn cảnh đã thay đổi cho phép các giáo sĩ có cơ hội ra nước ngoài để học hỏi và xin trợ giúp tài chính. Cho nên, nói về mục đích thì việc xin trợ giúp tài chính ở hải ngoại là hoàn toàn chính đáng, không có gì phải phàn nàn, chê trách vì thật cần thiết cho nhu cầu của Giáo Hội Mẹ.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tế của mục đích này thì thật quả lại là điều đáng quan tâm và phải nói lên sự thật để cùng suy nghĩ và kịp thời tìm phương đối phó.
Thật vậy, làm sao người ta có thể cắt nghĩa cách thuận tình, hợp lý về sự kiện có những vị lãnh đạo như Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng, Đức Cha Nguyễn Khắc Ngữ, Đức Cha Bùi Tuần… cho đến nay chưa từng đặt chân đến Hoa Kỳ, Canada hay Úc Châu để thăm viếng giáo dân Việt Nam và nhận quà, hay tìm sự giúp đỡ tài chính của ai, trong khi hầu hết các Giám Mục khác kể cả Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã đến các quốc gia trên, đặc biệt là Hoa Kỳ, ít nhất một lần và có một số vị đã đến 4, 5, thậm chí 6, 7 lần tính đến nay! Có phải vì nhu cầu «mục vụ» mà các vị này cần đến thăm giáo dân của mình nhiều lần như vậy không?
Nếu vậy thì phải chăng các vị chưa từng đi thăm ai đã «lơ là nhiệm vụ chăn chiên của mình»? Nhưng thực ra theo Giáo Luật, thì các ngài không có trách nhiệm phải mở những cuộc «kinh lý mục vụ» như vậy đối với giáo dân Việt Nam ở hải ngoại đang thuộc quyền coi sóc mục vụ của các Giám Mục địa phương. Nhưng nếu vì «tình nghĩa cha-con» mà phải lặn lội đi thăm đàn chiên hải ngoại thì tại sao có trường hợp giáo dân lại từ chối tiếp đón Giám Mục gốc của mình khi ngài đến thăm họ lần thứ 2, thứ 3? Tôi biết rõ việc này đã xẩy ra cho 2 Giám mục trong mấy năm qua ở Mỹ.
Cũng liên hệ về việc này, tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy một vị Giám mục đã sốt sắng đi ra nước ngoài nhiều hơn là chăm lo mục vụ cho đoàn chiên của mình trong Giáo phận. Bằng cớ ngài đã hơn một lần vắng mặt trong Địa phận suốt Tuần Thánh khiến không có ai làm phép Dầu Thánh (Chrism) cần thiết cho nhu cầu thiêng liêng suốt năm của Địa phận! Và riêng về ngài, thì không biết bao điều ta thán nghe được ở đây từ mấy năm nay sau lần viếng thăm thứ nhất của ngài. Vậy mà người ta vẫn thấy năm nào ngài cũng qua Mỹ một đôi lần!
Không biết ngài nghĩ sao về trách nhiệm coi sóc đoàn chiên được trao phó cho mình trong Giáo phận khi ngài thường xuyên xuất ngoại như vậy?
Đấy là về phần các Giám mục. Về phía các linh mục và nữ tu thì thực tế còn đáng quan ngại hơn nhiều. Có những linh mục và nữ tu đã sang Mỹ trên dưới 10 lần trong mấy năm qua, mà mục đích lần nào cũng chỉ để xin giúp đỡ để về xây lại nhà thờ, nhà nguyện, trường học, nhà xứ, tu viện, cư xá, nhà giữ trẻ v.v… Nhưng thực tế nghe được từ bên nhà thì thật đáng buồn: người ta rỉ tai nhau câu nói rất châm biếm này: «các đấng XÂY thì ít mà CẤT thì nhiều»! … nào có cha, sau mấy lần đi Mỹ về, đã mua xe hơi trị giá mấy chục ngàn đôla.., có cha mua nhà riêng đứng tên anh chị em, hoặc giúp gia đình mở tiệm buôn bán! Tệ hơn nữa, có Cha đã bỏ Giáo xứ trốn luôn sau mấy lần sang Mỹ và kiếm được khá nhiều tiền… nhiều cha đã đập nhà thờ cũ còn tốt để xây nhà thờ mới với mọi thiết bị đắt tiền mua ở ngoai quốc, còn sang trọng hơn cả nhiều nhà thờ bên Mỹ! Nào là trong khi giáo dân nhiều người chưa kiếm đủ ăn, đủ mặc thì cha xứ lại có đầy đủ mọi tiện nghi trong nhà như máy lạnh, tủ lạnh, TV, điện thoại Internet, cell phone, email!! ! Như vậy làm sao rao giảng Tin Mừng «phúc cho ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ»? Một cha đã nói với tôi về một cha kia như sau: cha này ra Phường xin giấy đi Mỹ thì công an hỏi: một năm linh mục xuất ngoại 3, 4 lần, mỗi lần 1, 2 tháng. Như vậy còn thời gian nào linh mục lo cho giáo dân? vậy mà ngài vẫn tỉnh bơ xuất ngoại như đi chợ, trong khi nhiều anh em linh mục khác muốn đi mà không có cơ hội nào. Việc này các Đức Giám mục và Bề Trên các Dòng có biết không? Nếu biết thì tại sao lại cho phép một số linh mục và nữ tu xuất ngoại nhiều lần như vậy? Nếu chỉ cho một số linh mục nào «khôn khéo» đi thường xuyên thôi thì công bằng, bác ái ra sao đối với các linh mục khác trong Địa phận không «biết khôn khéo» ton hót với Bề trên và chánh quyền? Tôi rất thán phục khi nghe một bà kể rằng một ngày kia bà gọi điện thoại nói chuyện với một Đức Cha. Bà khoe với ngài là bà vừa giúp một số tiền cho một linh mục Long Xuyên đang có mặt ở Mỹ và cũng gửi biếu Đức Cha chút quà. Khoe xong bà tưởng Đức Cha sẽ cám ơn và khen ngợi. Nào ngờ thấy ngài im lặng trong ít phút, tưởng đường dây bị gián đoạn, bà lên tiêng hỏi thì Đức Cha dằn giọng trả lời: từ nay tôi sẽ không cho cha nào đi nữa! Tôi thật khâm phục thái độ cương trực và tinh thần khinh chê của cải vật chất của vị Giám Mục này.
Tuy nhiên, như tôi đã nói ở phần trên, Giáo Hội bên nhà rất thiếu thốn về mọi mặt, cần được trợ giúp để thi hành sứ vụ của mình. Tôi biết rất nhiều nhà thờ bị hư hại nặng nề cần được tái thiết để có nơi thờ phượng xứng đáng. Tôi thật đau lòng khi nghĩ đến hàng ngàn trẻ em, đặc biệt nhửng trẻ mồ côi và khuyết tật, nạn nhân xã hội và bị xã hội bỏ rơi, chỉ còn sống nhờ tình thương của các cơ quan từ thiện tôn giáo hay tư nhân. Tôi thông cảm sâu xa với các nhà Dòng, Tu Hội, Chủng viện không đủ phương tiện để nuôi những thanh thiếu nữ «tu chui» không có tiền để đóng góp và công khai sống ơn gọi. Trong những hoàn cảnh này thì sự trợ giúp tài chánh từ bên ngoài thật là cần thiết và phù hợp với đức bác ái Công giáo. Tuy nhiên, nếu những đồng tiền quyên được ở ngoại quốc đem về không được dùng đúng vào những mục tiêu chính đáng ấy thì đó mới là vần đề cần được các Bề trên liên hệ, cụ thể là các Đức Giám Mục, Bề Trên các Dòng và Tu Hội đã ký giấy cho phép các linh mục, nữ tu thuộc quyền xuất ngoại, phải lưu tâm xem xét và điều chỉnh cấp thời để lấy lại niềm tin của những người hảo tâm muốn giúp đỡ. Nhưng các Giám Mục cũng phải làm gương cho linh mục, tu sĩ bằng cách giới hạn lại những cuộc Mỹ du, dù với mục đích kỷ niệm thụ phong hay xin tiền về xây nhà hưu đưỡng, phúc âm hóa… Nếu Hồng Y, Giám Mục còn xuất ngoại như đi chợ, còn vắng Giáo Phận một vài tháng mỗi lần đi, thì nói làm sao được các linh mục và tu sĩ thuộc quyền? Các Hồng Y, Giám Mục Mỹ cũng không hề «kinh lược» ngay trong Giáo Phận của mình kỹ như vậy!
Nói đến những trợ giúp của giáo dân hải ngoại, cách riêng ở Mỹ, thì tôi cần nói rõ thực trạng sau đây: trong những năm đầu khi mới có ít Giám mục, Linh mục, nữ tu được ra nước ngoài, thì những vị đầu tiên đến Hoa Kỳ đều được tiếp đón nồng hậu, rất nồng hậu. Nhưng càng về sau, khi các vị ngày một sang đông và sang thường xuyên như trong mấy năm qua thì quả thật là một «vấn đề, một gánh nặng, một khổ tâm, một tai tiếng» cho các giáo xứ có giáo dân Việt Nam mỗi cuối tuần phải đón tiếp từ 2 đến 5 vị khách từ Việt Nam đến với cùng mục đích: xin trợ giúp tiền! Giáo dân Việt Nam ở Mỹ rất hảo tâm nhưng không phải ai cũng dư dã, sung túc, may mắn như nhau. Có nhiều gia đình rất khó khăn trong cuộc sống. Nghe các Cha, các Sơ tả cảnh khó nghèo thiếu thốn ở quê nhà thì ai cũng động lòng muốn giúp đỡ nhưng khả năng nhiều người chỉ có giới hạn. Tôi không làm việc cho giáo dân Việt Nam, nhưng ngày Chúa nhật thường gặp những giáo dân Việt Nam đến xứ tôi dự lễ với giáo dân Mỹ. Khi hỏi chuyện thì có người đã thành thật nói: con ngại đi lễ Việt Nam ở giáo xứ con vì không có tiền để giúp các cha các sơ từ Việt Nam qua thường đến xin mỗi Chúa nhật! Điều này chắc hẳn quí cha, quí sơ từng đến Mỹ đã nghe, đã biết. Chính vì tình trạng có quá nhiều cha, sơ đến xin trợ giúp, và đến nhiều lần mà các Cộng đoàn và Giáo xứ Việt Nam ở California và ở Houston từ mấy năm nay đã không còn cho các Cha các Sơ đến công khai xin và quyên tiền đợt 2 (second collection) sau Thánh lễ như trước nữa. Ở Cali, đa số giáo xứ có dân Việt Nam đều nằm trong các Giáo xứ Mỹ nên các Cha sở Mỹ đã cấm không cho các Cha Quản Nhiệm (Phó xứ) Việt Nam để các Cha khách Việt Nam giảng và xin tiền trong nhà thờ nữa vì sợ ảnh hưởng đến tiền collections của giáo xứ ngày Chúa Nhật.
Vì thế, các cha Việt Nam đến chỉ được đồng tế, (có nhiều khi không được) chứ không còn được giảng để kêu gọi gì nữa. Sau Thánh lễ các cha hay sơ ra ngoài nhà thờ chào giáo dân và «kín đáo» nhận tiền ủng hộ của ai có lòng. Tình trạng này không đẹp mắt chút nào, nhất là đối với các Giám mục vì thiếu sự tế nhị và kính trọng theo văn hóa Việt Nam. (Một lần ở Houston, GM kia đến giảng và sau lễ ngài ra ngoài nhà thờ chào hỏi và để nhận quà của giáo dân. Nhưng ngài đứng một lúc rồi đi vào vì cảm thấy không vui khi đứng như vậy, khác gì người hành khất!). Đó là thực trạng hiện nay ở các cộng đoàn, giáo xứ Việt Nam ở Mỹ nơi có nhiều giám mục, linh mục, nữ tu từ Việt Nam sang thăm viếng cuối tuần. Có người công khai lên tiếng ta thán: tại sao Đức cha, cha, sơ đó đến «thăm» giáo xứ của mình nhiều lần như vậy? Tại sao các cha, sơ khác không được đi mà chỉ thấy các Cha, Sơ này thôi? Bên này, giáo dân cũng phải đóng góp cho các Địa phận Mỹ và đóng góp xây dựng giáo xứ riêng chưa đủ, lấy đâu mà giúp mãi các Đức Cha, các Cha, Sơ thường xuyên đến xin tiền như vậy! Thật quả là một gánh nặng và khổ tâm cho họ từ mấy năm nay!
Mặt khác, bọn chống phá Giáo Hội Công Giáo thì từ lâu đã nói: Công Giáo là tay sai cho mọi chế độ nên các giáo sĩ, tu sĩ Công giáo mới được ưu đãi như vậy, vì tu sĩ của các tôn giáo khác có được xuất ngoại nhiều như vậy đâu?
Trước năm 1975, mãnh lực vật chất đã làm suy thoái nhiều người trong Giáo Hội Miền Nam. Nay đồng đôla Mỹ lại đang mê hoặc nhiều linh mục, tu sĩ bên nhà khiến họ thi nhau ra nước ngoài để kiếm đôla dưới danh nghĩa «xây cất, trùng tu, bảo trợ, v.v». Tình trạng này đang là gương xấu trong dư luận Công giáo hải ngoại và là mầm mống chia rẽ, ghen tị trong hàng ngũ linh mục, tu sĩ quốc nội. Lý do là có người được đi nhiều lần, kiếm được nhiều tiền về phung phí ngạo nghễ trước anh em không may mắn chịu thiệt ở nhà, và nhất là sự cười nhạo của những giáo dân còn rất thiếu thốn trong xứ phải nghe cha giảng Phúc Âm nghèo khó của Chúa Giêsu trong khi đời sống của Cha là một phản chứng quá hùng hồn, nhưng vẫn nhắm mắt làm thinh để hưởng thụ! Như vậy làm sao phúc âm hóa hữu hiệu cho người khác được?
Giáo Hội phải thực sự nghèo, giáo sĩ, tu sĩ phải thực sự «thoát tục», thực sự nêu gương thanh bần, liêm khiết, trong sạch thì mới làm nhân chứng cho Chúa Kitô được. Ngược lại sẽ chỉ là những phản chứng hùng hồn nhất và những lời giảng dạy của mình sẽ chỉ làm trò cười cho người nghe, chứ không thuyết phục được ai. Tôi thành tâm nghĩ và tin như vậy khi đang sống và phục vụ dân Chúa trong hoàn cảnh xã hội Mỹ hiện nay.
Vẫn biết «có thực mới vực được đạo» có tiền mới làm được nhiều việc cần thiết, hữu ích trong xã hội cũng như Giáo Hội, nhưng Giáo Hội tự bản chất phải khó nghèo, giống như Đức Kitô, Đấng sinh ra và chết đi trong sự nghèo nàn cùng cực của thân phận con người. Đừng nghỉ tôi lý tưởng không thực tế và chỉ trích thiếu thông cảm. Tôi chỉ muốn nói lên một băn khoăn, trình bày một thực trạng rất mỉa mai: đó là trong khi giáo dân, nhiều người còn thiếu thốn ngay cả những nhu cầu tối thiết để sống tương xứng với nhân phẩm, trong khi đại đa số người dân còn nghèo đói, mà ... một số linh mục Công giáo ung dung hưởng thụ những tiện nghi của một nếp sống sang giầu, thì thuyết phục được ai tin vào cái bánh vẽ «công bằng, bác ái, xóa đói giảm nghèo»?
Và nhất là làm chứng thế nào được cho tinh thần khó nghèo của Phúc Âm?
II- Việc đào tạo tân linh mục ở các chủng viện:
Đào tạo linh mục là một trách nhiệm vô cùng quan trọng của Giáo Hội nhằm tuyển chọn và đào luyện những tông đồ mới cho Chúa Giêsu để tiếp tục tham gia thi hành Sứ Vụ Cứu chuộc của Người. Giáo Hội và Dân Chúa rất cần những linh mục thánh thiện, nhiệt thành, có kiến thức cần thiết và vững chắc để thi hành nhiệm vụ ngôn sứ, tư tế và vương đế trong hoàn cảnh Giáo Hội và Thế giới ngày nay.
Để đáp ứng nhu cầu tối quan trọng này, chắc chắn các vị có trách nhiệm thuộc các Giáo phận bên nhà đã ý thức rõ và đầy đủ trọng trách của mình và dành cho công tác này một ưu tiên và quan tâm đúng mức..
Trong hoàn cảnh khó khăn cho đến nay của Giáo Hội tại quê nhà, chúng ta vẫn mừng vui và tạ ơn Chúa về sự Quan phòng dành cho Giáo Hội trong lãnh vực này để các chủng viện vẫn được hoạt động dù chỉ được thu nhận chủng sinh mức giới hạn. Chúng ta tạ ơn Chúa đặc biệt hơn nữa về số ơn gọi phong phú hiện nay của các Giáo phận. Tuy nhiên, nếu vui mừng về mức ơn gọi không thiếu, thì người ta cũng phải dè dặt nêu thắc mắc này: sự thực có ơn gọi làm linh mục và tận hiến tu trì (vocations for priesthood and religious life) nhiều như vậy một cách chính đáng trong giới thanh niên thanh nữ ở Việt Nam lâu nay không? Sở dĩ tôi nêu câu hỏi này vì trong một dịp nói chuyện với một Đức Cha qua thăm Houston, ngài có nói với chúng tôi thế này: «bây giờ ở Việt Nam, không có nghề nào sướng bằng nghề “làm linh mục”, học mấy năm ra là được mọi ưu tiên, ưu đãi vốn dành cho các cha từ trước đến nay» (!!! ). Ngài cũng nói thêm là «thời tôi đi tu thì có lớp mới vào được đến 40, 50 anh, nhưng khi làm linh mục thì chỉ được 5, 6 người! Bây giờ vào bao nhiêu thì hầu như ra bấy nhiêu, có khó khăn như trước đâu?» Tại sao vậy? Có thể vì những khó khăn do ..., nhưng thật sự câu hỏi này chỉ có các vị đang có trách nhiệm đào tạo ở các Chủng viện mới có câu trả lời chính xác mà thôi. Riêng tôi, tôi chỉ muốn góp ý về việc này dựa vào kinh nghiệm có được ở bên Mỹ: ở các chủng viện Mỹ việc đào luyện tu đức (spiritual formation) không được chú trọng nhiều như đào luyện kiến thức học vấn (academic formation).
Hệ thống tiểu chủng viện đã bị bãi bỏ từ lâu ở hầu hết các địa phận. Chỉ còn đại chủng viện (Major Seminary) thâu nhận những thanh niên học xong trung học để huấn luyện 4 năm ở bậc College (Đại Học) và sau đó vào Trường Thần học (Theologate) học thêm 4 năm nữa để lấy văn bằng Master of Divinity (Cao học thần học) rồi đi giúp xứ (internship) một năm là được thụ phong linh mục. Như vậy với 9 năm này, chủng sinh được huấn luyện nhiều về kiến thức chuyên môn (học vấn) hơn là tu đức (spirituality). Vì thế, có thể nói đời sống thiêng liêng của chủng sinh sau 9 năm trên chưa có gì là sâu sắc, đủ để đương đầu với những «cám dỗ, thách đố» của xã hội vật chất, tiêu thụ.
Cho nên, nhiều linh mục trẻ đã bỏ ơn gọi sau ít năm làm linh mục. Lý do chỉ vì đời sống thiêng liêng thiếu vững chắc, dễ bị chao đảo trước những cám dỗ về tiền bạc, phái tính v. v.
Ở Việt Nam hiện nay, vì những biện pháp ...., các tiểu chủng viện cũng đã ngưng hoạt động từ lâu. Chủng sinh được tuyển thẳng vào Đại chủng viện sau khi qua được lưới lọc tuyển sinh.... Chính vì lưới lọc này mà nhiều ứng sinh đáng được thâu nhận hơn nhưng vì không có «lý lịch tốt» nên đã bị loại! Thời gian đào tạo vừa học vấn chuyên môn đến tu đức chỉ được từ 6 đến 8 năm thì đã đủ để ra làm mục vụ chưa? Điều quan trọng hơn nữa là liệu các chủng sinh có đang được đào tạo khác với khuôn khổ cũ của các bậc cha anh hay vẫn chung một khôn mẫu đó, để rồi sau này ra trường cũng lại nối gót cha anh, «làm cha» để được hưởng thụ, ưu đãi thay vì để phục vụ đúng với tinh thần «Ta đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ» của Chúa Kitô Linh Mục?
Linh mục phải có chiều sâu đạo đức, lòng nhiệt thành phục vụ và ý thức sâu sắc về ơn gọi và sứ vụ (priestly vocation and ministry) của mình thì mới đáp ứng hữu hiệu cho nhu cầu thiêng liêng mà người giáo dân mong đợi. Ngược lại, nếu không được đào luyện (formation) thích đáng trong chiều kích ấy và ra trường với «hào quang sẵn có» của chức vị linh mục thì sẽ chẳng làm ích bao nhiêu cho con chiên bổn đạo ngày nay. Mặt khác, cũng cần phải giáo dục rõ cho chủng sinh biết rằng: danh vị «cha» mà Giáo Hội cho phép gọi các linh mục chỉ nói lên sứ vụ và trách nhiệm thiêng liêng mà linh mục lãnh nhận qua Thánh chức để thi hành điều Thánh Công Đồng Vaticanô II đã dạy trong Hiến Chế Lumen Gentium: «linh mục phải chăm sóc giáo dân như những người cha vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng qua Phép Rửa và giáo huấn» (cf. LG, no. 28). Lời dạy này căn cứ vào giáo lý của Thánh Phaolô về vai trò: «người cha thiêng liêng» (spiritual Fatherhood) của hàng giáo sĩ (Giám Mục, linh mục) (cf. 1 Cor 4: 15, 1Tim 1, 2), Nhưng linh mục Việt Nam không nên vì thế mà lố bịch tự xưng «cha» với giáo dân, trừ với mấy em thiếu nhi nhỏ tuổi, dù được giáo dân gọi mình là «cha» và xưng «con». Tôi phải nói điều này vì thực tế đã có một số linh mục trẻ ngang nhiên «xưng cha» ngay cả với những giáo dân lớn tuổi! có những linh mục khi về với gia đình vẫn muốn cho anh chị em ruột gọi mình là «cha» trước mặt cả song thân và nghiễm nhiên chấp nhận lối xưng hô này! Điều này đã làm cho nhiều người bất mãn và lên tiếng đòi thay đổi cách xưng hô trên. Dĩ nhiên, đòi hỏi này cũng không chính đáng và tôi đã có dịp trả lời trước đây trên Vietcatholic và báo chí ở Mỹ. Điều tôi muốn nói ở đây là linh mục phải ý thức rõ sứ mạng phục vụ và chứng nhân Tin Mừng của mình, không nên hãnh diện về danh xưng «cha» khi tiếp xúc với giáo dân và không nên mong đợi những thù tiếp ưu đãi dành cho mình từ những giáo dân vẫn còn quen với cung cách tôn trọng, kính mến đến mức làm hư các linh mục vì những ưu tiên, ưu đãi đó.
Sau hết, một điều rất nghiêm trọng mà tôi phải nói ở đây là sự kiện tôi nghe được từ bên nhà: muốn được chịu chức linh mục, gia đình tân chức phải «biết điều» không nhửng với ... mà còn cả với «giáo quyền sở tại» nữa! Người ta nói rõ: sự «biết điều» này có khi lên đến mấy chục lượng vàng! Điều này, nếu đúng như vậy, thì thật là một sỉ nhục cho Giáo Hội, một phỉ nhổ vào chức thánh của linh mục. Chắc hẳn các Đức Giám Mục đã không biết, hoặc biết mà dung túng việc này, nhưng những ai ở trong cuộc, đã và đang âm thầm làm điều nhơ nhuốc này thì nên tự biết và hãy chuẩn bị trả lời trước mặt Chúa về tội simonia này. Tôi không thể tưởng tượng được một điều ô nhục như vậy lại có thể xảy ra ở Việt Nam liên quan đến «thủ tục» xin truyền chức của các tân linh mục!
Ngoài ra, tôi cũng nghe nói nhiều về những thủ đoạn «lobby» để tiến cử hay giành dật chức GM béo bở và quyền uy ở Việt Nam hiện nay. Nếu như vậy thì Chúa Thánh Thần còn hiện diện và làm việc trong Giáo Hội nữa hay không??? Và Giáo Hội sẽ đi về đâu với những luồng sóng ngầm ma quái này???
III- Linh mục và chế độ bổ nhiệm, qui chế đời sống Linh mục và quản trị các giáo xứ:
Có thể nói: Giáo Hội Việt Nam cho đến nay là Giáo Hội chậm tiến duy nhất về việc chăm lo cho đời sống của linh mục và về qui chế quản trị giáo xứ. Trên thế giới, đặc biệt là ở các nước Âu, Mỹ, ÚC, Canada thì các linh mục đều được hưởng lương bổng và ngày nghỉ hàng năm hơn kém giống nhau từ nước này qua nước kia và từ giáo phận này sang giáo phận khác. Thí dụ ở Đức thì chánh phủ trả lương cho giám muc, linh mục như mọi công chức phục vụ chánh quyền. Ở Mỹ thì lương này do các giáo xứ (parish) trả theo mức qui định của Tòa Giám Mục địa phương. Mức này thay đổi ở mỗi giáo phận. Làm việc trong giáo xứ, linh mục được lương tối thiểu, được cung cấp ăn, ở, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm xe và phụ cấp xăng dầu, bảo trì xe. Tất cả mọi linh mục đều được một ngày nghỉ (dayoff) trong tuần (riêng Cha xứ = pastor có thể nghỉ thêm một ngày nữa nếu cần). Hàng năm, các linh mục được một tháng nghỉ hè (vacation). Không linh mục phó xứ nào ở quá 5 năm trong một giáo xứ, và ít khi linh mục chánh xứ ở quá 2 nhiệm kỳ 6 năm khi còn dưới 60 tuổi. Linh mục chỉ là người quản lý (steward) mọi tài sản của giáo xứ bên cạnh trách nhiệm mục vụ (pastoral duties) của mình.. Khi thuyên chuyển đi xứ khác thì mọi tài sản của giáo xứ thuộc về giáo xứ. Giáo xứ giầu hay nghèo không ảnh hưởng gì đến quyền lợi và bổn phận của linh mục chánh hay phó xứ.
Ở Việt Nam cho đến nay thì trái lại. Linh mục không có lương bổng rõ ràng như ở ngoại quốc. Ngày nghỉ chính thức dường như cũng không có. Linh mục quản lý mọi tài sản của giáo xứ và chi tiêu theo ý muốn của mình. Xứ giầu thì cha xứ có nhiều tiền. Xứ nghèo thì cha phải lo mà kiếm sống, lo tìm phương tiện xây cất, trùng tu. Tình trạng này đưa đến hậu quả là các linh mục, phần đông, chỉ muốn về những xứ béo bở và ngại hay từ chối về những xứ nghèo, không có nguồn lợi gì. Bất công to lớn không tránh được trong hàng ngũ linh mục vì có người ở mãi những nơi nghèo hèn, xa xôi trong khi có người chỉ ở thành phố và đổi từ xứ giầu này sang xứ giầu khác có tiền mua xe hơi, mua máy móc và mọi tiện nghi hiện đại trong nhà (có linh mục ở Saigòn đã từ chối ý lễ 5 đôla ở ngoại quốc gửi về, trong khi ở hầu hết các Giáo Phận bên Mỹ, bổng lễ chỉ có 5 đôla! )
Tình trạng trên cần được thay đổi gấp với những qui chế rõ ràng về quyền lợi tối thiểu vật chất của linh mục bên cạnh trách nhiệm nặng nề chính yếu về sứ vụ và mục vụ để tránh những bất công hiện nay trong việc phục vụ của linh mục trên toàn quốc.
Hoàn cảnh Giáo Hội Việt Nam hiện nay rất khó cho việc thuyên chuyển linh mục từ xứ này sang xứ khác. Nhưng đối với những linh mục đang được phép coi xứ thì cần phải có qui chế về bổn phận và quyền lợi cho công bằng, hợp lý. Cần thay đổi ngay tình trạng: xứ giầu thì cha xứ giầu, xứ nghèo thì cha xứ phải vất vả ăn xin nơi này nơi kia. Khi có thể được, cũng cần thuyên chuyển các cha đã ở quá lâu trong một giáo xứ để «cất thánh giá» đi cho giáo dân nếu chẳng may cha xứ là «cây thập giá quá nặng» đối với họ.
Sau kết, rất cần bồi dưỡng chuyên môn cho các cha đã ra trường lâu năm và không có cơ hội học hỏi để cập nhật hóa những kiến thức thần học, kinh thánh và mục vụ của mình.
Đó là những băn khoăn, và cũng là những đóng góp nhỏ bé của tôi cho Giáo Hội Mẹ.
Ước mong được đón nhận với lòng khoan dung độ lượng và tha thứ nếu có điều gì làm phật ý ai, một điều tôi không muốn khi viết lên mối quan tâm này.
NGHỀ ĐI TU
Văn hóa truyền thống dạy cho người Việt chúng ta kính trọng các bậc tu hành, vì những vị tu hành là những người đã dứt khoát trần tục, từ bỏ giàu sang danh vọng phú quý để tìm con đường tu thân, và từ đó, dẫn dắt người đời đến một cuộc sống thánh thiện, chân thiện mỹ…Sở dĩ chúng ta trọng những người tu hành vì những vị nầy đã trở thành những kẻ hơn người. Họ đã từ bỏ được ba cái tầm thường ‘Tham Sân Si’ của giới phàm tục. Như vậy, những ai một khi quyết định xa gia đình, dứt bỏ phú quý danh vọng để tự nguyện trở thành kẻ phục vụ chúng sinh, lấy đức bác ái, tinh thần từ bi hỷ xả làm lý tưởng để lo cho đời sống tâm linh con người, đồng thời chấp nhận làm kẻ thấp hèn trong xã hội cũng như quên mình để hiến dâng cho lý tưởng, thì đều được xã hội quý trọng. Người Việt chúng ta rất sùng đạo, đó là vấn đề rất tốt phía tôn giáo. Nhưng hành động trọng cha, kính thầy một cách quá đáng, có thể nói rằng đi đến lố bịch của một số con chiên, Phật tử đã làm hư các thầy các cha đồng thời biến các vị tu hành trở thành Phật, thành Chúa, là thần thánh oai nghiêm và quyền uy vô lượng chứ không còn là những kẻ tu hành hèn mọn mà những vị nầy đã tâm nguyện dâng hiến để trọn đời phục vụ Phật tử, tín đồ cũng như con chiên!
Những hình ảnh chấp tay cúi đầu ‘con lạy thầy, con lạy cha’ làm cho các nhà tu hành quên hẳn vai trò một người tu hành để rồi những vị nầy tự ban cho mình cái quyền linh thiêng, đại diện cỏi trên ban phát ân huệ cho chúng sanh và bắt người phàm tục phục dịch cho mình. Hình ảnh và thái độ của thầy cha ngày nay thường bị hư hỏng và đôi lúc trịch trượng bởi hai lý do. Trước hết là số người người sùng đạo có thái độ tôn trọng cha thầy một cách quá đáng: việc gì của thầy của cha làm đều tốt đều đẹp, lời thầy lời cha nói gì nghe cũng hay cũng phải. Thứ đến là một số tín đồ, giáo hữu cò mồi dựa vào tôn giáo để làm chính trị cũng như kinh doanh, họ bám vào thầy cha, nhà chùa, nhà thờ, theo sát thầy cha đánh trống thổi kèn, chấp tay lạy sống và khúm núm trình thưa như đang đứng trước mặt quan quyền vua chúa ngày xưa. Hành động nầy chẳng những đưa ‘cái tôi’ của thầy cha lên tận mây xanh, do đó, những cái tầm thường xấu xa trong lòng các vị tu hành đã không diệt được mà còn được thường xuyên bơm lên thì Tham Sân Si trong lòng các vị tu hành càng ngày càng lớn hơn những người phàm tục nữa ! Như vậy tu hành đã không đạt được kết quả…mà một khi cái Tham Sân Si trong các vị tu hành thường xuyên bị dồn nén thì sẽ bộc phát dữ dội. Nên nhớ rằng, các nhà tu hành một khi đã đi lạc đường, thì cái Tham Sân Si sẽ quậy tới bến còn hơn những người phàm tục !!!
Cá nhân tôi là người trong cuộc và đã chứng kiến tận mắt hai trường hợp, từ đó lòng tôi mất đi rất nhiều kính trọng đối với một số vị tu hành :
1. Trong một cuộc biểu tình, tôi được giới thiệu với một vị linh mục còn trẻ hơn tôi. Sau câu chào hỏi thân mật xong thì vị linh mục quay mặt đi nơi khác, hình như có thái độ không muốn nói chuyện với tôi nữa vì tôi đã thẳng thắng kêu bằng cha và xưng tôi. Có lẽ chữ tôi trong cách xưng hô không thích hợp giữa một giáo dân với một vị linh mục nơi đông người đã làm giảm giá trị một vị tu hành nên vị nầy đã quay mặt đi giã vờ nói chuyện với những người chung quanh. Nếu tôi trịnh trọng gọi bằng cha thì phải xưng con như những người khác thì câu chuyện sẽ được tiếp tục trong tình thân mật ! Tôi có thể gọi cha và xưng con trong nhà thờ, lúc xem lễ hay vào tòa xưng tội theo con người Kytô hữu của tôi. Nhưng ngoài đời, trong một buổi biểu tình chính trị, thì giữa hai người tu hành và giáo dân cũng đều là những người dân tỵ nạn Việt Nam. Tôi nghĩ rằng một người già trên 70 xưng con với một vị linh mục còn trẻ giữa nơi công cộng thì cũng khó nghe ! Như vậy trong bộ áo màu đen quý trọng đang mặc trên linh mục nầy, cái sân si vẫn còn quá nặng mùi trần tục trong một vị tu hành.
2. Dịp cúng thất cho một người trong gia đình, nhằm buổi cơm chay, tôi có dịp phải đi ngang qua phòng ăn - nối liền từ chân cầu thang đến chánh điện – trong lúc các vị sư đang dùng bữa. Chuyện đập vào mắt tôi, vị trụ trì ngồi đầu bàn, sau khi ăn hết chén cơm vị nầy ngồi yên, không quay lại, đưa cái chén ra phía sau…thì một Phật tử chấp tay vái lạy ba cái, cúi mình xuống và đưa hai tay lên khỏi đầu đở lấy cái chén, lấy cơm xong lại cung kính dâng lên vị trụ trì như lúc đầu…trong lúc tô cơm đang nằm ngay trước mặt và trong tầm tay của vị trụ trì ! Phía bên kia, một Phật tử cầm quạt đang phe phẩy để cho thầy dùng cơm mặc dù Paris lúc đó đang mát trời ! Tôi thấy vị trụ trì nầy đã quên hẳn mình là kẻ tu hành mà có thái độ trịch trượng như một vị vua chúa ngày trước.
Trở về với đề tài, nhiều người hỏi tôi thời đại nầy làm nghề gì sướng nhất, tôi có thể trả lời tức khắc không cần đắn đo suy nghĩ rằng : ‘Nghề Đi Tu’ ! Một nghề không đòi hỏi vốn kiến thức, không cần đầu tư tài chánh mà chỉ cần thuộc vài ba kinh – như loại tu hành quốc doanh - là có thể hành nghề một cách dễ dàng. Khi hành đạo, không cần làm việc, nhưng tài sản đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc do con chiên thiện nam tín nữ cung hiến cũng quá dư thừa cho phép những vị nầy ăn uống no say, vợ con đầy đủ và nếu muốn thì tình nhân cũng sẵn sàng có ngay ! Nhà cửa được giảm hoặc miễn thuế, ăn khỏi tốn tiền, có người hầu hạ, có kẻ làm bếp dâng lên tận miệng. Có vị còn biến từ nhà ở cho đến nơi thờ phương thành cơ sở kinh doanh với giá bán cắt cổ từ cuốn sách cho đến gói thực phẩm. Tất cả hoạt động kinh tế đều theo hình thức chui và chỉ thu tiền mặt. Các lễ lộc phục vụ tôn giáo không có tình trạng miễn phí hoặc giảm giá cho nhà nghèo mà phải tuân theo theo từng bậc giá cả khác nhau. Cước phí xin lễ, cầu nguyện đối với các vị tu hành người nước ngoài hoàn toàn do tín hữu tự nguyện không bắt buộc theo một hình thức khuôn mẫu nào. Tôi chứng kiến một cha người Pháp từ đã chối số tiền lớn do một tín hữu người Việt Nam đến nhà thờ Tây xin lễ bình an cho gia đình. Chẳng những thế, nhà thờ còn làm hóa đơn chính thức để ghi vào sổ của nhà thờ. Nhưng trái lại, trong một dịp gặp một cha người Việt Nam để xin lễ, vị linh mục nầy cho giá đàng hoàng và tỏ vẽ không hài lòng khi tôi đề cập đến giá cả của nhà thờ !
Từ chỗ nầy người ta xem các vị tu hành từ trong nước ra đến hải ngoại hành nghề tôn giáo với giá cả cắt cổ tín hữu và Phật tử một cách vô tội vạ. Riêng việc việc tang chế, giá cả được ấn định bao nhiêu tiền cho cha thầy đến tư gia, đến nhà xác để tụng niệm. Bao nhiêu tiền để tổ chức theo hình thức lớn, trung bình, nhỏ đối với một lễ tiễn đưa người quá cố, bao nhiêu tiền để mang cốt tro về chùa, nhà thờ… và bao nhiêu tiền theo đẳng cấp giàu sang hay bình dân để thuê một cái hộc để đựng hủ cốt người chết ! Tiền nhiều thì nhà chùa nhà thờ tổ chức lớn, với nhiều cha nhiều thầy làm lễ. Nhiều tiền thì tổ chức lễ riêng rẽ một cách trang trọng vào cuối tuần. Ít tiền thì tổ chức cầu siêu tập thể và vào những ngày giờ làm việc. Chính các thầy các cha đòi hỏi giá cả để tổ chức những buổi lễ đình đám cho hôn nhân, cầu siêu, án táng, đưa hài cốt về chùa, về nhà thờ. Những tiền lệ nầy đã tập cho tín đố Phật tử những tính xấu, xem thường việc linh thiêng tôn giáo đồng thời tạo cho những gia đình nghèo, thiếu phương tiện bị mặc cảm và đau lòng mỗi khi có người thân vừa nằm xuống.
Chắc tất cả mọi người đều công nhận rằng nghề đi tu chẳng những là một nghề ấm thân cho kẻ tu hành mà còn giúp họ trở thành triệu phú một sớm một chiều. Chẳng mất một giọt mồ hôi, suốt đời không đóng thuế, nhà cửa được giảm tiền điện nước lại còn hưởng trợ cấp đặc biệt của xã hội. Cuộc đời tu hành thật đáng giá ngàn vàng, chỉ một sáng một chiều trở thành triệu phú, trở nên kẻ ăn trên ngồi trước và được trọng vọng nhất trong thiên hạ : Nhà cao cửa rộng, đi Mercedec, BMW… có tài xế, ngày ăn no, đêm ngủ với vợ, ngày thì đệ tử tự nguyện ( !) thời gian rổi rảnh thì đếm bạc giấy rồi đem cất vào tủ sắt…Như vậy nghề tu hành thời nay của người Việt quả thật là tuyệt hảo và độc nhất vô nhị của thế giới tính, từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đến nay. Nhà thờ nhà chùa đã biến thành cái chợ và hơn nữa các nơi nầy còn cạnh tranh tổ chức văn nghệ mừng Xuân, ca hát ăn uống…thì chắc Chúa và Phật cũng phải quay mặt trước tình trạng tu hành thời nay. Bây giờ giới trẻ ai cũng muốn đi tu, một nghề ngồi mát ăn bát vàng mà được thiên hạ đội lên đầu, chắp tay vái lạy thì còn gì quý hơn khi phải phí cuộc đời gần hai chục năm trong các nhà trường để rồi vác bằng chạy đôn chạy đáo kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp.
Cái thiên đường ‘đỉnh cao trí tuệ’ và ‘cái nôi nhân loại’ của chế độ cộng sản đã đẻ ra nhiều nghề quái gở : Từ nghề ăn xin, mai mối, bịp bợm, nô lệ…đã nổi tiếng trên thế giới và bây giờ còn thêm nghề đi tu thật độc đáo vô cùng ‘hoành tráng’ không có một quốc gia nào bắt kịp… Chính cộng sản đã dàn dựng lên hình thức tu hành trưởng giả nầy từ ngay từ trong nước để chứng tỏ với thế giới rằng Việt Nam hòa toàn có tự do tôn giáo. Thật vậy, cần phải ghi nhận, trong nước đi đến đâu cũng gặp đầy dẫy nhà thờ, nhà chùa…là những khu vực nguy nga to lớn bên cạnh những ngôi nhà của con chiên, Phật tử vẫn còn nghèo nàn đói rách. Các thầy các cha thì đua nhau xin tiền để sửa sang cơ sở tôn giáo của mình càng lớn càng đẹp để tranh với chùa, nhà thờ bên cạnh !!! Đi đâu các vị tu hành cũng hân hạnh khoe rằng, ông nầy bà nọ là Phật tử hoặc con chiên nằm trong khuôn hội hay họ đạo dưới quyền ! Các vị tu hành đâu có hay rằng dưới mắt Chúa và Phật những ông bà nầy là những tay ăn hối lộ, cướp của, giật vợ cướp chồng người ta, buôn bán cần sa, rửa tiền dơ mà các vị tu hành cứ đội lên đầu những người núp bóng tôn giáo cho mưu đồ chính trị, xem họ như một vinh hạnh của nhà chùa, nhà thờ. Các vị tu hành cứ giành nhau ôm chân các ông bà nầy và ca tụng hết mình…thì thật tội nghiệp cho Chúa và Phật quá ! Việc tu hành không màng nghĩ đến, kinh kệ hằng ngày không quan tâm mà thầy cha chỉ chú trọng đến các hình thức phô trương bên ngoài. Đó là cái nghiệp tham sân si đang lấn át các đức tính bình dị, liêm khiết, vị tha, bác ái trong con người các vị tu hành hiện nay. Tình trạng thầy cha mượn Phật-Chúa để phục vụ cho cái tham sân si vô đáy cá nhân đang thịnh hành đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại!.
Cộng sản đố kỵ tôn giáo nhưng chúng lại xây dựng một số giáo hội gọi là quốc doanh nhằm thu nạp những vị tu hành mà tâm vẫn còn nặng nợ trần gian đồng thời cộng sản còn ‘sản xuất’ ra một số sư đỏ, cha đỏ để phân hóa các giáo hội chính thống, đồng thời chia đôi khối giáo dân cũng như Phật tử làm nhiều phe phái nhằm phá hoại tôn giáo. Âm mưu của cộng sản là chúng tạo ra một lớp tu hành gồm thầy cha quốc doanh với tất cả những cái xấu xa hơn những người trần tục, không ngoài mục đích để cho giáo dân, Phật tử nhìn thấy tư cách các vị lãnh đạo tinh thần để rồi từ đó họ sẽ xa dần Chúa và Phật…
Trong nước chính cộng sản bỏ tiền xây dựng chùa, nhà thờ để đưa vào đó những cha thầy quốc doanh với hai mục đích. Một là chứng minh với thế giới rằng Việt Nam là nơi mà các tôn giáo đều được phát triển tối đa, và hai là, chùa nhà thờ là những cái ổ trú ẩn của những tên cộng sản đội lốt tôn giáo. Tình hình ở hải ngoai cũng vậy, chùa và nhà thờ mọc lên như nấm, nguy nga đồ sộ, nhưng thử tìm hiểu tiền ở đâu để các thầy cha vừa mua đất vừa xây những cơ sở tôn giáo vượt quá khả năng ? Đồng ý rằng tiền của do tín đồ Phật tử đóng góp, nhưng đó chỉ là số nhỏ nhằm che đậy bên ngoài, phần tài chính quan trọng là do cộng sản cung cấp để thành lập những động ổ an toàn cho bọn cộng sản mặc áo nâu, áo đen từ trong nước ra trú ẩn.
Trong nước thì giáo gian Huỳnh công Minh, tổng thư ký tòa Tổng Giám Mục Sàigòn và cũng là ‘tổng tư lệnh’ giáo hội công giáo quốc doanh. Giáo gian nầy đang tận tình ‘điều khiển’ ngài Hồng Y Tổng Giám Mục ‘dính chàm’ Phạm Minh Mẫn. Do đó tín đồ không lạ gì khi ngài Hồng Y thi hành lệnh một cách tích cực, từ vụ Cờ Vàng cho đến ‘tống khứ’ Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đi Vatican chữa bệnh theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội. Ngoài ra, linh mục nào muốn ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc đầy túi, muốn được lấy vợ đẻ con chính thức công khai, muốn có nhà thờ to lớn và đông giáo dân (như Phan Khắc Từ) thì đến cúi mình trước mặt giáo gian Huỳnh Công Minh, ký giấy tờ cam kết rồi lãnh vài ba trăm triệu để xây nhà thờ và xây tổ ấm !
Trước năm 1957 tôi thường đến thăm và dùng cơm chay với nhiều vị Thượng Tọa trụ trì tại các chùa nhỏ (chùa nghèo) trong vùng Gia Định cũng như với những vị linh mục dòng Phanxicô hoặc dòng Vinh Sơn. Các vị nầy sống bình dị, mặc thô sơ, ăn uống thanh đạm. Khi tiếp xúc với những vị nầy tôi cảm nhận được Phật tính cũng như tinh thần Kytô thoát ra từ lời nói, cách cư xử đến cử chỉ và ánh mắt bao dung…Thâm tâm tôi lúc nào cũng quý trọng những vị chân tu nầy…Nhưng ngày nay, với chủ trương diệt tôn giáo, cộng sản đã sản xuất ra một số quốc doanh để mưu đồ phá hoại các tôn giáo chân chính và thành phần nầy hiện đang đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại. Các chất bổ béo trong cơ thể các vị tu hành ngày nay quá dư thừa, thân hình các vị tu hành phì nộn và đa số mang bệnh nhà giàu (tiểu đường, cao huyết áp…) vì các cha cai quản họ đạo được con chiên mời dùng bữa luân phiên từ nhà nầy qua nhà khác. Các thầy thì được Phật tử làm các món chay dưới dạng tôm rim, cá chiên, cua lột, thịt kho tàu…giúp cho các thầy tự đánh lừa cả thị, xúc, vị giác của mình để được ngon miệng. Như vậy cái si vẫn còn quá lớn, làm sao cho trọn kiếp tu !!!
Xin kết thúc bài viết : Chống cộng sản thì phải chú tâm đến vấn đề tôn giáo vận. Địch đã gài sẵn cha thầy quốc doanh vào nhà thờ, vào chùa…nếu chúng ta vô tình hay thiển cận, vẫn tôn vinh, nuôi dưỡng và đùm bọc thành phần nầy thì Phật tử con chiên đã tự chính mình ra tay diệt tôn giáo của mình.
ĐINH LÂM THANH
Paris 17.03.2010
* Trích trong 'Niềm Đau Còn Đó' xuất bản năm 2010 tại Mỹ. ISBN : 978-1-4507-1695-9
Văn hóa truyền thống dạy cho người Việt chúng ta kính trọng các bậc tu hành, vì những vị tu hành là những người đã dứt khoát trần tục, từ bỏ giàu sang danh vọng phú quý để tìm con đường tu thân, và từ đó, dẫn dắt người đời đến một cuộc sống thánh thiện, chân thiện mỹ…Sở dĩ chúng ta trọng những người tu hành vì những vị nầy đã trở thành những kẻ hơn người. Họ đã từ bỏ được ba cái tầm thường ‘Tham Sân Si’ của giới phàm tục. Như vậy, những ai một khi quyết định xa gia đình, dứt bỏ phú quý danh vọng để tự nguyện trở thành kẻ phục vụ chúng sinh, lấy đức bác ái, tinh thần từ bi hỷ xả làm lý tưởng để lo cho đời sống tâm linh con người, đồng thời chấp nhận làm kẻ thấp hèn trong xã hội cũng như quên mình để hiến dâng cho lý tưởng, thì đều được xã hội quý trọng. Người Việt chúng ta rất sùng đạo, đó là vấn đề rất tốt phía tôn giáo. Nhưng hành động trọng cha, kính thầy một cách quá đáng, có thể nói rằng đi đến lố bịch của một số con chiên, Phật tử đã làm hư các thầy các cha đồng thời biến các vị tu hành trở thành Phật, thành Chúa, là thần thánh oai nghiêm và quyền uy vô lượng chứ không còn là những kẻ tu hành hèn mọn mà những vị nầy đã tâm nguyện dâng hiến để trọn đời phục vụ Phật tử, tín đồ cũng như con chiên!
Những hình ảnh chấp tay cúi đầu ‘con lạy thầy, con lạy cha’ làm cho các nhà tu hành quên hẳn vai trò một người tu hành để rồi những vị nầy tự ban cho mình cái quyền linh thiêng, đại diện cỏi trên ban phát ân huệ cho chúng sanh và bắt người phàm tục phục dịch cho mình. Hình ảnh và thái độ của thầy cha ngày nay thường bị hư hỏng và đôi lúc trịch trượng bởi hai lý do. Trước hết là số người người sùng đạo có thái độ tôn trọng cha thầy một cách quá đáng: việc gì của thầy của cha làm đều tốt đều đẹp, lời thầy lời cha nói gì nghe cũng hay cũng phải. Thứ đến là một số tín đồ, giáo hữu cò mồi dựa vào tôn giáo để làm chính trị cũng như kinh doanh, họ bám vào thầy cha, nhà chùa, nhà thờ, theo sát thầy cha đánh trống thổi kèn, chấp tay lạy sống và khúm núm trình thưa như đang đứng trước mặt quan quyền vua chúa ngày xưa. Hành động nầy chẳng những đưa ‘cái tôi’ của thầy cha lên tận mây xanh, do đó, những cái tầm thường xấu xa trong lòng các vị tu hành đã không diệt được mà còn được thường xuyên bơm lên thì Tham Sân Si trong lòng các vị tu hành càng ngày càng lớn hơn những người phàm tục nữa ! Như vậy tu hành đã không đạt được kết quả…mà một khi cái Tham Sân Si trong các vị tu hành thường xuyên bị dồn nén thì sẽ bộc phát dữ dội. Nên nhớ rằng, các nhà tu hành một khi đã đi lạc đường, thì cái Tham Sân Si sẽ quậy tới bến còn hơn những người phàm tục !!!
Cá nhân tôi là người trong cuộc và đã chứng kiến tận mắt hai trường hợp, từ đó lòng tôi mất đi rất nhiều kính trọng đối với một số vị tu hành :
1. Trong một cuộc biểu tình, tôi được giới thiệu với một vị linh mục còn trẻ hơn tôi. Sau câu chào hỏi thân mật xong thì vị linh mục quay mặt đi nơi khác, hình như có thái độ không muốn nói chuyện với tôi nữa vì tôi đã thẳng thắng kêu bằng cha và xưng tôi. Có lẽ chữ tôi trong cách xưng hô không thích hợp giữa một giáo dân với một vị linh mục nơi đông người đã làm giảm giá trị một vị tu hành nên vị nầy đã quay mặt đi giã vờ nói chuyện với những người chung quanh. Nếu tôi trịnh trọng gọi bằng cha thì phải xưng con như những người khác thì câu chuyện sẽ được tiếp tục trong tình thân mật ! Tôi có thể gọi cha và xưng con trong nhà thờ, lúc xem lễ hay vào tòa xưng tội theo con người Kytô hữu của tôi. Nhưng ngoài đời, trong một buổi biểu tình chính trị, thì giữa hai người tu hành và giáo dân cũng đều là những người dân tỵ nạn Việt Nam. Tôi nghĩ rằng một người già trên 70 xưng con với một vị linh mục còn trẻ giữa nơi công cộng thì cũng khó nghe ! Như vậy trong bộ áo màu đen quý trọng đang mặc trên linh mục nầy, cái sân si vẫn còn quá nặng mùi trần tục trong một vị tu hành.
2. Dịp cúng thất cho một người trong gia đình, nhằm buổi cơm chay, tôi có dịp phải đi ngang qua phòng ăn - nối liền từ chân cầu thang đến chánh điện – trong lúc các vị sư đang dùng bữa. Chuyện đập vào mắt tôi, vị trụ trì ngồi đầu bàn, sau khi ăn hết chén cơm vị nầy ngồi yên, không quay lại, đưa cái chén ra phía sau…thì một Phật tử chấp tay vái lạy ba cái, cúi mình xuống và đưa hai tay lên khỏi đầu đở lấy cái chén, lấy cơm xong lại cung kính dâng lên vị trụ trì như lúc đầu…trong lúc tô cơm đang nằm ngay trước mặt và trong tầm tay của vị trụ trì ! Phía bên kia, một Phật tử cầm quạt đang phe phẩy để cho thầy dùng cơm mặc dù Paris lúc đó đang mát trời ! Tôi thấy vị trụ trì nầy đã quên hẳn mình là kẻ tu hành mà có thái độ trịch trượng như một vị vua chúa ngày trước.
Trở về với đề tài, nhiều người hỏi tôi thời đại nầy làm nghề gì sướng nhất, tôi có thể trả lời tức khắc không cần đắn đo suy nghĩ rằng : ‘Nghề Đi Tu’ ! Một nghề không đòi hỏi vốn kiến thức, không cần đầu tư tài chánh mà chỉ cần thuộc vài ba kinh – như loại tu hành quốc doanh - là có thể hành nghề một cách dễ dàng. Khi hành đạo, không cần làm việc, nhưng tài sản đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc do con chiên thiện nam tín nữ cung hiến cũng quá dư thừa cho phép những vị nầy ăn uống no say, vợ con đầy đủ và nếu muốn thì tình nhân cũng sẵn sàng có ngay ! Nhà cửa được giảm hoặc miễn thuế, ăn khỏi tốn tiền, có người hầu hạ, có kẻ làm bếp dâng lên tận miệng. Có vị còn biến từ nhà ở cho đến nơi thờ phương thành cơ sở kinh doanh với giá bán cắt cổ từ cuốn sách cho đến gói thực phẩm. Tất cả hoạt động kinh tế đều theo hình thức chui và chỉ thu tiền mặt. Các lễ lộc phục vụ tôn giáo không có tình trạng miễn phí hoặc giảm giá cho nhà nghèo mà phải tuân theo theo từng bậc giá cả khác nhau. Cước phí xin lễ, cầu nguyện đối với các vị tu hành người nước ngoài hoàn toàn do tín hữu tự nguyện không bắt buộc theo một hình thức khuôn mẫu nào. Tôi chứng kiến một cha người Pháp từ đã chối số tiền lớn do một tín hữu người Việt Nam đến nhà thờ Tây xin lễ bình an cho gia đình. Chẳng những thế, nhà thờ còn làm hóa đơn chính thức để ghi vào sổ của nhà thờ. Nhưng trái lại, trong một dịp gặp một cha người Việt Nam để xin lễ, vị linh mục nầy cho giá đàng hoàng và tỏ vẽ không hài lòng khi tôi đề cập đến giá cả của nhà thờ !
Từ chỗ nầy người ta xem các vị tu hành từ trong nước ra đến hải ngoại hành nghề tôn giáo với giá cả cắt cổ tín hữu và Phật tử một cách vô tội vạ. Riêng việc việc tang chế, giá cả được ấn định bao nhiêu tiền cho cha thầy đến tư gia, đến nhà xác để tụng niệm. Bao nhiêu tiền để tổ chức theo hình thức lớn, trung bình, nhỏ đối với một lễ tiễn đưa người quá cố, bao nhiêu tiền để mang cốt tro về chùa, nhà thờ… và bao nhiêu tiền theo đẳng cấp giàu sang hay bình dân để thuê một cái hộc để đựng hủ cốt người chết ! Tiền nhiều thì nhà chùa nhà thờ tổ chức lớn, với nhiều cha nhiều thầy làm lễ. Nhiều tiền thì tổ chức lễ riêng rẽ một cách trang trọng vào cuối tuần. Ít tiền thì tổ chức cầu siêu tập thể và vào những ngày giờ làm việc. Chính các thầy các cha đòi hỏi giá cả để tổ chức những buổi lễ đình đám cho hôn nhân, cầu siêu, án táng, đưa hài cốt về chùa, về nhà thờ. Những tiền lệ nầy đã tập cho tín đố Phật tử những tính xấu, xem thường việc linh thiêng tôn giáo đồng thời tạo cho những gia đình nghèo, thiếu phương tiện bị mặc cảm và đau lòng mỗi khi có người thân vừa nằm xuống.
Chắc tất cả mọi người đều công nhận rằng nghề đi tu chẳng những là một nghề ấm thân cho kẻ tu hành mà còn giúp họ trở thành triệu phú một sớm một chiều. Chẳng mất một giọt mồ hôi, suốt đời không đóng thuế, nhà cửa được giảm tiền điện nước lại còn hưởng trợ cấp đặc biệt của xã hội. Cuộc đời tu hành thật đáng giá ngàn vàng, chỉ một sáng một chiều trở thành triệu phú, trở nên kẻ ăn trên ngồi trước và được trọng vọng nhất trong thiên hạ : Nhà cao cửa rộng, đi Mercedec, BMW… có tài xế, ngày ăn no, đêm ngủ với vợ, ngày thì đệ tử tự nguyện ( !) thời gian rổi rảnh thì đếm bạc giấy rồi đem cất vào tủ sắt…Như vậy nghề tu hành thời nay của người Việt quả thật là tuyệt hảo và độc nhất vô nhị của thế giới tính, từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đến nay. Nhà thờ nhà chùa đã biến thành cái chợ và hơn nữa các nơi nầy còn cạnh tranh tổ chức văn nghệ mừng Xuân, ca hát ăn uống…thì chắc Chúa và Phật cũng phải quay mặt trước tình trạng tu hành thời nay. Bây giờ giới trẻ ai cũng muốn đi tu, một nghề ngồi mát ăn bát vàng mà được thiên hạ đội lên đầu, chắp tay vái lạy thì còn gì quý hơn khi phải phí cuộc đời gần hai chục năm trong các nhà trường để rồi vác bằng chạy đôn chạy đáo kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp.
Cái thiên đường ‘đỉnh cao trí tuệ’ và ‘cái nôi nhân loại’ của chế độ cộng sản đã đẻ ra nhiều nghề quái gở : Từ nghề ăn xin, mai mối, bịp bợm, nô lệ…đã nổi tiếng trên thế giới và bây giờ còn thêm nghề đi tu thật độc đáo vô cùng ‘hoành tráng’ không có một quốc gia nào bắt kịp… Chính cộng sản đã dàn dựng lên hình thức tu hành trưởng giả nầy từ ngay từ trong nước để chứng tỏ với thế giới rằng Việt Nam hòa toàn có tự do tôn giáo. Thật vậy, cần phải ghi nhận, trong nước đi đến đâu cũng gặp đầy dẫy nhà thờ, nhà chùa…là những khu vực nguy nga to lớn bên cạnh những ngôi nhà của con chiên, Phật tử vẫn còn nghèo nàn đói rách. Các thầy các cha thì đua nhau xin tiền để sửa sang cơ sở tôn giáo của mình càng lớn càng đẹp để tranh với chùa, nhà thờ bên cạnh !!! Đi đâu các vị tu hành cũng hân hạnh khoe rằng, ông nầy bà nọ là Phật tử hoặc con chiên nằm trong khuôn hội hay họ đạo dưới quyền ! Các vị tu hành đâu có hay rằng dưới mắt Chúa và Phật những ông bà nầy là những tay ăn hối lộ, cướp của, giật vợ cướp chồng người ta, buôn bán cần sa, rửa tiền dơ mà các vị tu hành cứ đội lên đầu những người núp bóng tôn giáo cho mưu đồ chính trị, xem họ như một vinh hạnh của nhà chùa, nhà thờ. Các vị tu hành cứ giành nhau ôm chân các ông bà nầy và ca tụng hết mình…thì thật tội nghiệp cho Chúa và Phật quá ! Việc tu hành không màng nghĩ đến, kinh kệ hằng ngày không quan tâm mà thầy cha chỉ chú trọng đến các hình thức phô trương bên ngoài. Đó là cái nghiệp tham sân si đang lấn át các đức tính bình dị, liêm khiết, vị tha, bác ái trong con người các vị tu hành hiện nay. Tình trạng thầy cha mượn Phật-Chúa để phục vụ cho cái tham sân si vô đáy cá nhân đang thịnh hành đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại!.
Cộng sản đố kỵ tôn giáo nhưng chúng lại xây dựng một số giáo hội gọi là quốc doanh nhằm thu nạp những vị tu hành mà tâm vẫn còn nặng nợ trần gian đồng thời cộng sản còn ‘sản xuất’ ra một số sư đỏ, cha đỏ để phân hóa các giáo hội chính thống, đồng thời chia đôi khối giáo dân cũng như Phật tử làm nhiều phe phái nhằm phá hoại tôn giáo. Âm mưu của cộng sản là chúng tạo ra một lớp tu hành gồm thầy cha quốc doanh với tất cả những cái xấu xa hơn những người trần tục, không ngoài mục đích để cho giáo dân, Phật tử nhìn thấy tư cách các vị lãnh đạo tinh thần để rồi từ đó họ sẽ xa dần Chúa và Phật…
Trong nước chính cộng sản bỏ tiền xây dựng chùa, nhà thờ để đưa vào đó những cha thầy quốc doanh với hai mục đích. Một là chứng minh với thế giới rằng Việt Nam là nơi mà các tôn giáo đều được phát triển tối đa, và hai là, chùa nhà thờ là những cái ổ trú ẩn của những tên cộng sản đội lốt tôn giáo. Tình hình ở hải ngoai cũng vậy, chùa và nhà thờ mọc lên như nấm, nguy nga đồ sộ, nhưng thử tìm hiểu tiền ở đâu để các thầy cha vừa mua đất vừa xây những cơ sở tôn giáo vượt quá khả năng ? Đồng ý rằng tiền của do tín đồ Phật tử đóng góp, nhưng đó chỉ là số nhỏ nhằm che đậy bên ngoài, phần tài chính quan trọng là do cộng sản cung cấp để thành lập những động ổ an toàn cho bọn cộng sản mặc áo nâu, áo đen từ trong nước ra trú ẩn.
Trong nước thì giáo gian Huỳnh công Minh, tổng thư ký tòa Tổng Giám Mục Sàigòn và cũng là ‘tổng tư lệnh’ giáo hội công giáo quốc doanh. Giáo gian nầy đang tận tình ‘điều khiển’ ngài Hồng Y Tổng Giám Mục ‘dính chàm’ Phạm Minh Mẫn. Do đó tín đồ không lạ gì khi ngài Hồng Y thi hành lệnh một cách tích cực, từ vụ Cờ Vàng cho đến ‘tống khứ’ Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đi Vatican chữa bệnh theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội. Ngoài ra, linh mục nào muốn ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc đầy túi, muốn được lấy vợ đẻ con chính thức công khai, muốn có nhà thờ to lớn và đông giáo dân (như Phan Khắc Từ) thì đến cúi mình trước mặt giáo gian Huỳnh Công Minh, ký giấy tờ cam kết rồi lãnh vài ba trăm triệu để xây nhà thờ và xây tổ ấm !
Trước năm 1957 tôi thường đến thăm và dùng cơm chay với nhiều vị Thượng Tọa trụ trì tại các chùa nhỏ (chùa nghèo) trong vùng Gia Định cũng như với những vị linh mục dòng Phanxicô hoặc dòng Vinh Sơn. Các vị nầy sống bình dị, mặc thô sơ, ăn uống thanh đạm. Khi tiếp xúc với những vị nầy tôi cảm nhận được Phật tính cũng như tinh thần Kytô thoát ra từ lời nói, cách cư xử đến cử chỉ và ánh mắt bao dung…Thâm tâm tôi lúc nào cũng quý trọng những vị chân tu nầy…Nhưng ngày nay, với chủ trương diệt tôn giáo, cộng sản đã sản xuất ra một số quốc doanh để mưu đồ phá hoại các tôn giáo chân chính và thành phần nầy hiện đang đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại. Các chất bổ béo trong cơ thể các vị tu hành ngày nay quá dư thừa, thân hình các vị tu hành phì nộn và đa số mang bệnh nhà giàu (tiểu đường, cao huyết áp…) vì các cha cai quản họ đạo được con chiên mời dùng bữa luân phiên từ nhà nầy qua nhà khác. Các thầy thì được Phật tử làm các món chay dưới dạng tôm rim, cá chiên, cua lột, thịt kho tàu…giúp cho các thầy tự đánh lừa cả thị, xúc, vị giác của mình để được ngon miệng. Như vậy cái si vẫn còn quá lớn, làm sao cho trọn kiếp tu !!!
Xin kết thúc bài viết : Chống cộng sản thì phải chú tâm đến vấn đề tôn giáo vận. Địch đã gài sẵn cha thầy quốc doanh vào nhà thờ, vào chùa…nếu chúng ta vô tình hay thiển cận, vẫn tôn vinh, nuôi dưỡng và đùm bọc thành phần nầy thì Phật tử con chiên đã tự chính mình ra tay diệt tôn giáo của mình.
ĐINH LÂM THANH
Paris 17.03.2010
* Trích trong 'Niềm Đau Còn Đó' xuất bản năm 2010 tại Mỹ. ISBN : 978-1-4507-1695-9