XIN CHÚA DÙNG CÁC LINH MỤC MÀ BAN PHÁT ƠN LÀNH LÒNG THƯƠNG XÓT!
Chứng từ của Cha Alain Costiou, Linh Mục Cố Vấn Mục Vụ Gia Đình của giáo phận Finistère bên nước Pháp.
Nếu có ai hỏi tôi điều gì nuôi dưỡng cuộc sống Linh Mục thì tôi sẽ trả lời ngay:
– Mối liên hệ với Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Thật thế, Cầu Nguyện, Phụng Vụ, nền huấn luyện Tu Đức và Thần Học hấp thụ giúp tôi có cơ cấu vững chắc để xây dựng cuộc sống nhân bản và Kitô. Đức Chúa GIÊSU KITÔ chính là Đấng dẫn tôi đến cùng THIÊN CHÚA CHA và tôi thích khám phá nơi nhân tính Ngài dung nhan đáng mến đáng yêu của THIÊN CHÚA.
Thêm vào đó còn phải nói đến mối tương quan với các anh chị em Kitô-hữu. Trước tiên là với các Linh Mục, anh em cùng Huynh Đoàn Linh Mục Jésus-Caritas (GIÊSU – Tình Yêu). Huynh Đoàn sống theo tinh thần tu đức của chân phúc Linh Mục Charles de Foucauld (1858-1916) nghĩa là chú trọng đến đặc tính ”xã hội – sống với tha nhân”.
Giống như Đức Chúa GIÊSU thành Nagiarét xưa nêu gương khiêm tốn, các Linh Mục chúng tôi cũng không tỏ ra mình hơn người, bởi lẽ tất cả chúng ta đều là loài thọ sinh. Chỉ khác một điều là Linh Mục mang nơi mình một kho tàng và phải làm chứng cho kho tàng này cách thật cương quyết và bảo đảm.
Kho tàng này chúng tôi có nhiệm vụ chia sẻ với lòng khiêm tốn và luôn luôn nhớ rằng ân huệ cho đi không bao giờ là con đường một chiều. Tiếp đến là có không biết bao cuộc gặp gỡ tốt đẹp với đủ hạng người nam nữ già trẻ. Đó là những cuộc gặp gỡ nuôi dưỡng lời cầu nguyện hàng ngày của tôi.
Tôi luôn luôn yêu thích nhiệm vụ đồng hành với người trẻ, giúp họ ý thức lãnh trách nhiệm. Giờ đây tôi sung sướng khi thấy họ dấn thân vào đời trong các sinh hoạt từ thiện, kinh tế, chính trị hoặc trở thành Linh Mục v,v.
Thế nhưng cuộc sống nào cũng có thành công và thất bại. Thất bại giúp tôi sống ý thức hơn nghĩa vụ Linh Mục. Đôi khi tôi khởi xướng những công tác gây tổn thương hoặc làm mất lòng người khác. Vào những trường hợp ấy, tôi không sống trong ray-rứt như một kẻ tội phạm. Trái lại, kinh nghiệm tiêu cực giúp tôi biết sống từ bỏ, khiêm tốn và hoán cải. Tất cả mọi biến cố đều nằm trong hành trình cuộc sống.
Tôi cũng có thể nói như thế về vấn đề sức khoẻ suy yếu của tôi. Lời Kinh Phó Thác của Linh Mục chân phúc Charles de Foucauld là một trong những Kinh tôi thích đọc nhất:
– Lạy CHA, con phó thác mình con cho CHA. Xin hãy làm nơi con những sự đẹp ý CHA ..
Khi bạn đọc Kinh này trong lúc đang nằm liệt giường nơi bệnh viện thì lời kinh mang một chiều kích thiêng liêng thật sâu thẳm. Sau khi trải qua thử thách và kinh nghiệm thế nào là bệnh tật thì cuộc sống chúng ta đổi khác. Thử thách thanh luyện con người chúng ta. Nói một cách khác, chính bệnh tật cũng nuôi dưỡng lời cầu nguyện mỗi ngày của chúng ta.
Điều gây ý thức nhất nơi tôi với tư cách Linh Mục chính là các cuộc gặp gỡ với các tín hữu Công Giáo. Khi một giáo dân đến tỏ bày ký thác cho Linh Mục các vấn đề khó khăn cuộc sống của họ và ra về với con tim an bình cùng niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt thì đó chính là lúc tôi cảm nhận sâu xa nghĩa vụ Linh Mục thánh thiêng của mình. Thông thường các cuộc gặp gỡ với giáo dân kết thúc với thời gian ngắn cùng cầu nguyện chung hoặc kết thúc với bí tích Giải Tội.
… Kinh Cầu Cho Các Linh Mục.
Lạy Đức Chúa GIÊSU là Linh Mục cao trọng, là Đấng Tế Lễ đời đời. Bởi lòng quá yêu dấu loài người là anh em của Chúa, nên Chúa đã mở kho tàng Trái Tim Cực Thánh Chúa, mà lập ra chức vị linh mục, thì nay chúng con cũng xin Chúa khấn đổ vào lòng các Linh Mục những dòng nước trường sinh, bởi lòng thương yêu vô cùng Trái Tim Chúa.
Xin Chúa sống trong các Linh Mục và dùng các ngài mà ban phát ơn lành của Lòng Thương Xót Chúa. Xin Chúa hành động với các Linh Mục, và dùng các ngài mà hành động trong thế gian. Lại xin Chúa làm cho các Linh Mục được hoàn toàn giống Chúa, mà trung thành bắt chước các nhân đức cao trọng của Chúa, để nhân danh Chúa, và nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần, các đấng ấy nhiệt thành, làm những việc xưa Chúa đã làm, mà cứu người ta cho được rỗi.
Lạy Đấng Cứu Chuộc loài người! Xin Chúa nhìn xem biết bao nhiêu kẻ đang nằm trong bóng tối tăm lầm lạc. Xin Chúa xem đến vô số giáo hữu theo đường tội lỗi, hòng sa xuống vực sâu. Xin Chúa trông đến biết bao người bần cùng đói khát, những người dốt nát mê muội, và những kẻ yếu đuối nhát hèn, đang rên rỉ than khóc, vì không có Linh Mục coi sóc, giữ gìn. Xin Chúa dùng các Linh Mục mà ở lại với chúng con. Xin Chúa sống trong các Linh Mục, và dùng các ngài mà hành động, và trở lại dưới thế gian này mà dạy dỗ, tha thứ, yên ủi, tế lễ và kết hợp mối tình yêu mến, ràng buộc lòng Chúa với loài người chúng con cho đến trọn đời. Amen.
(”Église en Finistère”, Année Sacerdotale, Dossier Spécial: Irremplacables Prêtres, 10 Décmebre 2009, n.109, trang IX-X)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Nguồn: R. Vatican
Chứng từ của Cha Alain Costiou, Linh Mục Cố Vấn Mục Vụ Gia Đình của giáo phận Finistère bên nước Pháp.
Nếu có ai hỏi tôi điều gì nuôi dưỡng cuộc sống Linh Mục thì tôi sẽ trả lời ngay:
– Mối liên hệ với Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Thật thế, Cầu Nguyện, Phụng Vụ, nền huấn luyện Tu Đức và Thần Học hấp thụ giúp tôi có cơ cấu vững chắc để xây dựng cuộc sống nhân bản và Kitô. Đức Chúa GIÊSU KITÔ chính là Đấng dẫn tôi đến cùng THIÊN CHÚA CHA và tôi thích khám phá nơi nhân tính Ngài dung nhan đáng mến đáng yêu của THIÊN CHÚA.
Thêm vào đó còn phải nói đến mối tương quan với các anh chị em Kitô-hữu. Trước tiên là với các Linh Mục, anh em cùng Huynh Đoàn Linh Mục Jésus-Caritas (GIÊSU – Tình Yêu). Huynh Đoàn sống theo tinh thần tu đức của chân phúc Linh Mục Charles de Foucauld (1858-1916) nghĩa là chú trọng đến đặc tính ”xã hội – sống với tha nhân”.
Giống như Đức Chúa GIÊSU thành Nagiarét xưa nêu gương khiêm tốn, các Linh Mục chúng tôi cũng không tỏ ra mình hơn người, bởi lẽ tất cả chúng ta đều là loài thọ sinh. Chỉ khác một điều là Linh Mục mang nơi mình một kho tàng và phải làm chứng cho kho tàng này cách thật cương quyết và bảo đảm.
Kho tàng này chúng tôi có nhiệm vụ chia sẻ với lòng khiêm tốn và luôn luôn nhớ rằng ân huệ cho đi không bao giờ là con đường một chiều. Tiếp đến là có không biết bao cuộc gặp gỡ tốt đẹp với đủ hạng người nam nữ già trẻ. Đó là những cuộc gặp gỡ nuôi dưỡng lời cầu nguyện hàng ngày của tôi.
Tôi luôn luôn yêu thích nhiệm vụ đồng hành với người trẻ, giúp họ ý thức lãnh trách nhiệm. Giờ đây tôi sung sướng khi thấy họ dấn thân vào đời trong các sinh hoạt từ thiện, kinh tế, chính trị hoặc trở thành Linh Mục v,v.
Thế nhưng cuộc sống nào cũng có thành công và thất bại. Thất bại giúp tôi sống ý thức hơn nghĩa vụ Linh Mục. Đôi khi tôi khởi xướng những công tác gây tổn thương hoặc làm mất lòng người khác. Vào những trường hợp ấy, tôi không sống trong ray-rứt như một kẻ tội phạm. Trái lại, kinh nghiệm tiêu cực giúp tôi biết sống từ bỏ, khiêm tốn và hoán cải. Tất cả mọi biến cố đều nằm trong hành trình cuộc sống.
Tôi cũng có thể nói như thế về vấn đề sức khoẻ suy yếu của tôi. Lời Kinh Phó Thác của Linh Mục chân phúc Charles de Foucauld là một trong những Kinh tôi thích đọc nhất:
– Lạy CHA, con phó thác mình con cho CHA. Xin hãy làm nơi con những sự đẹp ý CHA ..
Khi bạn đọc Kinh này trong lúc đang nằm liệt giường nơi bệnh viện thì lời kinh mang một chiều kích thiêng liêng thật sâu thẳm. Sau khi trải qua thử thách và kinh nghiệm thế nào là bệnh tật thì cuộc sống chúng ta đổi khác. Thử thách thanh luyện con người chúng ta. Nói một cách khác, chính bệnh tật cũng nuôi dưỡng lời cầu nguyện mỗi ngày của chúng ta.
Điều gây ý thức nhất nơi tôi với tư cách Linh Mục chính là các cuộc gặp gỡ với các tín hữu Công Giáo. Khi một giáo dân đến tỏ bày ký thác cho Linh Mục các vấn đề khó khăn cuộc sống của họ và ra về với con tim an bình cùng niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt thì đó chính là lúc tôi cảm nhận sâu xa nghĩa vụ Linh Mục thánh thiêng của mình. Thông thường các cuộc gặp gỡ với giáo dân kết thúc với thời gian ngắn cùng cầu nguyện chung hoặc kết thúc với bí tích Giải Tội.
… Kinh Cầu Cho Các Linh Mục.
Lạy Đức Chúa GIÊSU là Linh Mục cao trọng, là Đấng Tế Lễ đời đời. Bởi lòng quá yêu dấu loài người là anh em của Chúa, nên Chúa đã mở kho tàng Trái Tim Cực Thánh Chúa, mà lập ra chức vị linh mục, thì nay chúng con cũng xin Chúa khấn đổ vào lòng các Linh Mục những dòng nước trường sinh, bởi lòng thương yêu vô cùng Trái Tim Chúa.
Xin Chúa sống trong các Linh Mục và dùng các ngài mà ban phát ơn lành của Lòng Thương Xót Chúa. Xin Chúa hành động với các Linh Mục, và dùng các ngài mà hành động trong thế gian. Lại xin Chúa làm cho các Linh Mục được hoàn toàn giống Chúa, mà trung thành bắt chước các nhân đức cao trọng của Chúa, để nhân danh Chúa, và nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần, các đấng ấy nhiệt thành, làm những việc xưa Chúa đã làm, mà cứu người ta cho được rỗi.
Lạy Đấng Cứu Chuộc loài người! Xin Chúa nhìn xem biết bao nhiêu kẻ đang nằm trong bóng tối tăm lầm lạc. Xin Chúa xem đến vô số giáo hữu theo đường tội lỗi, hòng sa xuống vực sâu. Xin Chúa trông đến biết bao người bần cùng đói khát, những người dốt nát mê muội, và những kẻ yếu đuối nhát hèn, đang rên rỉ than khóc, vì không có Linh Mục coi sóc, giữ gìn. Xin Chúa dùng các Linh Mục mà ở lại với chúng con. Xin Chúa sống trong các Linh Mục, và dùng các ngài mà hành động, và trở lại dưới thế gian này mà dạy dỗ, tha thứ, yên ủi, tế lễ và kết hợp mối tình yêu mến, ràng buộc lòng Chúa với loài người chúng con cho đến trọn đời. Amen.
(”Église en Finistère”, Année Sacerdotale, Dossier Spécial: Irremplacables Prêtres, 10 Décmebre 2009, n.109, trang IX-X)
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Nguồn: R. Vatican
"Xây Cất" Nhà Thờ
Linh mục chánh xứ tháp tùng Đức Giám Mục đi tham quan ngôi nhà thờ vừa mới xây cất xong. Thấy kiến trúc mới lạ, Đức Giám Mục đưa tay sờ vào viên đá, không ngờ phẩm chất xây quá kém viên đá rơi ra và rớt xuống đất. Cha xứ đỏ mặt nói với ông trùm:
- Với kinh phí xây cất kỷ lục 40 tỷ đồng, sao lại có chuyện này xảy ra hở ông trùm?
Ông trùm ngập ngừng run rẩy đáp:
- Thưa cha, xin cha tha lỗi vì con phải nói thật. Thời buổi bây giờ từ trên xuống dưới vừa "xây" vừa "cất" (vào túi) nên đã xảy ra như thế.
Cha xứ: !!!???...
Linh mục chánh xứ tháp tùng Đức Giám Mục đi tham quan ngôi nhà thờ vừa mới xây cất xong. Thấy kiến trúc mới lạ, Đức Giám Mục đưa tay sờ vào viên đá, không ngờ phẩm chất xây quá kém viên đá rơi ra và rớt xuống đất. Cha xứ đỏ mặt nói với ông trùm:
- Với kinh phí xây cất kỷ lục 40 tỷ đồng, sao lại có chuyện này xảy ra hở ông trùm?
Ông trùm ngập ngừng run rẩy đáp:
- Thưa cha, xin cha tha lỗi vì con phải nói thật. Thời buổi bây giờ từ trên xuống dưới vừa "xây" vừa "cất" (vào túi) nên đã xảy ra như thế.
Cha xứ: !!!???...
7 CHỮ T: THẬT THÀ THẲNG THẮN THƯỜNG THUA THIỆT
Câu nói khá thông dụng ngày nay là: “thật thà thẳng thắn thường thua thiệt.” Nếu thế, phải chăng gian dối dù không hợp tình hợp lý, nhưng lại hợp thực tế? Thế nhưng, thực tế là gì? Nó là cái do con người tạo ra hay nó điều kiện hóa con người?
Trong học đường, thật và giả dễ nhận thấy và thậm chí dễ được chấp nhận, dù được chấp nhận trong vui vẻ hay trong ưu tư.
Một em học sinh cấp hai chia sẻ: Bạn ấy là người thân nhất của em. Khi không hiểu bài, em thường hỏi bạn ấy. Khi thi, bạn chỉ bài cho em. Em rất vui vì được bạn giúp đỡ. Nhờ bạn mà em có thể lên lớp.
Một bạn học sinh cấp ba kể: Mẹ em là giáo viên. Khi coi thi, thấy các bạn học sinh làm bài không nghiêm túc, mẹ chỉ nhắc nhở và thu tài liệu mà không đánh dấu bài. Vì nếu đánh dấu bài, thì thật “bất công” cho các bạn ấy trong hoàn cảnh rối ren của phòng thi. Khi tan thi, xe của mẹ em bị xì hơi.
Một bạn sinh viên sư phạm tâm sự: Mình không phải là sinh viên giỏi. Thấy nhiều bạn khác quay cóp, mình không hài lòng. Đôi khi mình cũng chép bài từ bạn khác khi thi. Nhưng lần nọ, mình quyết định sẽ không chép bài nữa, mình thà trượt còn hơn. Mình thấy hổ thẹn với lương tâm. Mình sẽ làm thầy mà còn gian dối, còn hữu danh vô thực, làm sao có thể hy vọng giúp đỡ trò về kiến thức, về nhân cách sống.
Một bậc phụ huynh, thấy con mình đi ra phòng thi, thì hỏi ngay: Con ơi, thầy cô coi thi hôm nay dễ hay khó?
…
Trong xã hội, thật và giả càng khó lường.
Chị bán hàng nói với khách: anh mua em “để vốn” cho. Thực ra, giá cả gấp nhiều lần giá thật. Phép nhân kiểu này càng dễ gặp và khó thấy trong mặt hàng dược phẩm.
Người ta nói “thuận mua vừa bán” là được, nhưng sự thường, người tiêu dùng là chịu thiệt. Người ta nói “mọi người cùng đồng thuận” để tạo ra các hiệp ước, nhưng sự thường, hiệp ước ấy chỉ có lợi cho một nhóm lợi ích.
Người ta nói, pháp luật nghiêm minh và công bằng, nhưng cái nghiêm minh và công bằng ấy trên giấy nhiều hơn. Ví như luật giao thông, người tham gia giao thông mà biết mọi khoản luật thì “chết liền”.
Có một tiến trình ngược: tìm cách làm cho luật đi vào đời sống, mà không phải là cuộc sống tạo nên luật? Tại sao không? Hơn nữa, những người ở “ngoài luật” thì thế nào? Vấn đề là do luật hay do con người?
Khi thanh toán hóa đơn, người bán hàng chủ động hỏi: anh muốn viết hóa đơn kiểu nào? Cao hơn hay thấp hơn giá thật?
Số tiền “khó tưởng tượng” được đầu tư cho ngành giáo dục, khi bị chất vấn, chỉ được trả lời tỉnh queo là “nhầm lẫn”. Các công trình công cộng, khi không thể nghiệm thu, chỉ được giải thích đơn giản là thiếu tiền, là giải ngân chưa kịp.
Khi hai người va chạm gây ra tai nạn giao thông, thì việc đầu tiên người “sống sót” nghĩ tới không phải là đem người bị nạn đi bệnh viện, mà là “chuồn cho nhanh”.
Như thế, nếu không đặt câu hỏi về con người, về trách nhiệm, thì tương lai tươi sáng cho cá nhân, cho cộng đồng chỉ là thiên đường ảo tưởng mà thôi.
…
Trong gia đình, thật và giả có vẻ “thân quen” hơn.
Cha mẹ ít học có thể thu mình lại trước con cái học nhiều. Có bậc cha mẹ chê bai “mớ lý thuyết” của con cái, và cho rằng, kinh nghiệm trường đời mới quan trọng. Cha mẹ học cao có thể gây sức ép lên định hướng tương lai của con cái, có thể áp đặt tiêu chuẩn và ước mơ của mình lên con cái. Có bậc cha mẹ “bỏ mặc” con cái.
Ngược lại, nhiều người con chê bai cha mẹ quê mùa. Nhiều người con muốn “thoát khỏi vòng tay” của cha mẹ. Nhiều người con muốn “chối bỏ” cha mẹ mình.
Ước gì con người có thể đón nhận nhau hơn, có thể chân thật hơn, tốt lành hơn. Ước mơ chỉ là ước mơ nếu thiếu hành động. Hành động “khẳng định” là biến ước mơ, biến tiềm năng thành hiện thực. Thế nhưng, nếu “khẳng định mình” mà loại trừ người khác, loại trừ cộng đồng, thì thật nguy hiểm. “Tiến bộ” như thế thì tụt lùi là lẽ đương nhiên. Thấy cây mà không thấy rừng, thì con người chỉ là những hòn đảo cô độc. Thấy rừng mà không thấy cây, thì xã hội loài người chỉ là một xã hội vô hồn.
Vinh Sơn Vũ Tứ Quyết, S.J
Câu nói khá thông dụng ngày nay là: “thật thà thẳng thắn thường thua thiệt.” Nếu thế, phải chăng gian dối dù không hợp tình hợp lý, nhưng lại hợp thực tế? Thế nhưng, thực tế là gì? Nó là cái do con người tạo ra hay nó điều kiện hóa con người?
Trong học đường, thật và giả dễ nhận thấy và thậm chí dễ được chấp nhận, dù được chấp nhận trong vui vẻ hay trong ưu tư.
Một em học sinh cấp hai chia sẻ: Bạn ấy là người thân nhất của em. Khi không hiểu bài, em thường hỏi bạn ấy. Khi thi, bạn chỉ bài cho em. Em rất vui vì được bạn giúp đỡ. Nhờ bạn mà em có thể lên lớp.
Một bạn học sinh cấp ba kể: Mẹ em là giáo viên. Khi coi thi, thấy các bạn học sinh làm bài không nghiêm túc, mẹ chỉ nhắc nhở và thu tài liệu mà không đánh dấu bài. Vì nếu đánh dấu bài, thì thật “bất công” cho các bạn ấy trong hoàn cảnh rối ren của phòng thi. Khi tan thi, xe của mẹ em bị xì hơi.
Một bạn sinh viên sư phạm tâm sự: Mình không phải là sinh viên giỏi. Thấy nhiều bạn khác quay cóp, mình không hài lòng. Đôi khi mình cũng chép bài từ bạn khác khi thi. Nhưng lần nọ, mình quyết định sẽ không chép bài nữa, mình thà trượt còn hơn. Mình thấy hổ thẹn với lương tâm. Mình sẽ làm thầy mà còn gian dối, còn hữu danh vô thực, làm sao có thể hy vọng giúp đỡ trò về kiến thức, về nhân cách sống.
Một bậc phụ huynh, thấy con mình đi ra phòng thi, thì hỏi ngay: Con ơi, thầy cô coi thi hôm nay dễ hay khó?
…
Trong xã hội, thật và giả càng khó lường.
Chị bán hàng nói với khách: anh mua em “để vốn” cho. Thực ra, giá cả gấp nhiều lần giá thật. Phép nhân kiểu này càng dễ gặp và khó thấy trong mặt hàng dược phẩm.
Người ta nói “thuận mua vừa bán” là được, nhưng sự thường, người tiêu dùng là chịu thiệt. Người ta nói “mọi người cùng đồng thuận” để tạo ra các hiệp ước, nhưng sự thường, hiệp ước ấy chỉ có lợi cho một nhóm lợi ích.
Người ta nói, pháp luật nghiêm minh và công bằng, nhưng cái nghiêm minh và công bằng ấy trên giấy nhiều hơn. Ví như luật giao thông, người tham gia giao thông mà biết mọi khoản luật thì “chết liền”.
Có một tiến trình ngược: tìm cách làm cho luật đi vào đời sống, mà không phải là cuộc sống tạo nên luật? Tại sao không? Hơn nữa, những người ở “ngoài luật” thì thế nào? Vấn đề là do luật hay do con người?
Khi thanh toán hóa đơn, người bán hàng chủ động hỏi: anh muốn viết hóa đơn kiểu nào? Cao hơn hay thấp hơn giá thật?
Số tiền “khó tưởng tượng” được đầu tư cho ngành giáo dục, khi bị chất vấn, chỉ được trả lời tỉnh queo là “nhầm lẫn”. Các công trình công cộng, khi không thể nghiệm thu, chỉ được giải thích đơn giản là thiếu tiền, là giải ngân chưa kịp.
Khi hai người va chạm gây ra tai nạn giao thông, thì việc đầu tiên người “sống sót” nghĩ tới không phải là đem người bị nạn đi bệnh viện, mà là “chuồn cho nhanh”.
Như thế, nếu không đặt câu hỏi về con người, về trách nhiệm, thì tương lai tươi sáng cho cá nhân, cho cộng đồng chỉ là thiên đường ảo tưởng mà thôi.
…
Trong gia đình, thật và giả có vẻ “thân quen” hơn.
Cha mẹ ít học có thể thu mình lại trước con cái học nhiều. Có bậc cha mẹ chê bai “mớ lý thuyết” của con cái, và cho rằng, kinh nghiệm trường đời mới quan trọng. Cha mẹ học cao có thể gây sức ép lên định hướng tương lai của con cái, có thể áp đặt tiêu chuẩn và ước mơ của mình lên con cái. Có bậc cha mẹ “bỏ mặc” con cái.
Ngược lại, nhiều người con chê bai cha mẹ quê mùa. Nhiều người con muốn “thoát khỏi vòng tay” của cha mẹ. Nhiều người con muốn “chối bỏ” cha mẹ mình.
Ước gì con người có thể đón nhận nhau hơn, có thể chân thật hơn, tốt lành hơn. Ước mơ chỉ là ước mơ nếu thiếu hành động. Hành động “khẳng định” là biến ước mơ, biến tiềm năng thành hiện thực. Thế nhưng, nếu “khẳng định mình” mà loại trừ người khác, loại trừ cộng đồng, thì thật nguy hiểm. “Tiến bộ” như thế thì tụt lùi là lẽ đương nhiên. Thấy cây mà không thấy rừng, thì con người chỉ là những hòn đảo cô độc. Thấy rừng mà không thấy cây, thì xã hội loài người chỉ là một xã hội vô hồn.
Vinh Sơn Vũ Tứ Quyết, S.J
COI CHỪNG… GIẢ!
Xung quanh chúng ta tràn ngập hàng giả. Điều đáng sợ, là chúng ta khó có thể phân biệt giữa giả và thật. Càng là hàng giả, bề ngoài mẫu mã càng bắt mắt, càng dễ thu hút thị hiếu… Nó cũng tiếp thị, phô trương rộng rãi. Nó cũng được chào đón trang trọng, được quảng bá rùm ben. Nhưng thực chất, nó là hàng giả. Giả từ trong ra ngoài. Giả từ trên xuống dưới.
Con người cũng có “người giả”, “người thật”. Hãy nghe Chúa Giêsu nói về những thứ giả hiệu ấy: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 38-40).
Với cung giọng tỏ ra khó chịu của mình, Chúa Giêsu tha thiết cảnh báo cái thật, cái giả về lòng đạo đức. Có những con người, cứ nhìn nét “chu chu chấm chấm” của họ, tưởng là họ đạo đức, nhưng thực ra, lòng họ chẳng khác gì nòi rắn độc.
Các kinh sư được Chúa nhắc đến trong Tin Mừng, thuộc hạn người này. Họ đã không dễ dàng lọt qua cặp mắt của Chúa. Đúng hơn, Chúa nhìn thấu lòng dạ họ. Chúa nhìn thấu tâm tư, và lương tâm họ. Chúa cất tiếng cảnh báo mọi người hãy coi chừng, kẻo bị lừa.
Kinh sư là ai? Họ là những người am hiểu Thánh Kinh. Họ là thầy dạy và giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ có chỗ đứng trang trọng trong đời sống tôn giáo Dothái. Họ có những đặc quyền và hưởng những đặc quyền này nơi đền thờ, nơi những phúc lợi từ các sinh hoạt tôn giáo. Họ là người được dân chúng kính trọng. Họ được xem là chuẩn mực cho việc tuân giữ lề luật và giao ước của Thiên Chúa. Họ được quyền dạy bảo và nhắc nhở dân chúng về việc ăn ngay ở lành, tông trọng luật pháp của Thiên Chúa…
Điều đau lòng ở đây là, họ thuộc “hàng giả”. Họ chỉ là những kinh sư “giả hiệu”. Họ trau chuốt bên ngoài, nhưng thiếu hẳn lòng đạo đức bên trong. Họ am hiểu Lời Chúa trong Thánh Kinh, nhưng họ không sống Lời Chúa. Họ dạy người ta giữ lề luật của Chúa, nhưng họ lại coi thường lề luật. Họ không có đời sống cầu nguyện, nên họ trở thành kẻ lừa gạt mọi người. Họ không có tấm lòng cho Thiên Chúa, nên họ trở thành kẻ hưởng lợi bất chính trên những phúc lợi mà mọi người dâng hiến cho Thiên Chúa…
Vì thế, ta có thể xem nội dung Tin Mừng hôm nay, là lời mà Chúa Giêsu chống lại những kẻ đạo đức giả. Hơn thế, Chúa chống lại những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh, là những “kinh sư thời mới”, nhưng giả hiệu.
Hơn ai hết, các nhà lãnh đạo trong Hội Thánh phải xem lại cách sống, cách thể hiện lòng đạo đức, cách mà mình tương quan với mọi người. Chúng ta có “trọng sang khinh bần”? Chúng ta có tìm cách tô vẽ bề ngoài cho “hoành tráng”, cho “lộng lẫy”, nhưng chiều sâu đạo đức, chiều sâu nội tâm bị bỏ quên? Chúng ta tìm những hào nhoáng, tìm những lối “tự xông hương” mình để che đậy khuyết điểm nào đó? Chúng ta ưa những kiểu “xúng xính”, ưa thể hiện mình là “trên” là “nhất”, ưa những “nhãn hiệu”, những “mác” mà trước mặt người đời có thể “cao trọng”, nhưng vô bổ trước mặt Thiên Chúa?
Nếu là người lãnh đạo tinh thần của muôn dân, mà lại “sính” những điều vừa kể, thì không phải chờ đến Chúa Giêsu, nhưng từ ngàn xưa, Lời Chúa trong sách Huấn ca đã cảnh báo: “Hãy cẩn thận, hãy hết sức coi chừng, vì con đang đồng hành với sự suy vong rồi đó” (13, 13).
Trong Tin Mừng theo thánh Mathêô, Chúa Giêsu vạch trần kiểu “sính” ấy: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (7, 15).
Thánh Phaolô còn mắng nặng hơn: “Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì!” (Philip 3, 2).
Đặc biệt, nếu Chúa Giêsu nghiêm khắc chống lại việc tham lam tiền của, thì từ ngàn xưa, sách Gióp đã lên tiếng khuyên dạy: “Hãy coi chừng, đừng để cho mình bị giàu sang mê hoặc hay bị lung lạc vì quà cáp bạc tiền” (36, 18).
Tội nghiệp những người nghèo, vốn đã nghèo, đã bần cùng, càng khốn cùng hơn. Chúa Giêsu lên án thói đạo đức giả và tham lam vô độ ấy: “Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 38-40).
Đừng chỉ là trang bị những hiểu biết, những kiến thức Lời Chúa, nhưng hãy để cho Lời Chúa, giới luật của Chúa, giáo lý của Chúa chi phối, điều khiển tâm hồn mình; chi phối, điều khiển cuộc sống và cách hành xử của mình…
Hãy lắng nghe Lời Chúa. Hãy biết sợ lời thật của Chúa. Tất cả chúng ta hãy tránh xa thói đạo đức giả. Hãy sống thật. Hãy thể hiện lòng thật. Hãy có tấm lòng, chứ đừng chỉ có hình thức. Đừng chỉ chưng diện bên ngoài, những hãy sửa soạn tâm hồn chu đáo.
Nếu không có tấm lòng mà chỉ lo “sơn phết” bên ngoài, chúng ta thật đáng bị xem thường. Chính Lời Thiên Chúa không những ủng hộ mà còn hướng dẫn cho sự bị xem thường ấy: “Nếu nó tự hạ và đi đứng khúm núm, thì con phải cảnh giác và coi chừng; hãy đối xử với nó như người lau gương, và biết rằng rốt cuộc nó sẽ bị lật tẩy” (Hc 12, 11).
Những bậc lãnh đạo trong Hội Thánh, phải biết cảnh giác, biết ngăn ngừa để bản thân khỏi bị lây nhiễm, khỏi bị ảnh hưởng thái độ “kinh sư” mà Chúa từng chỉ trích.
Hãy sống thực tâm, đừng giả hình. Hãy nghe thánh Gioan dạy: “Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng” (2Ga, 1, 8), mà sống thật tốt, và phấn đấu từng ngày nhằm bảo vệ bằng được những điều thiện được Chúa ghi nhận và những phúc lành Chúa ban.
Những bậc lãnh đạo trong Hội Thánh hãy rao giảng Lời Chúa sau khi chính mình đã cố gắng sống Lời Chúa. Họ hãy là người nêu gương tuân giữ lề luật trước khi đòi người khác phải tuân giữ. Họ hãy cúi xuống để thông chia phận người, chứ đừng khoa trương trên môi miệng. Họ hãy là người của muôn người, người giữa muôn người bằng cõi lòng thật tâm muốn đến và muốn sống giữa muôn người. Họ hãy “coi chừng thế gian” (1Ga 2, 1) len lỏi vào cung cách sống, cung cách lãnh đạo của họ.
Trong thực tế đời sống, vẫn có những người, bên ngoài xem ra gồ ghề, xù xì, nhưng lòng họ lại chất chứa sự thiện, chất chứa những nét đáng yêu, chất chứa tình yêu Thiên Chúa.
Thà chúng ta là người gồ ghề, xù xì bên ngoài, nhưng lòng chúng ta, tâm chúng ta là lòng và tâm đầy Chúa, đầy tình yêu của Chúa, hơn là bề ngoài có vẻ trơn láng, sạch sẽ, mà lòng và tâm đầy nhơ nhớp, bẩn thỉu.
Hàng giả, hàng gian, hàng nhái…, không những độc hại, nguy hiểm, mà còn nhẫn tâm, tàn ác, đem cái chết đến cho người nào mua nhầm nó, ăn nhầm nó.
Cũng vậy, “kinh sư”, dù thời xưa hay thời nay mà giả hiệu, thì cũng chỉ là cặn bã độc hại cho những ai mà họ được quyền lãnh đạo.
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG
Xung quanh chúng ta tràn ngập hàng giả. Điều đáng sợ, là chúng ta khó có thể phân biệt giữa giả và thật. Càng là hàng giả, bề ngoài mẫu mã càng bắt mắt, càng dễ thu hút thị hiếu… Nó cũng tiếp thị, phô trương rộng rãi. Nó cũng được chào đón trang trọng, được quảng bá rùm ben. Nhưng thực chất, nó là hàng giả. Giả từ trong ra ngoài. Giả từ trên xuống dưới.
Con người cũng có “người giả”, “người thật”. Hãy nghe Chúa Giêsu nói về những thứ giả hiệu ấy: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 38-40).
Với cung giọng tỏ ra khó chịu của mình, Chúa Giêsu tha thiết cảnh báo cái thật, cái giả về lòng đạo đức. Có những con người, cứ nhìn nét “chu chu chấm chấm” của họ, tưởng là họ đạo đức, nhưng thực ra, lòng họ chẳng khác gì nòi rắn độc.
Các kinh sư được Chúa nhắc đến trong Tin Mừng, thuộc hạn người này. Họ đã không dễ dàng lọt qua cặp mắt của Chúa. Đúng hơn, Chúa nhìn thấu lòng dạ họ. Chúa nhìn thấu tâm tư, và lương tâm họ. Chúa cất tiếng cảnh báo mọi người hãy coi chừng, kẻo bị lừa.
Kinh sư là ai? Họ là những người am hiểu Thánh Kinh. Họ là thầy dạy và giải thích Thánh Kinh cho dân chúng. Họ có chỗ đứng trang trọng trong đời sống tôn giáo Dothái. Họ có những đặc quyền và hưởng những đặc quyền này nơi đền thờ, nơi những phúc lợi từ các sinh hoạt tôn giáo. Họ là người được dân chúng kính trọng. Họ được xem là chuẩn mực cho việc tuân giữ lề luật và giao ước của Thiên Chúa. Họ được quyền dạy bảo và nhắc nhở dân chúng về việc ăn ngay ở lành, tông trọng luật pháp của Thiên Chúa…
Điều đau lòng ở đây là, họ thuộc “hàng giả”. Họ chỉ là những kinh sư “giả hiệu”. Họ trau chuốt bên ngoài, nhưng thiếu hẳn lòng đạo đức bên trong. Họ am hiểu Lời Chúa trong Thánh Kinh, nhưng họ không sống Lời Chúa. Họ dạy người ta giữ lề luật của Chúa, nhưng họ lại coi thường lề luật. Họ không có đời sống cầu nguyện, nên họ trở thành kẻ lừa gạt mọi người. Họ không có tấm lòng cho Thiên Chúa, nên họ trở thành kẻ hưởng lợi bất chính trên những phúc lợi mà mọi người dâng hiến cho Thiên Chúa…
Vì thế, ta có thể xem nội dung Tin Mừng hôm nay, là lời mà Chúa Giêsu chống lại những kẻ đạo đức giả. Hơn thế, Chúa chống lại những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh, là những “kinh sư thời mới”, nhưng giả hiệu.
Hơn ai hết, các nhà lãnh đạo trong Hội Thánh phải xem lại cách sống, cách thể hiện lòng đạo đức, cách mà mình tương quan với mọi người. Chúng ta có “trọng sang khinh bần”? Chúng ta có tìm cách tô vẽ bề ngoài cho “hoành tráng”, cho “lộng lẫy”, nhưng chiều sâu đạo đức, chiều sâu nội tâm bị bỏ quên? Chúng ta tìm những hào nhoáng, tìm những lối “tự xông hương” mình để che đậy khuyết điểm nào đó? Chúng ta ưa những kiểu “xúng xính”, ưa thể hiện mình là “trên” là “nhất”, ưa những “nhãn hiệu”, những “mác” mà trước mặt người đời có thể “cao trọng”, nhưng vô bổ trước mặt Thiên Chúa?
Nếu là người lãnh đạo tinh thần của muôn dân, mà lại “sính” những điều vừa kể, thì không phải chờ đến Chúa Giêsu, nhưng từ ngàn xưa, Lời Chúa trong sách Huấn ca đã cảnh báo: “Hãy cẩn thận, hãy hết sức coi chừng, vì con đang đồng hành với sự suy vong rồi đó” (13, 13).
Trong Tin Mừng theo thánh Mathêô, Chúa Giêsu vạch trần kiểu “sính” ấy: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (7, 15).
Thánh Phaolô còn mắng nặng hơn: “Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì!” (Philip 3, 2).
Đặc biệt, nếu Chúa Giêsu nghiêm khắc chống lại việc tham lam tiền của, thì từ ngàn xưa, sách Gióp đã lên tiếng khuyên dạy: “Hãy coi chừng, đừng để cho mình bị giàu sang mê hoặc hay bị lung lạc vì quà cáp bạc tiền” (36, 18).
Tội nghiệp những người nghèo, vốn đã nghèo, đã bần cùng, càng khốn cùng hơn. Chúa Giêsu lên án thói đạo đức giả và tham lam vô độ ấy: “Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mc 12, 38-40).
Đừng chỉ là trang bị những hiểu biết, những kiến thức Lời Chúa, nhưng hãy để cho Lời Chúa, giới luật của Chúa, giáo lý của Chúa chi phối, điều khiển tâm hồn mình; chi phối, điều khiển cuộc sống và cách hành xử của mình…
Hãy lắng nghe Lời Chúa. Hãy biết sợ lời thật của Chúa. Tất cả chúng ta hãy tránh xa thói đạo đức giả. Hãy sống thật. Hãy thể hiện lòng thật. Hãy có tấm lòng, chứ đừng chỉ có hình thức. Đừng chỉ chưng diện bên ngoài, những hãy sửa soạn tâm hồn chu đáo.
Nếu không có tấm lòng mà chỉ lo “sơn phết” bên ngoài, chúng ta thật đáng bị xem thường. Chính Lời Thiên Chúa không những ủng hộ mà còn hướng dẫn cho sự bị xem thường ấy: “Nếu nó tự hạ và đi đứng khúm núm, thì con phải cảnh giác và coi chừng; hãy đối xử với nó như người lau gương, và biết rằng rốt cuộc nó sẽ bị lật tẩy” (Hc 12, 11).
Những bậc lãnh đạo trong Hội Thánh, phải biết cảnh giác, biết ngăn ngừa để bản thân khỏi bị lây nhiễm, khỏi bị ảnh hưởng thái độ “kinh sư” mà Chúa từng chỉ trích.
Hãy sống thực tâm, đừng giả hình. Hãy nghe thánh Gioan dạy: “Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng” (2Ga, 1, 8), mà sống thật tốt, và phấn đấu từng ngày nhằm bảo vệ bằng được những điều thiện được Chúa ghi nhận và những phúc lành Chúa ban.
Những bậc lãnh đạo trong Hội Thánh hãy rao giảng Lời Chúa sau khi chính mình đã cố gắng sống Lời Chúa. Họ hãy là người nêu gương tuân giữ lề luật trước khi đòi người khác phải tuân giữ. Họ hãy cúi xuống để thông chia phận người, chứ đừng khoa trương trên môi miệng. Họ hãy là người của muôn người, người giữa muôn người bằng cõi lòng thật tâm muốn đến và muốn sống giữa muôn người. Họ hãy “coi chừng thế gian” (1Ga 2, 1) len lỏi vào cung cách sống, cung cách lãnh đạo của họ.
Trong thực tế đời sống, vẫn có những người, bên ngoài xem ra gồ ghề, xù xì, nhưng lòng họ lại chất chứa sự thiện, chất chứa những nét đáng yêu, chất chứa tình yêu Thiên Chúa.
Thà chúng ta là người gồ ghề, xù xì bên ngoài, nhưng lòng chúng ta, tâm chúng ta là lòng và tâm đầy Chúa, đầy tình yêu của Chúa, hơn là bề ngoài có vẻ trơn láng, sạch sẽ, mà lòng và tâm đầy nhơ nhớp, bẩn thỉu.
Hàng giả, hàng gian, hàng nhái…, không những độc hại, nguy hiểm, mà còn nhẫn tâm, tàn ác, đem cái chết đến cho người nào mua nhầm nó, ăn nhầm nó.
Cũng vậy, “kinh sư”, dù thời xưa hay thời nay mà giả hiệu, thì cũng chỉ là cặn bã độc hại cho những ai mà họ được quyền lãnh đạo.
Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG
Tân phúc âm hóa 4 hình thái phục vụ của Linh Mục
Lm. Phêrô Nguyễn Đức Thắng 11/17/2015
Sống trong một đất nước của các khẩu hiệu, chúng ta thấy các biểu ngữ tràn lan và chen chúc nhau trên đường phố, nhưng rất nhiều câu vô bổ, thậm chí vô cảm hay phản cảm nữa. Ngay giữa Sài Thành tất bật, đặc quẹo khói xe thì đây đó đập vào mắt một màu đỏ rực: “KHÔNG RA KHƠI KHI CÓ BÃO”. Oái ăm thay, khẩu hiệu nào cũng như thét thành tiếng cả:
“Vượt đèn đỏ chỉ dành cho người ít học”.
“Các em gái không thể tự mình mang thai, các em trai phải là một phần của giải pháp”.
Số khác hưởng ứng trên lưng áo: “thà hôn em rồi bị tát còn hơn nhìn thằng khác nó hôn em”.
Chính vì thế, người ta dị ứng và thậm chí sợ hãi cả những khẩu hiệu mượt mà như “đầy tớ của nhân dân” “khách hàng là thượng đế” vv... Ngay trong nhà đạo thì sự thận trọng, nghi ngại trước cái gọi là: “chúng tôi là những đầy tớ vô dụng”, “các linh mục là tôi tớ, là người phục vụ” là điều dễ thấy.
Lời Chúa trong tin mừng Luca 17, 7-10 mời gọi mỗi người thay đổi cung cách phục vụ của mình trong thế giới hôm nay như một cách thức tân phúc âm hoá: “chúng tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.
1. Phục vụ thật nhẹ nhàng chứ không áp đặt.
Là người phục vụ thầy Giêsu nhân lành, người phục vụ cần biểu lộ một khuôn mặt bao dung, đồng cảm và đồng hành với con người, để có thể chia vui sẻ buồn của họ, để họ có thể cảm nhận “gánh của Chúa thì êm ái, ách của Chúa thì nhẹ nhàng”.
Người phục vụ gánh lấy nỗi thống khổ của dân, chứ không thuộc về loại người “buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính mình lại không muốn giơ ngón tay lay thử”. Thánh Tôma Aquinô chỉ ra rằng các giới luật mà Đức Kitô và các tông đồ truyền cho dân thì “rất ít”. Do vậy các giới luật mà Hội Thánh thời sau truyền dạy nên được nhấn mạnh một cách vừa phải thôi “để không đè nặng lên đời sống các tín hữu” và biến đạo chúng ta thành một dạng nô lệ, trong khi “lòng thương xót của Thiên Chúa muốn chúng ta phải được tự do”. Đây là một trong các tiêu chuẩn chúng ta phải lưu ý khi suy nghĩ về một cuộc cải tổ Hội Thánh và việc giảng dạy của Hội Thánh. (EG 43)[1]
2. Phục vụ thầm lặng theo “tinh thần men muối”.
Các gam màu tươi sáng làm cho bức tranh cuộc sống hấp dẫn, sống động. Cuộc sống cần có các điểm nhấn là các các phong trào để gây ý thức cộng đồng. Tuy vậy, thời gian mới là lời đáp trả cho mọi vấn đề. Các lễ hội không nên được đặt ưu tiên hàng đầu trong chương trình mục vụ.
Là người phục vụ một Hội Thánh tham gia, hiệp thông và sứ vụ, chúng ta duy trì sự hiệp nhất các chi thể nơi thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, quan tâm tới sự hiện diện cùng với nhau, nhất là quanh bàn tiệc Thánh thể. Tuy nhiên, cần biết rằng, sự hiệp thông không chỉ là sự quy tụ, càng không phải là bầu khí của các cuộc tụ họp lễ hội linh đình. Đôi khi một sự hiện diện khiêm nhường và âm thầm lại cho kết quả tốt hơn. Lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô với các giám mục trong Tông huấn Evangelii Gaudium về việc duy trì hiệp thông cũng nên là kim chỉ nam cho mỗi linh mục. Thật vậy, số 31 của tông huấn nói: “Giám mục phải luôn luôn nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo trong Giáo Hội địa phương của mình, theo lý tưởng của các cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi, ở đó các tín hữu đều một lòng một trí với nhau. Để làm điều này, có khi ngài sẽ đứng trước dân, chỉ đường cho họ và giữ cho niềm hi vọng của họ luôn sống động. Khi khác, ngài chỉ cần ở giữa họ bằng một sự hiện diện khiêm tốn và nhân từ”. Đây chính là tinh thần làm men, làm muối giữa đời. Tinh thần ấy cần có thời gian, cần được nuôi dưỡng dài hạn.
Nếu không có tinh thần men muối, các lễ hội cũng giống như những chiếc bong bóng màu. Phong trào tuần lễ xanh sạch, ngày hội ra quân vệ sinh môi trường tiêu tốn rất nhiều công sức nhưng nhanh chóng xì hơi và để lại bộ mặt thành phố nhếch nhác, bẩn thỉu như nó vốn có, còn những người tham gia thì mệt mỏi, chán chường.
3. Người phục vụ hôm nay phải là người bình thường.
Thế giới chúng ta đang sống rất hời hợt và trọng hình thức. Đi ngược với giòng chảy đó cần nhiều can đảm, bản lĩnh. Thoát ra được thói chuộng vẻ bề ngoài sẽ làm cho chúng ta nhẹ nhàng hơn khi bước theo Thánh Giá Chúa Kitô. Là những người phục vụ thì càng phải xoá mình đi. Không thiếu các linh mục lúc nào cũng khoác lên người chiếc áo chùng thâm và xưng mình là cha với tất cả mọi người với dụng ý “để dễ dàng làm việc”.
“Chúng ta cần phải bình thường”, đó là lời ĐTC Phanxicô nhắn nhủ. Lắm lúc người mục tử sợ sự bình thường sẽ làm mất đi sự kính trọng, khó điều hành. Đó chỉ là lo lắng không có cơ sở. Cha Andrea Riccardi, nhận xét rằng, “Phong cách không hình thức và sự gần gũi của Đức Phanxicô làm cho trách vụ quản trị Giáo Hội trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. ... Điều này không có nghĩa là mất đi thẩm quyền, nhưng ngược lại, làm tăng thêm sự tín nhiệm”. Người phục vụ hôm nay cần có tinh thần gần gũi, giản dị.
4. Người phục vụ hành động theo nguyên lý bổ trợ.
Cơn cám dỗ ngọt ngào của người tông đồ là muốn xen vào chuyện của tất cả mọi người thuộc về mình, cho đó là bổn phận của mình. Tuy nhiên trách vụ cao cả hàng đầu của mục tử là “phải nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân, sẵn sàng chấp nhận các ý kiến khôn ngoan của họ”, LG[2]. 37, “cần giao cho họ các trách vụ cũng như trao cho họ tự do và quyền hạn để khuyến khích họ đảm nhận công việc theo sáng kiến riêng”. Để có được sự tin tưởng này, người phục vụ cần học biết một nguyên tắc đặc thù của Hội Thánh: Nguyên Lý Bổ Trợ, theo đó cơ quan cấp trên hãy chăm lo và giúp đỡ kịp thời các phần tử cấp dưới nhưng không quyết định thay cho cấp dưới. Một sự buông bỏ trước quyền lực, địa vị để có thể giúp các đặc sủng trong dân Chúa có cơ hội phát huy cách tốt đẹp hơn. Cũng thế, các đoàn thể trong giáo xứ cần sự quan tâm chăm sóc của mục tử, và họ cũng rất cần được tự do và quyền hạn để hành động. Có một số nữ ca viên trong một ca đoàn nọ than phiền rằng “Chúng con có nhiều áo dài đồng phục với màu khác nhau cho từng dịp lễ. Thế nhưng màu áo nào của các chị em cũng phải do cha quyết định. Chúng con thích màu hồng phấn, nhưng cha nhất định phải là màu hồng nóng”(!).
Một sự can thiệp quá sâu vào nội bộ cấp dưới sẽ đi ngược với nguyên lý bổ trợ, và do đó đi ngược với tinh thần giáo huấn về phục vụ của Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa dạy con biết sống quảng đại. Biết phụng sự Chúa như Chúa đáng được phụng sự. Biết cho đi mà không tính toán. Biết chiến đấu không ngại thương tích. Biết làm việc không tìm nghỉ ngơi. Biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành ý Chúa. Amen[3]
Lm. Phêrô Nguyễn Đức Thắng
Bài chia sẻ trong Thánh Lễ tuần tĩnh tâm linh mục đoàn Long Xuyên năm 2015
Lm. Phêrô Nguyễn Đức Thắng 11/17/2015
Sống trong một đất nước của các khẩu hiệu, chúng ta thấy các biểu ngữ tràn lan và chen chúc nhau trên đường phố, nhưng rất nhiều câu vô bổ, thậm chí vô cảm hay phản cảm nữa. Ngay giữa Sài Thành tất bật, đặc quẹo khói xe thì đây đó đập vào mắt một màu đỏ rực: “KHÔNG RA KHƠI KHI CÓ BÃO”. Oái ăm thay, khẩu hiệu nào cũng như thét thành tiếng cả:
“Vượt đèn đỏ chỉ dành cho người ít học”.
“Các em gái không thể tự mình mang thai, các em trai phải là một phần của giải pháp”.
Số khác hưởng ứng trên lưng áo: “thà hôn em rồi bị tát còn hơn nhìn thằng khác nó hôn em”.
Chính vì thế, người ta dị ứng và thậm chí sợ hãi cả những khẩu hiệu mượt mà như “đầy tớ của nhân dân” “khách hàng là thượng đế” vv... Ngay trong nhà đạo thì sự thận trọng, nghi ngại trước cái gọi là: “chúng tôi là những đầy tớ vô dụng”, “các linh mục là tôi tớ, là người phục vụ” là điều dễ thấy.
Lời Chúa trong tin mừng Luca 17, 7-10 mời gọi mỗi người thay đổi cung cách phục vụ của mình trong thế giới hôm nay như một cách thức tân phúc âm hoá: “chúng tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm”.
1. Phục vụ thật nhẹ nhàng chứ không áp đặt.
Là người phục vụ thầy Giêsu nhân lành, người phục vụ cần biểu lộ một khuôn mặt bao dung, đồng cảm và đồng hành với con người, để có thể chia vui sẻ buồn của họ, để họ có thể cảm nhận “gánh của Chúa thì êm ái, ách của Chúa thì nhẹ nhàng”.
Người phục vụ gánh lấy nỗi thống khổ của dân, chứ không thuộc về loại người “buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính mình lại không muốn giơ ngón tay lay thử”. Thánh Tôma Aquinô chỉ ra rằng các giới luật mà Đức Kitô và các tông đồ truyền cho dân thì “rất ít”. Do vậy các giới luật mà Hội Thánh thời sau truyền dạy nên được nhấn mạnh một cách vừa phải thôi “để không đè nặng lên đời sống các tín hữu” và biến đạo chúng ta thành một dạng nô lệ, trong khi “lòng thương xót của Thiên Chúa muốn chúng ta phải được tự do”. Đây là một trong các tiêu chuẩn chúng ta phải lưu ý khi suy nghĩ về một cuộc cải tổ Hội Thánh và việc giảng dạy của Hội Thánh. (EG 43)[1]
2. Phục vụ thầm lặng theo “tinh thần men muối”.
Các gam màu tươi sáng làm cho bức tranh cuộc sống hấp dẫn, sống động. Cuộc sống cần có các điểm nhấn là các các phong trào để gây ý thức cộng đồng. Tuy vậy, thời gian mới là lời đáp trả cho mọi vấn đề. Các lễ hội không nên được đặt ưu tiên hàng đầu trong chương trình mục vụ.
Là người phục vụ một Hội Thánh tham gia, hiệp thông và sứ vụ, chúng ta duy trì sự hiệp nhất các chi thể nơi thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, quan tâm tới sự hiện diện cùng với nhau, nhất là quanh bàn tiệc Thánh thể. Tuy nhiên, cần biết rằng, sự hiệp thông không chỉ là sự quy tụ, càng không phải là bầu khí của các cuộc tụ họp lễ hội linh đình. Đôi khi một sự hiện diện khiêm nhường và âm thầm lại cho kết quả tốt hơn. Lời khuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô với các giám mục trong Tông huấn Evangelii Gaudium về việc duy trì hiệp thông cũng nên là kim chỉ nam cho mỗi linh mục. Thật vậy, số 31 của tông huấn nói: “Giám mục phải luôn luôn nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo trong Giáo Hội địa phương của mình, theo lý tưởng của các cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi, ở đó các tín hữu đều một lòng một trí với nhau. Để làm điều này, có khi ngài sẽ đứng trước dân, chỉ đường cho họ và giữ cho niềm hi vọng của họ luôn sống động. Khi khác, ngài chỉ cần ở giữa họ bằng một sự hiện diện khiêm tốn và nhân từ”. Đây chính là tinh thần làm men, làm muối giữa đời. Tinh thần ấy cần có thời gian, cần được nuôi dưỡng dài hạn.
Nếu không có tinh thần men muối, các lễ hội cũng giống như những chiếc bong bóng màu. Phong trào tuần lễ xanh sạch, ngày hội ra quân vệ sinh môi trường tiêu tốn rất nhiều công sức nhưng nhanh chóng xì hơi và để lại bộ mặt thành phố nhếch nhác, bẩn thỉu như nó vốn có, còn những người tham gia thì mệt mỏi, chán chường.
3. Người phục vụ hôm nay phải là người bình thường.
Thế giới chúng ta đang sống rất hời hợt và trọng hình thức. Đi ngược với giòng chảy đó cần nhiều can đảm, bản lĩnh. Thoát ra được thói chuộng vẻ bề ngoài sẽ làm cho chúng ta nhẹ nhàng hơn khi bước theo Thánh Giá Chúa Kitô. Là những người phục vụ thì càng phải xoá mình đi. Không thiếu các linh mục lúc nào cũng khoác lên người chiếc áo chùng thâm và xưng mình là cha với tất cả mọi người với dụng ý “để dễ dàng làm việc”.
“Chúng ta cần phải bình thường”, đó là lời ĐTC Phanxicô nhắn nhủ. Lắm lúc người mục tử sợ sự bình thường sẽ làm mất đi sự kính trọng, khó điều hành. Đó chỉ là lo lắng không có cơ sở. Cha Andrea Riccardi, nhận xét rằng, “Phong cách không hình thức và sự gần gũi của Đức Phanxicô làm cho trách vụ quản trị Giáo Hội trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. ... Điều này không có nghĩa là mất đi thẩm quyền, nhưng ngược lại, làm tăng thêm sự tín nhiệm”. Người phục vụ hôm nay cần có tinh thần gần gũi, giản dị.
4. Người phục vụ hành động theo nguyên lý bổ trợ.
Cơn cám dỗ ngọt ngào của người tông đồ là muốn xen vào chuyện của tất cả mọi người thuộc về mình, cho đó là bổn phận của mình. Tuy nhiên trách vụ cao cả hàng đầu của mục tử là “phải nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân, sẵn sàng chấp nhận các ý kiến khôn ngoan của họ”, LG[2]. 37, “cần giao cho họ các trách vụ cũng như trao cho họ tự do và quyền hạn để khuyến khích họ đảm nhận công việc theo sáng kiến riêng”. Để có được sự tin tưởng này, người phục vụ cần học biết một nguyên tắc đặc thù của Hội Thánh: Nguyên Lý Bổ Trợ, theo đó cơ quan cấp trên hãy chăm lo và giúp đỡ kịp thời các phần tử cấp dưới nhưng không quyết định thay cho cấp dưới. Một sự buông bỏ trước quyền lực, địa vị để có thể giúp các đặc sủng trong dân Chúa có cơ hội phát huy cách tốt đẹp hơn. Cũng thế, các đoàn thể trong giáo xứ cần sự quan tâm chăm sóc của mục tử, và họ cũng rất cần được tự do và quyền hạn để hành động. Có một số nữ ca viên trong một ca đoàn nọ than phiền rằng “Chúng con có nhiều áo dài đồng phục với màu khác nhau cho từng dịp lễ. Thế nhưng màu áo nào của các chị em cũng phải do cha quyết định. Chúng con thích màu hồng phấn, nhưng cha nhất định phải là màu hồng nóng”(!).
Một sự can thiệp quá sâu vào nội bộ cấp dưới sẽ đi ngược với nguyên lý bổ trợ, và do đó đi ngược với tinh thần giáo huấn về phục vụ của Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa dạy con biết sống quảng đại. Biết phụng sự Chúa như Chúa đáng được phụng sự. Biết cho đi mà không tính toán. Biết chiến đấu không ngại thương tích. Biết làm việc không tìm nghỉ ngơi. Biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành ý Chúa. Amen[3]
Lm. Phêrô Nguyễn Đức Thắng
Bài chia sẻ trong Thánh Lễ tuần tĩnh tâm linh mục đoàn Long Xuyên năm 2015
NỖI LO LỚN NHẤT TRONG ĐỜI TÔI.
ĐGM Gioan Baotixita Bùi Tuần.
1. Đời tôi là quãng thời gian tương đối dài. Năm nay tôi được 89 tuổi. Trong dòng đời với nhiều chuyển biến ấy, có 60 năm là giáo sĩ mang chức linh mục, rồi mang thêm chức giám mục tới nay được 40 năm.
Như vậy quãng 60 năm qua là mảnh đời quan trọng nhất đối với tôi.
2. Hôm nay, nhìn lại dòng đời quan trọng đó để tạ ơn Chúa, tôi thấy có một nỗi lo lớn đã đồng hành với tôi một cách khăng khít. Chúa dạy tôi là đừng ngại nói ra cho mọi người biết nỗi lo đó. Xin nói ngay nỗi lo đó là làm sao luôn sống mật thiết với Chúa Giêsu. Nỗi lo ấy rất sống động. Tôi xin phép chia sẻ đôi chút về sức sống thăng trầm của nỗi lo ấy trong một quá khứ không thiếu đủ thứ chuyển biến.
3. Tôi thụ phong linh mục ngày 02.7.1955 tại nhà nguyện các cha dòng Đaminh ở HongKong.
Chính khuya đêm mồng một trước lễ truyền chức, tôi đã âm thầm xin được gặp cha linh hồn, tức cha Valderama Xuyên. Tôi xin ngài cho phép tôi được rút lui, khỏi bước lên nhận chức linh mục. Lý do là tôi quá lo, vì thấy mình bất xứng bất tài. Lúc đó, tình hình đất nước còn ngổn ngang những hận thù. Chúa cho tôi thấy: Làm linh mục cho Việt Nam lúc ấy là phải làm chứng cho tình yêu Chúa. Tôi sẽ làm chứng thế nào đây. Tôi thấy mình quá yếu đuối, sợ không thể làm gì được đúng theo ý Chúa. Vì thế, tôi xin phép được rút lui.
Cha linh hồn nghe hết nỗi lo của tôi. Rồi ngài bình tĩnh trấn an tôi. Sau cùng, ngài nói như trao một quyết định là hãy phó thác cho Chúa, mà vâng nhận chức linh mục.
Lễ phong chức linh mục được tổ chức một cách âm thầm, đơn sơ, rất sốt sắng.
4. Sau đó, tôi được trở về miền Nam Việt Nam. Thánh lễ đầu tiên của tôi được tổ chức tại nhà thờ Long Phước Thôn, Thủ Đức, thuộc trại di cư khó nghèo, ngày 11.7.1955.
Nửa giờ trước thánh lễ, tôi xin xưng tội với Cha Minh Đăng ngay tại phòng áo cung thánh. Ngài gợi ý cho tôi là làm chứng cho tình yêu Chúa trong tình hình cụ thể tại Việt Nam lúc này là hãy ưu tiên sống mật thiết với Chúa Giêsu. Trong tâm tình đầy yêu thương, ngài khuyên tôi hãy luôn đánh thức lương tâm các linh mục Việt Nam, để các ngài coi việc sống mật thiết với Chúa Giêsu là việc không gì thay thế được. Nếu cần đánh thức một cách quyết liệt, thì chính ngài và tôi hãy sẵn sàng được chết một cách đau đớn theo ý Chúa.
Trong thánh lễ đầu tiên, tôi dâng mình cho Chúa với quyết tâm sống mật thiết với Chúa Giêsu, như một của lễ.
5. Ngày 30.4.1975, tôi thụ phong Giám mục lúc tình hình thay đổi khó lường. Khi Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ an ủi tôi hãy vâng phục ý Chúa mà lãnh nhận trọng trách Giám mục, tôi không vui chút nào. Nỗi lo dâng trào. Tôi nhìn rõ tôi sẽ chẳng làm được gì cho giới răn yêu thương, nếu không sống mật thiết với Chúa Giêsu. Nhưng tôi quyết tâm như một trẻ thơ.
6. Quyết tâm đó là một niềm vui, nhưng cũng là một nỗi lo. Càng ngày, tôi càng thấy sống mật thiết với Chúa Giêsu không phải là điều dễ.
Chúa Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, các con là ngành nho. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5). Tôi hiểu Chúa muốn tôi phải sống mật thiết với Chúa như vậy. Phải luôn luôn như vậy, để mọi việc tôi làm mới sinh được kết quả đích thực mà Chúa muốn. Lời Chúa trên đây thực rõ ràng, thực dứt khoát.
Thế mà, Lời Chúa đầy tha thiết đó đã nhiều khi chỉ là một lý thuyết suông đối với nhiều người, kể cả những người đi tu, thậm chí kể cả những người muốn làm linh mục hay đã là linh mục.
7. Cho rằng lý thuyết ấy đã có lúc thâm nhập vào con người muốn theo Chúa một cách đặc biệt, nhưng trên thực tế, sự thâm nhập vào con người mà thôi, đâu đã đủ để thành sự sống thân mật với Chúa Giêsu. Bởi vì sự sống thân mật với Chúa Giêsu là một ơn đặc biệt Chúa ban. Ơn ấy biến đổi con người nên gần gũi với Chúa, biết vâng phục ý Chúa, trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Con người ấy cần biết đón nhận ơn cao quý đó, và cần biết cộng tác vào ơn đặc biệt đó.
8. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Nếu thiếu đời sống cầu nguyện, suy gẫm, không quen tự chế, từ bỏ mình và khiêm tốn, thì không thể nào có thể đón nhận được ơn sống thân mật với Chúa, và không thể nào cộng tác với ơn sống mật thiết với Chúa được.
9. Tôi được hạnh phúc gặp Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhiều lần. Điều đã gây ấn tượng nhất nơi tôi những khi gặp Ngài là thấy Ngài sống mật thiết với Chúa Giêsu. Trong thánh lễ, ở bàn giấy, cả tại bàn ăn, Ngài luôn luôn toả ra một sức thu hút lạ lùng, do sự Ngài luôn sống thân mật với Chúa Giêsu. Ngài không hề khuyên dạy tôi điều gì, mặc dầu tôi đã gặp riêng Ngài nhiều lần. Nhưng, Ngài đã dạy tôi rất nhiều, do sự thu hút từ đời sống thân mật của Ngài với Chúa Giêsu.
10. Mấy ngày nay, tôi cầu nguyện với Đức Mẹ rất nhiều. Tôi đọc kinh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Tôi rất vui, vì Đức Mẹ đã nhìn đến thân phận tội lỗi của tôi. Mẹ đã cầu bầu với Chúa cho tôi. Tôi hiểu điều đó, khi Mẹ dạy tôi là: “Lúc này, trong tình hình này, sống mật thiết với Chúa Giêsu, là hãy ở bên Chúa trong vườn Cây Dầu, hãy bước theo Chúa trên đường Chúa vác thập giá, hãy đứng dưới chân thánh giá khi Người chịu đóng đinh và hấp hối trên thánh giá. Có sống mật thiết như thế với Chúa Giêsu, thì mới thực sự cộng tác với Người để cứu nhân loại nói chung, và đồng bào Việt Nam nói riêng đang hết sức lâm nguy”.
11. Khi được Đức Mẹ dạy tôi điều trên đây, tôi mới thấy là những người muốn theo Chúa phải rất tỉnh thức khiêm nhường, để can đảm sống mật thiết với Chúa đang chịu thương khó trong lịch sử hôm nay. Như vậy thì phải can đảm điều chỉnh lại mọi thứ hoành tráng, phô trương, đắc thắng, hưởng thụ, sang trọng, lộng lẫy, vẻ vang, an nhàn.
12. Bây giờ, khi được chia sẻ một chút như trên, tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Bởi vì nỗi lo lớn nhất đời tôi nay trở thành một lời mời gọi gửi tới mọi người, đặc biệt là gửi tới các linh mục và các người đi tu: “ Hãy sống mật thiết với Chúa Giêsu”. Tình hình sẽ rất khó khăn, đầy thử thách và bất ngờ. Chỉ sống mật thiết với Chúa Giêsu mới có thể gọi là những môn đệ đích thực cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Chia sẻ hôm nay cũng là đón nhận niềm vui sẽ được ơn tha thứ từ Chúa, từ Hội Thánh, từ bao người, bởi vì tôi nhận biết mình đã có những lỗi lầm, thiếu sót trong bổn phận làm chứng cho tình yêu Chúa bằng sự sống mật thiết với Người.
Tác giả bài viết: ĐGM GB Bùi Tuần.
ĐGM Gioan Baotixita Bùi Tuần.
1. Đời tôi là quãng thời gian tương đối dài. Năm nay tôi được 89 tuổi. Trong dòng đời với nhiều chuyển biến ấy, có 60 năm là giáo sĩ mang chức linh mục, rồi mang thêm chức giám mục tới nay được 40 năm.
Như vậy quãng 60 năm qua là mảnh đời quan trọng nhất đối với tôi.
2. Hôm nay, nhìn lại dòng đời quan trọng đó để tạ ơn Chúa, tôi thấy có một nỗi lo lớn đã đồng hành với tôi một cách khăng khít. Chúa dạy tôi là đừng ngại nói ra cho mọi người biết nỗi lo đó. Xin nói ngay nỗi lo đó là làm sao luôn sống mật thiết với Chúa Giêsu. Nỗi lo ấy rất sống động. Tôi xin phép chia sẻ đôi chút về sức sống thăng trầm của nỗi lo ấy trong một quá khứ không thiếu đủ thứ chuyển biến.
3. Tôi thụ phong linh mục ngày 02.7.1955 tại nhà nguyện các cha dòng Đaminh ở HongKong.
Chính khuya đêm mồng một trước lễ truyền chức, tôi đã âm thầm xin được gặp cha linh hồn, tức cha Valderama Xuyên. Tôi xin ngài cho phép tôi được rút lui, khỏi bước lên nhận chức linh mục. Lý do là tôi quá lo, vì thấy mình bất xứng bất tài. Lúc đó, tình hình đất nước còn ngổn ngang những hận thù. Chúa cho tôi thấy: Làm linh mục cho Việt Nam lúc ấy là phải làm chứng cho tình yêu Chúa. Tôi sẽ làm chứng thế nào đây. Tôi thấy mình quá yếu đuối, sợ không thể làm gì được đúng theo ý Chúa. Vì thế, tôi xin phép được rút lui.
Cha linh hồn nghe hết nỗi lo của tôi. Rồi ngài bình tĩnh trấn an tôi. Sau cùng, ngài nói như trao một quyết định là hãy phó thác cho Chúa, mà vâng nhận chức linh mục.
Lễ phong chức linh mục được tổ chức một cách âm thầm, đơn sơ, rất sốt sắng.
4. Sau đó, tôi được trở về miền Nam Việt Nam. Thánh lễ đầu tiên của tôi được tổ chức tại nhà thờ Long Phước Thôn, Thủ Đức, thuộc trại di cư khó nghèo, ngày 11.7.1955.
Nửa giờ trước thánh lễ, tôi xin xưng tội với Cha Minh Đăng ngay tại phòng áo cung thánh. Ngài gợi ý cho tôi là làm chứng cho tình yêu Chúa trong tình hình cụ thể tại Việt Nam lúc này là hãy ưu tiên sống mật thiết với Chúa Giêsu. Trong tâm tình đầy yêu thương, ngài khuyên tôi hãy luôn đánh thức lương tâm các linh mục Việt Nam, để các ngài coi việc sống mật thiết với Chúa Giêsu là việc không gì thay thế được. Nếu cần đánh thức một cách quyết liệt, thì chính ngài và tôi hãy sẵn sàng được chết một cách đau đớn theo ý Chúa.
Trong thánh lễ đầu tiên, tôi dâng mình cho Chúa với quyết tâm sống mật thiết với Chúa Giêsu, như một của lễ.
5. Ngày 30.4.1975, tôi thụ phong Giám mục lúc tình hình thay đổi khó lường. Khi Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ an ủi tôi hãy vâng phục ý Chúa mà lãnh nhận trọng trách Giám mục, tôi không vui chút nào. Nỗi lo dâng trào. Tôi nhìn rõ tôi sẽ chẳng làm được gì cho giới răn yêu thương, nếu không sống mật thiết với Chúa Giêsu. Nhưng tôi quyết tâm như một trẻ thơ.
6. Quyết tâm đó là một niềm vui, nhưng cũng là một nỗi lo. Càng ngày, tôi càng thấy sống mật thiết với Chúa Giêsu không phải là điều dễ.
Chúa Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, các con là ngành nho. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5). Tôi hiểu Chúa muốn tôi phải sống mật thiết với Chúa như vậy. Phải luôn luôn như vậy, để mọi việc tôi làm mới sinh được kết quả đích thực mà Chúa muốn. Lời Chúa trên đây thực rõ ràng, thực dứt khoát.
Thế mà, Lời Chúa đầy tha thiết đó đã nhiều khi chỉ là một lý thuyết suông đối với nhiều người, kể cả những người đi tu, thậm chí kể cả những người muốn làm linh mục hay đã là linh mục.
7. Cho rằng lý thuyết ấy đã có lúc thâm nhập vào con người muốn theo Chúa một cách đặc biệt, nhưng trên thực tế, sự thâm nhập vào con người mà thôi, đâu đã đủ để thành sự sống thân mật với Chúa Giêsu. Bởi vì sự sống thân mật với Chúa Giêsu là một ơn đặc biệt Chúa ban. Ơn ấy biến đổi con người nên gần gũi với Chúa, biết vâng phục ý Chúa, trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa. Con người ấy cần biết đón nhận ơn cao quý đó, và cần biết cộng tác vào ơn đặc biệt đó.
8. Kinh nghiệm cho tôi thấy: Nếu thiếu đời sống cầu nguyện, suy gẫm, không quen tự chế, từ bỏ mình và khiêm tốn, thì không thể nào có thể đón nhận được ơn sống thân mật với Chúa, và không thể nào cộng tác với ơn sống mật thiết với Chúa được.
9. Tôi được hạnh phúc gặp Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhiều lần. Điều đã gây ấn tượng nhất nơi tôi những khi gặp Ngài là thấy Ngài sống mật thiết với Chúa Giêsu. Trong thánh lễ, ở bàn giấy, cả tại bàn ăn, Ngài luôn luôn toả ra một sức thu hút lạ lùng, do sự Ngài luôn sống thân mật với Chúa Giêsu. Ngài không hề khuyên dạy tôi điều gì, mặc dầu tôi đã gặp riêng Ngài nhiều lần. Nhưng, Ngài đã dạy tôi rất nhiều, do sự thu hút từ đời sống thân mật của Ngài với Chúa Giêsu.
10. Mấy ngày nay, tôi cầu nguyện với Đức Mẹ rất nhiều. Tôi đọc kinh: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Tôi rất vui, vì Đức Mẹ đã nhìn đến thân phận tội lỗi của tôi. Mẹ đã cầu bầu với Chúa cho tôi. Tôi hiểu điều đó, khi Mẹ dạy tôi là: “Lúc này, trong tình hình này, sống mật thiết với Chúa Giêsu, là hãy ở bên Chúa trong vườn Cây Dầu, hãy bước theo Chúa trên đường Chúa vác thập giá, hãy đứng dưới chân thánh giá khi Người chịu đóng đinh và hấp hối trên thánh giá. Có sống mật thiết như thế với Chúa Giêsu, thì mới thực sự cộng tác với Người để cứu nhân loại nói chung, và đồng bào Việt Nam nói riêng đang hết sức lâm nguy”.
11. Khi được Đức Mẹ dạy tôi điều trên đây, tôi mới thấy là những người muốn theo Chúa phải rất tỉnh thức khiêm nhường, để can đảm sống mật thiết với Chúa đang chịu thương khó trong lịch sử hôm nay. Như vậy thì phải can đảm điều chỉnh lại mọi thứ hoành tráng, phô trương, đắc thắng, hưởng thụ, sang trọng, lộng lẫy, vẻ vang, an nhàn.
12. Bây giờ, khi được chia sẻ một chút như trên, tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Bởi vì nỗi lo lớn nhất đời tôi nay trở thành một lời mời gọi gửi tới mọi người, đặc biệt là gửi tới các linh mục và các người đi tu: “ Hãy sống mật thiết với Chúa Giêsu”. Tình hình sẽ rất khó khăn, đầy thử thách và bất ngờ. Chỉ sống mật thiết với Chúa Giêsu mới có thể gọi là những môn đệ đích thực cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa. Chia sẻ hôm nay cũng là đón nhận niềm vui sẽ được ơn tha thứ từ Chúa, từ Hội Thánh, từ bao người, bởi vì tôi nhận biết mình đã có những lỗi lầm, thiếu sót trong bổn phận làm chứng cho tình yêu Chúa bằng sự sống mật thiết với Người.
Tác giả bài viết: ĐGM GB Bùi Tuần.