TỪ BỎ CHÍNH MÌNH
Lm Ignatiô Trần Ngà
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống tận đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Thế nhưng, dù chàng phải hì hụp suốt ngày ngoi lên lặn xuống để tìm kiếm, viên ngọc vẫn biệt tăm.
Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác chỗ ngọc rơi xuống nước để tìm cho nhanh.
Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai, ném nó xuống sông và nói: “Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm.”
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học vỡ lòng mà vị linh sư dạy là nếu anh muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết là phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự của mình. (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)
Qua trích đoạn Tin Mừng thánh Lu-ca được đọc hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời khuyên tương tự. Người nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình.” (Luca 9, 23)
Chúa Giêsu không chỉ kêu mời ta từ bỏ những gì mình có, nhưng là từ bỏ chính bản thân ta, vì nếu chỉ từ bỏ mọi thứ ta có mà không từ bỏ “thằng-tôi” tham lam của mình, thì chính “thằng-tôi” nầy sẽ lấy lại tất cả những gì nó đã vứt bỏ đi.
Tại sao cần phải từ bỏ chính mình?
“Thằng-tôi / cái-tôi” kiêu hãnh và nhiều tham vọng nơi mỗi người là nguồn gốc gây ra đủ mọi thứ tội. “Bảy mối tội đầu” (bảy tội gốc làm phát sinh những tội lỗi khác) luôn hiện diện trong bản thân chúng ta và xô đẩy chúng ta xuống vũng lầy tội lỗi. Kiểm điểm lại, chúng ta thấy trong bản thân mình thường có những “thằng-tôi / cái-tôi” nổi cộm sau đây:
1. “Tôi-kiêu-ngạo”
Tên nầy đứng đầu trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy vênh vang tự đắc, tự đặt mình cao cả hơn người khác và không muốn cho người khác hơn mình nên đâm ra ghen tị, oán ghét những ai nổi trội hơn.
2. “Tôi-tham-lam-ích-kỷ”
Tên nầy chỉ biết nghĩ đến mình và tỏ ra vô cảm, thờ ơ trước những nỗi đau thương khốn khổ của người khác. Tên nầy chỉ biết thu vén lợi lộc cho mình mà không màng gì đến quyền lợi của tha nhân.
3. “Tôi-tà-dâm” đứng hàng thứ ba trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy là nguyên nhân của biết bao vụ ngoại tình, loạn luân, phá thai, mua bán dâm và rất nhiều tệ nạn khác.
4. “Tôi-lạc-thú” đứng hàng thứ năm trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy xui khiến người ta mê đắm ma túy, rượu bia, mê say bài bạc… làm suy đồi phẩm chất, làm tan cửa nát nhà, phá vỡ hạnh phúc gia đình, làm hỏng cuộc đời của mình và của những người liên hệ.
Những “thằng tôi” hư hèn đó đang ngự trị trong lòng ta, đang chỉ huy, lèo lái bản thân ta – như người ta điều khiển con rối – và xô đẩy bao người vào thảm họa.
Làm sao thoát khỏi sự chế ngự, xô đẩy, lôi kéo của chúng?
Chúa Giêsu đưa ra một giải pháp, gói gọn trong cụm từ: “Hãy từ bỏ chính mình.” Người lên tiếng kêu gọi mọi người: “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ chính mình” (Luca 9,23)
Khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giêsu muốn chúng ta kiên quyết triệt hạ những “thằng tôi / cái-tôi” mắc dịch nầy, không để chúng điều khiển, lèo lái, chỉ huy cuộc đời ta nữa.
Chúa Giêsu từ bỏ chính mình
Trước khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giêsu đã từ bỏ mình trước.
Người là Thiên Chúa cao sang quyền phép, nhưng đã huỷ mình đi để trở thành một trẻ sơ sinh yếu đuối nằm trong chuồng bò.
Nguời là Chúa Tể trời đất, nhưng đã tự hủy và trở nên nghèo thiếu không ai bằng. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 19,58)
Người là Thiên Chúa hùng mạnh nhưng đã hạ mình, trở thành tên tội nhân để cho người ta đánh đập, xỉ nhục và đóng đinh vào thập giá.
Người là Thiên Chúa quyền năng đồng hàng với Chúa Cha, nhưng Người đã xoá mình đi để trở thành Người tôi tớ hằng vâng phục Chúa Cha.
Thánh Phao-lô tóm tắt đời Người như sau:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2, 6-8)
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã hủy mình ra không nên đã chiến thắng thế gian và cứu rỗi được muôn người. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, kiên quyết từ bỏ chính mình để thực sự làm chủ bản thân và xứng đáng là người môn đệ chính danh của Chúa.
Lm Ignatiô Trần Ngà
Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.
Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống tận đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Thế nhưng, dù chàng phải hì hụp suốt ngày ngoi lên lặn xuống để tìm kiếm, viên ngọc vẫn biệt tăm.
Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác chỗ ngọc rơi xuống nước để tìm cho nhanh.
Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai, ném nó xuống sông và nói: “Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm.”
Bấy giờ chàng thanh niên bỗng giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học vỡ lòng mà vị linh sư dạy là nếu anh muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết là phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự của mình. (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)
Qua trích đoạn Tin Mừng thánh Lu-ca được đọc hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời khuyên tương tự. Người nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình.” (Luca 9, 23)
Chúa Giêsu không chỉ kêu mời ta từ bỏ những gì mình có, nhưng là từ bỏ chính bản thân ta, vì nếu chỉ từ bỏ mọi thứ ta có mà không từ bỏ “thằng-tôi” tham lam của mình, thì chính “thằng-tôi” nầy sẽ lấy lại tất cả những gì nó đã vứt bỏ đi.
Tại sao cần phải từ bỏ chính mình?
“Thằng-tôi / cái-tôi” kiêu hãnh và nhiều tham vọng nơi mỗi người là nguồn gốc gây ra đủ mọi thứ tội. “Bảy mối tội đầu” (bảy tội gốc làm phát sinh những tội lỗi khác) luôn hiện diện trong bản thân chúng ta và xô đẩy chúng ta xuống vũng lầy tội lỗi. Kiểm điểm lại, chúng ta thấy trong bản thân mình thường có những “thằng-tôi / cái-tôi” nổi cộm sau đây:
1. “Tôi-kiêu-ngạo”
Tên nầy đứng đầu trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy vênh vang tự đắc, tự đặt mình cao cả hơn người khác và không muốn cho người khác hơn mình nên đâm ra ghen tị, oán ghét những ai nổi trội hơn.
2. “Tôi-tham-lam-ích-kỷ”
Tên nầy chỉ biết nghĩ đến mình và tỏ ra vô cảm, thờ ơ trước những nỗi đau thương khốn khổ của người khác. Tên nầy chỉ biết thu vén lợi lộc cho mình mà không màng gì đến quyền lợi của tha nhân.
3. “Tôi-tà-dâm” đứng hàng thứ ba trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy là nguyên nhân của biết bao vụ ngoại tình, loạn luân, phá thai, mua bán dâm và rất nhiều tệ nạn khác.
4. “Tôi-lạc-thú” đứng hàng thứ năm trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy xui khiến người ta mê đắm ma túy, rượu bia, mê say bài bạc… làm suy đồi phẩm chất, làm tan cửa nát nhà, phá vỡ hạnh phúc gia đình, làm hỏng cuộc đời của mình và của những người liên hệ.
Những “thằng tôi” hư hèn đó đang ngự trị trong lòng ta, đang chỉ huy, lèo lái bản thân ta – như người ta điều khiển con rối – và xô đẩy bao người vào thảm họa.
Làm sao thoát khỏi sự chế ngự, xô đẩy, lôi kéo của chúng?
Chúa Giêsu đưa ra một giải pháp, gói gọn trong cụm từ: “Hãy từ bỏ chính mình.” Người lên tiếng kêu gọi mọi người: “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ chính mình” (Luca 9,23)
Khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giêsu muốn chúng ta kiên quyết triệt hạ những “thằng tôi / cái-tôi” mắc dịch nầy, không để chúng điều khiển, lèo lái, chỉ huy cuộc đời ta nữa.
Chúa Giêsu từ bỏ chính mình
Trước khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giêsu đã từ bỏ mình trước.
Người là Thiên Chúa cao sang quyền phép, nhưng đã huỷ mình đi để trở thành một trẻ sơ sinh yếu đuối nằm trong chuồng bò.
Nguời là Chúa Tể trời đất, nhưng đã tự hủy và trở nên nghèo thiếu không ai bằng. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 19,58)
Người là Thiên Chúa hùng mạnh nhưng đã hạ mình, trở thành tên tội nhân để cho người ta đánh đập, xỉ nhục và đóng đinh vào thập giá.
Người là Thiên Chúa quyền năng đồng hàng với Chúa Cha, nhưng Người đã xoá mình đi để trở thành Người tôi tớ hằng vâng phục Chúa Cha.
Thánh Phao-lô tóm tắt đời Người như sau:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2, 6-8)
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã hủy mình ra không nên đã chiến thắng thế gian và cứu rỗi được muôn người. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, kiên quyết từ bỏ chính mình để thực sự làm chủ bản thân và xứng đáng là người môn đệ chính danh của Chúa.
LÒNG MẾN, LUÔN LUÔN LÀ LÒNG MẾN!
Lòng mến, luôn luôn là lòng mến!… Lòng mến là điều thiết yếu nhất đối với con người, và đồng thời cũng là điều đòi hỏi nhất, vì lòng mến không bao giờ nói “như thế là đủ rồi” cả. Chúng ta không bao giờ yêu mến đủ và học yêu mến đủ.
Chúng ta hãy nhớ lấy đòi hỏi này của lòng mến thật. Yêu mến là ra khỏi chính mình, không xem mình là trung tâm. Đối với một đứa bé, tất cả như đều quy tụ về nó. Nó là trung tâm của thế giới. Nhờ được giáo dục, đứa bé sẽ lần hồi khám phá ra rằng nó phải rời khỏi cái môi trường khép kín của mình để đến với người khác. Người ta gọi đó là gia nhập vào xã hội. Kế tiếp, yêu mến là “sống với” người khác. Dĩ nhiên, khi yêu, chúng ta tìm kiếm sự hiện diện của người mình yêu. Nhưng như thế chưa đủ. Chúng ta phải chấp nhận người kia, với tất cả những điều hay cũng như dở của họ.
Ta phải chấp nhận cùng đồng hành với họ, và cùng nhau khắc phục những trở ngại trên con đường ấy. Ta phải học trao ban và tha thứ. Nghĩa là phải trả giá bằng chính con người mình, phải dấn thân cách cụ thể. Nghĩa là ta phải quên mình đi, phải đặt người kia lên trên những sở thích thất thường của chúng ta.
Chính bằng tâm tình yêu mến ấy, Chúa Giêsu đã sống một cách sung mãn, chắc chắn là vượt xa tầm mức chúng ta, nhưng đồng thời đó là một ơn sủng đặc biệt mà Chúa không ngừng mời gọi ta đón nhận một cách nhưng không, về phần ta, hãy đón nhận ơn ấy để ta cũng học yêu mến “như Người”.
Linh mục Jean Civelli
tinmung.net
Lòng mến, luôn luôn là lòng mến!… Lòng mến là điều thiết yếu nhất đối với con người, và đồng thời cũng là điều đòi hỏi nhất, vì lòng mến không bao giờ nói “như thế là đủ rồi” cả. Chúng ta không bao giờ yêu mến đủ và học yêu mến đủ.
Chúng ta hãy nhớ lấy đòi hỏi này của lòng mến thật. Yêu mến là ra khỏi chính mình, không xem mình là trung tâm. Đối với một đứa bé, tất cả như đều quy tụ về nó. Nó là trung tâm của thế giới. Nhờ được giáo dục, đứa bé sẽ lần hồi khám phá ra rằng nó phải rời khỏi cái môi trường khép kín của mình để đến với người khác. Người ta gọi đó là gia nhập vào xã hội. Kế tiếp, yêu mến là “sống với” người khác. Dĩ nhiên, khi yêu, chúng ta tìm kiếm sự hiện diện của người mình yêu. Nhưng như thế chưa đủ. Chúng ta phải chấp nhận người kia, với tất cả những điều hay cũng như dở của họ.
Ta phải chấp nhận cùng đồng hành với họ, và cùng nhau khắc phục những trở ngại trên con đường ấy. Ta phải học trao ban và tha thứ. Nghĩa là phải trả giá bằng chính con người mình, phải dấn thân cách cụ thể. Nghĩa là ta phải quên mình đi, phải đặt người kia lên trên những sở thích thất thường của chúng ta.
Chính bằng tâm tình yêu mến ấy, Chúa Giêsu đã sống một cách sung mãn, chắc chắn là vượt xa tầm mức chúng ta, nhưng đồng thời đó là một ơn sủng đặc biệt mà Chúa không ngừng mời gọi ta đón nhận một cách nhưng không, về phần ta, hãy đón nhận ơn ấy để ta cũng học yêu mến “như Người”.
Linh mục Jean Civelli
tinmung.net
Chuyện XIN LỖI
Xin lỗi là động thái đơn giản nhưng lại không dễ thực hiện, dù chỉ là lỗi lầm nhỏ hoặc sơ sót, nhất là khi tự ái nổi lên.Hằng ngày, chúng ta tham dự Thánh lễ và thú tội: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”, và tự nhận lỗi mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Đó là công khai xin lỗi Chúa và xin lỗi mọi người.Thế nhưng vì “thuộc lòng” và “quen miệng”, có thể chúng ta “đọc để mà đọc” chứ chưa hẳn đã thực sự thành tâm “thú tội”. Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Nếu khi bạn sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang có chuyện bất bình với bạn, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5:23-24).
TRẦM THIÊN THU
Xin lỗi là động thái đơn giản nhưng lại không dễ thực hiện, dù chỉ là lỗi lầm nhỏ hoặc sơ sót, nhất là khi tự ái nổi lên.Hằng ngày, chúng ta tham dự Thánh lễ và thú tội: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”, và tự nhận lỗi mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Đó là công khai xin lỗi Chúa và xin lỗi mọi người.Thế nhưng vì “thuộc lòng” và “quen miệng”, có thể chúng ta “đọc để mà đọc” chứ chưa hẳn đã thực sự thành tâm “thú tội”. Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Nếu khi bạn sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang có chuyện bất bình với bạn, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5:23-24).
- Ai cũng có lỗi nên ai cũng cần xin lỗi, đôi khi cần xin lỗi vài lần trong một ngày. Chúng ta xin lỗi khi chúng ta không cố ý nói điều gì đó làm người khác buồn, khi chúng ta sai sót trong công việc, hoặc khi chúng ta va chạm ai đang đi đường. Có những lời xin lỗi quan trọng hơn, có thể chuyện đã xảy ra những tháng trước hoặc những năm trước. Có thể chúng ta đã nói điều gì đó làm tổn thương người khác, vội xét đoán người khác hoặc làm điều gì đó khiến mình tự cảm thấy hối hận. Nói “xin lỗi” là một trong những việc khó làm nhất. Chúng ta thanh minh cho hành động của mình, chúng ta vừa xin lỗi vừa đổ lỗi cho người bị tổn thương, hoặc chúng ta mong được “đáp lại” điều gì đó. Nên nhớ rằng một lời xin lỗi dù vụng về cũng vẫn có thể hàn gắn mối quan hệ. Khi xin lỗi, bạn không bị “lép vế” mà bạn còn được người ta khâm phục.
- Dễ dàng nói “tôi xin lỗi”, nhưng nói thật lòng lại là chuyện khác. Lời xin lỗi thật lòng xảy ra khi trái tim và cái đầu cùng hòa nhịp, khi lý trí và con tim đều nhận trách nhiệm về việc đã làm người khác tổn thương, dù thực sự bạn không cố ý. Chịu trách nhiệm về hành động của mình là nền tảng của lời xin lỗi chân thành. Nếu bạn cố gắng tìm ra những lời tốt đẹp và khéo léo thì hãy viết ra trước. Việc viết ra sẽ giúp bạn có thời gian đắn đo và suy nghĩ cẩn thận hơn – chẳng hạn, bạn có thể thấy mình có xin lỗi thật lòng hay không hoặc còn nấn ná thù hận người kia hay không. Rất quan trọng để xử lý tình cảm của mình trước khi xin lỗi người bị tổn thương.
- Lời xin lỗi chân thành là động thái vị tha. Lời xin lỗi không thật lòng là muốn “có đi có lại”, muốn đòi hỏi ở người khác điều gì đó chứ không chỉ muốn “cho đi”. Nếu bạn làm tổn thương người khác, bằng lời nói hoặc hành động, hãy chấp nhận thực tế là điều đó đã xảy ra và tưởng tượng các cảm xúc của mình thế nào nếu người khác làm cho mình như vậy. Lúc đó, bạn có thể bắt đầu xin lỗi mà không đòi hỏi gì ở người kia. Hãy nghĩ đơn giản: “Tôi biết tôi thực sự làm bạn tổn thương và muốn bạn biết rằng tôi thật lòng xin lỗi bạn”.
- Bạn xin lỗi là bạn khiêm nhường bằng cách chấp nhận sự yếu đuối của mình và nhận biết sự chiếu cố của người khác. Chẳng hạn, nếu một người bạn nói với bạn rằng bạn đã làm họ tổn thương vì bạn vô tình nói điều gì đó, hãy chấp nhận sự lỡ lời của mình mà không phản đối hoặc đổ lỗi cho họ. Chấp nhận thì đừng đặt vấn đề “nếu”, “vì”, “tại”, “bởi”,… Xin lỗi không chỉ thể hiện sự khiêm nhường mà còn là sống cao thượng.
- Hãy có ý hướng tốt khi xin lỗi và phục thiện. Lời xin lỗi chân thành có thể được nói ra, được viết ra, hoặc đơn giản là cảm thấy xấu hổ vì lầm lỗi của mình khi thấy người kia. Vấn đề quan trọng là bạn phải nhận biết lỗi mình khi làm người khác tổn thương. Lời xin lỗi chân thành cũng bao gồm việc bạn cố gắng sửa đổi, quyết tâm không tái phạm.
- Con người rất dễ tự ái. Tự ái là yêu mình thái quá, do đó mà dễ làm tổn thương người khác. Có lẽ ông Pascal biết rõ nên mới nói: “Cái TÔI là đáng ghét”. Nếu không muốn nhận lỗi mình thì bạn có thể tiếp tục làm người khác buồn, tức giận hoặc thất vọng. Lời xin lỗi thật lòng xảy ra khi chúng ta biết chấp nhận mình sai lầm chứ không biện minh cho hành động của mình.
- Lời xin lỗi rất cần đối với mọi người trong cuộc sống. Không chỉ người “nhỏ” phải xin lỗi người “lớn”, mà người “lớn” cũng phải biết xin lỗi người “nhỏ” – “nhỏ” và “lớn” mang cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Sai lầm làm bạn bất an và xói mòn cuộc sống, nhưng lời xin lỗi chân thành khả dĩ phục hồi cuộc sống. Tất nhiên, người biết xin lỗi chân thành là người thực sự can đảm vậy.
TRẦM THIÊN THU
ĐỪNG QUÊN CÁM ƠN !
1. Một vị tổng thống hỏi bà cụ sống 104 tuổi về bí quyết sống lâu. Bà trả lời: một là dí dỏm, hai là học biết cám ơn. Lấy chồng từ năm 25 tuổi, ngày nào bà cũng nói nhiều nhất là hai chữ “cám ơn”. Bà cám ơn chồng, cám ơn bố mẹ, cám ơn con cái, cám ơn hàng xóm láng giềng, cám ơn mọi sự quan tâm săn sóc dành cho bà, cám ơn từng ngày sống yên lành, ấm cúng và vui vẻ.
Mọi lời nói thân thiết của người khác đối với bà, mọi việc làm bình thường nhỏ nhoi dành cho bà, mọi nét mặt tươi cười hỏi thăm bà, bà đều không quên nói hai tiếng “cám ơn”. Mọi người không những không ngán đối với vô số lần cám ơn hàng ngày của bà, trái lại càng gần gũi thương yêu bà, thường cảm thấy nếu mình không thương yêu bà hơn nữa, sẽ có lỗi với từng lời “cám ơn” của bà…
80 năm đã trôi qua, hai tiếng “cám ơn” khiến bà vui vẻ lâu dài, hạnh phúc lâu dài, mạng sống lâu dài, “cám ơn” có bao nhiêu, tình yêu có bấy nhiêu. Tình yêu có ngần nào, “cám ơn” có ngần nấy.
2. Một lần đi xe buýt về nhà, trước mắt tôi có một cô bé 7,8 tuổi, lưng đeo cặp sách, hình như vừa tan học. Khi lên xe em bước không vững suýt nữa ngã. Tôi vội vàng đỡ em một tay. Vừa đứng vững em giơ tay ra hiệu, không biết em định nói gì với mình. Thấy tôi không hiểu em rất bối rối.
Ngồi được một bến, tôi sắp sửa xuống xe, cô bé vội vàng chạy đến nhét vào tay tôi một mẩu giấy. Tôi cứ tưởng có chuyện gì, ai ngờ xuống xe nhìn mẩu giấy, chỉ thấy một dòng chữ xiêu vẹo “cám ơn, cám ơn chú !” Thì ra em bị câm điếc. Không hiểu sao trái tim tôi bỗng trào lên một tình cảm nóng bỏng không sao miêu tả nổi.
3. Ở một thành phố nọ, có cậu bé 14, 15 tuổi, vì lấy cắp một quyển sách của một hiệu sách, bị bảo vệ bắt quả tang. Bảo vệ quát mắng khiến cậu vô vùng xấu hổ. Những người khác cũng nhìn cậu với ánh mắt khinh bỉ. Bảo vệ cứ đòi cậu gọi bố mẹ hay thầy giáo nhà trường đến nhận người. Cậu bé sợ co dúm người, nét mặt xám ngoét. Lúc này có một phụ nữ đứng tuổi rẽ đám đông vây xem, xông vào bênh vực cậu bé đang hoảng sợ: “Đừng đối xử với trẻ em như thế. Tôi là mẹ của cháu !”
Dưới con mắt khác thường của đám đông, người phụ nữ nộp tiền phạt cho cậu và dắt cậu ra khỏi hiệu sách, khe khẽ giục: “Mau về nhà đi con, từ nay trở đi đừng bao giờ lấy trộm sách nữa !”
Mấy năm đã trôi qua. Cậu bé luôn luôn nhớ ơn người phụ nữ đứng tuổi không quen biết, luôn luôn hối hận đã không nói trước mặt bà hai tiếng cám ơn. Nếu không có bà, đường đời cậu có thể sẽ rẽ sang một lối khác. Sau khi thi đậu Đại Học, cậu sinh viên đã thề nhất định tìm ra bà. Nhưng biển người mênh mông biết tìm bà ở đâu ?
Thế là hàng năm, lợi dụng kỳ nghỉ hè nghỉ đông, ngày nào cậu cũng đến gần hiệu sách chờ nửa tiếng đồng hồ, hy vọng tìm được người phụ nữ đứng tuổi. Việc làm này hết sức mong manh, nhưng mưa gió không cản trở được cậu, cậu vẫn luôn không nao núng. Bởi vì cậu không bao giờ quên khuôn mặt hiền từ của bà.
Cứ thế, cậu sinh viên đứng chờ trong hai năm, cuối cùng đã tìm được bà, nói hai tiếng “cám ơn” ôm ấp trong lòng bấy lâu nay…
4. Có một truyền thuyết kể rằng: Có hai người cùng đi gặp Thượng Đế hỏi lối đi lên Thiên Đường. Thấy hai người đói lả, Thượng Đế cho mỗi người một suất cơm. Một người nhận suất cơm, cảm động lắm, cứ cám ơn, cám ơn rối rít. Còn người kia nhận suất ăn, không hề động lòng, cứ làm như cho anh ta mới phải. Về sau, Thượng Đế chỉ cho người nói “cám ơn” lên Thiên Đường. Còn người kia bị từ chối, đứng ngoài cổng.
Kẻ bị từ chối đứng ngoài cổng không phục: “Chẳng lẽ chỉ vì tôi quên nói cám ơn ?” Thượng Đế trả lời: “Không phải quên. Không có lòng cám ơn, không nói ra được lời cám ơn. Người không biết cám ơn, không biết yêu người khác, cũng không được người khác yêu.
Anh chàng kia vẫn không phục: “Vậy nói thiếu mất hai chữ cám ơn cũng không thể chênh lệch đến thế ? Thượng Đế đáp: “Biết làm thế nào được, bởi vì lối lên Thiên Đường rải bằng lòng cám ơn. Cửa lên Thiên Đường chỉ có dùng lòng cám ơn mới mở được. Còn địa ngục thì khỏi cần !”
KHUYẾT DANH
Nguồn: Ephata
1. Một vị tổng thống hỏi bà cụ sống 104 tuổi về bí quyết sống lâu. Bà trả lời: một là dí dỏm, hai là học biết cám ơn. Lấy chồng từ năm 25 tuổi, ngày nào bà cũng nói nhiều nhất là hai chữ “cám ơn”. Bà cám ơn chồng, cám ơn bố mẹ, cám ơn con cái, cám ơn hàng xóm láng giềng, cám ơn mọi sự quan tâm săn sóc dành cho bà, cám ơn từng ngày sống yên lành, ấm cúng và vui vẻ.
Mọi lời nói thân thiết của người khác đối với bà, mọi việc làm bình thường nhỏ nhoi dành cho bà, mọi nét mặt tươi cười hỏi thăm bà, bà đều không quên nói hai tiếng “cám ơn”. Mọi người không những không ngán đối với vô số lần cám ơn hàng ngày của bà, trái lại càng gần gũi thương yêu bà, thường cảm thấy nếu mình không thương yêu bà hơn nữa, sẽ có lỗi với từng lời “cám ơn” của bà…
80 năm đã trôi qua, hai tiếng “cám ơn” khiến bà vui vẻ lâu dài, hạnh phúc lâu dài, mạng sống lâu dài, “cám ơn” có bao nhiêu, tình yêu có bấy nhiêu. Tình yêu có ngần nào, “cám ơn” có ngần nấy.
2. Một lần đi xe buýt về nhà, trước mắt tôi có một cô bé 7,8 tuổi, lưng đeo cặp sách, hình như vừa tan học. Khi lên xe em bước không vững suýt nữa ngã. Tôi vội vàng đỡ em một tay. Vừa đứng vững em giơ tay ra hiệu, không biết em định nói gì với mình. Thấy tôi không hiểu em rất bối rối.
Ngồi được một bến, tôi sắp sửa xuống xe, cô bé vội vàng chạy đến nhét vào tay tôi một mẩu giấy. Tôi cứ tưởng có chuyện gì, ai ngờ xuống xe nhìn mẩu giấy, chỉ thấy một dòng chữ xiêu vẹo “cám ơn, cám ơn chú !” Thì ra em bị câm điếc. Không hiểu sao trái tim tôi bỗng trào lên một tình cảm nóng bỏng không sao miêu tả nổi.
3. Ở một thành phố nọ, có cậu bé 14, 15 tuổi, vì lấy cắp một quyển sách của một hiệu sách, bị bảo vệ bắt quả tang. Bảo vệ quát mắng khiến cậu vô vùng xấu hổ. Những người khác cũng nhìn cậu với ánh mắt khinh bỉ. Bảo vệ cứ đòi cậu gọi bố mẹ hay thầy giáo nhà trường đến nhận người. Cậu bé sợ co dúm người, nét mặt xám ngoét. Lúc này có một phụ nữ đứng tuổi rẽ đám đông vây xem, xông vào bênh vực cậu bé đang hoảng sợ: “Đừng đối xử với trẻ em như thế. Tôi là mẹ của cháu !”
Dưới con mắt khác thường của đám đông, người phụ nữ nộp tiền phạt cho cậu và dắt cậu ra khỏi hiệu sách, khe khẽ giục: “Mau về nhà đi con, từ nay trở đi đừng bao giờ lấy trộm sách nữa !”
Mấy năm đã trôi qua. Cậu bé luôn luôn nhớ ơn người phụ nữ đứng tuổi không quen biết, luôn luôn hối hận đã không nói trước mặt bà hai tiếng cám ơn. Nếu không có bà, đường đời cậu có thể sẽ rẽ sang một lối khác. Sau khi thi đậu Đại Học, cậu sinh viên đã thề nhất định tìm ra bà. Nhưng biển người mênh mông biết tìm bà ở đâu ?
Thế là hàng năm, lợi dụng kỳ nghỉ hè nghỉ đông, ngày nào cậu cũng đến gần hiệu sách chờ nửa tiếng đồng hồ, hy vọng tìm được người phụ nữ đứng tuổi. Việc làm này hết sức mong manh, nhưng mưa gió không cản trở được cậu, cậu vẫn luôn không nao núng. Bởi vì cậu không bao giờ quên khuôn mặt hiền từ của bà.
Cứ thế, cậu sinh viên đứng chờ trong hai năm, cuối cùng đã tìm được bà, nói hai tiếng “cám ơn” ôm ấp trong lòng bấy lâu nay…
4. Có một truyền thuyết kể rằng: Có hai người cùng đi gặp Thượng Đế hỏi lối đi lên Thiên Đường. Thấy hai người đói lả, Thượng Đế cho mỗi người một suất cơm. Một người nhận suất cơm, cảm động lắm, cứ cám ơn, cám ơn rối rít. Còn người kia nhận suất ăn, không hề động lòng, cứ làm như cho anh ta mới phải. Về sau, Thượng Đế chỉ cho người nói “cám ơn” lên Thiên Đường. Còn người kia bị từ chối, đứng ngoài cổng.
Kẻ bị từ chối đứng ngoài cổng không phục: “Chẳng lẽ chỉ vì tôi quên nói cám ơn ?” Thượng Đế trả lời: “Không phải quên. Không có lòng cám ơn, không nói ra được lời cám ơn. Người không biết cám ơn, không biết yêu người khác, cũng không được người khác yêu.
Anh chàng kia vẫn không phục: “Vậy nói thiếu mất hai chữ cám ơn cũng không thể chênh lệch đến thế ? Thượng Đế đáp: “Biết làm thế nào được, bởi vì lối lên Thiên Đường rải bằng lòng cám ơn. Cửa lên Thiên Đường chỉ có dùng lòng cám ơn mới mở được. Còn địa ngục thì khỏi cần !”
KHUYẾT DANH
Nguồn: Ephata
THẾ THÁI NHÂN TÌNH LÀ THẾ
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nhân tình thế thái hoặc thế thái nhân tình là những tình người và thói đời được thể hiện qua thơ ca văn học. Nó phản ánh về lối sống, về cách ứng xử của người đương thời qua câu thơ bài hát. Nhưng đáng tiếc chuyện thế thái nhân tình được ghi lại dường như chỉ là những thói đời thay trắng đổi đen, lừa dối, và lắm thị phi. Nó phản ánh về những chuyện tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Nguyễn Công Trữ ngày xưa khi nhìn vào đời cũng ngán ngẩm than rằng:
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Tình người dễ phôi pha.Cuộc sống thì bon chen, tranh dành, đầy khổ ải cũng chì vì lắm bất công.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền dở cũng hay
Ở trong cuộc đời lắm thị phi ấy con người phải khôn ngoan chưa đủ mà còn phải khôn ranh, ma mãnh:
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay
Chung quy sự đời vẫn là bạc bẽo và mong manh của tình người:
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Nhìn thế thái nhân tình mà ngán ngẩm, cuộc sống quá khắc nghiệt, lòng người đổi trắng thay đen khiến nhiều khi chúng ta chẳng dám tin vào một ai. Tình nghĩa hôm qua, hôm nay hóa hận thù, ganh ghét nhau, hãm hại nhau cũng chỉ vì một chút danh, một chút bổng lộc trần gian.
Cuộc đời Chúa Giê-su dường như cũng trải qua những chuyện thế thái nhân tình lắm đổi thay ấy. Mới hôm qua họ no say bổng lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Đúng như có ai đó đã nói:
Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân
Con người chỉ kết bạn bè với những ai có lợi cho họ và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp, thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:
Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng
Tính chi li xem có lợi cho mình
Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái
Dân thành Giê-ru-sa-lem tính thật chi li. Họ sum vầy quanh Chúa khi Chúa làm phép lạ. Họ bỏ rơi Chúa khi Ngài chịu đóng đinh. Họ tung hô Chúa khi muốn Chúa làm vua để tìm mối lợi. Họ kết án Chúa để Chúa chịu chết thay cho cả dân tộc . . .
Con người hôm nay cũng tính với Chúa thật chi li. Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công danh tiền tài.
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nhân tình thế thái hoặc thế thái nhân tình là những tình người và thói đời được thể hiện qua thơ ca văn học. Nó phản ánh về lối sống, về cách ứng xử của người đương thời qua câu thơ bài hát. Nhưng đáng tiếc chuyện thế thái nhân tình được ghi lại dường như chỉ là những thói đời thay trắng đổi đen, lừa dối, và lắm thị phi. Nó phản ánh về những chuyện tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Nguyễn Công Trữ ngày xưa khi nhìn vào đời cũng ngán ngẩm than rằng:
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Tình người dễ phôi pha.Cuộc sống thì bon chen, tranh dành, đầy khổ ải cũng chì vì lắm bất công.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền dở cũng hay
Ở trong cuộc đời lắm thị phi ấy con người phải khôn ngoan chưa đủ mà còn phải khôn ranh, ma mãnh:
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay
Chung quy sự đời vẫn là bạc bẽo và mong manh của tình người:
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Nhìn thế thái nhân tình mà ngán ngẩm, cuộc sống quá khắc nghiệt, lòng người đổi trắng thay đen khiến nhiều khi chúng ta chẳng dám tin vào một ai. Tình nghĩa hôm qua, hôm nay hóa hận thù, ganh ghét nhau, hãm hại nhau cũng chỉ vì một chút danh, một chút bổng lộc trần gian.
Cuộc đời Chúa Giê-su dường như cũng trải qua những chuyện thế thái nhân tình lắm đổi thay ấy. Mới hôm qua họ no say bổng lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Đúng như có ai đó đã nói:
Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân
Con người chỉ kết bạn bè với những ai có lợi cho họ và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp, thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:
Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng
Tính chi li xem có lợi cho mình
Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái
Dân thành Giê-ru-sa-lem tính thật chi li. Họ sum vầy quanh Chúa khi Chúa làm phép lạ. Họ bỏ rơi Chúa khi Ngài chịu đóng đinh. Họ tung hô Chúa khi muốn Chúa làm vua để tìm mối lợi. Họ kết án Chúa để Chúa chịu chết thay cho cả dân tộc . . .
Con người hôm nay cũng tính với Chúa thật chi li. Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công danh tiền tài.
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen
TỜ MỤC VỤ GIÁO XỨ MARIA NỮ VƯƠNG V.N. – NEW ORLEANS "KHEN" MỘT SỐ NGƯỜI RA GIÚP HỘI CHỢ TẾT 2016 LÀ: "HÈN HẠ - TỒI MẠT - KHIẾP ĐẢM"
Tờ Mục Vụ của Giáo Xứ, Chúa Nhật II Mùa Chay, Số 1627, Phần SUY NIỆM LỜI CHÚA có đăng những câu như sau:
“ ... người công giáo chúng ta có tập tục "theo đạo thuộc lòng" như lối ông bà xưa lưu truyền lại, mà ngày nay con người tự cho mình văn minh nên thường quên đi đường hướng giáo dục cụ thể đó khiến lối sống và việc làm của những người mang danh là con Chúa hôm nay bị đối nghịch hẳn...
...nhưng những lời lẽ này chỉ là cảnh tỉnh lối sống đạo của mình xem có đúng hay không. Nhiều người mang danh ra giúp các hội đoàn làm hội chợ dường như để ăn bớt xén, lấy vụng trộm vật dụng của giáo xứ: từ củ hành, từ xâu thịt, từ trái chuối, sang đến những bàn ghế, thùng rác, khay bưng thức ăn, bao rác, ...v.v.
Cũng có một số người ra giúp hội chợ và tự thưởng công cho mình bằng cách lấy nước, mở bia uống miễn phí. Người lấy 1 ngàn đô hội chợ đút túi, kẻ khai báo đảo lộn vài trăm đô, và người khác lấy loong bia không trả tiền về nhà .. thì hành động chẳng khác nhau gì ngoài chữ “lấy” của Chúa!
Đáng tiếc thay những hành vi như vừa kể trên đã làm cho người công giáo chúng ta mất hết đi nhân phẩm của mình biến ta trở thành con người hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”
Thiết tưởng, phần SUY NIỆM LỜI CHÚA nêu trên cần được phân tích để xin mọi người góp ý dựa trên căn bản sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA.
1. Lời Chúa là chính Chúa và Thiên Chúa là Tình Yêu. Khi Chúa giáng trần thì các thiên thần loan báo tin mừng: “Bình an dưới thế ...” và trước khi Chúa Giêsu về trời thì Ngài luôn chúc: “Bình an cho các con ...” Như thế Phần Suy Niệm Lời Chúa với những lời chỉ trích giáo dân “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” có giúp giáo dân nhận được sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA hay không?
2. Giáo xứ được thành lập với mục đích chính là mang lại sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA đến cho giáo dân. Như thế, việc cai quản giáo xứ và tài chánh trong giáo xứ chỉ là phương tiện phụ để đạt tới mục đích chính là mang sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA đến cho mọi người. Cho nên, có nên vì đồng tiền, vài loong nước, mấy loong bia mà đăng những lời sỉ vả, nhục mạ, cộc cằn, mắng nhiếc làm cho đức tin và tinh thần của giáo dân bị giao động hay không? Đây là lúc cần các nhà lãnh đạo tinh thần, là Mục Tử nhân lành dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, đi tìm những con chiên bị thương tích để băng bó, những người đang bị chỉ trích là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”.
3. Việc kiếm tiền trong hội chợ Tết cũng không phải là mục đích chính mà nhiều người vẫn coi là chủ đích. Dĩ nhiên, thu được nhiều tiền thì giáo xứ phát triển được nhiều việc hơn. Nhưng chủ đích của hội chợ Tết từ khởi đầu là: Giúp giới trẻ hiểu biết và bảo tồn văn hóa và các phong tục VN. – Tạo cơ hội để mọi thành phần trong giáo xứ quây quần vui Xuân chung với nhau vào dịp Tết tại khuôn viên giáo xứ. Cuối cùng mới là việc gây qũy cho giáo xứ. Nhưng sau nhiều chục năm thi đua làm tiền gây qũy, tiền càng nhiều thì lại muốn nhiều hơn nữa, cho nên ý nghĩa bảo tồn văn hóa và vui Xuân đã bị lu mờ và nhường chỗ cho mãnh lực của đồng dollar. Mặc dù giáo xứ đã thu được hơn 240 ngàn tiền lời hội chợ (sau khi trừ vốn và các chi phí), thế nhưng vì một chai nước (mua vô dưới 50 cent), vì một loong bia (mua vô dưới 99 cent), vì một xâu thịt (tiền vốn dưới 75 cent) mà giáo xứ dùng phần Suy Niệm Lời Chúa để chỉ trích một số giáo dân ra giúp hội chợ là “hèn hạ - tồi mạt - khiếp đảm!” Những lời này có giúp giáo dân, những người tình nguyện suốt 3 ngày hội chợ, chịu vất vả và gió lạnh mùa đông, có nhận được sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA hay không? Trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội đều có nhiều thành phần khác nhau, nhưng không nên vì miếng ăn hay loong nước mà sỉ vả, nhục mạ, hạ nhân phẩm người khác. Vì ở đời có những người rất tốt, nhưng thực tế đã có lúc làm chuyện xấu hơn cả những người xấu, và ngược lại, có những người rất xấu, nhưng đã có lúc họ làm chuyện tốt hơn cả những người tốt. Tương tự như câu: Sông có khúc, người có lúc. Thí dụ như trước năm 1975 tại Sài Gòn, có những tu sĩ (có lẽ không phải Công Giáo) khi đi thi tại các trường đại học đã cọpy bài của người khác để
đủ điểm đậu lên lớp.
4. “Người lấy 1 ngàn đô hội chợ đút túi, kẻ khai báo đảo lộn vài trăm đô” – Trên Nước Mỹ, khi buộc tội ai thì phải có bằng chứng, mà nếu có bằng chứng rõ ràng thì cha xứ có quyền kêu những người đó vô nhà xứ để giải quyết minh bạch trong sự công bằng và bác ái một cách tế nhị, hoặc là để Ban Tổ Chức và Ban Điều Hành Hội Chợ giải quyết vấn đề này trực tiếp với cá nhân đó. Vì tất cả các vấn đề của hội chợ là do hai ban này chịu trách nhiệm. Khi họ có trách nhiệm thì phải cho họ có quyền hành thì họ mới hoàn thành trách nhiệm được. Còn việc qua mặt Ban Tổ Chức và Ban Điều Hành Hội Chợ, dùng phương tiện do tiền đóng góp của giáo dân là tờ Mục Vụ, phần SUY NIỆM LỜI CHÚA để vơ đũa cả nắm, chỉ trích cho hả giận, gọi một số giáo dân là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” thì có thích hợp với tinh thần Kitô Giáo hay không?
5. Vì đăng công khai trên tờ Mục Vụ của giáo xứ, nên khi những người ngoài giáo xứ đọc phần SUY NIỆM LỜI CHÚA nêu trên đều có cảm tưởng là đa số giáo dân trong Giáo Xứ Maria Nữ Vương VN. New Orleans là phường thường “ăn bớt xén, lấy vụng trộm vật dụng của giáo xứ ... Người lấy 1 ngàn đô hội chợ đút túi, kẻ khai báo đảo lộn vài trăm đô”, là phường “mất hết đi nhân phẩm của mình..” là phường “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” Nhưng thực tế, Giáo Xứ Maria Nữ Vương VN. New Orleans đã được xây dựng với sự đóng góp của bao nhiêu thế hệ trong nhiều chục năm qua. Nếu đa số là phường “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” thì ai là người đóng góp để giáo xứ có đầy đủ các cơ sở như nhà thờ, nhà xứ, trường học, nhà nguyện riêng, còn một số tiền lớn trong bank và lại còn lô đất 30 mẫu đang chờ phát triển. Thử hỏi, có giáo xứ VN. nào trên Nước Mỹ có được 30 mẫu đất ngay đối diện nhà thờ để dành chờ phát triển như Giáo Xứ Maria Nữ Vương VN. tại New Orleans hay không?
6. Việc không cho những giáo dân được ăn uống free trong khi giúp volunteer 3 ngày hội chợ của nhà thờ, làm việc tới khuya trong gió lạnh của mùa đông mà tính từng loong nước, loong bia, xâu thịt hay trái chuối thì giống như cộng sản bắt đi làm thuỷ lợi phải mang đồ ăn thức uống đi theo. Có thể là còn tệ hơn cộng sản nữa, bởi vì xâu thịt chính tay mình xiên, mình nướng mà lúc muốn ăn lại phải bỏ tiền ra mua, còn đi làm thuỷ lợi thì chỉ có xúc đất, mà đất thì không ăn được. Nên việc cộng sản bắt dân đi làm thuỷ lợi phải mang đồ ăn thức uống đi theo là hợp lý; còn tại hội chợ nhà thờ, xâu thịt chính tay mình xiên, mình nướng mà lúc muốn ăn lại phải bỏ tiền ra mua thì không những chẳng hợp tình mà còn bất hợp lý, có nghĩa là thiếu tình bác ái. Mà đúng ra nhà thờ thì phải có tình bác ái hơn cộng sản. Vậy lòng bác ái mà các cha hằng rao giảng ở đâu? Có nên vì đồng tiền mà quên đi tình bác ái không? Có nên vì miếng ăn hay loong nước mà mà sỉ vả, nhục mạ, hạ nhân phẩm người khác hay không? Đúng là TIỀN-BẠC, đồng tiền luôn gây ra sự bạc bẽo.
Tuy nhiên, theo như nhận xét của những người nhiều kinh nghiệm trong nghành viết lách, thì phần SUY NIỆM LỜI CHÚA nêu trên không phải là của một linh mục. Vì linh mục mang sứ vụ của Đức Kitô trao ban, là MụcTử nhân lành dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Mục Tử nhân lành mang tâm tình từ bi, nhân hậu, khoan dung, vị tha, chậm bất bình và giầu lòng yêu thương, luôn bảo vệ và binh che cho đoàn chiên chứ không dùng những lời lẽ cộc cằn để phỉ báng, sỉ vả một nhóm đoàn chiên nào đó là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”
Vậy phần SUY NIỆM LỜI CHÚA nêu trên là do ai viết? Được biết Trần C.T. là người phụ trách tờ Mục Vụ cho giáo xứ, là người ngoài giáo xứ mà cha xứ Nguyễn V. Nghiêm mang vô làm việc trong nhà xứ. Trần C.T. đã từng soạn Lá Thư Mục Tử thì đương nhiên là viết luôn phần SUY NIỆM LỜI CHÚA.
Chức vụ của Trần C.T. làm gì trong giáo xứ thì không thấy ghi trên trang bìa của tờ Mục Vụ, nhưng quyền hành thì nhiều hơn tất cả những người được ghi tên, bao gồm hầu hết mọi lãnh vực và hoạt động trong giáo xứ kể cả trên phương diện tài chánh. Thường thì ai nắm tiền thì nắm rất nhiều quyền. Vì thế, người ta nói GX. Maria Nữ Vương VN. có hai cha xứ. Không những thế mà còn có hai mục tử vì cha xứ là một và Trần C.T. là hai vì chính là người soạn Lá Thư Mục Tử. Với những vai trò như thế, Trần C.T. tự cho mình quyền ra chỉ thị, giáo huấn, dạy dỗ và sỉ vả giáo dân là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”
Có một số câu hỏi được đặt ra như sau:
1. Chức vụ của Trần C.T.? Cố vấn đặc biệt hay phụ tá đặc biệt của cha xứ? Giám đốc điều hành, Chánh văn phòng nhà xứ hay quản lý của giáo xứ? Đại diện cha xứ hay tất cả các chức vụ vừa nêu ra? Những chức vụ này, thời Đ.Ô. Mai Thanh Lương (trước khi lên chức giám mục) còn làm cha xứ, không có. Nhưng giáo xứ cũng đã được phát triển với đầy đủ các cơ sở như nhà thờ, nhà xứ, trường học, nhà nguyện riêng, còn một số tiền lớn trong bank và lại còn lô đất 30 mẫu, đối diện với nhà thờ đang chờ phát triển.
2. Quyền giáo huấn, giảng giải giáo lý và tín lý – Trần C.T. có quyền ra giáo huấn cho giáo dân không? “ ... người công giáo chúng ta có tập tục “theo đạo thuộc lòng” như lối ông bà xưa lưu truyền lại, mà ngày nay con người tự cho mình văn minh nên thường quên đi đường hướng giáo dục cụ thể đó khiến lối sống và việc làm của những người mang danh là con Chúa hôm nay bị đối nghịch hẳn......nhưng những lời lẽ này chỉ là cảnh tỉnh lối sống đạo của mình xem có đúng hay không.” – Theo như trang bìa của tờ Mục Vụ, giáo xứ có ba cha: Cha xứ, cha phó, cha phụ tá và thêm thầy sáu. Vậy có cần một thường dân ở nơi khác tới để giáo huấn cho giáo dân trong giáo xứ hay không?
3. Quyền soạn thư mục tử để dạy dỗ – Có cần một thường dân ở nơi khác tới để soạn thư mục tử và suy niệm lời chúa dạy dỗ giáo dân trong giáo xứ hay không, trong khi giáo xứ có ba linh mục? Theo nguyên tắc, một thường dân viết bài đăng trên tờ mục vụ thì phải ghi tên thật, chỉ có các linh mục có bài sai của Đức Giám Mục địa phận mới được gọi là mục tử, chân dắt đoàn chiên Chúa. Trong thời gian 20 năm dưới thời Đ.Ô. Mai Thanh Lương, một người tài ba (trước khi lên chức giám mục) còn làm cha xứ, dường như đã không ai nói là có lá thư mục tử trong tờ Mục Vụ tại GX. Maria Nữ Vương VN. Hơn nữa, nếu đăng lá thư mục tử rồi lại đăng những lời sỉ vả, nhục mạ cộc cằn, mắng nhiếc một số giáo dân trong phần SUY NIỆM LỜI CHÚA thì có mang được Chúa đến với giáo dân không, hay là mang Chúa ra khỏi giáo dân. Nếu đăng những lời tiêu cực hay nói những lời tiêu cực làm giáo dân xuống tinh thần, thì xin ý kiến các nhà lãnh đạo tinh thần là có nên đăng hay có nên nói những lời tiêu cực hay không?
4. Quyền ra chỉ thị – Trong giáo xứ có cha xứ, cha phó, cha phụ tá, vậy có cần một thường dân ở nơi khác tới để ra chỉ thị cho Hội Đồng Mục Vụ và các ban, các ngành trong giáo xứ hay không? Giáo xứ có Ban Tổ Chức và Ban Điều Hành Hội Chợ – Tất cả các vấn đề của hội chợ là do hai ban này chịu trách nhiệm. Khi họ có trách nhiệm thì phải cho họ có quyền hành thì họ mới hoàn thành trách nhiệm được. Khi có các vấn đề liên quan đến hội chợ thì có được giải quyết bởi Ban Tổ Chức và Ban Điều Hành không hay là qua mặt hai ban này, không cần theo nguyên tắc, cứ đăng trên tờ Mục Vụ để sỉ vả giáo dân.
5. Quyền sỉ vả giáo dân là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” - Trong ba ngày hội chợ, có những gia đình bao gồm 3 thế hệ gồm ông, bố, con, hoặc là cả hai vợ chồng ra giúp. Còn có những vị cao niên và những vị cựu chủ tịch ra góp công góp sức trong nhiều năm qua. Trong khi làm việc mười mấy tiếng một ngày, dĩ nhiên là có người lấy loong nước uống, hoặc khi thì mở loong bia uống với nhau để vui xuân, để quên đi những lúc làm việc mệt nhọc vất vả, để tiếp tục gồng mình trong cái lạnh mùa đông, để cầm cự tới khuya cho tới lúc hội chợ đóng cửa. Thế nhưng đã bị Trần C.T., chỉ đáng tuổi con cháu nhiều ông bà trong giáo xứ lên lớp: “Nhiều người mang danh ra giúp các hội đoàn làm hội chợ dường như để ăn bớt xén, lấy vụng trộm vật dụng của giáo xứ: từ củ hành, từ xâu thịt, từ trái chuối, sang đến những bàn ghế, thùng rác, khay bưng thức ăn, bao rác, ...v.v. .. Cũng có một số người ra giúp hội chợ và tự thưởng công cho mình bằng cách lấy nước, mở bia uống miễn phí.” Câu hỏi được đặt ra là ai cho phép Trần C.T. , một thường dân ở nơi khác tới sỉ vả giáo dân và những vị cao niên là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”? Các cha có kiểm duyệt tờ mục vụ trước khi đăng hay là để Trần C.T. muốn phang ai thì phang, như múa gậy rừng hoang?
6. Nếu các cha có kiểm duyệt tờ mục vụ mà vẫn cho đăng, thì các cha nghĩ gì về việc một người thường làm việc trong nhà xứ, lãnh lương do tiền đóng góp của giáo dân, rồi sỉ vả lại giáo dân, lạm dụng quyền hành, dùng tờ mục vụ, phần suy niệm Lời Chúa để “khen” giáo dân và những vị cao niên, đáng tuổi cha chú, là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” Như thế có thích hợp với tinh thần Kitô Giáo hay không? Nếu không, thì xin các cha là hiện thân của Đức Kitô, là Mục Tử nhân lành dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Mục Tử nhân lành mang tâm tình từ bi, nhân hậu, khoan dung, vị tha và yêu thương, luôn bảo vệ và binh che cho đoàn chiên. Xin bảo vệ và binh che cho đoàn chiên tại GX. Maria Nữ Vương VN., xin băng bó những con chiên bị thương tích (chứ đừng bắn bỏ, vì miệng lưỡi có thể trở thành giống như súng đạn và “miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời”), là những người dân thấp cổ bé miệng, không có phương tiện truyền thông như tờ mục vụ, để kêu ca, lên tiếng mà chỉ biết âm thầm rên rỉ.
Sau cùng, tất cả những lời phân tích nêu trên được viết ra là vì người giáo dân không có phương tiện truyền thông để kêu ca, để lên tiếng, nên cần phải có người lên tiếng cho dân và vì dân bằng cách này hay cách khác. Hy vọng với sự bảo vệ và binh che cho đoàn chiên của các cha: Cha xứ, cha phó, cha phụ tá; là những vị Mục Tử nhân lành dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, băng bó những con chiên bị thương tích, GX. Maria Nữ Vương VN. sẽ có sự thay đổi để dùng tờ Mục Vụ mà truyền đạt sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA đến cho giáo dân hơn là đăng những lời tiêu cực, cộc cằn để sỉ vả, nhục mạ, mắng nhiếc một số con chiên không ưa thích, mà vơ đũa cả nắm, từ già tới trẻ. Như thế, những vị cao niên, những ông già bà cả có thể yên hưởng tuổi già nơi GX. Maria Nữ Vương VN., nơi mà họ đã đóng góp bao nhiêu công sức để xây dựng giáo xứ trong hơn 40 năm qua.
NGUYỄN VÌ DÂN
Tờ Mục Vụ của Giáo Xứ, Chúa Nhật II Mùa Chay, Số 1627, Phần SUY NIỆM LỜI CHÚA có đăng những câu như sau:
“ ... người công giáo chúng ta có tập tục "theo đạo thuộc lòng" như lối ông bà xưa lưu truyền lại, mà ngày nay con người tự cho mình văn minh nên thường quên đi đường hướng giáo dục cụ thể đó khiến lối sống và việc làm của những người mang danh là con Chúa hôm nay bị đối nghịch hẳn...
...nhưng những lời lẽ này chỉ là cảnh tỉnh lối sống đạo của mình xem có đúng hay không. Nhiều người mang danh ra giúp các hội đoàn làm hội chợ dường như để ăn bớt xén, lấy vụng trộm vật dụng của giáo xứ: từ củ hành, từ xâu thịt, từ trái chuối, sang đến những bàn ghế, thùng rác, khay bưng thức ăn, bao rác, ...v.v.
Cũng có một số người ra giúp hội chợ và tự thưởng công cho mình bằng cách lấy nước, mở bia uống miễn phí. Người lấy 1 ngàn đô hội chợ đút túi, kẻ khai báo đảo lộn vài trăm đô, và người khác lấy loong bia không trả tiền về nhà .. thì hành động chẳng khác nhau gì ngoài chữ “lấy” của Chúa!
Đáng tiếc thay những hành vi như vừa kể trên đã làm cho người công giáo chúng ta mất hết đi nhân phẩm của mình biến ta trở thành con người hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”
Thiết tưởng, phần SUY NIỆM LỜI CHÚA nêu trên cần được phân tích để xin mọi người góp ý dựa trên căn bản sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA.
1. Lời Chúa là chính Chúa và Thiên Chúa là Tình Yêu. Khi Chúa giáng trần thì các thiên thần loan báo tin mừng: “Bình an dưới thế ...” và trước khi Chúa Giêsu về trời thì Ngài luôn chúc: “Bình an cho các con ...” Như thế Phần Suy Niệm Lời Chúa với những lời chỉ trích giáo dân “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” có giúp giáo dân nhận được sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA hay không?
2. Giáo xứ được thành lập với mục đích chính là mang lại sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA đến cho giáo dân. Như thế, việc cai quản giáo xứ và tài chánh trong giáo xứ chỉ là phương tiện phụ để đạt tới mục đích chính là mang sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA đến cho mọi người. Cho nên, có nên vì đồng tiền, vài loong nước, mấy loong bia mà đăng những lời sỉ vả, nhục mạ, cộc cằn, mắng nhiếc làm cho đức tin và tinh thần của giáo dân bị giao động hay không? Đây là lúc cần các nhà lãnh đạo tinh thần, là Mục Tử nhân lành dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, đi tìm những con chiên bị thương tích để băng bó, những người đang bị chỉ trích là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”.
3. Việc kiếm tiền trong hội chợ Tết cũng không phải là mục đích chính mà nhiều người vẫn coi là chủ đích. Dĩ nhiên, thu được nhiều tiền thì giáo xứ phát triển được nhiều việc hơn. Nhưng chủ đích của hội chợ Tết từ khởi đầu là: Giúp giới trẻ hiểu biết và bảo tồn văn hóa và các phong tục VN. – Tạo cơ hội để mọi thành phần trong giáo xứ quây quần vui Xuân chung với nhau vào dịp Tết tại khuôn viên giáo xứ. Cuối cùng mới là việc gây qũy cho giáo xứ. Nhưng sau nhiều chục năm thi đua làm tiền gây qũy, tiền càng nhiều thì lại muốn nhiều hơn nữa, cho nên ý nghĩa bảo tồn văn hóa và vui Xuân đã bị lu mờ và nhường chỗ cho mãnh lực của đồng dollar. Mặc dù giáo xứ đã thu được hơn 240 ngàn tiền lời hội chợ (sau khi trừ vốn và các chi phí), thế nhưng vì một chai nước (mua vô dưới 50 cent), vì một loong bia (mua vô dưới 99 cent), vì một xâu thịt (tiền vốn dưới 75 cent) mà giáo xứ dùng phần Suy Niệm Lời Chúa để chỉ trích một số giáo dân ra giúp hội chợ là “hèn hạ - tồi mạt - khiếp đảm!” Những lời này có giúp giáo dân, những người tình nguyện suốt 3 ngày hội chợ, chịu vất vả và gió lạnh mùa đông, có nhận được sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA hay không? Trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội đều có nhiều thành phần khác nhau, nhưng không nên vì miếng ăn hay loong nước mà sỉ vả, nhục mạ, hạ nhân phẩm người khác. Vì ở đời có những người rất tốt, nhưng thực tế đã có lúc làm chuyện xấu hơn cả những người xấu, và ngược lại, có những người rất xấu, nhưng đã có lúc họ làm chuyện tốt hơn cả những người tốt. Tương tự như câu: Sông có khúc, người có lúc. Thí dụ như trước năm 1975 tại Sài Gòn, có những tu sĩ (có lẽ không phải Công Giáo) khi đi thi tại các trường đại học đã cọpy bài của người khác để
đủ điểm đậu lên lớp.
4. “Người lấy 1 ngàn đô hội chợ đút túi, kẻ khai báo đảo lộn vài trăm đô” – Trên Nước Mỹ, khi buộc tội ai thì phải có bằng chứng, mà nếu có bằng chứng rõ ràng thì cha xứ có quyền kêu những người đó vô nhà xứ để giải quyết minh bạch trong sự công bằng và bác ái một cách tế nhị, hoặc là để Ban Tổ Chức và Ban Điều Hành Hội Chợ giải quyết vấn đề này trực tiếp với cá nhân đó. Vì tất cả các vấn đề của hội chợ là do hai ban này chịu trách nhiệm. Khi họ có trách nhiệm thì phải cho họ có quyền hành thì họ mới hoàn thành trách nhiệm được. Còn việc qua mặt Ban Tổ Chức và Ban Điều Hành Hội Chợ, dùng phương tiện do tiền đóng góp của giáo dân là tờ Mục Vụ, phần SUY NIỆM LỜI CHÚA để vơ đũa cả nắm, chỉ trích cho hả giận, gọi một số giáo dân là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” thì có thích hợp với tinh thần Kitô Giáo hay không?
5. Vì đăng công khai trên tờ Mục Vụ của giáo xứ, nên khi những người ngoài giáo xứ đọc phần SUY NIỆM LỜI CHÚA nêu trên đều có cảm tưởng là đa số giáo dân trong Giáo Xứ Maria Nữ Vương VN. New Orleans là phường thường “ăn bớt xén, lấy vụng trộm vật dụng của giáo xứ ... Người lấy 1 ngàn đô hội chợ đút túi, kẻ khai báo đảo lộn vài trăm đô”, là phường “mất hết đi nhân phẩm của mình..” là phường “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” Nhưng thực tế, Giáo Xứ Maria Nữ Vương VN. New Orleans đã được xây dựng với sự đóng góp của bao nhiêu thế hệ trong nhiều chục năm qua. Nếu đa số là phường “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” thì ai là người đóng góp để giáo xứ có đầy đủ các cơ sở như nhà thờ, nhà xứ, trường học, nhà nguyện riêng, còn một số tiền lớn trong bank và lại còn lô đất 30 mẫu đang chờ phát triển. Thử hỏi, có giáo xứ VN. nào trên Nước Mỹ có được 30 mẫu đất ngay đối diện nhà thờ để dành chờ phát triển như Giáo Xứ Maria Nữ Vương VN. tại New Orleans hay không?
6. Việc không cho những giáo dân được ăn uống free trong khi giúp volunteer 3 ngày hội chợ của nhà thờ, làm việc tới khuya trong gió lạnh của mùa đông mà tính từng loong nước, loong bia, xâu thịt hay trái chuối thì giống như cộng sản bắt đi làm thuỷ lợi phải mang đồ ăn thức uống đi theo. Có thể là còn tệ hơn cộng sản nữa, bởi vì xâu thịt chính tay mình xiên, mình nướng mà lúc muốn ăn lại phải bỏ tiền ra mua, còn đi làm thuỷ lợi thì chỉ có xúc đất, mà đất thì không ăn được. Nên việc cộng sản bắt dân đi làm thuỷ lợi phải mang đồ ăn thức uống đi theo là hợp lý; còn tại hội chợ nhà thờ, xâu thịt chính tay mình xiên, mình nướng mà lúc muốn ăn lại phải bỏ tiền ra mua thì không những chẳng hợp tình mà còn bất hợp lý, có nghĩa là thiếu tình bác ái. Mà đúng ra nhà thờ thì phải có tình bác ái hơn cộng sản. Vậy lòng bác ái mà các cha hằng rao giảng ở đâu? Có nên vì đồng tiền mà quên đi tình bác ái không? Có nên vì miếng ăn hay loong nước mà mà sỉ vả, nhục mạ, hạ nhân phẩm người khác hay không? Đúng là TIỀN-BẠC, đồng tiền luôn gây ra sự bạc bẽo.
Tuy nhiên, theo như nhận xét của những người nhiều kinh nghiệm trong nghành viết lách, thì phần SUY NIỆM LỜI CHÚA nêu trên không phải là của một linh mục. Vì linh mục mang sứ vụ của Đức Kitô trao ban, là MụcTử nhân lành dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Mục Tử nhân lành mang tâm tình từ bi, nhân hậu, khoan dung, vị tha, chậm bất bình và giầu lòng yêu thương, luôn bảo vệ và binh che cho đoàn chiên chứ không dùng những lời lẽ cộc cằn để phỉ báng, sỉ vả một nhóm đoàn chiên nào đó là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”
Vậy phần SUY NIỆM LỜI CHÚA nêu trên là do ai viết? Được biết Trần C.T. là người phụ trách tờ Mục Vụ cho giáo xứ, là người ngoài giáo xứ mà cha xứ Nguyễn V. Nghiêm mang vô làm việc trong nhà xứ. Trần C.T. đã từng soạn Lá Thư Mục Tử thì đương nhiên là viết luôn phần SUY NIỆM LỜI CHÚA.
Chức vụ của Trần C.T. làm gì trong giáo xứ thì không thấy ghi trên trang bìa của tờ Mục Vụ, nhưng quyền hành thì nhiều hơn tất cả những người được ghi tên, bao gồm hầu hết mọi lãnh vực và hoạt động trong giáo xứ kể cả trên phương diện tài chánh. Thường thì ai nắm tiền thì nắm rất nhiều quyền. Vì thế, người ta nói GX. Maria Nữ Vương VN. có hai cha xứ. Không những thế mà còn có hai mục tử vì cha xứ là một và Trần C.T. là hai vì chính là người soạn Lá Thư Mục Tử. Với những vai trò như thế, Trần C.T. tự cho mình quyền ra chỉ thị, giáo huấn, dạy dỗ và sỉ vả giáo dân là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”
Có một số câu hỏi được đặt ra như sau:
1. Chức vụ của Trần C.T.? Cố vấn đặc biệt hay phụ tá đặc biệt của cha xứ? Giám đốc điều hành, Chánh văn phòng nhà xứ hay quản lý của giáo xứ? Đại diện cha xứ hay tất cả các chức vụ vừa nêu ra? Những chức vụ này, thời Đ.Ô. Mai Thanh Lương (trước khi lên chức giám mục) còn làm cha xứ, không có. Nhưng giáo xứ cũng đã được phát triển với đầy đủ các cơ sở như nhà thờ, nhà xứ, trường học, nhà nguyện riêng, còn một số tiền lớn trong bank và lại còn lô đất 30 mẫu, đối diện với nhà thờ đang chờ phát triển.
2. Quyền giáo huấn, giảng giải giáo lý và tín lý – Trần C.T. có quyền ra giáo huấn cho giáo dân không? “ ... người công giáo chúng ta có tập tục “theo đạo thuộc lòng” như lối ông bà xưa lưu truyền lại, mà ngày nay con người tự cho mình văn minh nên thường quên đi đường hướng giáo dục cụ thể đó khiến lối sống và việc làm của những người mang danh là con Chúa hôm nay bị đối nghịch hẳn......nhưng những lời lẽ này chỉ là cảnh tỉnh lối sống đạo của mình xem có đúng hay không.” – Theo như trang bìa của tờ Mục Vụ, giáo xứ có ba cha: Cha xứ, cha phó, cha phụ tá và thêm thầy sáu. Vậy có cần một thường dân ở nơi khác tới để giáo huấn cho giáo dân trong giáo xứ hay không?
3. Quyền soạn thư mục tử để dạy dỗ – Có cần một thường dân ở nơi khác tới để soạn thư mục tử và suy niệm lời chúa dạy dỗ giáo dân trong giáo xứ hay không, trong khi giáo xứ có ba linh mục? Theo nguyên tắc, một thường dân viết bài đăng trên tờ mục vụ thì phải ghi tên thật, chỉ có các linh mục có bài sai của Đức Giám Mục địa phận mới được gọi là mục tử, chân dắt đoàn chiên Chúa. Trong thời gian 20 năm dưới thời Đ.Ô. Mai Thanh Lương, một người tài ba (trước khi lên chức giám mục) còn làm cha xứ, dường như đã không ai nói là có lá thư mục tử trong tờ Mục Vụ tại GX. Maria Nữ Vương VN. Hơn nữa, nếu đăng lá thư mục tử rồi lại đăng những lời sỉ vả, nhục mạ cộc cằn, mắng nhiếc một số giáo dân trong phần SUY NIỆM LỜI CHÚA thì có mang được Chúa đến với giáo dân không, hay là mang Chúa ra khỏi giáo dân. Nếu đăng những lời tiêu cực hay nói những lời tiêu cực làm giáo dân xuống tinh thần, thì xin ý kiến các nhà lãnh đạo tinh thần là có nên đăng hay có nên nói những lời tiêu cực hay không?
4. Quyền ra chỉ thị – Trong giáo xứ có cha xứ, cha phó, cha phụ tá, vậy có cần một thường dân ở nơi khác tới để ra chỉ thị cho Hội Đồng Mục Vụ và các ban, các ngành trong giáo xứ hay không? Giáo xứ có Ban Tổ Chức và Ban Điều Hành Hội Chợ – Tất cả các vấn đề của hội chợ là do hai ban này chịu trách nhiệm. Khi họ có trách nhiệm thì phải cho họ có quyền hành thì họ mới hoàn thành trách nhiệm được. Khi có các vấn đề liên quan đến hội chợ thì có được giải quyết bởi Ban Tổ Chức và Ban Điều Hành không hay là qua mặt hai ban này, không cần theo nguyên tắc, cứ đăng trên tờ Mục Vụ để sỉ vả giáo dân.
5. Quyền sỉ vả giáo dân là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” - Trong ba ngày hội chợ, có những gia đình bao gồm 3 thế hệ gồm ông, bố, con, hoặc là cả hai vợ chồng ra giúp. Còn có những vị cao niên và những vị cựu chủ tịch ra góp công góp sức trong nhiều năm qua. Trong khi làm việc mười mấy tiếng một ngày, dĩ nhiên là có người lấy loong nước uống, hoặc khi thì mở loong bia uống với nhau để vui xuân, để quên đi những lúc làm việc mệt nhọc vất vả, để tiếp tục gồng mình trong cái lạnh mùa đông, để cầm cự tới khuya cho tới lúc hội chợ đóng cửa. Thế nhưng đã bị Trần C.T., chỉ đáng tuổi con cháu nhiều ông bà trong giáo xứ lên lớp: “Nhiều người mang danh ra giúp các hội đoàn làm hội chợ dường như để ăn bớt xén, lấy vụng trộm vật dụng của giáo xứ: từ củ hành, từ xâu thịt, từ trái chuối, sang đến những bàn ghế, thùng rác, khay bưng thức ăn, bao rác, ...v.v. .. Cũng có một số người ra giúp hội chợ và tự thưởng công cho mình bằng cách lấy nước, mở bia uống miễn phí.” Câu hỏi được đặt ra là ai cho phép Trần C.T. , một thường dân ở nơi khác tới sỉ vả giáo dân và những vị cao niên là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!”? Các cha có kiểm duyệt tờ mục vụ trước khi đăng hay là để Trần C.T. muốn phang ai thì phang, như múa gậy rừng hoang?
6. Nếu các cha có kiểm duyệt tờ mục vụ mà vẫn cho đăng, thì các cha nghĩ gì về việc một người thường làm việc trong nhà xứ, lãnh lương do tiền đóng góp của giáo dân, rồi sỉ vả lại giáo dân, lạm dụng quyền hành, dùng tờ mục vụ, phần suy niệm Lời Chúa để “khen” giáo dân và những vị cao niên, đáng tuổi cha chú, là “hèn hạ tồi mạt khiếp đảm!” Như thế có thích hợp với tinh thần Kitô Giáo hay không? Nếu không, thì xin các cha là hiện thân của Đức Kitô, là Mục Tử nhân lành dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Mục Tử nhân lành mang tâm tình từ bi, nhân hậu, khoan dung, vị tha và yêu thương, luôn bảo vệ và binh che cho đoàn chiên. Xin bảo vệ và binh che cho đoàn chiên tại GX. Maria Nữ Vương VN., xin băng bó những con chiên bị thương tích (chứ đừng bắn bỏ, vì miệng lưỡi có thể trở thành giống như súng đạn và “miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời”), là những người dân thấp cổ bé miệng, không có phương tiện truyền thông như tờ mục vụ, để kêu ca, lên tiếng mà chỉ biết âm thầm rên rỉ.
Sau cùng, tất cả những lời phân tích nêu trên được viết ra là vì người giáo dân không có phương tiện truyền thông để kêu ca, để lên tiếng, nên cần phải có người lên tiếng cho dân và vì dân bằng cách này hay cách khác. Hy vọng với sự bảo vệ và binh che cho đoàn chiên của các cha: Cha xứ, cha phó, cha phụ tá; là những vị Mục Tử nhân lành dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, băng bó những con chiên bị thương tích, GX. Maria Nữ Vương VN. sẽ có sự thay đổi để dùng tờ Mục Vụ mà truyền đạt sự BÌNH AN và TÌNH YÊU của THIÊN CHÚA đến cho giáo dân hơn là đăng những lời tiêu cực, cộc cằn để sỉ vả, nhục mạ, mắng nhiếc một số con chiên không ưa thích, mà vơ đũa cả nắm, từ già tới trẻ. Như thế, những vị cao niên, những ông già bà cả có thể yên hưởng tuổi già nơi GX. Maria Nữ Vương VN., nơi mà họ đã đóng góp bao nhiêu công sức để xây dựng giáo xứ trong hơn 40 năm qua.
NGUYỄN VÌ DÂN
NHIỀU LOẠI MÙ
Tính ích kỷ làm ta mù không thấy nhu cầu của tha nhân.
Tính vô cảm làm ta mù không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân.
Tính tự phụ làm ta mù không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình.
Tính kiêu căng làm ta mù không thấy khuyết điểm của mình.
Những thành kiến làm ta mù không thấy sự thật.
Sự hối hả làm ta mù không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh.
Khuynh hướng duy vật làm ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng.
Sự hời hợt làm ta mù không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án.
SƯU TẦM
Tính ích kỷ làm ta mù không thấy nhu cầu của tha nhân.
Tính vô cảm làm ta mù không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân.
Tính tự phụ làm ta mù không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình.
Tính kiêu căng làm ta mù không thấy khuyết điểm của mình.
Những thành kiến làm ta mù không thấy sự thật.
Sự hối hả làm ta mù không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh.
Khuynh hướng duy vật làm ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng.
Sự hời hợt làm ta mù không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án.
SƯU TẦM
PHẪN NỘ THÌ DỄ – THA THỨ MỚI KHÓ
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống luôn đối diện với những điều không vừa ý và với những người gây tổn thương cho chúng ta. Phản ứng thông thường là đáp trả, là ăn miếng trả miếng. Nhưng thực ra, giận dữ phản kháng, trả đũa chẳng hóa giải được điều gì có khi còn làm cho tình huống thêm căng thẳng thêm.
Trên chuyến xe búyt có một đôi tình nhân, chàng trai gắt gỏng, giận dữ nói cô gái: “Nói với em bao nhiêu lần rồi, em vì cái gì mà không nhớ rõ, em làm sao vậy hả?”.
Cô gái kéo áo chàng trai, nhỏ giọng nói: “Em xin lỗi! Anh đừng lớn tiếng trước nhiều người như vậy!”.
Không biết hai người đó xảy ra chuyện gì. Nhưng hành động của chàng trai khiến mọi người đều phản cảm. Ở nơi công cộng mà nổi nóng như vậy thật mất lịch sự, thật thiếu văn hóa .
Một điều dễ thấy rằng, phẫn nộ thì dễ mà tha thứ lại rất khó khăn. Phẫn nộ thì phá hoại còn tha thứ là xây dựng. Tha thứ chính là hiện thân của tình yêu vĩ đại, của lòng bao dung và từ bi với nhau. Phải có tình yêu vĩ đại lắm mới tha thứ cho kẻ làm hại và gây đau khổ cho mình.
Chúa Ky-tô là hiện thân của tình yêu vĩ đại ấy! Sau cuộc khổ hình Ngài đã sống lại là tin buồn cho những kẻ bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Ngài. Ngài sống lại cũng mang lại những hoang mang lo sợ cho những môn đệ đã từng bỏ rơi Ngài để chạy trốn, đã từng chối Thầy đến ba lần. . . Thế mà sau cuộc phục sinh ấy Ngài không hề tìm đến hỏi tội hay kết án ai. Ngài còn đi bước trước trong tình yêu tha thứ khi trao bình an cho các môn đệ. Nhiều lần và nhiều nơi khi Chúa hiện đến với các môn đệ Ngài đều nói “bình an cho các con”. Ngài hiểu rằng nơi các môn đệ lúc này là tâm trạng hối hận vì việc mình đã làm với Thầy Giê-su. Ngài đã đi bước trước trong tình yêu là nói lời bao dung tha thứ. Có lẽ Chúa sẽ nói: “Ai mà không có lúc lỗi lầm. Hãy can đảm đứng dậy. Thầy không trách tội các con. Hãy vui vẻ bình an”.
Chúa Giê-su trong thân phận con người Ngài cũng hiểu bản tính yếu đuối của con người. Ai mà không lầm lỗi. Ai mà không một lần cần đến sự cảm thông tha thứ nơi anh em. Ai cũng cần sự tha thứ để sửa đổi, để làm mới lại tương giao với nhau. Sự tha thứ của Chúa phục sinh đã làm mới lại tương giao với các môn đệ, để từ đây các ông sẵn sàng chết vì Thầy. Sự tha thứ của Chúa đã làm cho các môn đệ yêu mến Chúa nhiều hơn đến nỗi chỉ vâng lời Thiên Chúa chứ không vâng lời cường quyền trần gian.
Giữa cuộc đời hôm nay cần lắm Lòng Thương Xót dành cho nhau. Nếu cuộc đời cứ “oán báo oán – oán sẽ chập chùng”, và sẽ biến thế giới thành hoang tàn đổ nát. Chỉ có tình yêu tha thứ và lòng bao dung mới xây dựng tình người và dựng xây thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Chúa Giê-su đã củng cố các môn đệ dựa trên Lòng Thương Xót. Nhờ Lòng Thương Xót ấy mà Ngài đã thay đổi các môn đệ từ nhút nhát và đầy yếu đuối trở thành người can đảm tận trung với Chúa. Hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta hãy có lòng xót thương nhau. Xót thương ngay chính trong gia đình để hàn gắn những nghi kỵ, hiểu lầm, ghen tương. Xót thương ngay chính trong cộng đoàn xứ đạo để sống hiệp nhất cùng nhau loan báo Lòng Thương xót Chúa. Chính Lòng Xót thương sẽ mang lại cho chúng ta bình an hạnh phúc, bởi vì nuôi dưỡng hận thù chỉ tổn hại tâm can chính mình.
Ước gì chúng ta có trái tim bao dung của Chúa để có thể nói lời tha thứ cho nhau và đón nhận anh em chung sống trong hiệp nhất yêu thương. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống luôn đối diện với những điều không vừa ý và với những người gây tổn thương cho chúng ta. Phản ứng thông thường là đáp trả, là ăn miếng trả miếng. Nhưng thực ra, giận dữ phản kháng, trả đũa chẳng hóa giải được điều gì có khi còn làm cho tình huống thêm căng thẳng thêm.
Trên chuyến xe búyt có một đôi tình nhân, chàng trai gắt gỏng, giận dữ nói cô gái: “Nói với em bao nhiêu lần rồi, em vì cái gì mà không nhớ rõ, em làm sao vậy hả?”.
Cô gái kéo áo chàng trai, nhỏ giọng nói: “Em xin lỗi! Anh đừng lớn tiếng trước nhiều người như vậy!”.
Không biết hai người đó xảy ra chuyện gì. Nhưng hành động của chàng trai khiến mọi người đều phản cảm. Ở nơi công cộng mà nổi nóng như vậy thật mất lịch sự, thật thiếu văn hóa .
Một điều dễ thấy rằng, phẫn nộ thì dễ mà tha thứ lại rất khó khăn. Phẫn nộ thì phá hoại còn tha thứ là xây dựng. Tha thứ chính là hiện thân của tình yêu vĩ đại, của lòng bao dung và từ bi với nhau. Phải có tình yêu vĩ đại lắm mới tha thứ cho kẻ làm hại và gây đau khổ cho mình.
Chúa Ky-tô là hiện thân của tình yêu vĩ đại ấy! Sau cuộc khổ hình Ngài đã sống lại là tin buồn cho những kẻ bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Ngài. Ngài sống lại cũng mang lại những hoang mang lo sợ cho những môn đệ đã từng bỏ rơi Ngài để chạy trốn, đã từng chối Thầy đến ba lần. . . Thế mà sau cuộc phục sinh ấy Ngài không hề tìm đến hỏi tội hay kết án ai. Ngài còn đi bước trước trong tình yêu tha thứ khi trao bình an cho các môn đệ. Nhiều lần và nhiều nơi khi Chúa hiện đến với các môn đệ Ngài đều nói “bình an cho các con”. Ngài hiểu rằng nơi các môn đệ lúc này là tâm trạng hối hận vì việc mình đã làm với Thầy Giê-su. Ngài đã đi bước trước trong tình yêu là nói lời bao dung tha thứ. Có lẽ Chúa sẽ nói: “Ai mà không có lúc lỗi lầm. Hãy can đảm đứng dậy. Thầy không trách tội các con. Hãy vui vẻ bình an”.
Chúa Giê-su trong thân phận con người Ngài cũng hiểu bản tính yếu đuối của con người. Ai mà không lầm lỗi. Ai mà không một lần cần đến sự cảm thông tha thứ nơi anh em. Ai cũng cần sự tha thứ để sửa đổi, để làm mới lại tương giao với nhau. Sự tha thứ của Chúa phục sinh đã làm mới lại tương giao với các môn đệ, để từ đây các ông sẵn sàng chết vì Thầy. Sự tha thứ của Chúa đã làm cho các môn đệ yêu mến Chúa nhiều hơn đến nỗi chỉ vâng lời Thiên Chúa chứ không vâng lời cường quyền trần gian.
Giữa cuộc đời hôm nay cần lắm Lòng Thương Xót dành cho nhau. Nếu cuộc đời cứ “oán báo oán – oán sẽ chập chùng”, và sẽ biến thế giới thành hoang tàn đổ nát. Chỉ có tình yêu tha thứ và lòng bao dung mới xây dựng tình người và dựng xây thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Chúa Giê-su đã củng cố các môn đệ dựa trên Lòng Thương Xót. Nhờ Lòng Thương Xót ấy mà Ngài đã thay đổi các môn đệ từ nhút nhát và đầy yếu đuối trở thành người can đảm tận trung với Chúa. Hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta hãy có lòng xót thương nhau. Xót thương ngay chính trong gia đình để hàn gắn những nghi kỵ, hiểu lầm, ghen tương. Xót thương ngay chính trong cộng đoàn xứ đạo để sống hiệp nhất cùng nhau loan báo Lòng Thương xót Chúa. Chính Lòng Xót thương sẽ mang lại cho chúng ta bình an hạnh phúc, bởi vì nuôi dưỡng hận thù chỉ tổn hại tâm can chính mình.
Ước gì chúng ta có trái tim bao dung của Chúa để có thể nói lời tha thứ cho nhau và đón nhận anh em chung sống trong hiệp nhất yêu thương. Amen