Hoàng Hoa Tửu
Tôi xin chúc mừng linh mục Đinh Tiến Hóa đến với Cộng Đoàn SEAS. Hy vọng ơn Chúa và sự nhiệt tâm của Cộng Đoàn sẽ giúp linh mục vượt qua những thử thách mà những tiền vị đã để lại.
Tôi có một vấn đề muốn được đưa ra và tìm cách giải quyết. Đó là trường hợp của phó tế Hoàng Hoa Tửu. Mọi người trong Cộng Đoàn đều biết những hoạt động liên quan đến tài chính riêng tư của hai vợ chồng ông qua chương trình quyên góp cho hội ILazarô, một chương tình mà 2 vợ chồng luôn gọi là thiện nguyện, nhưng không hề có sự chấp thuận của Tổng Giáo Phận Galveston / Houston. Thông cáo của Đức Giám Mục George Sheltz về những vụ quyên tiền trái phép này đã phổ biến cho tất cả tín hữu Việt Nam đã hơn 5 năm, từ vụ linh mục hồi tục Trịnh Tuấn Hoàng cứ tìm cách gian dối lên đài Radio Saigòn / Houston 900 AM để cổ động quyên góp ở nhà hàng Kim Sơn, Houston, TX. Tôi còn nhớ ông Hoàng Hoa Tửu trong buổi thu hình đó có xác nhận là ông (cùng với linh mục Trịnh Tuấn Hoàng) có giấy phép cấp bởi ĐHY DiNardo cho phép gây quỹ cho chương trình Bác Ái Phanxicô trong Tổng Giáo Phận Houston. Vì sự gian dối công khai này mà Tổng Giáo Phận đã gởi thư khiếu nại đến Bề Trên Giám Tỉnh của lm Trịnh Tuấn Hoàng qua chương trình Bác Ái Phanxicô. Kết quả là lm Trịnh Tuấn Hoàng phải rời khỏi tổ chức Bác Ai Phanxicô, và sau đó xin hồi tục vì không thể vâng lời Bề Trên Giám Tỉnh của Dòng. Sau đó ông ta cứ tiếp tục mở một hội bác ái khác, cũng cùng một mục đích quyên tiền trái phép, dưới danh nghĩa giúp người nghèo tại Việt Nam.
Riêng ông Hoàng Hoa Từu, sau khi tách ra khỏi hội Bác Ái Phanxicô, đã cùng với vợ là Nguyễn Kim Phượng mở một hội mới lấy tên Ilazarô, cũng đi giống con đường mà nhóm Trịnh Tuấn Hoàng đã làm trái phép khi cứ tiếp tục quyên góp tiền bạc ở khắp nơi trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Khi bị chất vấn là tại sao 2 vợ chồng cứ xin tiền không có giấy phép của Tổng Giáo Phận thì họ trả lời: Họ tổ chức xin tiền ở trong nhà hàng Kim Sơn, không phải trong nhà thờ cho nên không một ĐGM của bất cứ giáo phận nào có quyền ngăn cấm họ. Họ nói như vậy thôi chứ tuần qua, bà Phượng đã lén lút yêu cầu giáo dân ở ngay tại nhà thờ SEAS mua vé ủng hộ chương trình ILazarô của bà. Chương trình quyên tiền sẽ xuất hiện công khai ở nhà hàng Kim Sơn vào ngày 08 tháng 9 sấp tới này.
Tôi đã nhiều lần lên tiếng khuyến cáo hai vợ chồng này, nhưng họ cứ công khai bất chấp lời kháng cáo của tôi. Tôi thiết nghĩ ĐHY hay ĐGM của địa phận mà họ chẳng sợ, huống gì là tôi. Nhưng tại sao họ lại không sợ một ai hết? Tại sao họ cứ tiếp tục dối trá với những hành động của họ? Phải chăng họ chưa gặp một biện pháp chế tài nào thích nghi với sự sai trái của họ? Qua sự suy nghĩ này, tôi muốn đặt vấn đề với linh mục Hóa. Linh mục có nên cho phép phó tế Tửu tiếp tục phụ giúp linh mục trong những thánh lễ VN nữa không, khi sự hiện diện của ông ta là một dấu chỉ của sự xung khắc cho Giáo Hội và cho cộng đoàn dân Chúa ở SEAS? Một phó tế sau khi đọc Phúc Âm xong thì xướng “Đó là Lời Chúa.” Ý nghĩa câu xướng đó là, “Tôi tin đây là Lời Chúa, là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống.” Thế nhưng sau đó phó tế Tửu này lại xuất hiện nhiều lần ở một đài TV ở Houston để giảng thuyết triết lý Phật Giáo cho những tín đồ Phật Giáo để du dỗ họ đóng góp tiền cho hội thiện nguyện của ông. Những việc ông làm đều là xung khắc với đức tin Công Giáo cùng với ba lời hứa với ĐHY ngày ông nằm phục trước bàn thờ để xin lãnh nhận chức Phó Tế: “Hãy tin những gì ông đọc. Hãy giảng dạy những gì ông tin. Hãy thực hành những gì ông giảng dạy.” (Believe what you read. Teach what you believe. Practice what you teach.). Vậy việc ông dẫn giải triết lý của Phật Giáo trên đài TV Hải Lê ở Houston, ông chứng minh ông không hoàn toàn tin vào Lời Chúa. Ông đã không giảng dạy những gì ông tin. Và ông đã không thực hành những gì ông đã giảng dạy.
Trong những email trước tôi đã không công bố tài sản của quỹ Ilazarô của hai vợ chông ông Tửu cho cộng đoàn biết. Hôm nay tôi xin công bố tài sản này để cho linh mục Hóa và cộng đoàn rõ hơn về những hoạt động của 2 vợ chồng. Hãy xem link đính kèm:
https://www.taxexemptworld.com/organization.asp?tn=2357505.
Linh mục Hóa và cộng đoàn hãy bấm vào link ở trên thì thấy tài sản của hội ILazarô cho đến tháng 6, 2019, là 500,000 đô la. Số tiền này không phải là nhỏ. Đó là kết quả của bao nhiêu dối trá, bao nhiêu sự xin tiền không xin phép Đức Giám Mục Chưởng Ấn của bất cứ địa phận nào mà họ đến quyên góp. Tuần qua, như tôi đã nói ở trên, bà Phượng vợ ông Tửu đã lén lút bán vé gây quỹ cho hội ILazarô của 2 vợ chồng ngay trong khuôn viên của giáo xứ SEAS. Trước đó, họ luôn luôn chối và luôn luôn biện bạch là họ quyên tiền ở trong tiệm ăn Kim Sơn, cho nên ĐGM không có quyền ngăm cấm những hoạt động của họ. Nếu biện bạch như thế thì họ sẽ trả lời sao khi các linh mục vào nhà thương để xức dầu, trao Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân vì nhà thương đâu phải là nhà thờ? Quyền hành của ĐHY hay ĐGM, theo ý 2 vợ chồng này bị giới hạn bởi một tòa nhà, gọi là nhà thờ, thì làm sao mà ĐHY hay ĐGM có quyền gởi linh mục vào nhà thương? Nếu biện bạch của 2 vợ chồng là đúng thì tại sao giáo dân lại có thể mời linh mục đến làm phép nhà? Làm lễ tư gia? Nhà riêng của giáo dân đâu phải là nhà thờ. Nếu quyền hành của ĐGM ra khỏi nhà thờ là hết. Vậy linh mục đại diện ĐGM đến nhà riêng của giáo dân để làm phép hay làm lễ thì làm sao mà thiêng? Lối biện bạch của nhóm ILazarô trở nên giống nhóm biệt phái trong phúc âm. Họ nghĩ ô uế là uống từ chén dơ, không rửa tay trước khi ăn. Trong khi đó, Chúa Giêsu nói sự ô uế đến từ tư tưởng, từ sự gian dối trong hành động.
Ở chương cuối của Phúc Âm của Thánh Sử Matthew, Chúa Giêsu trước khi về trời có ra lệnh cho các Tông Đồ, “Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân và làm phép rửa cho họ… Này đây Thầy sẽ ở cùng với các con mọi ngày cho đến tận thế.” (Matthew 28:19-20). Phải chăng lệnh truyền trên của Chúa Giêsu là các Tông Đồ phải rao giảng và làm phép rửa trong nhà thờ? Nhưng từ lúc Chúa Giêsu chết vào năm 30 và kéo dài thêm hơn 300 năm nữa, cho đến thế kỷ thứ 4, thì giáo hội Công Giáo làm gì có nhà thờ. Đạo Công Giáo chỉ trở thành Quốc Giáo khi hoàng đế Constantine của Đế Quốc Roma trở lại đạo và chịu phép rửa ở năm 337. Vậy tôi hỏi ông Tửu, nếu ông nói quyền hành của ĐGM không thể cấm ông khi ông hoạt động trái phép trong tiệm ăn, vậy thì trong hơn 300 năm đầu tiên của Giáo Hội, quyền hành của các Giám Mục bị giới hạn ở đâu khi Giáo hội không có nhà thờ vào lúc ấy? Khi ông đến nhà thờ, người ta gọi ông là phó tế. Lúc ông ra khỏi nhà thờ và vào tiệm ăn thì người ta gọi ông là gì? Khi ông ăn cơm ở nhà hay ở ngoài tiệm, ông làm dấu thánh giá. Vậy dấu thánh giá đó mang ý nghĩa gì khi ông gỉải thích quyền bính của Giáo Hội chỉ có giới hạn ở nhà thờ, chứ không ở nhà riêng hay ở tiệm ăn?
Tôi đoán linh mục Hóa sẽ cảm thấy khó khăn khi đòi hòi sự minh bạch về hoạt động và mục vụ của phó tế Tửu. Nhưng linh mục Hóa có thể dùng những kinh nghiệm cá nhân để hiểu rõ những ảnh hưởng tai hại cho một tập thể, một cộng đồng, khi một vài cá nhân cứ tiếp tục sự gian dối, công khai và không hổ thẹn trong những hoạt động của họ. Thí dụ, Linh mục Hóa có thể dùng những kinh nghiệm cá nhân về một người anh em nào đó trong dòng của linh mục. Người anh em nào đó đã không vâng phục Bề Trên, luôn tìm cách lén lút đi xin tiền, xin ơn huệ, xin nhiều nơi, cho riêng cá nhân của người anh em đó, gây sự bực bội, căng thẳng cho tất cả mọi anh em trong dòng. Tôi không ám chỉ ai hết. Tôi biết chẳng có dòng tu nào hoàn toàn hết, cho nên chỉ muốn đưa ra một thí dụ tương đương để linh mục cảm nhận được sự bực bội của giáo dân ở gx SEAS khi họ cảm thấy bị lợi dụng của một cá nhân, hay một gia đình. Những cá nhân này qua thời gian, cứ gây ảnh hưởng, lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để làm chuyện riêng, tạo ra một cái mà giáo dân hay gọi là “gia đình trị.” Họ dùng tiền quyên góp trái phép để mua chuộc các linh mục để các linh mục ái ngại khi cảnh tỉnh hay sửa sai họ. Họ thích mời các linh mục đến nhà hàng, tặng những chai rượu mắc tiền cho những linh mục thích uống rượu để những người này không thể sửa sai họ.
Cách đây đã hơn 10 năm, có một vụ đánh nhau ở Giáo Xứ Lộ Đức mà nó có liên can đến bà Nguyễn Kim Phượng, vợ ông phó tế Tửu. Nghe nói bà Phượng đánh một đứa bé nào đó tên là Huy ở ngay trong 1 lớp giáo lý Việt Ngữ. Thế là thân nhân của em bé đó nhảy vào đánh bà Phượng. 10 năm trước, vụ đánh nhau này được xem là chuyện giữa 2 gia đình của đứa bé và bà Phượng. Ngày hôm nay, với những vụ kiện tụng các linh mục lạm dụng tình dục với trẻ em, vụ đánh nhau đó là việc giữa 2 gia đình, đồng thời cũng là việc của Tiểu Bang Texas và bà Phượng. Theo lời của Luật Sư Frank Rynd, Tổng Tư Vấn của Tổng Giáo Phận Galveston / Houston, trong buổi thuyết trình về những lạm dụng tình dục của các linh mục vào tháng 3 (ngày mà ĐHY bị tai biến mạch máu não), thì gia đình của em bé tên Huy, hay bất cứ ai biết được chuyện này, có thể trình báo lên cảnh sát hay Child Protective Service (CPS) của tiểu bang Texas ngày hôm nay. Luật sư Frank Rynd giải thích là việc kiện cáo có thể tiếp tục từ lúc em bé bị đánh cho đến khi đạt đến tuổi vị thành niên và cộng thêm 15 năm sau đó. Ai ở Giáo Xứ Lộ Đức hay La Vang, hay GX SEAS có tin tức gì về em bé Huy đó hãy cho tôi để tôi báo cáo cho CPS của Texas. Từ việc đánh một em bé như thế mà tại sao bà Phượng lại được có những mục vụ trong giáo xứ như cắt cử những thừa tác viên trong thánh lễ VN? Tính cách “gia đình trị” này cứ tiếp tục gây sự khó chịu cho giáo dân đi xem lễ VN.
Tháng Giêng vừa qua, có một sự tranh cãi giữa vài gia đình VN trong gx. Tôi và vài người viết email bằng tiếng Việt để bày tỏ lập trường của mình. Tự dưng, ông Bình, con rể ông Tửu nhảy vào tranh luận. Nhưng ông Bình không viết được tiếng Việt. Ông ta biện bạch bằng tiếng Mỹ. Hỏi ra thì mới biết ông ta đang dạy giáo lý Thêm Sức Việt Ngữ cho các em VN trong gx. Việc này gây thắc mắc là nếu ông Bình không viết được tiếng Việt thì làm sao ông dạy Giáo Lý Thêm Sức Việt Ngữ cho các em VN? Đó, ảnh hưởng của “gia đình trị” thì không có biên giới. Họ cài người vào mọi hoạt động trong gx để mua chuộc, kiểm soát, gây thanh thế, cố vấn sai lạc để gx không thể nào phát triển được. Tại sao? Vì một khi gx phát triển, giáo dân có trách nhiệm không thể để bất cứ ai lợi dụng danh nghĩa Giáo Hội, hay Giáo Xứ để mưu lợi ích riêng. Đó cũng là lý do mà tại sao ông Tửu không thể nào bênh vực cho các ông VN khi họ tìm gặp cha chính xứ Reynolds để xin sửa sai linh mục Vi khi linh mục Vi còn ở đây. Hễ giáo xứ càng loạn thì càng có lợi cho những bè phái, cho những ai có tâm địa bất chính. VN có câu tục ngữ “thừa nước đục thả câu.”
Tiện đây tôi muốn yêu cầu sự hợp tác của giáo dân VN ở GX SEAS. Tổng Giáo phận chỉ làm hết những gì mà họ có thể làm được. Họ đã gởi thư thông báo cấm những việc gây quỹ trái phép trong tổng giáo phận. Họ tin vào sự trưởng thành và tinh thần trách nhiệm của mọi người. Họ không thể gởi người đi kiểm soát mọi nơi như cảnh sát rình rập kẻ phạm lỗi. Chúng ta phải giúp đỡ Tổng Giáo Phận qua việc từ chối giúp tay những ai lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để lợi lộc riêng tư. Giáo Xứ La Vang và Lộ Đức đã tẩy chay 2 vợ chồng ông Tửu. Chẳng lẽ GS SEAS lại không làm được một điều gì lợi ích cho Tổng Giáo Phận.
Riêng đối với linh mục Hóa, ngoài việc linh mục đến đây để giúp đỡ giáo dân VN ở Houston, linh mục còn có trọng trách phát triển nhà dòng của linh mục. Những lợi ích có tính cách tài chính cần phải được bảo vệ để nhà dòng có cợ hợi phát triển về mục vụ hay đào tạo ơn gọi. Ở Houston có Gia Đình Đồng Công. Họ luôn rộng rãi và giúp đỡ nhà dòng của linh mục. Nhưng sự rộng rãi đó cũng có giới hạn. Nếu họ cứ bị lôi kéo vào việc giúp đỡ hội ILazarô của ông Tửu, thì họ làm sao mà giúp đỡ cho nhà dòng của linh mục được? Đây là những điều rất cụ thể. Nguồn mạch sống cho nhà dòng tại sao lại cho người khác hưởng? Tôi còn nhớ lúc tôi báo cáo lên cho Tổng Giáo Phận về số tiền 500,000 đô của quỹ ILazaro, người của Tổng Giáo Phận hỏi tôi câu đầu tiên là số tiền này có ảnh hưởng đến Quỹ Thấp Sáng Niềm Tin của Giáo Xứ SEAS không? Đấy, người Mỹ là những người sống trong văn hóa Tư Bản. Hễ đụng chạm đến “nồi cơm” của họ là họ ra tay ngay. Ngay cả những vụ kiện tụng trong Giáo Hội về sự hành hung tình dục của linh mục đối với trẻ em. Mấy chục năm trước, các linh mục cứ phạm tội và vẫn thoát. Từ khi người ta thưa đến tài sản của các địa phận, lúc ấy các ĐGM mới có phương pháp ngăn ngừa. Tôi nói ít, nhưng linh mục Hóa hiểu nhiều. Chúc linh mục thành công trong mục vụ ở Giáo Xứ SEAS.
Nguyễn Hưng An
Tôi xin chúc mừng linh mục Đinh Tiến Hóa đến với Cộng Đoàn SEAS. Hy vọng ơn Chúa và sự nhiệt tâm của Cộng Đoàn sẽ giúp linh mục vượt qua những thử thách mà những tiền vị đã để lại.
Tôi có một vấn đề muốn được đưa ra và tìm cách giải quyết. Đó là trường hợp của phó tế Hoàng Hoa Tửu. Mọi người trong Cộng Đoàn đều biết những hoạt động liên quan đến tài chính riêng tư của hai vợ chồng ông qua chương trình quyên góp cho hội ILazarô, một chương tình mà 2 vợ chồng luôn gọi là thiện nguyện, nhưng không hề có sự chấp thuận của Tổng Giáo Phận Galveston / Houston. Thông cáo của Đức Giám Mục George Sheltz về những vụ quyên tiền trái phép này đã phổ biến cho tất cả tín hữu Việt Nam đã hơn 5 năm, từ vụ linh mục hồi tục Trịnh Tuấn Hoàng cứ tìm cách gian dối lên đài Radio Saigòn / Houston 900 AM để cổ động quyên góp ở nhà hàng Kim Sơn, Houston, TX. Tôi còn nhớ ông Hoàng Hoa Tửu trong buổi thu hình đó có xác nhận là ông (cùng với linh mục Trịnh Tuấn Hoàng) có giấy phép cấp bởi ĐHY DiNardo cho phép gây quỹ cho chương trình Bác Ái Phanxicô trong Tổng Giáo Phận Houston. Vì sự gian dối công khai này mà Tổng Giáo Phận đã gởi thư khiếu nại đến Bề Trên Giám Tỉnh của lm Trịnh Tuấn Hoàng qua chương trình Bác Ái Phanxicô. Kết quả là lm Trịnh Tuấn Hoàng phải rời khỏi tổ chức Bác Ai Phanxicô, và sau đó xin hồi tục vì không thể vâng lời Bề Trên Giám Tỉnh của Dòng. Sau đó ông ta cứ tiếp tục mở một hội bác ái khác, cũng cùng một mục đích quyên tiền trái phép, dưới danh nghĩa giúp người nghèo tại Việt Nam.
Riêng ông Hoàng Hoa Từu, sau khi tách ra khỏi hội Bác Ái Phanxicô, đã cùng với vợ là Nguyễn Kim Phượng mở một hội mới lấy tên Ilazarô, cũng đi giống con đường mà nhóm Trịnh Tuấn Hoàng đã làm trái phép khi cứ tiếp tục quyên góp tiền bạc ở khắp nơi trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Khi bị chất vấn là tại sao 2 vợ chồng cứ xin tiền không có giấy phép của Tổng Giáo Phận thì họ trả lời: Họ tổ chức xin tiền ở trong nhà hàng Kim Sơn, không phải trong nhà thờ cho nên không một ĐGM của bất cứ giáo phận nào có quyền ngăn cấm họ. Họ nói như vậy thôi chứ tuần qua, bà Phượng đã lén lút yêu cầu giáo dân ở ngay tại nhà thờ SEAS mua vé ủng hộ chương trình ILazarô của bà. Chương trình quyên tiền sẽ xuất hiện công khai ở nhà hàng Kim Sơn vào ngày 08 tháng 9 sấp tới này.
Tôi đã nhiều lần lên tiếng khuyến cáo hai vợ chồng này, nhưng họ cứ công khai bất chấp lời kháng cáo của tôi. Tôi thiết nghĩ ĐHY hay ĐGM của địa phận mà họ chẳng sợ, huống gì là tôi. Nhưng tại sao họ lại không sợ một ai hết? Tại sao họ cứ tiếp tục dối trá với những hành động của họ? Phải chăng họ chưa gặp một biện pháp chế tài nào thích nghi với sự sai trái của họ? Qua sự suy nghĩ này, tôi muốn đặt vấn đề với linh mục Hóa. Linh mục có nên cho phép phó tế Tửu tiếp tục phụ giúp linh mục trong những thánh lễ VN nữa không, khi sự hiện diện của ông ta là một dấu chỉ của sự xung khắc cho Giáo Hội và cho cộng đoàn dân Chúa ở SEAS? Một phó tế sau khi đọc Phúc Âm xong thì xướng “Đó là Lời Chúa.” Ý nghĩa câu xướng đó là, “Tôi tin đây là Lời Chúa, là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống.” Thế nhưng sau đó phó tế Tửu này lại xuất hiện nhiều lần ở một đài TV ở Houston để giảng thuyết triết lý Phật Giáo cho những tín đồ Phật Giáo để du dỗ họ đóng góp tiền cho hội thiện nguyện của ông. Những việc ông làm đều là xung khắc với đức tin Công Giáo cùng với ba lời hứa với ĐHY ngày ông nằm phục trước bàn thờ để xin lãnh nhận chức Phó Tế: “Hãy tin những gì ông đọc. Hãy giảng dạy những gì ông tin. Hãy thực hành những gì ông giảng dạy.” (Believe what you read. Teach what you believe. Practice what you teach.). Vậy việc ông dẫn giải triết lý của Phật Giáo trên đài TV Hải Lê ở Houston, ông chứng minh ông không hoàn toàn tin vào Lời Chúa. Ông đã không giảng dạy những gì ông tin. Và ông đã không thực hành những gì ông đã giảng dạy.
Trong những email trước tôi đã không công bố tài sản của quỹ Ilazarô của hai vợ chông ông Tửu cho cộng đoàn biết. Hôm nay tôi xin công bố tài sản này để cho linh mục Hóa và cộng đoàn rõ hơn về những hoạt động của 2 vợ chồng. Hãy xem link đính kèm:
https://www.taxexemptworld.com/organization.asp?tn=2357505.
Linh mục Hóa và cộng đoàn hãy bấm vào link ở trên thì thấy tài sản của hội ILazarô cho đến tháng 6, 2019, là 500,000 đô la. Số tiền này không phải là nhỏ. Đó là kết quả của bao nhiêu dối trá, bao nhiêu sự xin tiền không xin phép Đức Giám Mục Chưởng Ấn của bất cứ địa phận nào mà họ đến quyên góp. Tuần qua, như tôi đã nói ở trên, bà Phượng vợ ông Tửu đã lén lút bán vé gây quỹ cho hội ILazarô của 2 vợ chồng ngay trong khuôn viên của giáo xứ SEAS. Trước đó, họ luôn luôn chối và luôn luôn biện bạch là họ quyên tiền ở trong tiệm ăn Kim Sơn, cho nên ĐGM không có quyền ngăm cấm những hoạt động của họ. Nếu biện bạch như thế thì họ sẽ trả lời sao khi các linh mục vào nhà thương để xức dầu, trao Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân vì nhà thương đâu phải là nhà thờ? Quyền hành của ĐHY hay ĐGM, theo ý 2 vợ chồng này bị giới hạn bởi một tòa nhà, gọi là nhà thờ, thì làm sao mà ĐHY hay ĐGM có quyền gởi linh mục vào nhà thương? Nếu biện bạch của 2 vợ chồng là đúng thì tại sao giáo dân lại có thể mời linh mục đến làm phép nhà? Làm lễ tư gia? Nhà riêng của giáo dân đâu phải là nhà thờ. Nếu quyền hành của ĐGM ra khỏi nhà thờ là hết. Vậy linh mục đại diện ĐGM đến nhà riêng của giáo dân để làm phép hay làm lễ thì làm sao mà thiêng? Lối biện bạch của nhóm ILazarô trở nên giống nhóm biệt phái trong phúc âm. Họ nghĩ ô uế là uống từ chén dơ, không rửa tay trước khi ăn. Trong khi đó, Chúa Giêsu nói sự ô uế đến từ tư tưởng, từ sự gian dối trong hành động.
Ở chương cuối của Phúc Âm của Thánh Sử Matthew, Chúa Giêsu trước khi về trời có ra lệnh cho các Tông Đồ, “Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân và làm phép rửa cho họ… Này đây Thầy sẽ ở cùng với các con mọi ngày cho đến tận thế.” (Matthew 28:19-20). Phải chăng lệnh truyền trên của Chúa Giêsu là các Tông Đồ phải rao giảng và làm phép rửa trong nhà thờ? Nhưng từ lúc Chúa Giêsu chết vào năm 30 và kéo dài thêm hơn 300 năm nữa, cho đến thế kỷ thứ 4, thì giáo hội Công Giáo làm gì có nhà thờ. Đạo Công Giáo chỉ trở thành Quốc Giáo khi hoàng đế Constantine của Đế Quốc Roma trở lại đạo và chịu phép rửa ở năm 337. Vậy tôi hỏi ông Tửu, nếu ông nói quyền hành của ĐGM không thể cấm ông khi ông hoạt động trái phép trong tiệm ăn, vậy thì trong hơn 300 năm đầu tiên của Giáo Hội, quyền hành của các Giám Mục bị giới hạn ở đâu khi Giáo hội không có nhà thờ vào lúc ấy? Khi ông đến nhà thờ, người ta gọi ông là phó tế. Lúc ông ra khỏi nhà thờ và vào tiệm ăn thì người ta gọi ông là gì? Khi ông ăn cơm ở nhà hay ở ngoài tiệm, ông làm dấu thánh giá. Vậy dấu thánh giá đó mang ý nghĩa gì khi ông gỉải thích quyền bính của Giáo Hội chỉ có giới hạn ở nhà thờ, chứ không ở nhà riêng hay ở tiệm ăn?
Tôi đoán linh mục Hóa sẽ cảm thấy khó khăn khi đòi hòi sự minh bạch về hoạt động và mục vụ của phó tế Tửu. Nhưng linh mục Hóa có thể dùng những kinh nghiệm cá nhân để hiểu rõ những ảnh hưởng tai hại cho một tập thể, một cộng đồng, khi một vài cá nhân cứ tiếp tục sự gian dối, công khai và không hổ thẹn trong những hoạt động của họ. Thí dụ, Linh mục Hóa có thể dùng những kinh nghiệm cá nhân về một người anh em nào đó trong dòng của linh mục. Người anh em nào đó đã không vâng phục Bề Trên, luôn tìm cách lén lút đi xin tiền, xin ơn huệ, xin nhiều nơi, cho riêng cá nhân của người anh em đó, gây sự bực bội, căng thẳng cho tất cả mọi anh em trong dòng. Tôi không ám chỉ ai hết. Tôi biết chẳng có dòng tu nào hoàn toàn hết, cho nên chỉ muốn đưa ra một thí dụ tương đương để linh mục cảm nhận được sự bực bội của giáo dân ở gx SEAS khi họ cảm thấy bị lợi dụng của một cá nhân, hay một gia đình. Những cá nhân này qua thời gian, cứ gây ảnh hưởng, lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để làm chuyện riêng, tạo ra một cái mà giáo dân hay gọi là “gia đình trị.” Họ dùng tiền quyên góp trái phép để mua chuộc các linh mục để các linh mục ái ngại khi cảnh tỉnh hay sửa sai họ. Họ thích mời các linh mục đến nhà hàng, tặng những chai rượu mắc tiền cho những linh mục thích uống rượu để những người này không thể sửa sai họ.
Cách đây đã hơn 10 năm, có một vụ đánh nhau ở Giáo Xứ Lộ Đức mà nó có liên can đến bà Nguyễn Kim Phượng, vợ ông phó tế Tửu. Nghe nói bà Phượng đánh một đứa bé nào đó tên là Huy ở ngay trong 1 lớp giáo lý Việt Ngữ. Thế là thân nhân của em bé đó nhảy vào đánh bà Phượng. 10 năm trước, vụ đánh nhau này được xem là chuyện giữa 2 gia đình của đứa bé và bà Phượng. Ngày hôm nay, với những vụ kiện tụng các linh mục lạm dụng tình dục với trẻ em, vụ đánh nhau đó là việc giữa 2 gia đình, đồng thời cũng là việc của Tiểu Bang Texas và bà Phượng. Theo lời của Luật Sư Frank Rynd, Tổng Tư Vấn của Tổng Giáo Phận Galveston / Houston, trong buổi thuyết trình về những lạm dụng tình dục của các linh mục vào tháng 3 (ngày mà ĐHY bị tai biến mạch máu não), thì gia đình của em bé tên Huy, hay bất cứ ai biết được chuyện này, có thể trình báo lên cảnh sát hay Child Protective Service (CPS) của tiểu bang Texas ngày hôm nay. Luật sư Frank Rynd giải thích là việc kiện cáo có thể tiếp tục từ lúc em bé bị đánh cho đến khi đạt đến tuổi vị thành niên và cộng thêm 15 năm sau đó. Ai ở Giáo Xứ Lộ Đức hay La Vang, hay GX SEAS có tin tức gì về em bé Huy đó hãy cho tôi để tôi báo cáo cho CPS của Texas. Từ việc đánh một em bé như thế mà tại sao bà Phượng lại được có những mục vụ trong giáo xứ như cắt cử những thừa tác viên trong thánh lễ VN? Tính cách “gia đình trị” này cứ tiếp tục gây sự khó chịu cho giáo dân đi xem lễ VN.
Tháng Giêng vừa qua, có một sự tranh cãi giữa vài gia đình VN trong gx. Tôi và vài người viết email bằng tiếng Việt để bày tỏ lập trường của mình. Tự dưng, ông Bình, con rể ông Tửu nhảy vào tranh luận. Nhưng ông Bình không viết được tiếng Việt. Ông ta biện bạch bằng tiếng Mỹ. Hỏi ra thì mới biết ông ta đang dạy giáo lý Thêm Sức Việt Ngữ cho các em VN trong gx. Việc này gây thắc mắc là nếu ông Bình không viết được tiếng Việt thì làm sao ông dạy Giáo Lý Thêm Sức Việt Ngữ cho các em VN? Đó, ảnh hưởng của “gia đình trị” thì không có biên giới. Họ cài người vào mọi hoạt động trong gx để mua chuộc, kiểm soát, gây thanh thế, cố vấn sai lạc để gx không thể nào phát triển được. Tại sao? Vì một khi gx phát triển, giáo dân có trách nhiệm không thể để bất cứ ai lợi dụng danh nghĩa Giáo Hội, hay Giáo Xứ để mưu lợi ích riêng. Đó cũng là lý do mà tại sao ông Tửu không thể nào bênh vực cho các ông VN khi họ tìm gặp cha chính xứ Reynolds để xin sửa sai linh mục Vi khi linh mục Vi còn ở đây. Hễ giáo xứ càng loạn thì càng có lợi cho những bè phái, cho những ai có tâm địa bất chính. VN có câu tục ngữ “thừa nước đục thả câu.”
Tiện đây tôi muốn yêu cầu sự hợp tác của giáo dân VN ở GX SEAS. Tổng Giáo phận chỉ làm hết những gì mà họ có thể làm được. Họ đã gởi thư thông báo cấm những việc gây quỹ trái phép trong tổng giáo phận. Họ tin vào sự trưởng thành và tinh thần trách nhiệm của mọi người. Họ không thể gởi người đi kiểm soát mọi nơi như cảnh sát rình rập kẻ phạm lỗi. Chúng ta phải giúp đỡ Tổng Giáo Phận qua việc từ chối giúp tay những ai lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để lợi lộc riêng tư. Giáo Xứ La Vang và Lộ Đức đã tẩy chay 2 vợ chồng ông Tửu. Chẳng lẽ GS SEAS lại không làm được một điều gì lợi ích cho Tổng Giáo Phận.
Riêng đối với linh mục Hóa, ngoài việc linh mục đến đây để giúp đỡ giáo dân VN ở Houston, linh mục còn có trọng trách phát triển nhà dòng của linh mục. Những lợi ích có tính cách tài chính cần phải được bảo vệ để nhà dòng có cợ hợi phát triển về mục vụ hay đào tạo ơn gọi. Ở Houston có Gia Đình Đồng Công. Họ luôn rộng rãi và giúp đỡ nhà dòng của linh mục. Nhưng sự rộng rãi đó cũng có giới hạn. Nếu họ cứ bị lôi kéo vào việc giúp đỡ hội ILazarô của ông Tửu, thì họ làm sao mà giúp đỡ cho nhà dòng của linh mục được? Đây là những điều rất cụ thể. Nguồn mạch sống cho nhà dòng tại sao lại cho người khác hưởng? Tôi còn nhớ lúc tôi báo cáo lên cho Tổng Giáo Phận về số tiền 500,000 đô của quỹ ILazaro, người của Tổng Giáo Phận hỏi tôi câu đầu tiên là số tiền này có ảnh hưởng đến Quỹ Thấp Sáng Niềm Tin của Giáo Xứ SEAS không? Đấy, người Mỹ là những người sống trong văn hóa Tư Bản. Hễ đụng chạm đến “nồi cơm” của họ là họ ra tay ngay. Ngay cả những vụ kiện tụng trong Giáo Hội về sự hành hung tình dục của linh mục đối với trẻ em. Mấy chục năm trước, các linh mục cứ phạm tội và vẫn thoát. Từ khi người ta thưa đến tài sản của các địa phận, lúc ấy các ĐGM mới có phương pháp ngăn ngừa. Tôi nói ít, nhưng linh mục Hóa hiểu nhiều. Chúc linh mục thành công trong mục vụ ở Giáo Xứ SEAS.
Nguyễn Hưng An
Sự Sai Lầm Khi Hủy Bỏ Hội Đồng Giáo Xứ
Tôi viết bài này sau một thời gian quan sát những lộn xộn xảy ra ở Giáo Xứ Saint Elizabeth Ann Seton (SEAS) sau khi linh mục Vi giải tán Hội Đồng Phục Vu, (HĐPV). Lý do ông đưa ra là danh xưng của HĐPV có vẻ kiêu ngạo. Trước khi vào bài, tôi muốn xác định rõ, Hội Đồng Mục Vụ (HĐMV), hay Hội Đồng GX, hay HĐPV chỉ là một. Trong Bộ Giáo Luật sửa đổi năm 1983, danh xưng của HĐGX không còn được nhắm đến nữa. Thay vào đó, Bộ Giáo Luật 1983 chỉ dùng danh xưng HGMV để nói về những yếu tố và quyền hạn của HĐMV. Những yếu tố căn bản để thành hình một HĐMV là Investigae (Điều tra, xác định), Ponder (Suy ngẫm, bàn thảo), Make decision (Thực hành, quyết định, sửa đổi). Theo GL 511 và 536, dựa vào những quyết định cải cách của Công Đồng Vatican II, HĐMV là một thực thể, một tổ chức, một hội đồng, có tính cách tư vấn cho linh mục, giám mục, hay cho Đức Giáo Hoàng. Như thế có thể đưa ra 4 cấp của HĐMV: cấp thấp nhất là cấp của gx. Kế đó là cấp địa phận. Cao hơn là cấp quốc gia (Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ). Sau cùng là cấp Giáo Hội Hoàn Vũ. Chính Đức Thánh Cha Benêdicto 16 đã ví Công Đồng Vatican II như là một HĐMV vì Công Đồng Vatican II đã nhóm họp dựa trên 3 tiêu chuẩn: điều tra, suy ngẫm, sửa đổi để tư vấn cho Đức Thánh Cha. Đức Thánh Cha là người quyết định những thay đổi, cải cách, sau khi các GM hoàn vũ, trong trách nhiệm tư vấn, đã đệ trình lên ĐGH những thay đổi cần thiết, thích hợp với thế giới hiện đại.
Trở lại vấn đề xóa bỏ HĐPV do quyết định của linh mục Vi, ông viết trong email tháng 6, 2018:
Danh xưng Ban Phục Vụ
Để nhắc nhở cho nhau về tinh thần khiêm tốn của những người dấn thân phục vụ CĐ theo gương Chúa Giêsu "Ai muốn làm lớn nhất hãy là người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Cha QN đã bàn thảo với BPV đổi danh xưng Hội Đồng PV trước đây thành Ban Phục Vụ, (không gọi chủ tịch hay phó chủ tịch, mà chỉ đơn giản là trưởng ban và phó ban). Kể Từ Tháng Tư/2018 chúng ta đã gọi là Ban Phục Vụ (cả trên Bản Tin cũng đã thay đổi), xin Thầy và tất cả mọi người lưu ý khi dùng email hoặc phát biểu trong nhà thờ, chúng ta cùng thống nhất dùng một tên gọi là Ban Phục Vụ, không dùng danh xưng nào khác, để tránh gây ra hiểu lầm và thắc mắc trong CĐ.
Nếu giải thích như linh mục Vi là không cần HĐPV cùng chức chủ tịch hay phó chủ tịch vì những danh xưng này không phản ảnh tinh thần khiêm nhượng, vậy những danh xưng như “Đức Thánh Cha,” “Thánh Bộ Tín lý,” “Thánh Bộ Truyền Giáo,” ngay cả danh xưng “Cha Quản Nhiệm’ thì linh mục trả lời sao? Đức Thánh Cha là con người. ĐTC chưa chết mà đã gọi là thánh thì linh mục Vi giải thích ra sao? Còn linh muc Vi, với những xáo trộn ông gây ra, đựoc gọi bằng “cha” ông có cảm thấy áy náy không? Ông lại ký tên là “Cha QN” nữa. Tại sao ông lại nhận một danh xưng như thế, mà lại phủ nhận một danh xưng của HĐGX, một danh xưng đâu phải do một vài cộng đoàn đặt tên. Danh xưng HĐGX hay HĐMV là một danh xưng cho một hoạt động mà nó đã có từ ngàn xưa, từ thời Cựu Ước đến Tân Ước Mãi cho đến Công Đồng Vatican II thì hoạt động này đạt được danh xưng, và danh xưng này được công nhận chính thức khi 3 khía cạnh của HĐMV, Điều Tra, Suy Ngẫm, Thực Hành được xác nhận và công bố. Nếu cả 3 yếu tô trên được áp dụng vào bất cứ một cuộc họp nào, lớn hay nhỏ, cuộc họp đó đều mang tính chất là Hội Đồng Mục Vụ, hay Hội Đồng GX. Ngay cả những cuộc họp của các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành như Đoàn Liên Minh Thánh Tâm, Hội Các Bà Mẹ, Dòng Ba Đa Minh cũng đều mang tính chất của một HĐMV, qua 3 yếu tối căn bản, công thêm yếu tố Hợp Nhất trong cùng một Giáo Hội.
Vậy khi linh mục Vi tự quyết định, không hỏi ý kiến ai, xóa bỏ cơ cấu của Hội Đồng Phục Vụ (hạy HĐMV) và thay thế vào đó một ban gọi là Ban Phục Vụ, những gì đã xảy ra? Từ tháng 6, 2018 trở đi, giáo dân VN đã chứng kiến sự hỗn loạn khi không ai biết chính xác trách nhiệm và quyền hạn của ban Phục Vụ là ở chỗ nào. Họ giẫm chân lên nhau, “phục vụ” trong tất cả những việc mà nó không thuộc trách nhiệm hay lãnh vực của họ. Thí dụ, người trong BPV nhảy vào điều hành Đoàn Liên Minh Thánh Tâm, một đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, với tôn chỉ và quy luật riêng biệt, không liên quan đến HĐGX hay BPV. Rồi BPV xen chân vào ca đoàn, xen chân vào những buổi tổ chức lễ Giáng Sinh hay Tết Nguyên Đán. Ngoài ra lại còn có việc một Thư Ký “xin thay mặt cha Quản Nhiệm,” viết thư thông cáo cho cộng đoàn giáo dân. Xưa nay chưa từng có một thư ký “xin thay mặt cha quản nhiệm’ để viết văn thư, công bố những việc trong gx. Tôn chỉ hoạt động của HĐMV không hề cho phép “thư ký” được thay mặt ai để tuyên bố một điều gì. Lý do: Tất cả mọi thành viên của HĐMV đều ở tư thế tư vấn. Họ đại diện cho giáo dân, chứ không hề đại diện cho linh mục. Việc “thư ký” xin đại diện cho linh mục là việc hoàn toàn trái ngược.
Công Đồng Chung Vatican II và Bộ Giáo Luật 1983 có xác định HĐMV là một tổ chức có trách nhiệm Tư Vấn cho linh mục, giám mục. Tư vấn có nghĩa là giáo dân được đề cử trong gx, quan sát, đại diện cho toàn thể giáo dân (ở cấp gx), hay linh mục tư vấn cho giám mục (ở cấp địa phận), tường trình lên linh mục để linh mục quyết định sửa đổi, làm cho thiện hảo hơn những trục trặc, sai lầm trong gx. Nay HĐMV bị giải tán, giáo dân không có người đại diện. Giáo dân ngại ngùng không muốn nói chuyện trực tiếp với linh mục. Người của BPV được để cử thay thế HĐMV, nhưng lại không rõ trách nhiệm và giới hạn của mỗi người. Thế là ai muốn làm gì thì làm. Họ nhận lệnh từ linh mục. Họ có tư vấn linh mục, nhưng tư vấn của họ không dựa vào những đề nghị của giáo dân. Trái lại, những tư vấn của họ là những tư vấn mang lợi lộc cá nhân cho chính họ. Cùng lúc đó linh mục lại không có truyền thông với giáo dân. Thế là sự hỗn loạn được khai sanh trong gx.
Tôi cho một thí dụ nhỏ về sự hỗn loạn. BPV theo chỉ thị của linh muc Vi xin quyên góp tiền mua hoa cho kiệu Đức Mẹ. Tiền quyên góp là 700 đồng. Nhưng khi xử dụng thì chỉ xử dụng 200, còn dư 500. Linh mục quyết định bỏ 500 vào tiền chung của gx. Quyết định này không có tư vấn của HĐMV. Tuy nó chỉ là 500 đồng dư, nhưng nó là tiền quyên góp cho một việc riêng biệt (xin tiền mua hoa) và người đóng là đóng cho một việc mua hoa. Linh mục không được tự ý thay đổi quyết định. Nếu không dùng hết tiền thì phải để dành cho lần dâng hoa tới. Nếu không dùng nữa thì phải trả lại cho giáo dân. Khi linh mục tự ý quyết định , không có tư vấn của ai, thì giáo dân sẽ phản ứng. Lần tới quyên góp, họ sẽ không đóng nữa. Hoặc chỉ đóng tối thiểu để không có chuyện tiền dư chạy vào mục khác. Thêm vào đó là sự mâu thuẫn về tinh thần khiêm nhượng, về cách hành xử của linh mục quản nhiệm. Một linh mục tự ý quyết định, bất chấp mục đích xin tiền lúc ban đầu, không cần tư vấn của ai, thì việc làm đó có còn tính chất khiêm nhượng mà linh mục Vi đã đưa ra không?
Lại nữa phúc âm có nói, tội khởi nguồn từ trong tư tưởng, không khởi nguồn từ bên ngoài. Danh xưng, do đó, không thể tạo ra tội: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ô uế.” (Mark 7:15) “Anh em không hiểu rằng bất cứ cái gì vào miệng thì xuống bụng và bị thải ra ngoài sao? Còn những cái từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế Ví tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian, và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế…” (Matthew 15:17-20)
Việc hỗn loạn về đường lối hoạt động xảy ra từ linh mục, người dẫn đầu. Vì không thông hiểu Giáo Luật, lại không có sự hiểu biết về truyền thống, cũng như không có một kinh nghiệm hướng dẫn một giáo xứ lớn, linh mục Vi đã đưa ra những nhận định thật ngây ngô. Ông nói rằng danh xưng của BPV nghe khiêm nhượng hơn, cho nên ông chọn cái danh xưng này để đặt cho cái ban mà ông có thể điều hành (hay sai khiến.) Dĩ nhiên cuộc đời không thể đơn giản như thế. Không ai thích bị người này người kia sai khiến. Họ chịu được sai khiến để họ cũng có một món lợi khác. Họ tìm cách soán ngôi, thích xuất hiện trước đám đông, tâng bốc linh mục để dùng giáo xứ vào việc buôn bán thức ăn, hay khoe tài ta đây biết nói chuyện, biết xã giao.
Sau đây tôi xin được trình bày nguồn gốc và khái niệm của Hội Đồng Mục Vụ, một xuất xứ không phải chỉ từ Công Đồng Chung Vatican II, mà nó xuất xứ từ thời giáo hội sơ khai, khoảng năm 50, tức là khoảng 20 năm sau khi Chúa chết và lên trời. Hãy đọc Lá Thư Thứ Nhất của Thánh Phao Lô gởi cho Tín Hữu Corintô, chương 17, câu 18-24. Lá thư này được thẩm định là viết vào năm 50, tức là xuất hiện 20 năm trước bản phúc âm đầu tiên của Thánh sử Marcô (ca 70).
18 “Trước hết, tôi nghe rằng khi anh em có sự nhóm họp Hội thánh, thì sanh ra sự phân rẽ; tôi cũng hơi tin điều đó.19 Vì chắc trong vòng anh em phải có bè đảng, hầu cho được nhận biết trong anh em những kẻ nào thật là trung thành.20 Vậy, khi anh em nhóm nhau lại một chỗ, ấy chẳng còn phải là Tiệc thánh của Chúa mà anh em ăn;21 bởi vì lúc ngồi ăn, ai cũng nôn nả mà ăn bữa riêng mình, đến nỗi người nọ chịu đói, còn kẻ kia thì quá độ.22 Anh em há chẳng có nhà để ăn uống sao? Hay là anh em khinh bỉ Hội thánh của Đức Chúa Trời, muốn làm cho những kẻ không có gì phải hổ thẹn? Tôi nên nói chi với anh em? Có nên khen anh em không? Trong việc nầy tôi chẳng khen đâu.23 Vả, tôi có nhận nơi Chúa điều tôi đã dạy cho anh em: ấy là Đức Chúa Jêsus, trong đêm Ngài bị nộp, lấy bánh,24 tạ ơn, rồi bẻ ra mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, vì các ngươi mà phó cho; hãy làm điều nầy để nhớ ta.25 Cũng một lẽ ấy, sai khi ăn bữa tối rồi, Ngài lấy chén và phán rằng: Chén nầy là sự giao ước mới trong huyết ta; hễ khi nào các ngươi uống, hãy làm điều nầy để nhớ ta.26 Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến.27 Bởi đó, ai ăn bánh hoặc uống chén của Chúa cách không xứng đáng, thì sẽ mắc tội với thân và huyết của Chúa.”
Đoạn văn trên cho thấy HĐMV đã thành hình qua một biến cố, một hỗn loạn xảy ra ở một cộng đoàn tiên khởi. Đoạn 18 cho thấy Thánh Phao Lô có nhận được báo cáo và điều tra. Đoạn hai từ câu 19-22, là đoạn thánh Phao Lô phân tích, suy ngẫm nguồn gốc sự hỗn loạn. Đoạn 23 trở đi Thánh Phao Lô sửa sai, trình bày mầu nhiệm Bí Tích Thánh Thể, để dạy dỗ, cùng cảnh giác những ai lợi dụng thánh lễ để mưu lợi riêng.
Tôi cũng muốn trích một đoạn của Tông Đồ Công Vụ, viết bởi Thánh Luca, chưong 20-22, nhưng vì đoạn này khá dài, chỉ xin tóm tắt. Thánh Phao Lô nhận được tin là Cộng Đoàn Giêrusalem là một cộng đồng nghèo, cần sự giúp đỗ về tài chính. Riêng cá nhân của Thánh Phao Lô thì ông không muốn gặp thánh Phêrô và Giacôbê, Giám Mục Giêrusalem, vì những chạm trán giữa 3 tông đồ (xin đọc lá thư gởi Tín Hữu Galát). Nhưng vì lý tưởng hợp nhất trong cùng một Giáo Hôi, cho nên Thánh Phao Lô phải đi quyên tiền và tự tay mang đến Giêrusalem để trao cho Thánh Giacôbê. Vậy có 4 yếu tố trong việc này. Thứ nhất, yếu tố điều tra: Thánh Phao Lô nhận được tin là Cộng Đoàn Giêrusalem bị thiếu hụt, cần sự giúp đỡ. Yếu tô thứ hai, suy ngẫm tìm phương cách giúp. Thứ 3, yếu tố thực hành, cải tổ: Thánh PhaoLô quyên góp và tự tay ông mang đến Cộng Đoàn Giêrulem. Tuy nhiên, mọi người đều biết chuyến đi Giêrusalem vô cùng nguy hiểm. Nhưng vì yếu tố Hiệp Nhất, yếu tố thứ bồn, trong cùng một Giáo Hội, thánh Phaolô quyết định đi. Ngày ông gặp các các kỳ mục của Cộng Đoàn Ê Phê Sô để chia tay đi Giêrusalem, họ đều ôm ông và khóc vì họ đoán là họ sẽ không bao giờ găp thánh Phao Lô nữa. Quả đúng như sư thẩm định, Thánh Phao Lô vừa đến Giêrusalem vài ngày thì ông bị bắt và sau đó ông bị điệu về Roma để chết tử đạo.
Tôi ghi ra yếu tố Hiệp Nhất ở trên để muốn nói lên tầm mức vô cùng quan trọng của yếu tố này. Nó là nền tảng của cơ cấu của hội đồng mục vụ vì nó nối các HĐMV của tất cả các cộng đoàn hoàn vũ với nhau. Thánh Phao Lô có thể không bị chết nếu ông tránh không đến Giêrusalem, nhưng vì sự hiệp nhất mà phải đến Giêrusalem để chịu bị bắt và bị giết. Trong Kinh Tin Kính chúng ta đọc hàng tuần có 4 đặc tính: Tôi tin có một Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiên, Công Giáo, và Tông Truyền. Về quyết định của Linh mục Vi hủy bỏ HĐPV, tôi thấy quyết định trở nên tai hại khi làm mất đi sự hiệp nhất. Trong toàn thể Giáo Hội, giáo xứ nào cũng có HĐMV, chỉ có Giáo Xứ SEAS thì không có. Vậy thì câu “Một Hội Thánh Duy Nhất” trở nên không đúng vì GX SEAS không giống một giáo xứ nào khác. Sự hiện diện của HĐMV cũng nói lên tính chất Tông Truyền, qua câu truyện xảy ra ở cộng đoàn Côrintô vào năm 50. Chỉ có Gx SEAS là lựa chọn không muốn có HĐMV, tức là không có tỏ chức tông truyền. Nếu không có hợp nhất, không có tông truyền thì làm sao mà được gọi là Công Giáo.
Chỉ còn vài tuần nữa là linh mục Vi sẽ đi nơi khác. Tôi không muốn bới tội ông lên để mắng. Ông muốn dùng những gì tôi viết để học hỏi, để sửa đổi thì dùng. Không dùng cũng không sao. Mục đích tôi viết là cho Linh Mục Hóa. Nếu linh mục Hóa cũng bất cần những gì tôi viết thì cứ thế mà gieo rắc rối. Tôi chẳng đi đâu hết. Tôi cứ nhận xét mà viết thôi.
Bài viết còn muốn bàn về Giáo Luật 511 và 536, tức là Giáo Luật bảo vệ sự hoạt động của HĐMV, nhưng vì giới hạn của bài, tôi xin tạm ngưng ở đây. Tôi chỉ muốn liệt kê những tài liệu đã được tham khảo để nói lên tầm mức quan trọng của một tổ chức đựơc gọi là Hội Đồng Mục Vụ, hay là Hội Đồng Giáo Xứ, hay là Hội Đồng Phục Vụ. Các tên tuy khác nhau, nhưng mang cùng một tính chất, giúp đỡ guồng máy của Giáo Hội, khuyến khích sự Hiệp Nhất, cảnh cáo những mưu toan lợi dụng cá nhân, duy trì lợi ích chung của cộng đoàn và Giáo hội.
Canon 511, Bộ Luật Sửa Đổi 1983
Canon 536, c.1, c.2
Vatican Council II: Origin of Pastoral Council
Bốn Văn Kiên Tham Khảo: Paul VI, "Ecclesiae Sanctae I," no. 16;
The 1971 ‘Synod of Bishops' "The Ministerial Priesthood," art 2, II, section 3;
The 1973 "Directory on the Pastoral Ministry of Bishops," no. 204
The 1973 "Circular Letter on 'Pastoral Councils'" by the Sacred Congregation for the Clergy, no 9).
Nguyễn Hưng An
Tôi viết bài này sau một thời gian quan sát những lộn xộn xảy ra ở Giáo Xứ Saint Elizabeth Ann Seton (SEAS) sau khi linh mục Vi giải tán Hội Đồng Phục Vu, (HĐPV). Lý do ông đưa ra là danh xưng của HĐPV có vẻ kiêu ngạo. Trước khi vào bài, tôi muốn xác định rõ, Hội Đồng Mục Vụ (HĐMV), hay Hội Đồng GX, hay HĐPV chỉ là một. Trong Bộ Giáo Luật sửa đổi năm 1983, danh xưng của HĐGX không còn được nhắm đến nữa. Thay vào đó, Bộ Giáo Luật 1983 chỉ dùng danh xưng HGMV để nói về những yếu tố và quyền hạn của HĐMV. Những yếu tố căn bản để thành hình một HĐMV là Investigae (Điều tra, xác định), Ponder (Suy ngẫm, bàn thảo), Make decision (Thực hành, quyết định, sửa đổi). Theo GL 511 và 536, dựa vào những quyết định cải cách của Công Đồng Vatican II, HĐMV là một thực thể, một tổ chức, một hội đồng, có tính cách tư vấn cho linh mục, giám mục, hay cho Đức Giáo Hoàng. Như thế có thể đưa ra 4 cấp của HĐMV: cấp thấp nhất là cấp của gx. Kế đó là cấp địa phận. Cao hơn là cấp quốc gia (Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ). Sau cùng là cấp Giáo Hội Hoàn Vũ. Chính Đức Thánh Cha Benêdicto 16 đã ví Công Đồng Vatican II như là một HĐMV vì Công Đồng Vatican II đã nhóm họp dựa trên 3 tiêu chuẩn: điều tra, suy ngẫm, sửa đổi để tư vấn cho Đức Thánh Cha. Đức Thánh Cha là người quyết định những thay đổi, cải cách, sau khi các GM hoàn vũ, trong trách nhiệm tư vấn, đã đệ trình lên ĐGH những thay đổi cần thiết, thích hợp với thế giới hiện đại.
Trở lại vấn đề xóa bỏ HĐPV do quyết định của linh mục Vi, ông viết trong email tháng 6, 2018:
Danh xưng Ban Phục Vụ
Để nhắc nhở cho nhau về tinh thần khiêm tốn của những người dấn thân phục vụ CĐ theo gương Chúa Giêsu "Ai muốn làm lớn nhất hãy là người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Cha QN đã bàn thảo với BPV đổi danh xưng Hội Đồng PV trước đây thành Ban Phục Vụ, (không gọi chủ tịch hay phó chủ tịch, mà chỉ đơn giản là trưởng ban và phó ban). Kể Từ Tháng Tư/2018 chúng ta đã gọi là Ban Phục Vụ (cả trên Bản Tin cũng đã thay đổi), xin Thầy và tất cả mọi người lưu ý khi dùng email hoặc phát biểu trong nhà thờ, chúng ta cùng thống nhất dùng một tên gọi là Ban Phục Vụ, không dùng danh xưng nào khác, để tránh gây ra hiểu lầm và thắc mắc trong CĐ.
Nếu giải thích như linh mục Vi là không cần HĐPV cùng chức chủ tịch hay phó chủ tịch vì những danh xưng này không phản ảnh tinh thần khiêm nhượng, vậy những danh xưng như “Đức Thánh Cha,” “Thánh Bộ Tín lý,” “Thánh Bộ Truyền Giáo,” ngay cả danh xưng “Cha Quản Nhiệm’ thì linh mục trả lời sao? Đức Thánh Cha là con người. ĐTC chưa chết mà đã gọi là thánh thì linh mục Vi giải thích ra sao? Còn linh muc Vi, với những xáo trộn ông gây ra, đựoc gọi bằng “cha” ông có cảm thấy áy náy không? Ông lại ký tên là “Cha QN” nữa. Tại sao ông lại nhận một danh xưng như thế, mà lại phủ nhận một danh xưng của HĐGX, một danh xưng đâu phải do một vài cộng đoàn đặt tên. Danh xưng HĐGX hay HĐMV là một danh xưng cho một hoạt động mà nó đã có từ ngàn xưa, từ thời Cựu Ước đến Tân Ước Mãi cho đến Công Đồng Vatican II thì hoạt động này đạt được danh xưng, và danh xưng này được công nhận chính thức khi 3 khía cạnh của HĐMV, Điều Tra, Suy Ngẫm, Thực Hành được xác nhận và công bố. Nếu cả 3 yếu tô trên được áp dụng vào bất cứ một cuộc họp nào, lớn hay nhỏ, cuộc họp đó đều mang tính chất là Hội Đồng Mục Vụ, hay Hội Đồng GX. Ngay cả những cuộc họp của các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành như Đoàn Liên Minh Thánh Tâm, Hội Các Bà Mẹ, Dòng Ba Đa Minh cũng đều mang tính chất của một HĐMV, qua 3 yếu tối căn bản, công thêm yếu tố Hợp Nhất trong cùng một Giáo Hội.
Vậy khi linh mục Vi tự quyết định, không hỏi ý kiến ai, xóa bỏ cơ cấu của Hội Đồng Phục Vụ (hạy HĐMV) và thay thế vào đó một ban gọi là Ban Phục Vụ, những gì đã xảy ra? Từ tháng 6, 2018 trở đi, giáo dân VN đã chứng kiến sự hỗn loạn khi không ai biết chính xác trách nhiệm và quyền hạn của ban Phục Vụ là ở chỗ nào. Họ giẫm chân lên nhau, “phục vụ” trong tất cả những việc mà nó không thuộc trách nhiệm hay lãnh vực của họ. Thí dụ, người trong BPV nhảy vào điều hành Đoàn Liên Minh Thánh Tâm, một đoàn thể Công Giáo Tiến Hành, với tôn chỉ và quy luật riêng biệt, không liên quan đến HĐGX hay BPV. Rồi BPV xen chân vào ca đoàn, xen chân vào những buổi tổ chức lễ Giáng Sinh hay Tết Nguyên Đán. Ngoài ra lại còn có việc một Thư Ký “xin thay mặt cha Quản Nhiệm,” viết thư thông cáo cho cộng đoàn giáo dân. Xưa nay chưa từng có một thư ký “xin thay mặt cha quản nhiệm’ để viết văn thư, công bố những việc trong gx. Tôn chỉ hoạt động của HĐMV không hề cho phép “thư ký” được thay mặt ai để tuyên bố một điều gì. Lý do: Tất cả mọi thành viên của HĐMV đều ở tư thế tư vấn. Họ đại diện cho giáo dân, chứ không hề đại diện cho linh mục. Việc “thư ký” xin đại diện cho linh mục là việc hoàn toàn trái ngược.
Công Đồng Chung Vatican II và Bộ Giáo Luật 1983 có xác định HĐMV là một tổ chức có trách nhiệm Tư Vấn cho linh mục, giám mục. Tư vấn có nghĩa là giáo dân được đề cử trong gx, quan sát, đại diện cho toàn thể giáo dân (ở cấp gx), hay linh mục tư vấn cho giám mục (ở cấp địa phận), tường trình lên linh mục để linh mục quyết định sửa đổi, làm cho thiện hảo hơn những trục trặc, sai lầm trong gx. Nay HĐMV bị giải tán, giáo dân không có người đại diện. Giáo dân ngại ngùng không muốn nói chuyện trực tiếp với linh mục. Người của BPV được để cử thay thế HĐMV, nhưng lại không rõ trách nhiệm và giới hạn của mỗi người. Thế là ai muốn làm gì thì làm. Họ nhận lệnh từ linh mục. Họ có tư vấn linh mục, nhưng tư vấn của họ không dựa vào những đề nghị của giáo dân. Trái lại, những tư vấn của họ là những tư vấn mang lợi lộc cá nhân cho chính họ. Cùng lúc đó linh mục lại không có truyền thông với giáo dân. Thế là sự hỗn loạn được khai sanh trong gx.
Tôi cho một thí dụ nhỏ về sự hỗn loạn. BPV theo chỉ thị của linh muc Vi xin quyên góp tiền mua hoa cho kiệu Đức Mẹ. Tiền quyên góp là 700 đồng. Nhưng khi xử dụng thì chỉ xử dụng 200, còn dư 500. Linh mục quyết định bỏ 500 vào tiền chung của gx. Quyết định này không có tư vấn của HĐMV. Tuy nó chỉ là 500 đồng dư, nhưng nó là tiền quyên góp cho một việc riêng biệt (xin tiền mua hoa) và người đóng là đóng cho một việc mua hoa. Linh mục không được tự ý thay đổi quyết định. Nếu không dùng hết tiền thì phải để dành cho lần dâng hoa tới. Nếu không dùng nữa thì phải trả lại cho giáo dân. Khi linh mục tự ý quyết định , không có tư vấn của ai, thì giáo dân sẽ phản ứng. Lần tới quyên góp, họ sẽ không đóng nữa. Hoặc chỉ đóng tối thiểu để không có chuyện tiền dư chạy vào mục khác. Thêm vào đó là sự mâu thuẫn về tinh thần khiêm nhượng, về cách hành xử của linh mục quản nhiệm. Một linh mục tự ý quyết định, bất chấp mục đích xin tiền lúc ban đầu, không cần tư vấn của ai, thì việc làm đó có còn tính chất khiêm nhượng mà linh mục Vi đã đưa ra không?
Lại nữa phúc âm có nói, tội khởi nguồn từ trong tư tưởng, không khởi nguồn từ bên ngoài. Danh xưng, do đó, không thể tạo ra tội: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ô uế.” (Mark 7:15) “Anh em không hiểu rằng bất cứ cái gì vào miệng thì xuống bụng và bị thải ra ngoài sao? Còn những cái từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế Ví tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian, và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế…” (Matthew 15:17-20)
Việc hỗn loạn về đường lối hoạt động xảy ra từ linh mục, người dẫn đầu. Vì không thông hiểu Giáo Luật, lại không có sự hiểu biết về truyền thống, cũng như không có một kinh nghiệm hướng dẫn một giáo xứ lớn, linh mục Vi đã đưa ra những nhận định thật ngây ngô. Ông nói rằng danh xưng của BPV nghe khiêm nhượng hơn, cho nên ông chọn cái danh xưng này để đặt cho cái ban mà ông có thể điều hành (hay sai khiến.) Dĩ nhiên cuộc đời không thể đơn giản như thế. Không ai thích bị người này người kia sai khiến. Họ chịu được sai khiến để họ cũng có một món lợi khác. Họ tìm cách soán ngôi, thích xuất hiện trước đám đông, tâng bốc linh mục để dùng giáo xứ vào việc buôn bán thức ăn, hay khoe tài ta đây biết nói chuyện, biết xã giao.
Sau đây tôi xin được trình bày nguồn gốc và khái niệm của Hội Đồng Mục Vụ, một xuất xứ không phải chỉ từ Công Đồng Chung Vatican II, mà nó xuất xứ từ thời giáo hội sơ khai, khoảng năm 50, tức là khoảng 20 năm sau khi Chúa chết và lên trời. Hãy đọc Lá Thư Thứ Nhất của Thánh Phao Lô gởi cho Tín Hữu Corintô, chương 17, câu 18-24. Lá thư này được thẩm định là viết vào năm 50, tức là xuất hiện 20 năm trước bản phúc âm đầu tiên của Thánh sử Marcô (ca 70).
18 “Trước hết, tôi nghe rằng khi anh em có sự nhóm họp Hội thánh, thì sanh ra sự phân rẽ; tôi cũng hơi tin điều đó.19 Vì chắc trong vòng anh em phải có bè đảng, hầu cho được nhận biết trong anh em những kẻ nào thật là trung thành.20 Vậy, khi anh em nhóm nhau lại một chỗ, ấy chẳng còn phải là Tiệc thánh của Chúa mà anh em ăn;21 bởi vì lúc ngồi ăn, ai cũng nôn nả mà ăn bữa riêng mình, đến nỗi người nọ chịu đói, còn kẻ kia thì quá độ.22 Anh em há chẳng có nhà để ăn uống sao? Hay là anh em khinh bỉ Hội thánh của Đức Chúa Trời, muốn làm cho những kẻ không có gì phải hổ thẹn? Tôi nên nói chi với anh em? Có nên khen anh em không? Trong việc nầy tôi chẳng khen đâu.23 Vả, tôi có nhận nơi Chúa điều tôi đã dạy cho anh em: ấy là Đức Chúa Jêsus, trong đêm Ngài bị nộp, lấy bánh,24 tạ ơn, rồi bẻ ra mà phán rằng: Nầy là thân thể ta, vì các ngươi mà phó cho; hãy làm điều nầy để nhớ ta.25 Cũng một lẽ ấy, sai khi ăn bữa tối rồi, Ngài lấy chén và phán rằng: Chén nầy là sự giao ước mới trong huyết ta; hễ khi nào các ngươi uống, hãy làm điều nầy để nhớ ta.26 Ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến.27 Bởi đó, ai ăn bánh hoặc uống chén của Chúa cách không xứng đáng, thì sẽ mắc tội với thân và huyết của Chúa.”
Đoạn văn trên cho thấy HĐMV đã thành hình qua một biến cố, một hỗn loạn xảy ra ở một cộng đoàn tiên khởi. Đoạn 18 cho thấy Thánh Phao Lô có nhận được báo cáo và điều tra. Đoạn hai từ câu 19-22, là đoạn thánh Phao Lô phân tích, suy ngẫm nguồn gốc sự hỗn loạn. Đoạn 23 trở đi Thánh Phao Lô sửa sai, trình bày mầu nhiệm Bí Tích Thánh Thể, để dạy dỗ, cùng cảnh giác những ai lợi dụng thánh lễ để mưu lợi riêng.
Tôi cũng muốn trích một đoạn của Tông Đồ Công Vụ, viết bởi Thánh Luca, chưong 20-22, nhưng vì đoạn này khá dài, chỉ xin tóm tắt. Thánh Phao Lô nhận được tin là Cộng Đoàn Giêrusalem là một cộng đồng nghèo, cần sự giúp đỗ về tài chính. Riêng cá nhân của Thánh Phao Lô thì ông không muốn gặp thánh Phêrô và Giacôbê, Giám Mục Giêrusalem, vì những chạm trán giữa 3 tông đồ (xin đọc lá thư gởi Tín Hữu Galát). Nhưng vì lý tưởng hợp nhất trong cùng một Giáo Hôi, cho nên Thánh Phao Lô phải đi quyên tiền và tự tay mang đến Giêrusalem để trao cho Thánh Giacôbê. Vậy có 4 yếu tố trong việc này. Thứ nhất, yếu tố điều tra: Thánh Phao Lô nhận được tin là Cộng Đoàn Giêrusalem bị thiếu hụt, cần sự giúp đỡ. Yếu tô thứ hai, suy ngẫm tìm phương cách giúp. Thứ 3, yếu tố thực hành, cải tổ: Thánh PhaoLô quyên góp và tự tay ông mang đến Cộng Đoàn Giêrulem. Tuy nhiên, mọi người đều biết chuyến đi Giêrusalem vô cùng nguy hiểm. Nhưng vì yếu tố Hiệp Nhất, yếu tố thứ bồn, trong cùng một Giáo Hội, thánh Phaolô quyết định đi. Ngày ông gặp các các kỳ mục của Cộng Đoàn Ê Phê Sô để chia tay đi Giêrusalem, họ đều ôm ông và khóc vì họ đoán là họ sẽ không bao giờ găp thánh Phao Lô nữa. Quả đúng như sư thẩm định, Thánh Phao Lô vừa đến Giêrusalem vài ngày thì ông bị bắt và sau đó ông bị điệu về Roma để chết tử đạo.
Tôi ghi ra yếu tố Hiệp Nhất ở trên để muốn nói lên tầm mức vô cùng quan trọng của yếu tố này. Nó là nền tảng của cơ cấu của hội đồng mục vụ vì nó nối các HĐMV của tất cả các cộng đoàn hoàn vũ với nhau. Thánh Phao Lô có thể không bị chết nếu ông tránh không đến Giêrusalem, nhưng vì sự hiệp nhất mà phải đến Giêrusalem để chịu bị bắt và bị giết. Trong Kinh Tin Kính chúng ta đọc hàng tuần có 4 đặc tính: Tôi tin có một Hội Thánh Duy Nhất, Thánh Thiên, Công Giáo, và Tông Truyền. Về quyết định của Linh mục Vi hủy bỏ HĐPV, tôi thấy quyết định trở nên tai hại khi làm mất đi sự hiệp nhất. Trong toàn thể Giáo Hội, giáo xứ nào cũng có HĐMV, chỉ có Giáo Xứ SEAS thì không có. Vậy thì câu “Một Hội Thánh Duy Nhất” trở nên không đúng vì GX SEAS không giống một giáo xứ nào khác. Sự hiện diện của HĐMV cũng nói lên tính chất Tông Truyền, qua câu truyện xảy ra ở cộng đoàn Côrintô vào năm 50. Chỉ có Gx SEAS là lựa chọn không muốn có HĐMV, tức là không có tỏ chức tông truyền. Nếu không có hợp nhất, không có tông truyền thì làm sao mà được gọi là Công Giáo.
Chỉ còn vài tuần nữa là linh mục Vi sẽ đi nơi khác. Tôi không muốn bới tội ông lên để mắng. Ông muốn dùng những gì tôi viết để học hỏi, để sửa đổi thì dùng. Không dùng cũng không sao. Mục đích tôi viết là cho Linh Mục Hóa. Nếu linh mục Hóa cũng bất cần những gì tôi viết thì cứ thế mà gieo rắc rối. Tôi chẳng đi đâu hết. Tôi cứ nhận xét mà viết thôi.
Bài viết còn muốn bàn về Giáo Luật 511 và 536, tức là Giáo Luật bảo vệ sự hoạt động của HĐMV, nhưng vì giới hạn của bài, tôi xin tạm ngưng ở đây. Tôi chỉ muốn liệt kê những tài liệu đã được tham khảo để nói lên tầm mức quan trọng của một tổ chức đựơc gọi là Hội Đồng Mục Vụ, hay là Hội Đồng Giáo Xứ, hay là Hội Đồng Phục Vụ. Các tên tuy khác nhau, nhưng mang cùng một tính chất, giúp đỡ guồng máy của Giáo Hội, khuyến khích sự Hiệp Nhất, cảnh cáo những mưu toan lợi dụng cá nhân, duy trì lợi ích chung của cộng đoàn và Giáo hội.
Canon 511, Bộ Luật Sửa Đổi 1983
Canon 536, c.1, c.2
Vatican Council II: Origin of Pastoral Council
Bốn Văn Kiên Tham Khảo: Paul VI, "Ecclesiae Sanctae I," no. 16;
The 1971 ‘Synod of Bishops' "The Ministerial Priesthood," art 2, II, section 3;
The 1973 "Directory on the Pastoral Ministry of Bishops," no. 204
The 1973 "Circular Letter on 'Pastoral Councils'" by the Sacred Congregation for the Clergy, no 9).
Nguyễn Hưng An
Sớ Táo Quân Cộng Đoàn SEAS Năm Con Heo 2019
Mấy tuần qua tôi đã giữ sự thinh lặng để quan sát những diễn biến và phản ứng của cộng đoàn VN thuộc GX SEAS. Mọi người đều biết tôi đã gởi ra ba cái email để chỉnh đốn những lạm quyền và hành động phương hại đến đức tin do linh mục q/n Vi Trần và ông phó tế Hoàng Hoa Tửu gây ra. Email cuối cùng của tôi gởi trước Giáng Sinh 2018, khuyến cáo việc sai lầm khi linh mục q/n và nhóm cố vấn gia nô của ông quyết định chọn hội trường làm lễ GS trong cùng thời gian khi nhà thờ chính được bỏ trống. Lý do các ông này đưa ra là vì tiền bạc, công sức đã bỏ ra nhiều quá để làm hang đá GS, trang trí hội trường, trải thảm đỏ, xây bục đứng cho ca đoàn,...vì công sức và chi tiêu quá nhiều cho nên bỏ đi rất uổng. Họ không hiểu nơi dược hiến thánh (nhà thờ) mang ý nghĩa quan trọng như thế nào. Họ cũng không hiểu dấu chỉ Hợp Nhất của Bàn Thờ (trong nhà thờ chính) phản ảnh tâm tình của Chúa Kitô là gì. Họ không hiểu tại sao Luật Phụng Vụ đòi hỏi Bàn Thờ phải cố định, không được dời đi dời lại sau khi làm lễ như ở trong hội trường. Tôi đã đưa ra vài Giáo Luật và Luật Phụng Vụ từ Sách Phụng vụ Rôma để cảnh giác việc họ làm là sai lạc đến đức tin cho giáo dân. Điều đáng buồn là tại sao lại phải giải thích cho linh mục Vi về một việc rất rõ ràng như thế. Linh mục Vi phải hiểu là ông ta không có sự lựa chọn nào hết ngoài việc chọn nhà thờ thay vì hội trường để làm lễ. Đức tin và những giải thích từ Kinh Thánh không cho phép ông chọn hội trường làm lễ và bỏ nhà thờ trống. Tại sao việc chọn lựa làm lễ giữa hội trường và nhà thờ lại liên quan đến Đức Tin? Nếu tôi nói Bàn Thờ (trong nhà thờ) Chính Là Đức Kitô thì linh mục Vi sẽ phải trả lời cho tôi hay cho giáo dân như thế nào? Linh mục chọn Đức Kitô hay hội trường? Tôi xin lập lại. Tôi không có nói Bàn Thờ Tượng Trưng cho Chúa Kitô. Nếu tôi nói Bàn Thờ Chính Là Đức Kitô thì linh mục sẽ trả lời như thế nào qua việc ông chọn hội trường để làm lễ? Sau đây tôi xin giải thích câu nói ‘Chúa Kitô Chính Là Bàn Thờ,” hay “Bàn Thờ Chính là Đức Kitô” để xem sau khi giải thích, linh mục có nhìn ra quyết định sai lầm và tai hại của ông về việc về việc cử hành thánh lễ trong nhà hội hay không?
Câu nói Chúa Kitô Chính Là Bàn Thờ đến từ Kinh Tiền Tụng số #5, Mùa Phục Sinh. Kinh Tiền Tụng này ghi:
“Khi thực sự hiến tế trên Thập Giá, Người đã kiện toàn các nghi lễ xưa, và khi dâng mình cho Cha để cứu độ chúng con, Người đã trở thành linh mục, thành của lễ, và Bàn Thờ.”
Câu trên đến từ tiếng Latin, “sacredo, altare et agnus” (priest, altar, and lamb).. Ai cũng biết Chúa Kitô là linh mục và là chiên. Vậy tại sao Chúa Kitô lại là bàn thờ? Câu này cần phải giải thích. Thánh Ambrose, Giám Mục của Milan, và là Cha linh hướng của Thánh Augustinô, có nói trong luận án De Sacramentis, “the altar is the type of the body of Christ” (Book IV, 7) (tạm dịch: bàn thờ là dấu chỉ (type) của thân thể Chúa Kitô.”
Theo truyền thống, bàn thờ phải xây bằng đá và không di chuyển, mặc dù Giáo Hội đã cho phép nhiều nơi làm bàn thờ bằng gỗ (GIRM 301). Nhưng tại sao lại bằng đá? Thánh Phaolô có nói về Chúa Kitô là “tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô.” (1 Cor. 10:4)
Bây giờ hãy suy ngẫm những gì xảy ra trên bàn thờ. Bàn thờ là nơi để tế lễ, là nơi để dâng hiến lễ vật lên Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã tự hiến tế thân xác Người trên “Bàn thờ thánh giá” (altar of the cross). Bàn thờ liên quan đến sự khổ nạn của Chúa Giêsu, và tượng trưng cho thánh giá. Vậy linh mục cúi chào bàn thờ là tượng trưng cho “Chúa Giêsu nằm phủ phục trong vườn Cây Dầu, khi Ngài bắt đầu cuộc khổ nạn.” Doway, Catechism 125, xem Matthew 26:39).
Chúa Giêsu nói, “Các ông cứ phá hủy đến thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói, “Đền Thờ này phải mất 46 năm mới xây xong; thế mà ông nói nội trong 3 ngày ông sẽ xây lại dược sao? Nhưng Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài.” ( Jn 2:19-21). Đoạn này phải hiểu Chúa Giêsu nói Đền Thờ (và bàn thờ trong đền thờ) là chính Người.
Để rõ nghĩa câu trích từ John 2:19-21, hãy đọc thêm Matthew 23;17-21: “Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh. Cái nào trọng hơn?...Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh? Cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề là chỉ Đền Thờ và Đấng đang ngự trị ở đó mà thề.” (Mt 23:17-21)
Đoạn văn trên xác nhận Chúa Giêsu muốn nói. Ngài là “lễ vật” được tiến dâng trên bàn thờ. Ngài nhấn mạnh bàn thờ làm cho lễ vật nên thánh. Không ai muốn tiến dâng lễ vật ở bàn thờ mà bàn thờ đó không thánh thiện bằng lễ vật. Bởi thế bàn thờ và lễ vật chính là Chúa Giêsu, vì Người Thánh Hóa cả hai lễ vật và bàn thờ.
Linh mục Maurice de la Taille, SJ, trong sách The Mysterry of Faith, giải thích thêm, “Những ai ao ước dâng hiến lễ vật lên Thiên Chúa phải hiến dâng qua bàn thờ. Nhưng Chúa Kitô, Lễ Vật của ơn Cứu Độ, đến với Thiên Chúa Cha qua chính Con Người của Người (through Himself). Vậy Người cũng là bàn thờ của chính của lễ tế của Người.. Vậy Người là bàn thờ của mỗi lần chúng ta dâng lễ tế, vì chúng ta không thể nào đến gần Thiên Chúa được nếu không qua chính Chúa Kitô. (The Mystery of Faith, Chapter 5, Section 2, 1915)
Tư tưởng trên đã được giải thích rõ trong thư 1 của Phêrô: “...Hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng nhũng lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ (qua, through) Đức Giêsu Kitô. (1 Peter 2:5)
Ngoài những ý nghĩa bàn thờ là chính Đức Kitô và Đức Kitô chính là Bàn Thờ, bản kinh nguyện của phụng vụ cũ còn có giải thích lý do hôn bàn thờ khi linh mục bắt đầu làm lễ. Khi linh mục tiến đến Bàn Thờ, linh mục đó có đọc lời nguyện xin Thiên Chúa tha thứ những tội lỗi mà linh mục đã phạm để linh mục đó tiến vào nơi Cực Thánh (Holy of the Holies) với tâm hồn thanh sạch. Lời cầu nguyện xin thứ tha tội lỗi “nhờ vào công đức của các thánh” mà xương của các ngài (relics) còn để trên mảnh đá xây kín (inlaid) trên bàn thờ (GIRM # 302). Tập tục này giúp linh mục và tín hữu nhớ lại thời gian bị bách hại ở những thế kỷ ban đầu. Dân chúng phải làm lễ trên những mộ của các thánh tử đạo. Khi linh mục hôn kính bàn thờ, nơi có xương thánh để trên, linh mục đó xác nhận sự hợp nhất với các thánh, những người đã ra đi trước trong đức tin.
Tất cả những điều tôi trình bày trên đây giải thích rõ sự khác biệt về ý nghĩa và sự thánh thiện, thánh hiến, giữa bàn thờ cố định trong nhà thờ và bàn thờ xếp chân, di chuyển vào góc ở hội trường. Rất tiếc, linh mục Vi và ông cố vấn lạc đạo Hoàng Hoa Tửu đã không tin, không hiểu, không biết, và không lắng nghe. Hai ông lãnh đạo này trao đổi sự ngu dốt với nhau rồi chọn hội trường làm lễ.
Chưa hết đâu. Đã bàn về sự ngu dốt của các ông thì bàn cho hết. Trong 3 ngày Tam Nhật Thánh năm ngoái (và năm nay nữa), vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Giáo Hội suy niệm cách riêng về việc Chúa chết trên thập giá lúc 3:00 giờ trưa (giờ thứ 9, MK 15:25). Giáo Hội có nghi thức Tôn Vinh Thánh Giá vào lúc 3:00 trưa. Thánh giá được tôn vinh là thánh giá gỗ, không có hình tượng (corpus) Chúa vì Chúa đã chết và xác đã được mang vào mồ. Nhà Tạm không có để Mình Thánh Chúa từ đêm hôm Thứ Năm trước đó. Vậy linh mục Vi, sau khi Tôn Vinh Thánh Giá xong, linh mục lại bắt giáo dân gẫm 14 chặng đàng thánh giá vào lúc 7 giờ chiều cùng ngày. Đây là sự ngu xuẩn ngược ngạo của linh mục Vi, vì Tôn Vinh Thánh Giá có nghĩa là Chúa Đẵ Chết. Còn ngẫm 14 chặng đàng thánh giá là ngẫm khi Chúa Còn Sống. Nếu Chúa đã chết lúc 3:00 trưa, thì làm sao Chúa lại còn sống lúc 7:00 chiều cùng ngày. Thêm vào đó, theo Phụng Vu, 4 giờ chiều của bất cứ ngày nào thì xem như là đã sang ngày kế tiếp theo truyền thống đạo Do Thái. Như thế 7 giờ chiều thứ Sáu thì xem như là đã qua ngày thứ Bảy là Ngày Chúa Phục Sinh. Chúa đã chết hồi lúc trưa ngày thứ Sáu. Cửa nhà tạm để mở, ý nói là mồ trống, Chúa đã sống lại. Thế mà linh mục Vi lại bắt giáo dân gẫm 14 chặng đàng thánh giá lúc 7:00 giờ chiều để suy niệm việc Chúa bị khổ nạn, tức là lôi xác Chúa ra khỏi mồ rồi bắt vác thánh giá một lần nữa trước khi cho chết lần hai. Ôi một cộng đoàn đức tin được dẫn dắt bởi một người ngu si về đức tin. Nhiều lúc tôi ngẫm nghĩ ai là người có trách nhiệm cho ông chịu chức linh mục? Đại Chủng Viện Notre Dame ở New Orleans hay là nhà dòng của ông? Sao ông ngu đến mức đó mà không ai nhận ra? Bây giờ giáo dân phải trả giá cho sự việc họ không có làm.
Còn ông HHT nữa. Mỗi chiều thứ Năm (lễ Mỹ) và 2 chiều thứ Sáu, thứ Bảy (lễ Việt), sau thánh lễ ông ta lại bắt dân quỳ chầu Thánh Thể nữa, đọc kinh suốt 45 phút không nghỉ. Trong sách GLCG, Chương Công Chính Hóa (Justification) có ghi :”Máu Cứu Chuộc của Chúa đổ ra là đầy đủ rồi. Không ai có thể làm thêm điều gì để cộng vào ơn cứu chuộc, để làm cho ơn cứu chuộc hoàn hảo hơn.” Vây mà ông HHT cứ bắt giáo dân phải rên rỉ thêm 45 phút nữa vì rước lễ đón Chúa vào lòng vẫn chưa đủ. Phải đọc thêm kinh 45 phút nữa vì sợ ơn cứu chuộc Chúa ban qua thánh lễ ngay trước đó vẫn chưa hoàn hảo. Cộng đoàn SEAS thật là vô phúc khi có ông về phụ giúp.
Sau đây tôi muốn bàn thêm một khía cạnh thần học căn bản về Bí Tích Thánh Thể mà nó liên quan đến việc linh mục tự ý trái phép cho các em giúp lễ tìm người uống Máu Thánh còn dư trong chén (của linh mục và của các TTV Thánh Thể). Từ khía cạnh thần học căn bản này, Giáo Hội đã đưa ra những luật Phụng Vụ khác để bảo đảm sự hiểu biết của các tín hữu, kể cả các linh mục là những người cử hành thánh lễ.
Linh mục Vi Nguyễn viết:
Thứ đến tiện đây Cha nhắc chung cho mọi người hiểu về việc uống Máu Thánh dư, để tránh những suy nghĩ không đúng. Trường hợp Máu Thánh dư, chỉ khuyến khích TTV uống giúp mà thôi, nếu không thể uống được thì không ép, không có luật nào bắt buộc các TTV phải uống hết máu Thánh còn dư, TTV Thánh Thể là thi hành nhiệm vụ cao quý, cần lòng đạo đức và tư cách gương mẫu chứ không phải vì người đó uống được Máu Thánh dư.
Nên dặn các em giúp lễ, có thể để Máu Thánh lại phía sau cung Thánh, (sau lễ xin người uống, hoặc không ai uống, thì chúng ta được phép đổ xuống "bồn Thánh" phía sau cung Thánh, không bắt các em giúp lễ phải uống).
Ký Tên, Cha QN
The Dogma of the Church (Tín Điều của Giáo Hội)
“The Eucharistic presence of Christ begins at the moment of the consecration and endures as long as the Eucharistic species subsist. Christ is present whole and entire in each of the species and whole and entire in each of their parts, in such a way that the breaking of the bread does not divide Christ.” (CCC 1377; cf. Council of Trent, Session XIII, Canon III)
From this doctrine, we know that our Savior is present, whole and entire (body, blood, soul, and divinity), in the whole Host. Further, we know that the whole Christ is present in each part of the Host. Hence, it is clear that the whole Christ is real and truly and substantially present in even a small particle of a Host or in a small drop of the Precious Blood.
Tạm dịch: “Sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể của Chúa Kitô khởi đầu trong phần thánh hiến (xin đọc ghi chú ở dưới đoạn văn này) và tiếp tục khi các mảnh vun (bánh và rượu) tự tồn tại (subsist). Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn và đầy đủ trong mỗi bánh và rượu và trọn vẹn và đầy đủ trong những phần đã bẻ, để sự bẻ bánh (hay phân rượu) không làm cho (thân thể) Chúa Kitô bị tách lìa.” (Giáo lý Công Giáo 1377; đọc Công Đồng Trent, Khóa Họp XIII, Tín Điều III.). Vậy, sự việc rất rõ ràng: Chúa Kitô hiện diện thật sự và hiện diện trọn vẹn trong bản chất ngay cả trong 1 mẫu bánh vụn (bẻ ra) từ bánh lễ nguyên và trong 1 giọt nhỏ từ Máu Thánh.
Ghi chú (Phần Thánh Hiến gồm có 8 phần nhỏ trong phần Phụng Vụ Thánh Thể: 1 Phần Tạ Ơn trong Kinh Tiền Tụng, 2. Phần Chúc Tụng trong Kinh Thánh Thánh Thánh, 3. Epiclesis, Lời khấn nguyện nài xin Chúa Thánh Thần thánh hóa lễ vật. 4. Đọc Lời Truyền, 5. Phần Anamnesis, Tưởng nhớ sự khổ nạn, chết và sống lại của Chúa Kitô, qua Tông Truyền. 6. Lễ tế vẹn toàn, tiến dâng qua Giáo Hội đang hiện diện, sự hiến dâng của chính Giáo Hội, nhờ lời cầu bầu của Chúa Kitô để trở nên hiệp nhất. 7. Lời nguyện cho kẻ sống và kẻ chết. 8. Tuyên xưng đức tin với xác tín trong câu xướng AMEN.
Tôi viết ghi chú để giúp linh mục Vi và tất cả những ai không hiểu rõ về toàn bộ Phần Phụng Vụ Thánh Thể.hiểu biết thêm. Có hiểu biết thì mới tạo được lòng mến Bí Tích Thánh Thể. Có lòng mến thì mới có sốt sắng, có trang nghiêm khi cử hành Phụng Vụ. Bì Tích Thánh Thể gắn liền với Bàn Thờ. Khi Bàn Thờ chỉ là một cái bàn xếp như cái bàn trong hội trường. Sau lễ thì gập lại đưa vào góc (để cầu thủ sân rộng chơi bóng rỗ) thì tự dưng Bí Tích Thánh Thể bị mất ý nghĩa và bị hiểu sai lạc. Thay vì Bàn Thờ thánh hiến của lễ. Nay Của Lễ thánh hiến bàn thờ (xếp, di động). Bởi vì sự thiếu hiểu biết trên, linh mục Vi và nhóm quân sư của ông chú trọng vào tiền, vào chi phí, công sức, thảm, bục....Dân Do Thái ngày xưa hãnh diện về vàng lát trong đền thờ mà không hề quan tâm đến sự hiện diện của Bàn Thờ trong Đền Thờ. Tôi trích lại đoạn phúc âm của Matthew mà tôi đã ghi ở phần trên để trả lời cho linh mục Vi và nhóm quân sư của ông.
“Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh. Cái nào trọng hơn?...Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh? Cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề là chỉ Đền Thờ và Đấng đang ngự trị ở đó mà thề.” (Mt 23:17-21)
Cộng đoàn VN thuộc GX SEAS còn phải trải qua những sự chán chường và thất vọng khi mà linh mục Vi còn làm quản nhiệm ở đây. Không phải chỉ có linh mục Vi là người gây ra những chán chường này. Bao quanh ông là nhóm người háo danh, lợi dụng nước đục thả câu, mưu lợi cá nhân. Họ có cái danh xưng là Ban Phục Vụ, nhưng họ chỉ phục vụ linh mục Vi và cá nhân họ. Anh chị em có biết một GX nào ở trên toàn thế giới có phó tế vừa giảng về Chúa Kitô trong nhà thờ, vừa giảng Triết Phật ở đài truyền hình không? Đức tin hỗn loạn như thế mà họ lại ở chức vụ hướng dẫn anh chị em hay giúp đỡ các linh mục. Anh chị em có biết GX nào trên thế giới có Ban Phục Vụ thay đổi biên bản buổi họp sau khi dồng ý ký tên, chỉ vì bà thư ký thông đồng với linh mục không đồng ý với biên bản buổi họp không? Khi anh chị em có vấn đề cần linh hướng, cố vấn, anh chị em tìm ai trong GX để giúp? Linh mục Vi hả? Hay ông HHT? Khi con cái của anh chị em bị khủng hoảng đức tin, bỏ nhà thờ, bỏ đọc kinh, lấy người không có đạo, anh chị em tìm ai cố vấn hay lắng nghe tâm sự của anh chị em? Khi con cái ngỗ nghịch, không vâng lời, anh chị em có đi tìm ông HHT để ông ta giúp đỡ không? Ông ta và cả vợ nữa đã không vâng lời ĐGM từ năm 2015. Ông ta không biết vâng lời là gì thì làm sao mà khuyên người khác vâng lời. Khi hôn nhân của anh chị em bị trắc trở, anh chị em tìm ai để cố vấn? Ông Tửu không vâng lời địa phận, rồi lại kéo vợ vào sự phạm lỗi này. Vậy hôn nhân của 2 người “có thành” không? Sao mà chuyện sa ngã của ông Adong và bà Eva trong Cựu Ước giống chuyện này quá. Một người ăn quả cấm phạm tội chưa đủ rồi còn lôi theo người bạn đời của mình ăn trái cấm để cùng phạm tội chung.
Trong vài ngày nữa (January 31, 2019), Tổng Giáo Phận sẽ loan báo tên các linh mục, phó tế, tu sĩ (có thể có nữ tu), những ai trong chức vụ quyền hành, đã hãm hại tình dục các trẻ em trong suốt hơn 50 năm qua. Những tội ác đó khởi sự từ việc làm dụng quyền hành, với hệ thống bưng bít, che đậy, hăm dọa, sa thải, đuổi việc, hối lộ, mua chuộc quyền lợi cá nhân...Những người như ông Thế Vũ hay như mấy ông VN bị linh mục Reynolds duổi ra khỏi phòng họp, hay như tôi lên tiếng tố cáo, thì bị gán tên là phá hoại, không bình thường, mất trí, không đóng tiền cho GX thì không được phàn nàn, phản đối. Anh chị em có biết là ông HHT đã cười khinh bỉ khi mấy ông VN bị linh mục Reynolds đuổi ra khỏi phòng họp không? Anh chị em cứ hỏi mấy ông VN bị đuổi ra khỏi phòng họp về thái độ của ông HHT ngày hôm ấy thì chính họ sẽ kể cho anh chị em nghe. Đây không phải là chuyên bàn hay nghe người khác kể. Hãy hỏi những người trực tiếp liên hệ với sự việc. Họ chứng kiến như thế nào thì họ sẽ kể đúng như vậy cho anh chị em nghe. Một người có tư cách và liêm sỉ như ông HHT nay tuyên bố gây quỹ giúp người nghèo ở Capuchia thì anh chị em có tin không? Những người bạn cùng đi lễ chung với ông ta mà còn bị ông ta bán đứng thì nói gì mấy người nghèo ở Campuchia. Tiền đóng góp cho hội iLarazô có bao giờ được thông báo cho anh chị em biết không? Chỉ có mấy ngàn đồng bạc đóng góp vào lễ Giáng Sinh vừa qua, mà người ta quá tiếc đến độ phải chọn tiền, bỏ bàn thờ, thì bây giờ cả trăm ngàn đô thu vào thì anh chị em có chắc là người ta sẽ chọn Chúa, chọn người nghèo, hay chọn cái “vàng lát” trong trương mục nhà băng của người ta?
Cũng buồn cho cộng đoàn chúng ta. Khi nào linh mục Vi và ông HHT lại quậy và sẽ quậy, thì anh chị em nhớ những gì tôi viết ở đây. Sự thinh lặng cho rằng những chuyện tôi kể không dính dáng gì đến anh chị em thì có ngày nó sẽ đến anh chị em. Hãy đọc tin tức khi Đia Phận Pennysilvania thông báo 300 linh mục của địa phận hãm hại hơn 1000 trẻ em. Địa phận Iowa ra thông cáo hơn 800 linh mục phạm pháp. Dòng Tên, tỉnh dòng Đông Bắc (Northeast) của Hoa Kỳ, mới ra thông cáo 50 tu sĩ của dòng phạm tội tình dục với trẻ em. Có người sẽ hỏi là tại sao nhiều đến vậy? Câu trả lời đầu tiên là vì chúng ta đã thờ ơ, cho rằng chuyện này chỉ xảy ra cho người khác, không bao giờ xảy ra cho chúng ta. Tôi đã nghe lối lý luận: Chuyện này không phải là chuyện của tôi. Tôi không muốn bị liên lụy. Các linh mục, phó tế, tu sĩ là người đi tu. Họ không thể phạm tội như vậy. Họ luôn làm đúng. Chống họ là chống Chúa...Đó là lối lý luận trốn trách nhiệm, sợ hãi. Anh chị em đọc email tôi viết thấy tôi có viết điều gì sai không? Tại sao cả cộng đoàn chỉ có một vài người như ông Thế Vũ và mấy ông VN bị linh mục Reynolds đuổi? Anh chị em ở đâu? Tại sao không thương Địa Phận, nơi đã cưu mang anh chị em, mà lại cứ tiếp tục giúp đỡ vợ chồng HHT xin tiền trái phép trong giáo phận, chống lại ĐHY của Địa Phận? Lòng biết ơn với ĐHY của địa phận ở đâu? Sự cộng tác với ĐHY ở đâu?
Tôi không muốn nói nhiều. Tôi cứ nghĩ Thiên Chúa là Sự Thật. Anh chị em đi tìm Sự Thật thì tìm thấy Thiên Chúa.
Nguyễn Hưng An
Mấy tuần qua tôi đã giữ sự thinh lặng để quan sát những diễn biến và phản ứng của cộng đoàn VN thuộc GX SEAS. Mọi người đều biết tôi đã gởi ra ba cái email để chỉnh đốn những lạm quyền và hành động phương hại đến đức tin do linh mục q/n Vi Trần và ông phó tế Hoàng Hoa Tửu gây ra. Email cuối cùng của tôi gởi trước Giáng Sinh 2018, khuyến cáo việc sai lầm khi linh mục q/n và nhóm cố vấn gia nô của ông quyết định chọn hội trường làm lễ GS trong cùng thời gian khi nhà thờ chính được bỏ trống. Lý do các ông này đưa ra là vì tiền bạc, công sức đã bỏ ra nhiều quá để làm hang đá GS, trang trí hội trường, trải thảm đỏ, xây bục đứng cho ca đoàn,...vì công sức và chi tiêu quá nhiều cho nên bỏ đi rất uổng. Họ không hiểu nơi dược hiến thánh (nhà thờ) mang ý nghĩa quan trọng như thế nào. Họ cũng không hiểu dấu chỉ Hợp Nhất của Bàn Thờ (trong nhà thờ chính) phản ảnh tâm tình của Chúa Kitô là gì. Họ không hiểu tại sao Luật Phụng Vụ đòi hỏi Bàn Thờ phải cố định, không được dời đi dời lại sau khi làm lễ như ở trong hội trường. Tôi đã đưa ra vài Giáo Luật và Luật Phụng Vụ từ Sách Phụng vụ Rôma để cảnh giác việc họ làm là sai lạc đến đức tin cho giáo dân. Điều đáng buồn là tại sao lại phải giải thích cho linh mục Vi về một việc rất rõ ràng như thế. Linh mục Vi phải hiểu là ông ta không có sự lựa chọn nào hết ngoài việc chọn nhà thờ thay vì hội trường để làm lễ. Đức tin và những giải thích từ Kinh Thánh không cho phép ông chọn hội trường làm lễ và bỏ nhà thờ trống. Tại sao việc chọn lựa làm lễ giữa hội trường và nhà thờ lại liên quan đến Đức Tin? Nếu tôi nói Bàn Thờ (trong nhà thờ) Chính Là Đức Kitô thì linh mục Vi sẽ phải trả lời cho tôi hay cho giáo dân như thế nào? Linh mục chọn Đức Kitô hay hội trường? Tôi xin lập lại. Tôi không có nói Bàn Thờ Tượng Trưng cho Chúa Kitô. Nếu tôi nói Bàn Thờ Chính Là Đức Kitô thì linh mục sẽ trả lời như thế nào qua việc ông chọn hội trường để làm lễ? Sau đây tôi xin giải thích câu nói ‘Chúa Kitô Chính Là Bàn Thờ,” hay “Bàn Thờ Chính là Đức Kitô” để xem sau khi giải thích, linh mục có nhìn ra quyết định sai lầm và tai hại của ông về việc về việc cử hành thánh lễ trong nhà hội hay không?
Câu nói Chúa Kitô Chính Là Bàn Thờ đến từ Kinh Tiền Tụng số #5, Mùa Phục Sinh. Kinh Tiền Tụng này ghi:
“Khi thực sự hiến tế trên Thập Giá, Người đã kiện toàn các nghi lễ xưa, và khi dâng mình cho Cha để cứu độ chúng con, Người đã trở thành linh mục, thành của lễ, và Bàn Thờ.”
Câu trên đến từ tiếng Latin, “sacredo, altare et agnus” (priest, altar, and lamb).. Ai cũng biết Chúa Kitô là linh mục và là chiên. Vậy tại sao Chúa Kitô lại là bàn thờ? Câu này cần phải giải thích. Thánh Ambrose, Giám Mục của Milan, và là Cha linh hướng của Thánh Augustinô, có nói trong luận án De Sacramentis, “the altar is the type of the body of Christ” (Book IV, 7) (tạm dịch: bàn thờ là dấu chỉ (type) của thân thể Chúa Kitô.”
Theo truyền thống, bàn thờ phải xây bằng đá và không di chuyển, mặc dù Giáo Hội đã cho phép nhiều nơi làm bàn thờ bằng gỗ (GIRM 301). Nhưng tại sao lại bằng đá? Thánh Phaolô có nói về Chúa Kitô là “tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô.” (1 Cor. 10:4)
Bây giờ hãy suy ngẫm những gì xảy ra trên bàn thờ. Bàn thờ là nơi để tế lễ, là nơi để dâng hiến lễ vật lên Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã tự hiến tế thân xác Người trên “Bàn thờ thánh giá” (altar of the cross). Bàn thờ liên quan đến sự khổ nạn của Chúa Giêsu, và tượng trưng cho thánh giá. Vậy linh mục cúi chào bàn thờ là tượng trưng cho “Chúa Giêsu nằm phủ phục trong vườn Cây Dầu, khi Ngài bắt đầu cuộc khổ nạn.” Doway, Catechism 125, xem Matthew 26:39).
Chúa Giêsu nói, “Các ông cứ phá hủy đến thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói, “Đền Thờ này phải mất 46 năm mới xây xong; thế mà ông nói nội trong 3 ngày ông sẽ xây lại dược sao? Nhưng Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài.” ( Jn 2:19-21). Đoạn này phải hiểu Chúa Giêsu nói Đền Thờ (và bàn thờ trong đền thờ) là chính Người.
Để rõ nghĩa câu trích từ John 2:19-21, hãy đọc thêm Matthew 23;17-21: “Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh. Cái nào trọng hơn?...Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh? Cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề là chỉ Đền Thờ và Đấng đang ngự trị ở đó mà thề.” (Mt 23:17-21)
Đoạn văn trên xác nhận Chúa Giêsu muốn nói. Ngài là “lễ vật” được tiến dâng trên bàn thờ. Ngài nhấn mạnh bàn thờ làm cho lễ vật nên thánh. Không ai muốn tiến dâng lễ vật ở bàn thờ mà bàn thờ đó không thánh thiện bằng lễ vật. Bởi thế bàn thờ và lễ vật chính là Chúa Giêsu, vì Người Thánh Hóa cả hai lễ vật và bàn thờ.
Linh mục Maurice de la Taille, SJ, trong sách The Mysterry of Faith, giải thích thêm, “Những ai ao ước dâng hiến lễ vật lên Thiên Chúa phải hiến dâng qua bàn thờ. Nhưng Chúa Kitô, Lễ Vật của ơn Cứu Độ, đến với Thiên Chúa Cha qua chính Con Người của Người (through Himself). Vậy Người cũng là bàn thờ của chính của lễ tế của Người.. Vậy Người là bàn thờ của mỗi lần chúng ta dâng lễ tế, vì chúng ta không thể nào đến gần Thiên Chúa được nếu không qua chính Chúa Kitô. (The Mystery of Faith, Chapter 5, Section 2, 1915)
Tư tưởng trên đã được giải thích rõ trong thư 1 của Phêrô: “...Hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng nhũng lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ (qua, through) Đức Giêsu Kitô. (1 Peter 2:5)
Ngoài những ý nghĩa bàn thờ là chính Đức Kitô và Đức Kitô chính là Bàn Thờ, bản kinh nguyện của phụng vụ cũ còn có giải thích lý do hôn bàn thờ khi linh mục bắt đầu làm lễ. Khi linh mục tiến đến Bàn Thờ, linh mục đó có đọc lời nguyện xin Thiên Chúa tha thứ những tội lỗi mà linh mục đã phạm để linh mục đó tiến vào nơi Cực Thánh (Holy of the Holies) với tâm hồn thanh sạch. Lời cầu nguyện xin thứ tha tội lỗi “nhờ vào công đức của các thánh” mà xương của các ngài (relics) còn để trên mảnh đá xây kín (inlaid) trên bàn thờ (GIRM # 302). Tập tục này giúp linh mục và tín hữu nhớ lại thời gian bị bách hại ở những thế kỷ ban đầu. Dân chúng phải làm lễ trên những mộ của các thánh tử đạo. Khi linh mục hôn kính bàn thờ, nơi có xương thánh để trên, linh mục đó xác nhận sự hợp nhất với các thánh, những người đã ra đi trước trong đức tin.
Tất cả những điều tôi trình bày trên đây giải thích rõ sự khác biệt về ý nghĩa và sự thánh thiện, thánh hiến, giữa bàn thờ cố định trong nhà thờ và bàn thờ xếp chân, di chuyển vào góc ở hội trường. Rất tiếc, linh mục Vi và ông cố vấn lạc đạo Hoàng Hoa Tửu đã không tin, không hiểu, không biết, và không lắng nghe. Hai ông lãnh đạo này trao đổi sự ngu dốt với nhau rồi chọn hội trường làm lễ.
Chưa hết đâu. Đã bàn về sự ngu dốt của các ông thì bàn cho hết. Trong 3 ngày Tam Nhật Thánh năm ngoái (và năm nay nữa), vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Giáo Hội suy niệm cách riêng về việc Chúa chết trên thập giá lúc 3:00 giờ trưa (giờ thứ 9, MK 15:25). Giáo Hội có nghi thức Tôn Vinh Thánh Giá vào lúc 3:00 trưa. Thánh giá được tôn vinh là thánh giá gỗ, không có hình tượng (corpus) Chúa vì Chúa đã chết và xác đã được mang vào mồ. Nhà Tạm không có để Mình Thánh Chúa từ đêm hôm Thứ Năm trước đó. Vậy linh mục Vi, sau khi Tôn Vinh Thánh Giá xong, linh mục lại bắt giáo dân gẫm 14 chặng đàng thánh giá vào lúc 7 giờ chiều cùng ngày. Đây là sự ngu xuẩn ngược ngạo của linh mục Vi, vì Tôn Vinh Thánh Giá có nghĩa là Chúa Đẵ Chết. Còn ngẫm 14 chặng đàng thánh giá là ngẫm khi Chúa Còn Sống. Nếu Chúa đã chết lúc 3:00 trưa, thì làm sao Chúa lại còn sống lúc 7:00 chiều cùng ngày. Thêm vào đó, theo Phụng Vu, 4 giờ chiều của bất cứ ngày nào thì xem như là đã sang ngày kế tiếp theo truyền thống đạo Do Thái. Như thế 7 giờ chiều thứ Sáu thì xem như là đã qua ngày thứ Bảy là Ngày Chúa Phục Sinh. Chúa đã chết hồi lúc trưa ngày thứ Sáu. Cửa nhà tạm để mở, ý nói là mồ trống, Chúa đã sống lại. Thế mà linh mục Vi lại bắt giáo dân gẫm 14 chặng đàng thánh giá lúc 7:00 giờ chiều để suy niệm việc Chúa bị khổ nạn, tức là lôi xác Chúa ra khỏi mồ rồi bắt vác thánh giá một lần nữa trước khi cho chết lần hai. Ôi một cộng đoàn đức tin được dẫn dắt bởi một người ngu si về đức tin. Nhiều lúc tôi ngẫm nghĩ ai là người có trách nhiệm cho ông chịu chức linh mục? Đại Chủng Viện Notre Dame ở New Orleans hay là nhà dòng của ông? Sao ông ngu đến mức đó mà không ai nhận ra? Bây giờ giáo dân phải trả giá cho sự việc họ không có làm.
Còn ông HHT nữa. Mỗi chiều thứ Năm (lễ Mỹ) và 2 chiều thứ Sáu, thứ Bảy (lễ Việt), sau thánh lễ ông ta lại bắt dân quỳ chầu Thánh Thể nữa, đọc kinh suốt 45 phút không nghỉ. Trong sách GLCG, Chương Công Chính Hóa (Justification) có ghi :”Máu Cứu Chuộc của Chúa đổ ra là đầy đủ rồi. Không ai có thể làm thêm điều gì để cộng vào ơn cứu chuộc, để làm cho ơn cứu chuộc hoàn hảo hơn.” Vây mà ông HHT cứ bắt giáo dân phải rên rỉ thêm 45 phút nữa vì rước lễ đón Chúa vào lòng vẫn chưa đủ. Phải đọc thêm kinh 45 phút nữa vì sợ ơn cứu chuộc Chúa ban qua thánh lễ ngay trước đó vẫn chưa hoàn hảo. Cộng đoàn SEAS thật là vô phúc khi có ông về phụ giúp.
Sau đây tôi muốn bàn thêm một khía cạnh thần học căn bản về Bí Tích Thánh Thể mà nó liên quan đến việc linh mục tự ý trái phép cho các em giúp lễ tìm người uống Máu Thánh còn dư trong chén (của linh mục và của các TTV Thánh Thể). Từ khía cạnh thần học căn bản này, Giáo Hội đã đưa ra những luật Phụng Vụ khác để bảo đảm sự hiểu biết của các tín hữu, kể cả các linh mục là những người cử hành thánh lễ.
Linh mục Vi Nguyễn viết:
Thứ đến tiện đây Cha nhắc chung cho mọi người hiểu về việc uống Máu Thánh dư, để tránh những suy nghĩ không đúng. Trường hợp Máu Thánh dư, chỉ khuyến khích TTV uống giúp mà thôi, nếu không thể uống được thì không ép, không có luật nào bắt buộc các TTV phải uống hết máu Thánh còn dư, TTV Thánh Thể là thi hành nhiệm vụ cao quý, cần lòng đạo đức và tư cách gương mẫu chứ không phải vì người đó uống được Máu Thánh dư.
Nên dặn các em giúp lễ, có thể để Máu Thánh lại phía sau cung Thánh, (sau lễ xin người uống, hoặc không ai uống, thì chúng ta được phép đổ xuống "bồn Thánh" phía sau cung Thánh, không bắt các em giúp lễ phải uống).
Ký Tên, Cha QN
The Dogma of the Church (Tín Điều của Giáo Hội)
“The Eucharistic presence of Christ begins at the moment of the consecration and endures as long as the Eucharistic species subsist. Christ is present whole and entire in each of the species and whole and entire in each of their parts, in such a way that the breaking of the bread does not divide Christ.” (CCC 1377; cf. Council of Trent, Session XIII, Canon III)
From this doctrine, we know that our Savior is present, whole and entire (body, blood, soul, and divinity), in the whole Host. Further, we know that the whole Christ is present in each part of the Host. Hence, it is clear that the whole Christ is real and truly and substantially present in even a small particle of a Host or in a small drop of the Precious Blood.
Tạm dịch: “Sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể của Chúa Kitô khởi đầu trong phần thánh hiến (xin đọc ghi chú ở dưới đoạn văn này) và tiếp tục khi các mảnh vun (bánh và rượu) tự tồn tại (subsist). Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn và đầy đủ trong mỗi bánh và rượu và trọn vẹn và đầy đủ trong những phần đã bẻ, để sự bẻ bánh (hay phân rượu) không làm cho (thân thể) Chúa Kitô bị tách lìa.” (Giáo lý Công Giáo 1377; đọc Công Đồng Trent, Khóa Họp XIII, Tín Điều III.). Vậy, sự việc rất rõ ràng: Chúa Kitô hiện diện thật sự và hiện diện trọn vẹn trong bản chất ngay cả trong 1 mẫu bánh vụn (bẻ ra) từ bánh lễ nguyên và trong 1 giọt nhỏ từ Máu Thánh.
Ghi chú (Phần Thánh Hiến gồm có 8 phần nhỏ trong phần Phụng Vụ Thánh Thể: 1 Phần Tạ Ơn trong Kinh Tiền Tụng, 2. Phần Chúc Tụng trong Kinh Thánh Thánh Thánh, 3. Epiclesis, Lời khấn nguyện nài xin Chúa Thánh Thần thánh hóa lễ vật. 4. Đọc Lời Truyền, 5. Phần Anamnesis, Tưởng nhớ sự khổ nạn, chết và sống lại của Chúa Kitô, qua Tông Truyền. 6. Lễ tế vẹn toàn, tiến dâng qua Giáo Hội đang hiện diện, sự hiến dâng của chính Giáo Hội, nhờ lời cầu bầu của Chúa Kitô để trở nên hiệp nhất. 7. Lời nguyện cho kẻ sống và kẻ chết. 8. Tuyên xưng đức tin với xác tín trong câu xướng AMEN.
Tôi viết ghi chú để giúp linh mục Vi và tất cả những ai không hiểu rõ về toàn bộ Phần Phụng Vụ Thánh Thể.hiểu biết thêm. Có hiểu biết thì mới tạo được lòng mến Bí Tích Thánh Thể. Có lòng mến thì mới có sốt sắng, có trang nghiêm khi cử hành Phụng Vụ. Bì Tích Thánh Thể gắn liền với Bàn Thờ. Khi Bàn Thờ chỉ là một cái bàn xếp như cái bàn trong hội trường. Sau lễ thì gập lại đưa vào góc (để cầu thủ sân rộng chơi bóng rỗ) thì tự dưng Bí Tích Thánh Thể bị mất ý nghĩa và bị hiểu sai lạc. Thay vì Bàn Thờ thánh hiến của lễ. Nay Của Lễ thánh hiến bàn thờ (xếp, di động). Bởi vì sự thiếu hiểu biết trên, linh mục Vi và nhóm quân sư của ông chú trọng vào tiền, vào chi phí, công sức, thảm, bục....Dân Do Thái ngày xưa hãnh diện về vàng lát trong đền thờ mà không hề quan tâm đến sự hiện diện của Bàn Thờ trong Đền Thờ. Tôi trích lại đoạn phúc âm của Matthew mà tôi đã ghi ở phần trên để trả lời cho linh mục Vi và nhóm quân sư của ông.
“Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh. Cái nào trọng hơn?...Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh? Cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề là chỉ Đền Thờ và Đấng đang ngự trị ở đó mà thề.” (Mt 23:17-21)
Cộng đoàn VN thuộc GX SEAS còn phải trải qua những sự chán chường và thất vọng khi mà linh mục Vi còn làm quản nhiệm ở đây. Không phải chỉ có linh mục Vi là người gây ra những chán chường này. Bao quanh ông là nhóm người háo danh, lợi dụng nước đục thả câu, mưu lợi cá nhân. Họ có cái danh xưng là Ban Phục Vụ, nhưng họ chỉ phục vụ linh mục Vi và cá nhân họ. Anh chị em có biết một GX nào ở trên toàn thế giới có phó tế vừa giảng về Chúa Kitô trong nhà thờ, vừa giảng Triết Phật ở đài truyền hình không? Đức tin hỗn loạn như thế mà họ lại ở chức vụ hướng dẫn anh chị em hay giúp đỡ các linh mục. Anh chị em có biết GX nào trên thế giới có Ban Phục Vụ thay đổi biên bản buổi họp sau khi dồng ý ký tên, chỉ vì bà thư ký thông đồng với linh mục không đồng ý với biên bản buổi họp không? Khi anh chị em có vấn đề cần linh hướng, cố vấn, anh chị em tìm ai trong GX để giúp? Linh mục Vi hả? Hay ông HHT? Khi con cái của anh chị em bị khủng hoảng đức tin, bỏ nhà thờ, bỏ đọc kinh, lấy người không có đạo, anh chị em tìm ai cố vấn hay lắng nghe tâm sự của anh chị em? Khi con cái ngỗ nghịch, không vâng lời, anh chị em có đi tìm ông HHT để ông ta giúp đỡ không? Ông ta và cả vợ nữa đã không vâng lời ĐGM từ năm 2015. Ông ta không biết vâng lời là gì thì làm sao mà khuyên người khác vâng lời. Khi hôn nhân của anh chị em bị trắc trở, anh chị em tìm ai để cố vấn? Ông Tửu không vâng lời địa phận, rồi lại kéo vợ vào sự phạm lỗi này. Vậy hôn nhân của 2 người “có thành” không? Sao mà chuyện sa ngã của ông Adong và bà Eva trong Cựu Ước giống chuyện này quá. Một người ăn quả cấm phạm tội chưa đủ rồi còn lôi theo người bạn đời của mình ăn trái cấm để cùng phạm tội chung.
Trong vài ngày nữa (January 31, 2019), Tổng Giáo Phận sẽ loan báo tên các linh mục, phó tế, tu sĩ (có thể có nữ tu), những ai trong chức vụ quyền hành, đã hãm hại tình dục các trẻ em trong suốt hơn 50 năm qua. Những tội ác đó khởi sự từ việc làm dụng quyền hành, với hệ thống bưng bít, che đậy, hăm dọa, sa thải, đuổi việc, hối lộ, mua chuộc quyền lợi cá nhân...Những người như ông Thế Vũ hay như mấy ông VN bị linh mục Reynolds duổi ra khỏi phòng họp, hay như tôi lên tiếng tố cáo, thì bị gán tên là phá hoại, không bình thường, mất trí, không đóng tiền cho GX thì không được phàn nàn, phản đối. Anh chị em có biết là ông HHT đã cười khinh bỉ khi mấy ông VN bị linh mục Reynolds đuổi ra khỏi phòng họp không? Anh chị em cứ hỏi mấy ông VN bị đuổi ra khỏi phòng họp về thái độ của ông HHT ngày hôm ấy thì chính họ sẽ kể cho anh chị em nghe. Đây không phải là chuyên bàn hay nghe người khác kể. Hãy hỏi những người trực tiếp liên hệ với sự việc. Họ chứng kiến như thế nào thì họ sẽ kể đúng như vậy cho anh chị em nghe. Một người có tư cách và liêm sỉ như ông HHT nay tuyên bố gây quỹ giúp người nghèo ở Capuchia thì anh chị em có tin không? Những người bạn cùng đi lễ chung với ông ta mà còn bị ông ta bán đứng thì nói gì mấy người nghèo ở Campuchia. Tiền đóng góp cho hội iLarazô có bao giờ được thông báo cho anh chị em biết không? Chỉ có mấy ngàn đồng bạc đóng góp vào lễ Giáng Sinh vừa qua, mà người ta quá tiếc đến độ phải chọn tiền, bỏ bàn thờ, thì bây giờ cả trăm ngàn đô thu vào thì anh chị em có chắc là người ta sẽ chọn Chúa, chọn người nghèo, hay chọn cái “vàng lát” trong trương mục nhà băng của người ta?
Cũng buồn cho cộng đoàn chúng ta. Khi nào linh mục Vi và ông HHT lại quậy và sẽ quậy, thì anh chị em nhớ những gì tôi viết ở đây. Sự thinh lặng cho rằng những chuyện tôi kể không dính dáng gì đến anh chị em thì có ngày nó sẽ đến anh chị em. Hãy đọc tin tức khi Đia Phận Pennysilvania thông báo 300 linh mục của địa phận hãm hại hơn 1000 trẻ em. Địa phận Iowa ra thông cáo hơn 800 linh mục phạm pháp. Dòng Tên, tỉnh dòng Đông Bắc (Northeast) của Hoa Kỳ, mới ra thông cáo 50 tu sĩ của dòng phạm tội tình dục với trẻ em. Có người sẽ hỏi là tại sao nhiều đến vậy? Câu trả lời đầu tiên là vì chúng ta đã thờ ơ, cho rằng chuyện này chỉ xảy ra cho người khác, không bao giờ xảy ra cho chúng ta. Tôi đã nghe lối lý luận: Chuyện này không phải là chuyện của tôi. Tôi không muốn bị liên lụy. Các linh mục, phó tế, tu sĩ là người đi tu. Họ không thể phạm tội như vậy. Họ luôn làm đúng. Chống họ là chống Chúa...Đó là lối lý luận trốn trách nhiệm, sợ hãi. Anh chị em đọc email tôi viết thấy tôi có viết điều gì sai không? Tại sao cả cộng đoàn chỉ có một vài người như ông Thế Vũ và mấy ông VN bị linh mục Reynolds đuổi? Anh chị em ở đâu? Tại sao không thương Địa Phận, nơi đã cưu mang anh chị em, mà lại cứ tiếp tục giúp đỡ vợ chồng HHT xin tiền trái phép trong giáo phận, chống lại ĐHY của Địa Phận? Lòng biết ơn với ĐHY của địa phận ở đâu? Sự cộng tác với ĐHY ở đâu?
Tôi không muốn nói nhiều. Tôi cứ nghĩ Thiên Chúa là Sự Thật. Anh chị em đi tìm Sự Thật thì tìm thấy Thiên Chúa.
Nguyễn Hưng An
Quà Giáng Sinh Gởi Cộng Đoàn St Elizabeth Ann Seton
Trong email số 2 tôi đã có cảnh giác ông Hoàng Hoa Tửu, nhưng có lẽ ông khinh thường không lắng nghe và không có thay đổi gì hết. Trong email này tôi chỉ gọi ông là ông. Tư cách và sự hiểu biết của ông không làm cho tôi nể trọng. Lại nữa, chữ “thầy,” (phó tế) đã không được dịch đúng nghĩa theo ý nghĩa từ chữ “deacon,” từ gốc chữ Hy Lạp (diákonos). Chữ “deacon,” không mang nghĩa “thầy.” Phong tục Việt Nam tôn trọng những ai đi học ở Đại Chủng Viện, hay có chức thánh cho nên phong cách cho họ, nhưng chọn chữ “thầy” là không đúng. Có người nói chữ “thầy” là ám chỉ người có “khả năng” (được) rao giảng lời Chúa, là bậc thầy. Nhưng rao giảng lời Chúa, không phải chỉ là đứng ở bục giảng, đọc bài giảng ăn trộm từ internet hay của ai, rồi trở nên “thầy.” Bài giảng phải dựa vào tự cách và đời sống cá nhân của người đi rao giảng trước hết. Nếu đời sống cá nhân và lời rao giảng trái ngược nhau thì không nên giảng, không nên đứng gần bàn thờ làm gì. Có thể họ không có ơn gọi làm “thầy” hay phó tế.
Cách đây vài tuần, tôi có xem 2 đoạn phim thu qua youtube về việc 2 vợ chồng ông HHT lên đài truyền hình của ông Hải Lê để quảng cáo chương trình iLazarô của ông. Sau một vài phút xem 2 vợ chồng HHT lịch thiệp với nhau qua cách xưng hô anh anh chị chị như 2 đồng nghiệp, tôi có 4 nhận định muốn nói ra ở đây. Bốn nhận định đi từ (1) sự trình bày thiếu thành thật về thân thế và sự điều hành của chương trình iLazarô, (2) sự thiếu hiểu biết về chức thánh của một tu sĩ, (3) sự thiếu can đảm tuyên xưng đức tin của một tu sĩ Công Giáo, (4) và sự rao giảng sai lầm về thần học Công Giáo.
Thứ nhất, trong chương trình quảng cáo về hội bác ái iLazarô youtube số 1, https://www.youtube.com/watch?v=4-6Jw6a5bH8&feature=youtu.be, hai vợ chồng HHT đã thiếu thành thật khi không tiết lộ thân thế cá nhân cũng như tình trạng gia đình của hai người trong vấn đề điều hành của chưong trình. Khán giả chỉ biết tên họ của ông HHT qua cái tên Peter Hoàng. Còn tên của người vợ là Kim Phượng, không để tên họ. Khán giả xem đài ông Hải Lê không hề biết hai người là 2 vợ chồng. Hai người cứ xưng hô anh anh, chị chị với nhau như hai đồng nghiệp có cùng chung một chí hướng cho người nghèo. Tại sao lại giấu diếm tình trạng hôn nhân của 2 người? Thông thường, khi người ta đóng góp tiền cho bất cứ một tổ chức nào, người ta muốn biết tiền của người ta cho sẽ được xử dụng như thế nào. Bởi thế người đóng góp muốn biết người điều hành là ai? Người phụ tá là ai? Thủ quỹ, thư ký là ai? Thân thế, tiểu sử của những quản trị chương trình là gì? Nhưng khi một tổ chức được điều hành bởi 2 vợ chồng thì theo nhận định chung người ta cảm thấy có gì không ổn vì đã có rất nhiều cuộc lừa lọc về tiền bạc khi một tổ chức được điều hành bởi hơn 1 người cùng gia đình. Hồi tháng 5, 2018, Tổng Giáo Phận Galveston-Houston có ra một luật mới. Nếu chồng là một Giám Đốc chương trình như dạy giáo lý (Director of CCE), và vợ là thư ký hay giữ một chức vụ nhỏ hơn chồng trong cùng một giáo xứ, thì một trong hai người phải nghỉ việc, hoặc không thể làm việc chung. Luật mới đưa ra nhằm chận đứng cái gọi là “appearance of impropriety” (nghi ngờ có lỗi luật) giữa sự liên hệ hay thông đồng giữa 2 vợ chồng về vấn đề tiền bạc. Vợ nể chồng, chồng nể vợ. Một trong hai người sẽ không dám lên tiếng tố cáo hay phàn nàn nếu người kia phạm lỗi. Có khi cả hai người đều đồng lõa trong những chi tiêu không chân chính. Hôm December 18, 2018, tòa án Liên Bang ở New York đã thu hồi bằng hoạt động và giải tán Chương Trình Bác Ái của gia đình ông Tổng Thống Trump (Trump Foundation) và cấm luôn Tổng Thống Trump, cùng 2 người con trai, và 1 người con gái, không đươc giữ chức vụ điều hành bất cứ môt hội bác ái nào trong vòng 10 năm. Trong lịch sử Hoa Kỳ, chưa bao giờ một Tổng Thống bị tòa án Liên Bang cấm như vậy. Lý do: Cả 4 người đều thông đồng trong nhiều chi tiêu bất chính. Họ đã dùng tiền đóng góp vào hội Bác Ái Trump Foundation để mua những đồ vật quý giá để trang trí gia đình của họ. Họ cũng dùng Hội Bác Ái Trump để chuyển ngân bất hợp pháp, và mua bán quyền lợi cho những ai muốn hối lộ họ. Chúng ta cũng biết là hội iLazarô được đẻ ra sau khi Hội Bác Ái Phanxicô của linh mục hồi tục Trịnh Tuấn Hoàng, trong chức vụ tuyên úy, bị tố cáo là thâm thủng tiền bạc. Và linh mục Trịnh Tuấn Hoàng đã hồi tục, sau khi bị nhà dòng cấm không được tham gia vào bất cứ chương trình bác ái nào cho đến suốt đời.
Thứ hai, ông HHT là phó tế của Tổng Địa Phận Galveson/Houston từ năm 2007. Chức phó tế này gắn liền với cuộc sống của ông ở mọi nơi, mọi lúc sau khi ông nhận chức thánh. Ấn thánh này, tuy không đầy đủ như ấn thánh của linh mục hay giám mục, nhưng ấn thánh đã in dấu không phai trong con người của một phó tế và làm cho bản thể (ontology) của ông mỗi ngày một thay đổi, qua đời sống và hành động, để ông trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn. Dấu ấn này, giống như dấu ấn qua phép Rửa Tội và Thêm Sức, khi đã in dấu, thì không thể xóa được (indelible mark). Tiến trình của sự thay đổi toàn diện bản thể con người của một người đã có ấn thánh được goi là “an ontological change.” (Ontology là môn học về bản thề hay “what is”) Thế nhưng khi cổ động chương trình iLazaro ở đài truyền hình của ông Hải Lê, ông HHT đã không hề giới thiệu ông là phó tế. Tại sao lại giấu diếm? Có phải vì ông cổ động cho một chương trình cá nhân mà không xin phép ĐGM, người bề trên của ông, người đã trao ấn thánh cho ông, người mà ông đã hứa là sẽ vâng lời trong mọi việc? Hay là ông đã tham gia vào một chương trình dính dáng đến tiền bạc, có sự cộng tác của vợ, cho dù ông không đứng tên là Giám Đốc Điều Hành? Nếu việc ông làm không có gì là quan trọng, hay không có gì là lỗi phạm, tại sao ông không danh chánh ngôn thuận xin phép Đức Hồng Y, Giám Mục của Tổng Giáo Phận? Đài truyền hình của ông Hải Lê nằm trong địa hạt (jurisdịction) của Tổng Giáo Phận (xin đọc Giáo Luật 518), tại sao ông làm việc trong Tổng Giáo Phận mà không xin phép? Nhưng ngay cả nếu ông đi qua tiểu bang khác để quảng cáo chương trình iLarazo, ông vẫn là một tu sĩ (cleric) của Tổng Giáo Phận và của cả Giáo Hội qua ấn thánh ông đã nhận, và do đó ông bị ràng buộc với trách nhiệm đối với Giáo Hội và Tổng Giáo Phận. Tại sao ông không xin phép? Tại sao ông lại không dám làm việc ấy? Chức vụ phó tế không phải là của riêng để ông giữ. Qua chức vụ phó tế, ông trở nên một người của cộng đồng. Ông không thể dùng nó để cùng với vợ tính chuỵên làm ăn riêng.
Thứ ba, trong youtube 1, ở phút 3:28, và 14:38 (in bấm link) https://www.youtube.com/watch?v=4-6Jw6a5bH8&feature=youtu.be khi quảng cáo cho chương trình iLazarô của ông, ông đã chọn và dùng một vài từ ngữ không mang tính chất truyền thống Công Giáo Việt Nam nữa. Đó là từ “Trời” và “Thượng Đế.” Trong đạo Do Thái, tên của Chúa (YAHWEH, hay EL, hay Elohim, hay Eloah) bị cấm đọc và viết. Riêng chữ Yahweh thường được viết là YHWH vì các nguyên âm đã được lấy ra để người ta không thể phát âm được để tỏ lòng tôn kính Tên của THIÊN CHÚA). Nhưng trong truyền thống của đạo Công Giáo Hoàn Vũ, tên của Chúa (YAHWEH hay EL, hay Elohim hay Eloah), được đọc, được phát âm, và được phiên dịch ra tiếng bản xứ. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam dịch tên của Chúa là Thiên Chúa hay Chúa. Còn các nhóm đạo Tin Lành dịch tên Chúa là Thượng Đế để tránh việc xử dụng hay gọi trùng tên “Thiên Chúa” với đạo Công Giáo vì đạo Công Giáo ở VN còn được gọi là đạo Thiên Chúa. Từ ngữ “Trời” hay “Ông Trời” là từ rất quen tai với những người theo Phật Giáo. Như thế, có phải khi ông HHT chọn đọc và dùng chữ “Trời” hay “Thượng Đế” trong quảng cáo của ông, và không một lần dùng hay đọc chữ “Thiên Chúa,” hay “Chúa,” ông HHT đã không dám tuyên xưng đức tin của ông là một phó tế của đạo Công Giáo? Có phải trọng tâm của quảng cáo của ông là nhắm vào 2 nhóm Tin Lành và Phật Giáo, và sự dùng hay đọc chữ “Thiên Chúa” hay “Chúa” sẽ làm cho ông mất đi một số người ủng hộ chương trình của ông vì họ không thích đạo Công Giáo? Vậy chương trình iLazarô của ông quan trọng hơn chức thánh và đức tin Công Giáo của ông phải không? Có phải đồng tiền và lợi lộc thế gian làm ông quên mất trọng trách của ông là mở mang nước Chúa qua sứ mạng truyền bá đức tin của một phó tế, một tông đồ? Ông không hãnh diện với chức thánh, và đức tin Công Giáo của ông thì ông lên đọc sách Thánh trong các thánh lễ ở giáo xứ làm gì? Ông hãy suy nghĩ xem câu cuối của mỗi bài đọc trong thánh lễ sẽ trở nên quái dị như thế nào nếu ông xướng “Đó là Lời Thượng Đế,” thay vì “Đó là Lời Chúa..“ Rồi các câu xướng khác sẽ thay đổi như “Đây Chiên Thượng Đế,” thay vì “Đây Chiên Thiên Chúa;” “Vinh danh Thương Đế,” thay vì “Vinh danh Thiên Chúa.” Ông là một phó tế người Việt Nam, phụ giúp lễ VN, hơi thở, nhịp tim của ông phải thấm nhuần những từ ngữ xử dụng trong truyền thống Đạo Công Giáo VN, thế nhưng ông xử dụng những từ không có được chấp nhận bởi Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Trong youtube 2 https://www.youtube.com/watch?v=13IJAIpGF4s&feature=youtu.be, ở phút 2:38, ông lên hình Phật Thích Ca, thuyết minh triết lý Phật Giáo về “phương cách giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ.” Tôi thắc mắc ông là môt phó tế của Đạo Công Giáo, nhưng ông lại trình bày triết lý Phật Giáo. Giáo Hội Công Giáo có cho phép ông “giảng” hay “thuyết” như thế không? Hay ông đang trình bày triết lý Phật Giáo theo lối khái niệm “đạo nào cũng tốt,” “đạo nào cũng dạy con người hướng thiện?” Nếu khái niệm trên là đúng, vây đạo nào cũng đưa dẫn con người đến cùng một Chân Lý, có phải vậy không ông? Người ta có thể theo Phật Thích Ca hay theo Chúa Giêsu để tìm ra Chân Lý, có phải vậy không ông? Hay là ông muốn trình 2 chân lý khác nhau? Một của Phật Thích Ca? Và một của Chúa Giêsu? Có mấy Chân Lý hả ông? Tôi không hề có ý chê bai triết lý Phật Giáo ở đây. Tôi là người Công Giáo, muốn hỏi ông là một phó tế Công Giáo, xin ông trả lời cho tôi trong truyền thống Công Giáo là tôi phải theo ai để tìm đến Chân Lý? Ông có thể trả lời cho tôi được không? Hồi lúc ông học ở Đại Chủng Viện để trở thành Phó Tế, có giáo sư nào nói cho ông biết là Phât Giáo không có Thần Học, và Công Giáo không có triết học không ông? Ông có hiểu tại sao không? Thần học, chữ Thần (Theo) là môn học nói về Thiên Chúa, không phải nói về con người. Trái lại, Đaọ Phật trình bày Phật Thích Ca là một con người giống như ông và tôi, tức là không phải là Thần, không phải là Thiên Chúa. Phật Thích Ca do chính bản năng con người của ông, không nhờ ai giúp, đạt được giác ngộ, thoát khỏi kiếp trầm luân hay bể khổ. Bởi thế Đạo Phật không có Thần Học. Trái lại, Đạo Công Giáo không có triết lý vì triết lý là sự suy luận, sự phỏng đoán, tìm lý lẽ qua những tư tưởng trừu tượng. Đạo Công Giáo có Ngôi Lời Nhập Thề tức là Thần Trí của Thiên Chúa trờ thành Con Người bằng xương bằng thit, tức là không còn trừu tượng nữa. Ông HHT, ông có hiểu điều này không? Sự đần độn của ông đến mức nào rồi? Nếu ông không hiểu điều này, tại sao ông lại đòi giảng trong nhà thờ. Ông không thể trộn lộn hai đạo Phật Giáo và Công Giáo với nhau được. Triết lý Phật Giáo dạy rằng Phật Thích Ca đạt được giác ngộ, tự giải thoát cho chính mình. Trái lại, Thần Học Công Giáo dạy, con người không sao tìm được ơn Cứu Độ nếu không có Thiên Chúa phụ giúp. Như thế, con người không thể tự cứu mình được. Do đó các từ “Giác Ngộ” hay “Cứu Đô” theo triết lý Phật Giáo không có đồng nghĩa với các từ “Giác Ngộ” hay “Cứu Độ” trong thần học Công Giáo. Đức tin của hai đạo hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy ông HHT, ông suy nghĩ như thế nào mà cứ “giảng/thuyêt” song song những lời của Phật và những lời của Chúa Giêsu?
Trong phút 3:05 của youtube 2, ông HHT lại nhập nhằng trộn lộn triết lý Phật và Thần học Công Giáo. Ông nói, “Nguồn gốc sâu xa nhất của đau khổ là nó từ trong tâm tư của mỗi người.” Rồi ông nói, “hạnh phúc hay đau khổ là do sự chọn lựa của mỗi người.” Sao lại như vậy? Nếu tôi cho ông biết cùng đích của sự đau khổ là sự chết và sự chết đến với thế gian qua sự không vâng lời của ông Adam và bà Evà thì ông sẽ trả lời ra sao? Câu truyện ông Adam và bà Evà không vâng lời Thiên Chúa và hậu quả ông bà gây ra cho toàn thể nhân loại, thuật lại trong Sách Sáng Thế Ký ông có đọc không? Tôi thấy ông “hội thảo” về ý nghĩa của “đau khổ” theo triết lý Phật Giáo, và hoàn toàn không bàn về sự sống lại theo niềm tin của đạo Công Giáo. Tên Larazô của hội iLarazô là một nhân vật lịch sử trong phúc âm của Thánh Gioan. Ông ta là một trong vài người mà Chúa Giêsu đã chọn để ban ơn hiểu biết về niềm vui của sự sống lại, một ước vọng cùng đích của tất cả mọi người Công Giáo, vì nếu không tin vào sự sống lại thì không có Đạo Công Giáo. Ông HHT, ông chọn tên Larazô mà không hiểu ý nghĩa của nó. Tại sao ông không chọn một tên khác như iThichQuangDuc để phù hợp với lối thuyết minh của ông?
Ở phút 4:58 ở youtube 2, ông lại dùng triết học Phật Giáo để thuyết minh. Ông nói, “Cuộc sống không phải là một đích điểm, mà chỉ là một hành trình với vô số các sự việc nối tiếp mà chúng ta đang trải nghiêm từng giây, từng phút.” Vậy sao? Thế ông “giảng” như thế nào khi trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói, “Ta đến để ban cho các con sự sống và ban sự sống sung mãn” (Jn 10:10). Và “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Jn 14:6). Ông HHT, ông theo đạo Công Giáo từ bao giờ? Ông được rửa tội từ thuở bé hay ông theo đạo vợ? Hay ông là tu sĩ Phật Giáo trước khi ông theo đạo Công Giáo? Tôi không hiểu tại sao Đại Chủng Viện lại đề nghị cho ông chịu chức khi mà ông hoàn toàn lầm lạc giữa hai đức tin trái ngược nhau? Với những tư tưởng trái ngược nhau như vậy, ông làm bài như thế nào để nộp cho các giáo sự để họ chấm điểm bài của ông? Giả sử như ông rành cả tín lý Công Giáo và tư tưởng triết học của Phật Giáo, Giáo Luật nào cho phép một phó tế mang chức thánh rao giảng một cách lầm lạc như vậy? Ông lấy gạo ở nhà này rồi qua nấu cơm ở nhà khác. Khởi đầu qua sự không vâng lời ĐGM khi ông điều hành hội iLazarô, ông đã đi đến quyết định muốn giảng gì thì giảng, không ai có quyền ngăn cản ông, có phải vậy không? Hay là ông chỉ dùng Giáo Hội Công Giáo, chức vụ phó tế, và Triết Lý Phật Giáo để làm bàn đạp cho cái đạo (hội) iLarazô của ông? Ông chỉ biết có ông và gia đình ông thôi. Người nghèo bị xử dụng như bình phông để ông vơ của.
Về việc ông cổ động chương trình iLazarô của ông, cho dù ông để cho vợ ông làm Giám Đốc Điều Hành, tôi muốn nêu ra những Giáo Luật mà ông, một Phó Tế Vĩnh Viễn, đã phạm.
Giáo Luật 273: Đòi hỏi một phó tế (cleric) phải tôn kính và vâng lời ĐGM bản quyền
Giáo Luật 277. Đòi hỏi một cleric phải hành xử một cách thận trọng qua sự quen biết hay làm việc chung với những người hay công ty mà nó có thể gây tiếng xấu cho các tín hữu. (qua việc cộng tác đài truyền hình Hải Lê)
Giáo Luật 278, đoạn 3. Một cleric bị bó buộc không được thiết lập, hay tham gia một tổ chức mà mục đích của nó gây khó khăn hay mâu thuẫn với lại bổn phận của người ấy.
Ngoài những vi phạm luật tôi nêu lên đây, tôi còn nghe những ta thán về sự sắp xếp Thừa Tác Viên Thánh Thể trong thánh lễ tiếng Việt do vợ ông HHT đảm nhận. Những ai mà ông bà HHT không thích là không được sắp xếp theo sự công bằng để trao Mình Thánh Chúa. Sự ta thán này, đúng hay sai thì chưa rõ. Nhưng nó đưa đến một một cái nhìn không đẹp về một hoàn cảnh đạo đức (situation ethics), qua sự tương quan giữa chồng và vợ với sự trọn quyền hành trong cùng một công tác mục vụ, cũng giống sự suy luận với luật mới của địa phận không cho phép chồng và vợ có mối tương quan trong lãnh vực văn phòng như đã trình bày ở trên. Sự khác biệt ở đây chỉ là sự ngờ vực về khía cạnh đạo đức (ethics) vì hai vợ chồng làm không lương. Nhưng quan trọng hơn cả là sự lầm lạc về đức tin của hai người. Qua những “thuyết minh” của ông HHT ở đài truyền hình ông Hải Lê, ông đã tự chứng minh là ông không hiểu và không biết ơn cứu độ từ đâu đến. Ông không xác tin Chúa Giếsu hay Phật Thích Ca là người nào mà ông phải theo. Ông đưa ra những lời khuyên giúp người ta thoát khỏi sự khổ đau theo triết Phật mà ông không hề nhắc đến sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, Đấng đã đến để giải thoát sự khổ và sự chết. Ông đứng phụ lễ bàn thờ mà ông không hế hiểu được tại sao lại có Mình và Máu thật sự của Chúa Giêsu ở bí tích Thánh Thể. Và vì ông không hiểu được đức tin căn bản này, ông không có lòng mến Bí Tích Thánh Thể. Đức tin sai lạc như thế thì nên tự xử, tự từ chức, để khỏi gây ra những tai tiếng xấu thêm cho gx SEAS và gây khủng hoảng đức tin cho giáo dân. Vợ ông cũng thế. Đã không hiểu mầu nhiệm Mình và Máu Thánh của Chúa Giêsu thì giữ nhiệm vụ cắt đặt Thừa Tác Viên Thánh Thể để làm gì? Đây không phải là một cái “job.” Đây là một “sứ vụ,” một “ministry” thấm nhuần trong đức tin. Tại sao những Thừa Tác Viên TT lại có thể chịu đựng sự cắt đặt nhiêm vụ từ một cặp vợ chồng đang trong tình trạng khủng hoảng đức tin như vậy? Tại sao một linh mục q/n lại cho phép người không có đức tin phụ giúp bàn thờ? Thông đồng lợi lộc chăng? Tại sao giáo dân của gx SEAS lại chịu một cảnh rối loạn như vậy?
Đối với anh chị em của gx SEAS, tôi chu toàn nhiệm vụ của tôi là vạch ra sự dối trá của hai vợ chồng này. Còn anh chị em trong gx khi nào thì chu toàn nhiệm vụ của anh chị em? Tại sao lại cứ tiếp tục ủng hộ hội iLarazô khi biết hoạt động của hội không có minh bạch? Đã có ai nhận được báo cáo chi thu của hội chưa? Sự đổ vỡ của hội bác ái Phanxicô chưa làm anh chị em thức tỉnh (giác ngộ) hay sao? Tại sao lại phải cắn răng bực dọc khi bị ép mua vé ủng hộ hội iLarazô qua việc đặt bàn ăn ở tiệm Kim Sơn mỗi khi vợ chồng HHT ép anh chị em mua vé? Nếu muốn giúp ai ở VN thì tại sao không gởi thẳng cho người ấy, hay gia đình của họ? Tại sao lại phải bị ép buộc giúp đỡ qua hội này hội kia mà không bao giờ biết được tiền chi tiêu như thế nào?
Tôi thấy đường hướng của hội iLarazô cũng đi giống như hội bác ái Trump (Trump Foundation). Người ta dùng hội để mua bán chức tước, trao đổi quyền lợi với nhau. Tôi có nghe giáo dân bàn tán về việc ai muốn học đi học làm phó tế thì không cần hiểu biết mầu nhiệm Thánh Thể làm gì. Cũng không cần có trình độ học vấn căn bản. Đầu óc rối loạn về đức tin cũng không sao. Chỉ cần mua giúp hội iLarazô vài bàn ăn ở Kim Sơn mỗi năm thì ông HHT sẽ ký giấy, giới thiệu cho đi học. Quyền hành của ông HHT nghe đồn là lớn lắm. Học ngu học dốt đến thế nào ông cũng có thể giúp làm phó tế hết.
Anh chị em còn nhớ ngày xưa ai muốn đi tu là cả một vấn đề. Nào là phải tìm linh hướng, tìm hiểu ơn gọi, gia đình bố mẹ phải có hôn nhân tốt, rồi phải có giấy giới thiệu của nhiều người và của linh mục chánh xứ. Hồi tôi còn nhỏ, tôi muốn đi tu. Má tôi nói “mặt mày ngu quá. Không biết dòng nào sẽ nhận mày?” Nếu má tôi còn sống đến ngày này, bà không thể ngờ được là ngày nay có người mua bán ơn gọi. chức thánh. Không ai tự hỏi “Chúa có gọi tôi không?” Trái lại, người ta hỏi “Phải mua bao nhiêu bàn ăn” rồi mới có giấy giới thiệu và chữ ký để đi học. Một sự đảo điên như thế đang xảy ra chỉ vì hai điều. Một, người ta lộng quyền, lộng hành, không sợ ai hết. Hai, không ai muốn lên tiếng hay dám lên tiếng vì không ai muốn bị liên lụy. Cách đây 4 tháng, tiểu bang Pennsylvia công bố tên của hơn 300 linh mục lạm dụng tình dục với hơn 1000 trẻ em. Cách đây vài ngày, tiểu bang Illinois công bố tên của hơn 695 linh mục lạm dụng quyền hành qua sự xâm phạm tình dục với trẻ em. Những sự việc trên xảy ra chỉ vì không ai lên tiếng báo động, hay có người cho rằng những việc trên không phải là việc của họ. Họ nói “chống cha, chống thầy là chống Chúa.” “Họ có chức thánh, để Chúa xử.” Họ chỉ muốn được yên thân không muốn bị dính líu. Ông HHT không có rơi vào những cưỡng bức tình dục với trẻ em, nhưng những sai trái về quyền hành, Đức Tin và Giáo Luật thì đã rất rõ ràng. Mà những việc này đã và đang xảy ra chỉ vì anh chị em đã thinh lặng không dám lên tiếng. Bây giờ anh chị em trong gx sẽ có hành động gì sau khi tôi đã trưng bày mọi sai trái về đức tin và việc làm của ông? Tài liệu chứng minh còn nằm ở 2 cái youtube trên mạng. Anh chị em sẽ tiếp tục Im lặng vì sợ? Hay trả lời là việc này không phải việc của anh chị emi? Vậy đến khi nào thì mới là việc của anh chị em? Khi nó ảnh hưởng đến đời sống đức tin hay làm hại một vài người thân thương trong gia đình anh chị em phải không? Anh chị em đọc email này, nếu thấy tôi nói sai điều gì thì cho tôi biết. Tôi rất phục thiện và sẽ nhận lỗi nếu anh chị em chỉ tôi biết tôi sai điều gì.
Nguyễn Hưng An
Cách đây vài tuần, tôi có xem 2 đoạn phim thu qua youtube về việc 2 vợ chồng ông HHT lên đài truyền hình của ông Hải Lê để quảng cáo chương trình iLazarô của ông. Sau một vài phút xem 2 vợ chồng HHT lịch thiệp với nhau qua cách xưng hô anh anh chị chị như 2 đồng nghiệp, tôi có 4 nhận định muốn nói ra ở đây. Bốn nhận định đi từ (1) sự trình bày thiếu thành thật về thân thế và sự điều hành của chương trình iLazarô, (2) sự thiếu hiểu biết về chức thánh của một tu sĩ, (3) sự thiếu can đảm tuyên xưng đức tin của một tu sĩ Công Giáo, (4) và sự rao giảng sai lầm về thần học Công Giáo.
Thứ nhất, trong chương trình quảng cáo về hội bác ái iLazarô youtube số 1, https://www.youtube.com/watch?v=4-6Jw6a5bH8&feature=youtu.be, hai vợ chồng HHT đã thiếu thành thật khi không tiết lộ thân thế cá nhân cũng như tình trạng gia đình của hai người trong vấn đề điều hành của chưong trình. Khán giả chỉ biết tên họ của ông HHT qua cái tên Peter Hoàng. Còn tên của người vợ là Kim Phượng, không để tên họ. Khán giả xem đài ông Hải Lê không hề biết hai người là 2 vợ chồng. Hai người cứ xưng hô anh anh, chị chị với nhau như hai đồng nghiệp có cùng chung một chí hướng cho người nghèo. Tại sao lại giấu diếm tình trạng hôn nhân của 2 người? Thông thường, khi người ta đóng góp tiền cho bất cứ một tổ chức nào, người ta muốn biết tiền của người ta cho sẽ được xử dụng như thế nào. Bởi thế người đóng góp muốn biết người điều hành là ai? Người phụ tá là ai? Thủ quỹ, thư ký là ai? Thân thế, tiểu sử của những quản trị chương trình là gì? Nhưng khi một tổ chức được điều hành bởi 2 vợ chồng thì theo nhận định chung người ta cảm thấy có gì không ổn vì đã có rất nhiều cuộc lừa lọc về tiền bạc khi một tổ chức được điều hành bởi hơn 1 người cùng gia đình. Hồi tháng 5, 2018, Tổng Giáo Phận Galveston-Houston có ra một luật mới. Nếu chồng là một Giám Đốc chương trình như dạy giáo lý (Director of CCE), và vợ là thư ký hay giữ một chức vụ nhỏ hơn chồng trong cùng một giáo xứ, thì một trong hai người phải nghỉ việc, hoặc không thể làm việc chung. Luật mới đưa ra nhằm chận đứng cái gọi là “appearance of impropriety” (nghi ngờ có lỗi luật) giữa sự liên hệ hay thông đồng giữa 2 vợ chồng về vấn đề tiền bạc. Vợ nể chồng, chồng nể vợ. Một trong hai người sẽ không dám lên tiếng tố cáo hay phàn nàn nếu người kia phạm lỗi. Có khi cả hai người đều đồng lõa trong những chi tiêu không chân chính. Hôm December 18, 2018, tòa án Liên Bang ở New York đã thu hồi bằng hoạt động và giải tán Chương Trình Bác Ái của gia đình ông Tổng Thống Trump (Trump Foundation) và cấm luôn Tổng Thống Trump, cùng 2 người con trai, và 1 người con gái, không đươc giữ chức vụ điều hành bất cứ môt hội bác ái nào trong vòng 10 năm. Trong lịch sử Hoa Kỳ, chưa bao giờ một Tổng Thống bị tòa án Liên Bang cấm như vậy. Lý do: Cả 4 người đều thông đồng trong nhiều chi tiêu bất chính. Họ đã dùng tiền đóng góp vào hội Bác Ái Trump Foundation để mua những đồ vật quý giá để trang trí gia đình của họ. Họ cũng dùng Hội Bác Ái Trump để chuyển ngân bất hợp pháp, và mua bán quyền lợi cho những ai muốn hối lộ họ. Chúng ta cũng biết là hội iLazarô được đẻ ra sau khi Hội Bác Ái Phanxicô của linh mục hồi tục Trịnh Tuấn Hoàng, trong chức vụ tuyên úy, bị tố cáo là thâm thủng tiền bạc. Và linh mục Trịnh Tuấn Hoàng đã hồi tục, sau khi bị nhà dòng cấm không được tham gia vào bất cứ chương trình bác ái nào cho đến suốt đời.
Thứ hai, ông HHT là phó tế của Tổng Địa Phận Galveson/Houston từ năm 2007. Chức phó tế này gắn liền với cuộc sống của ông ở mọi nơi, mọi lúc sau khi ông nhận chức thánh. Ấn thánh này, tuy không đầy đủ như ấn thánh của linh mục hay giám mục, nhưng ấn thánh đã in dấu không phai trong con người của một phó tế và làm cho bản thể (ontology) của ông mỗi ngày một thay đổi, qua đời sống và hành động, để ông trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn. Dấu ấn này, giống như dấu ấn qua phép Rửa Tội và Thêm Sức, khi đã in dấu, thì không thể xóa được (indelible mark). Tiến trình của sự thay đổi toàn diện bản thể con người của một người đã có ấn thánh được goi là “an ontological change.” (Ontology là môn học về bản thề hay “what is”) Thế nhưng khi cổ động chương trình iLazaro ở đài truyền hình của ông Hải Lê, ông HHT đã không hề giới thiệu ông là phó tế. Tại sao lại giấu diếm? Có phải vì ông cổ động cho một chương trình cá nhân mà không xin phép ĐGM, người bề trên của ông, người đã trao ấn thánh cho ông, người mà ông đã hứa là sẽ vâng lời trong mọi việc? Hay là ông đã tham gia vào một chương trình dính dáng đến tiền bạc, có sự cộng tác của vợ, cho dù ông không đứng tên là Giám Đốc Điều Hành? Nếu việc ông làm không có gì là quan trọng, hay không có gì là lỗi phạm, tại sao ông không danh chánh ngôn thuận xin phép Đức Hồng Y, Giám Mục của Tổng Giáo Phận? Đài truyền hình của ông Hải Lê nằm trong địa hạt (jurisdịction) của Tổng Giáo Phận (xin đọc Giáo Luật 518), tại sao ông làm việc trong Tổng Giáo Phận mà không xin phép? Nhưng ngay cả nếu ông đi qua tiểu bang khác để quảng cáo chương trình iLarazo, ông vẫn là một tu sĩ (cleric) của Tổng Giáo Phận và của cả Giáo Hội qua ấn thánh ông đã nhận, và do đó ông bị ràng buộc với trách nhiệm đối với Giáo Hội và Tổng Giáo Phận. Tại sao ông không xin phép? Tại sao ông lại không dám làm việc ấy? Chức vụ phó tế không phải là của riêng để ông giữ. Qua chức vụ phó tế, ông trở nên một người của cộng đồng. Ông không thể dùng nó để cùng với vợ tính chuỵên làm ăn riêng.
Thứ ba, trong youtube 1, ở phút 3:28, và 14:38 (in bấm link) https://www.youtube.com/watch?v=4-6Jw6a5bH8&feature=youtu.be khi quảng cáo cho chương trình iLazarô của ông, ông đã chọn và dùng một vài từ ngữ không mang tính chất truyền thống Công Giáo Việt Nam nữa. Đó là từ “Trời” và “Thượng Đế.” Trong đạo Do Thái, tên của Chúa (YAHWEH, hay EL, hay Elohim, hay Eloah) bị cấm đọc và viết. Riêng chữ Yahweh thường được viết là YHWH vì các nguyên âm đã được lấy ra để người ta không thể phát âm được để tỏ lòng tôn kính Tên của THIÊN CHÚA). Nhưng trong truyền thống của đạo Công Giáo Hoàn Vũ, tên của Chúa (YAHWEH hay EL, hay Elohim hay Eloah), được đọc, được phát âm, và được phiên dịch ra tiếng bản xứ. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam dịch tên của Chúa là Thiên Chúa hay Chúa. Còn các nhóm đạo Tin Lành dịch tên Chúa là Thượng Đế để tránh việc xử dụng hay gọi trùng tên “Thiên Chúa” với đạo Công Giáo vì đạo Công Giáo ở VN còn được gọi là đạo Thiên Chúa. Từ ngữ “Trời” hay “Ông Trời” là từ rất quen tai với những người theo Phật Giáo. Như thế, có phải khi ông HHT chọn đọc và dùng chữ “Trời” hay “Thượng Đế” trong quảng cáo của ông, và không một lần dùng hay đọc chữ “Thiên Chúa,” hay “Chúa,” ông HHT đã không dám tuyên xưng đức tin của ông là một phó tế của đạo Công Giáo? Có phải trọng tâm của quảng cáo của ông là nhắm vào 2 nhóm Tin Lành và Phật Giáo, và sự dùng hay đọc chữ “Thiên Chúa” hay “Chúa” sẽ làm cho ông mất đi một số người ủng hộ chương trình của ông vì họ không thích đạo Công Giáo? Vậy chương trình iLazarô của ông quan trọng hơn chức thánh và đức tin Công Giáo của ông phải không? Có phải đồng tiền và lợi lộc thế gian làm ông quên mất trọng trách của ông là mở mang nước Chúa qua sứ mạng truyền bá đức tin của một phó tế, một tông đồ? Ông không hãnh diện với chức thánh, và đức tin Công Giáo của ông thì ông lên đọc sách Thánh trong các thánh lễ ở giáo xứ làm gì? Ông hãy suy nghĩ xem câu cuối của mỗi bài đọc trong thánh lễ sẽ trở nên quái dị như thế nào nếu ông xướng “Đó là Lời Thượng Đế,” thay vì “Đó là Lời Chúa..“ Rồi các câu xướng khác sẽ thay đổi như “Đây Chiên Thượng Đế,” thay vì “Đây Chiên Thiên Chúa;” “Vinh danh Thương Đế,” thay vì “Vinh danh Thiên Chúa.” Ông là một phó tế người Việt Nam, phụ giúp lễ VN, hơi thở, nhịp tim của ông phải thấm nhuần những từ ngữ xử dụng trong truyền thống Đạo Công Giáo VN, thế nhưng ông xử dụng những từ không có được chấp nhận bởi Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Trong youtube 2 https://www.youtube.com/watch?v=13IJAIpGF4s&feature=youtu.be, ở phút 2:38, ông lên hình Phật Thích Ca, thuyết minh triết lý Phật Giáo về “phương cách giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ.” Tôi thắc mắc ông là môt phó tế của Đạo Công Giáo, nhưng ông lại trình bày triết lý Phật Giáo. Giáo Hội Công Giáo có cho phép ông “giảng” hay “thuyết” như thế không? Hay ông đang trình bày triết lý Phật Giáo theo lối khái niệm “đạo nào cũng tốt,” “đạo nào cũng dạy con người hướng thiện?” Nếu khái niệm trên là đúng, vây đạo nào cũng đưa dẫn con người đến cùng một Chân Lý, có phải vậy không ông? Người ta có thể theo Phật Thích Ca hay theo Chúa Giêsu để tìm ra Chân Lý, có phải vậy không ông? Hay là ông muốn trình 2 chân lý khác nhau? Một của Phật Thích Ca? Và một của Chúa Giêsu? Có mấy Chân Lý hả ông? Tôi không hề có ý chê bai triết lý Phật Giáo ở đây. Tôi là người Công Giáo, muốn hỏi ông là một phó tế Công Giáo, xin ông trả lời cho tôi trong truyền thống Công Giáo là tôi phải theo ai để tìm đến Chân Lý? Ông có thể trả lời cho tôi được không? Hồi lúc ông học ở Đại Chủng Viện để trở thành Phó Tế, có giáo sư nào nói cho ông biết là Phât Giáo không có Thần Học, và Công Giáo không có triết học không ông? Ông có hiểu tại sao không? Thần học, chữ Thần (Theo) là môn học nói về Thiên Chúa, không phải nói về con người. Trái lại, Đaọ Phật trình bày Phật Thích Ca là một con người giống như ông và tôi, tức là không phải là Thần, không phải là Thiên Chúa. Phật Thích Ca do chính bản năng con người của ông, không nhờ ai giúp, đạt được giác ngộ, thoát khỏi kiếp trầm luân hay bể khổ. Bởi thế Đạo Phật không có Thần Học. Trái lại, Đạo Công Giáo không có triết lý vì triết lý là sự suy luận, sự phỏng đoán, tìm lý lẽ qua những tư tưởng trừu tượng. Đạo Công Giáo có Ngôi Lời Nhập Thề tức là Thần Trí của Thiên Chúa trờ thành Con Người bằng xương bằng thit, tức là không còn trừu tượng nữa. Ông HHT, ông có hiểu điều này không? Sự đần độn của ông đến mức nào rồi? Nếu ông không hiểu điều này, tại sao ông lại đòi giảng trong nhà thờ. Ông không thể trộn lộn hai đạo Phật Giáo và Công Giáo với nhau được. Triết lý Phật Giáo dạy rằng Phật Thích Ca đạt được giác ngộ, tự giải thoát cho chính mình. Trái lại, Thần Học Công Giáo dạy, con người không sao tìm được ơn Cứu Độ nếu không có Thiên Chúa phụ giúp. Như thế, con người không thể tự cứu mình được. Do đó các từ “Giác Ngộ” hay “Cứu Đô” theo triết lý Phật Giáo không có đồng nghĩa với các từ “Giác Ngộ” hay “Cứu Độ” trong thần học Công Giáo. Đức tin của hai đạo hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy ông HHT, ông suy nghĩ như thế nào mà cứ “giảng/thuyêt” song song những lời của Phật và những lời của Chúa Giêsu?
Trong phút 3:05 của youtube 2, ông HHT lại nhập nhằng trộn lộn triết lý Phật và Thần học Công Giáo. Ông nói, “Nguồn gốc sâu xa nhất của đau khổ là nó từ trong tâm tư của mỗi người.” Rồi ông nói, “hạnh phúc hay đau khổ là do sự chọn lựa của mỗi người.” Sao lại như vậy? Nếu tôi cho ông biết cùng đích của sự đau khổ là sự chết và sự chết đến với thế gian qua sự không vâng lời của ông Adam và bà Evà thì ông sẽ trả lời ra sao? Câu truyện ông Adam và bà Evà không vâng lời Thiên Chúa và hậu quả ông bà gây ra cho toàn thể nhân loại, thuật lại trong Sách Sáng Thế Ký ông có đọc không? Tôi thấy ông “hội thảo” về ý nghĩa của “đau khổ” theo triết lý Phật Giáo, và hoàn toàn không bàn về sự sống lại theo niềm tin của đạo Công Giáo. Tên Larazô của hội iLarazô là một nhân vật lịch sử trong phúc âm của Thánh Gioan. Ông ta là một trong vài người mà Chúa Giêsu đã chọn để ban ơn hiểu biết về niềm vui của sự sống lại, một ước vọng cùng đích của tất cả mọi người Công Giáo, vì nếu không tin vào sự sống lại thì không có Đạo Công Giáo. Ông HHT, ông chọn tên Larazô mà không hiểu ý nghĩa của nó. Tại sao ông không chọn một tên khác như iThichQuangDuc để phù hợp với lối thuyết minh của ông?
Ở phút 4:58 ở youtube 2, ông lại dùng triết học Phật Giáo để thuyết minh. Ông nói, “Cuộc sống không phải là một đích điểm, mà chỉ là một hành trình với vô số các sự việc nối tiếp mà chúng ta đang trải nghiêm từng giây, từng phút.” Vậy sao? Thế ông “giảng” như thế nào khi trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói, “Ta đến để ban cho các con sự sống và ban sự sống sung mãn” (Jn 10:10). Và “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Jn 14:6). Ông HHT, ông theo đạo Công Giáo từ bao giờ? Ông được rửa tội từ thuở bé hay ông theo đạo vợ? Hay ông là tu sĩ Phật Giáo trước khi ông theo đạo Công Giáo? Tôi không hiểu tại sao Đại Chủng Viện lại đề nghị cho ông chịu chức khi mà ông hoàn toàn lầm lạc giữa hai đức tin trái ngược nhau? Với những tư tưởng trái ngược nhau như vậy, ông làm bài như thế nào để nộp cho các giáo sự để họ chấm điểm bài của ông? Giả sử như ông rành cả tín lý Công Giáo và tư tưởng triết học của Phật Giáo, Giáo Luật nào cho phép một phó tế mang chức thánh rao giảng một cách lầm lạc như vậy? Ông lấy gạo ở nhà này rồi qua nấu cơm ở nhà khác. Khởi đầu qua sự không vâng lời ĐGM khi ông điều hành hội iLazarô, ông đã đi đến quyết định muốn giảng gì thì giảng, không ai có quyền ngăn cản ông, có phải vậy không? Hay là ông chỉ dùng Giáo Hội Công Giáo, chức vụ phó tế, và Triết Lý Phật Giáo để làm bàn đạp cho cái đạo (hội) iLarazô của ông? Ông chỉ biết có ông và gia đình ông thôi. Người nghèo bị xử dụng như bình phông để ông vơ của.
Về việc ông cổ động chương trình iLazarô của ông, cho dù ông để cho vợ ông làm Giám Đốc Điều Hành, tôi muốn nêu ra những Giáo Luật mà ông, một Phó Tế Vĩnh Viễn, đã phạm.
Giáo Luật 273: Đòi hỏi một phó tế (cleric) phải tôn kính và vâng lời ĐGM bản quyền
Giáo Luật 277. Đòi hỏi một cleric phải hành xử một cách thận trọng qua sự quen biết hay làm việc chung với những người hay công ty mà nó có thể gây tiếng xấu cho các tín hữu. (qua việc cộng tác đài truyền hình Hải Lê)
Giáo Luật 278, đoạn 3. Một cleric bị bó buộc không được thiết lập, hay tham gia một tổ chức mà mục đích của nó gây khó khăn hay mâu thuẫn với lại bổn phận của người ấy.
Ngoài những vi phạm luật tôi nêu lên đây, tôi còn nghe những ta thán về sự sắp xếp Thừa Tác Viên Thánh Thể trong thánh lễ tiếng Việt do vợ ông HHT đảm nhận. Những ai mà ông bà HHT không thích là không được sắp xếp theo sự công bằng để trao Mình Thánh Chúa. Sự ta thán này, đúng hay sai thì chưa rõ. Nhưng nó đưa đến một một cái nhìn không đẹp về một hoàn cảnh đạo đức (situation ethics), qua sự tương quan giữa chồng và vợ với sự trọn quyền hành trong cùng một công tác mục vụ, cũng giống sự suy luận với luật mới của địa phận không cho phép chồng và vợ có mối tương quan trong lãnh vực văn phòng như đã trình bày ở trên. Sự khác biệt ở đây chỉ là sự ngờ vực về khía cạnh đạo đức (ethics) vì hai vợ chồng làm không lương. Nhưng quan trọng hơn cả là sự lầm lạc về đức tin của hai người. Qua những “thuyết minh” của ông HHT ở đài truyền hình ông Hải Lê, ông đã tự chứng minh là ông không hiểu và không biết ơn cứu độ từ đâu đến. Ông không xác tin Chúa Giếsu hay Phật Thích Ca là người nào mà ông phải theo. Ông đưa ra những lời khuyên giúp người ta thoát khỏi sự khổ đau theo triết Phật mà ông không hề nhắc đến sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, Đấng đã đến để giải thoát sự khổ và sự chết. Ông đứng phụ lễ bàn thờ mà ông không hế hiểu được tại sao lại có Mình và Máu thật sự của Chúa Giêsu ở bí tích Thánh Thể. Và vì ông không hiểu được đức tin căn bản này, ông không có lòng mến Bí Tích Thánh Thể. Đức tin sai lạc như thế thì nên tự xử, tự từ chức, để khỏi gây ra những tai tiếng xấu thêm cho gx SEAS và gây khủng hoảng đức tin cho giáo dân. Vợ ông cũng thế. Đã không hiểu mầu nhiệm Mình và Máu Thánh của Chúa Giêsu thì giữ nhiệm vụ cắt đặt Thừa Tác Viên Thánh Thể để làm gì? Đây không phải là một cái “job.” Đây là một “sứ vụ,” một “ministry” thấm nhuần trong đức tin. Tại sao những Thừa Tác Viên TT lại có thể chịu đựng sự cắt đặt nhiêm vụ từ một cặp vợ chồng đang trong tình trạng khủng hoảng đức tin như vậy? Tại sao một linh mục q/n lại cho phép người không có đức tin phụ giúp bàn thờ? Thông đồng lợi lộc chăng? Tại sao giáo dân của gx SEAS lại chịu một cảnh rối loạn như vậy?
Đối với anh chị em của gx SEAS, tôi chu toàn nhiệm vụ của tôi là vạch ra sự dối trá của hai vợ chồng này. Còn anh chị em trong gx khi nào thì chu toàn nhiệm vụ của anh chị em? Tại sao lại cứ tiếp tục ủng hộ hội iLarazô khi biết hoạt động của hội không có minh bạch? Đã có ai nhận được báo cáo chi thu của hội chưa? Sự đổ vỡ của hội bác ái Phanxicô chưa làm anh chị em thức tỉnh (giác ngộ) hay sao? Tại sao lại phải cắn răng bực dọc khi bị ép mua vé ủng hộ hội iLarazô qua việc đặt bàn ăn ở tiệm Kim Sơn mỗi khi vợ chồng HHT ép anh chị em mua vé? Nếu muốn giúp ai ở VN thì tại sao không gởi thẳng cho người ấy, hay gia đình của họ? Tại sao lại phải bị ép buộc giúp đỡ qua hội này hội kia mà không bao giờ biết được tiền chi tiêu như thế nào?
Tôi thấy đường hướng của hội iLarazô cũng đi giống như hội bác ái Trump (Trump Foundation). Người ta dùng hội để mua bán chức tước, trao đổi quyền lợi với nhau. Tôi có nghe giáo dân bàn tán về việc ai muốn học đi học làm phó tế thì không cần hiểu biết mầu nhiệm Thánh Thể làm gì. Cũng không cần có trình độ học vấn căn bản. Đầu óc rối loạn về đức tin cũng không sao. Chỉ cần mua giúp hội iLarazô vài bàn ăn ở Kim Sơn mỗi năm thì ông HHT sẽ ký giấy, giới thiệu cho đi học. Quyền hành của ông HHT nghe đồn là lớn lắm. Học ngu học dốt đến thế nào ông cũng có thể giúp làm phó tế hết.
Anh chị em còn nhớ ngày xưa ai muốn đi tu là cả một vấn đề. Nào là phải tìm linh hướng, tìm hiểu ơn gọi, gia đình bố mẹ phải có hôn nhân tốt, rồi phải có giấy giới thiệu của nhiều người và của linh mục chánh xứ. Hồi tôi còn nhỏ, tôi muốn đi tu. Má tôi nói “mặt mày ngu quá. Không biết dòng nào sẽ nhận mày?” Nếu má tôi còn sống đến ngày này, bà không thể ngờ được là ngày nay có người mua bán ơn gọi. chức thánh. Không ai tự hỏi “Chúa có gọi tôi không?” Trái lại, người ta hỏi “Phải mua bao nhiêu bàn ăn” rồi mới có giấy giới thiệu và chữ ký để đi học. Một sự đảo điên như thế đang xảy ra chỉ vì hai điều. Một, người ta lộng quyền, lộng hành, không sợ ai hết. Hai, không ai muốn lên tiếng hay dám lên tiếng vì không ai muốn bị liên lụy. Cách đây 4 tháng, tiểu bang Pennsylvia công bố tên của hơn 300 linh mục lạm dụng tình dục với hơn 1000 trẻ em. Cách đây vài ngày, tiểu bang Illinois công bố tên của hơn 695 linh mục lạm dụng quyền hành qua sự xâm phạm tình dục với trẻ em. Những sự việc trên xảy ra chỉ vì không ai lên tiếng báo động, hay có người cho rằng những việc trên không phải là việc của họ. Họ nói “chống cha, chống thầy là chống Chúa.” “Họ có chức thánh, để Chúa xử.” Họ chỉ muốn được yên thân không muốn bị dính líu. Ông HHT không có rơi vào những cưỡng bức tình dục với trẻ em, nhưng những sai trái về quyền hành, Đức Tin và Giáo Luật thì đã rất rõ ràng. Mà những việc này đã và đang xảy ra chỉ vì anh chị em đã thinh lặng không dám lên tiếng. Bây giờ anh chị em trong gx sẽ có hành động gì sau khi tôi đã trưng bày mọi sai trái về đức tin và việc làm của ông? Tài liệu chứng minh còn nằm ở 2 cái youtube trên mạng. Anh chị em sẽ tiếp tục Im lặng vì sợ? Hay trả lời là việc này không phải việc của anh chị emi? Vậy đến khi nào thì mới là việc của anh chị em? Khi nó ảnh hưởng đến đời sống đức tin hay làm hại một vài người thân thương trong gia đình anh chị em phải không? Anh chị em đọc email này, nếu thấy tôi nói sai điều gì thì cho tôi biết. Tôi rất phục thiện và sẽ nhận lỗi nếu anh chị em chỉ tôi biết tôi sai điều gì.
Nguyễn Hưng An
GÓP Ý VỀ LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Cách đây mấy hôm linh mục chánh xứ Reynolds gởi thư cho toàn thể giáo dân của GX Saint Elizabeth Ann Seton, khẩn khoản xin giáo dân đóng góp cho chương trình gây quỹ địa phận Ignite. Linh mục chánh xứ đề nghị các khoản tiền từ 3000 đến 230,000 đồng mỗi gia đình. Tôi đọc thư của linh mục Reynolds rồi ngẫm nghĩ đến sự khôi hài, mâu thuẫn, và trơ trẽn của sự quyên góp này.
Nguyên nhân của các tâm tình xáo trộn trong tôi đến từ một việc mà nó đã xảy ra cách đây hồi tháng 4, 2018. Lúc ấy, có vài người VN tha thiết đến đời sống thiêng liêng của cộng đồng VN tại GX SEAS. Họ đã viết 1 lá thư lên linh mục chánh xứ Reynolds, trình bày về những lạm dụng trong phụng vụ của linh mục quản nhiêm Vi Trần, như làm lễ như người say rượu, hay tráo nước nho (grape juice) với rựơu nho (altar wine) khi dâng Lễ Tro trong mùa Chay vừa qua. Linh mục Reynolds có gọi mấy người VN đã ký tên vào lá thư khiếu nại đến họp. Trong buổi họp có thầy sáu Tửu hiện diện. Sau khi hỏi thăm mấy người VN về lá thư mà chính họ đã ký, linh mục chánh xứ Reynolds quay sang hỏi thấy sáu Tửu, “Ông nghĩ sao? (Tiếng Anh nguyên văn là “What do you think?” Chủ từ “you” trong câu hỏi nếu dịch ra tiếng Việt thì cũng mang nhiều nghĩa tùy theo sự tôn trọng hay thiếu tôn trọng của người hỏi. Nó có thể là “Thầy sáu nghĩ sao? Hay là “Mầy nghĩ sao?” Thầy sáu Tửu bị mắc kẹt không trả lời được. Nếu thầy sáu bênh mấy người VN đã gởi thư khiếu nại thì linh mục chánh xứ sẽ không cần thầy sáu làm việc nữa. Như thế thì làm sao mà thầy có chỗ để bán vé cho cái hội ILazarô của thầy. Nếu thầy bênh linh mục chánh xứ thì thầy làm sao bán vé ủng hộ hội Ilazarô cho mấy người VN. Thế mới biết chánh xứ Reynolds cũng thủ đoạn khi đặt câu hỏi gây chia rẽ trong cộng đoàn người Việt.
Khi thầy sáu Tửu không trả lời được câu hỏi của linh mục chánh xứ Reynolds, linh mục này hống hách đuổi mấy người VN ra khỏi phòng họp. Linh mục này nói, “Các ông (hay chúng mày) là những người phá hoại (troublemakers). Mấy ông (chúng mày) không có đóng góp (tiền bạc) gì cho giáo xứ, cho nên không được khiếu nạị gì hết…”
Sự trơ trẽn của vấn đề là qua việc xua đuổi những người VN đã viết thư khiếu nại, linh mục chánh xứ Reynolds đã hành động trái luật, lạm dụng quyền hành, và trốn tránh trách nhiệm của một chánh xứ. Theo Giáo Luật 212, đoạn 2 và 3 có ghi bằng Anh ngữ:
The Christian faithful are free to make known their needs, especially spiritual ones, and their desires to the pastors of the Church. (Cannon 212, paragraph #2)
In accord with the knowledge, competence and preeminence which they possess, they have the right and even at times a duty to manifest to the sacred pastors their opinion on matters which pertain to the good of the Church, and they have a right to make their opinion known to the other Christian faithful, with due regard for the integrity of faith and morals and reverence toward their pastors, and with consideration for the common good and the dignity of persons. (Cannon 212, paragraph #3)
(Tạm dịch)
Người tín hữu được tự do trình bày, nhất là những nhu cầu về đời sống thiêng liêng, và những ước ao của họ đến những linh mục chánh xứ (GL 212, Đ. 2)
Phù hợp với kiến thức, khả năng, và tài năng mà họ có, họ (giáo dân) có quyền và có lúc có bổn phận bày tỏ đến các linh mục chánh xứ, các ý kiến trên vấn đề có liên quan đến việc lợi ích cho Giáo Hội, và họ có quyền trình bày ý kiến của họ đến các giáo dân khác, với sự quan tâm đến vấn đề thuộc về tín lý và tôn trọng đến cách chánh xứ của họ, và với sự tôn trọng đến lợi ích chung cũng như nhân phẩm của mọi người. (GL 212, Đ. 3)
Không có đoạn nào trong Giáo Luật 212 hay bất cứ Giáo Luật nào trong Giáo Hội Công Giáo đòi hỏi giáo dân phải đóng tiền cho GX rồi mới đựợc khiếu nại. Sự khôi hài của vấn đề là bây giờ chánh xứ Reynolds lại gởi thư đến toàn thể giáo dân xin tiền cho chương trình gây quỹ cho địa phận. Vậy giáo dân VN có nên đóng góp hay không đóng góp? Sự đóng góp sẽ nên như thế nào để nhắc lại sự trơ trẽn, sự lộng hành, sự trốn tránh trách nhiệm của một người chủ chiên? Có nên đóng góp khi những sai trái trong cộng đoàn VN vẫn chưa được sửa sai? Có nên đóng góp khi những chi tiêu trong giáo xứ đã như gáo nước lạnh tạt vào mặt giáo dân, khi chủ chiên đã xây những bàn quỳ xung quanh cung thánh trái với tinh thần Vatican II? Tôi chẳng bao giờ đề nghị bất cứ ai làm điều gì thiệt hại cho giáo xứ, hay cho địa phận. Nhưng cá nhân tôi có tinh thần trách nhiệm với toàn thể Giáo Hội, và tôi phải hành xử theo sự hiểu biết đó.
Cùng với việc xin tiền của linh mục chánh xứ Reynolds trong tuần qua, tôi muốn trình bày lên ý nghĩa của bài thánh kinh của thánh sử Marcô trong tuần 32 mùa thường niên, năm B, 2018, tức hôm Chủ Nhật ngày 11 tháng 11, năm 2018. Ý nghĩa giải thích bài thánh kinh này không phải của tôi, nhưng là của Linh Mục Eugene Hensen, OSB, dòng Biển Đức. Linh mục Eugene có bằng Tiến Sĩ về Kinh Thánh. Linh mục Eugene đã được mời về giảng phòng ở một giáo xứ gần nhà đứa con rể của tôi ở Houston. Bài giảng phòng chú ý hoàn toàn đến những đoạn phúc âm viết bởi thánh sử Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn.”
Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình.”
(Mk 12:38-44)
Theo sự giải thích của Linh Mục Eugene thì sự việc bà góa nghèo bỏ 2 đồng tiền vào hòm là một “tủi nhục,” một “lỗi đạo,” một “xi-căn-đan” (chữ nguyên bản tiếng Anh là “scandal.”) Tại sao lại là một “tủi nhục” hay là một “lỗi đạo,” một “scandal,” khi mà từ trước đến giờ Giáo Hội Công Giáo luôn giải thích là người nghèo dâng cúng cho Giáo Hội thì luôn quý giá hơn là người giàu khi họ (người giàu) chỉ dâng cúng những dư thừa của họ? Theo sự giải thích của linh mục Eugene, thì người đọc đã quên mất đoạn phúc âm khi Chúa Giêsu vào khu vực Đền Thờ Giêrusalem trước đó một ngày (Chương 11). Chúa Giêsu đã dùng roi và đuổi những người buôn bán trong khu vực Đền Thờ. Ngài nói với những người buôn bán trong Đền Thờ: “Các ngươi đã biến nhà Cha Ta thành một ổ trộm cướp.”
Chúa Giêsu và các môn đệ đến Giêrusalem. Chúa vào Đền Thờ. Ngài bắt đầu đuổi những kể đang buôn bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Ngài không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Đền Thờ. Ngày giảng dạy và nói với họ: Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp. (Mk 11:15-17)
Câu trả lời cho câu hỏi trên là khi một tổ chức tôn giáo như Do Thái Giáo, hay Ki Tô Giáo khuyến khích người nghèo bỏ tiền dâng cúng cho đến lúc họ không có tiền để sinh sống nữa thì tổ chức đó, tôn giáo đó, Giáo Hội đó, đã không còn lưong tâm nữa. Họ bòn vét cho thỏa mãn lòng tham lam của họ. Họ không còn quan tâm đến người nghèo. Họ chỉ quan tâm đến cái túi tiền của họ, cái ‘sào huyệt của bọn cướp.” Trong Kinh Thánh Chúa vẫn dạy, Giáo Hội được thành lập để bảo vệ cho người nghèo, chứ người nghèo không có sống để cung phụng Giáo Hội. Hai đồng xu của bà góa nghèo kia bỏ vào hòm là bị nhóm tư tế quản trị Đền Thờ chia chác. Chúng không quan tâm nếu bà có bị chết đói sau đó. Chúng chỉ biết ăn trên ngồi trước và bắt người ta cung phụng chúng.
(Chúng) ưa dạo quanh, huyênh hoang trong áo dài thụng, thích được chào hỏi ở nơi công cộng, thích chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi đầu bàn trong đám tiệc, thích nuốt tài sản của các bà góa, thích làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu dài. Những người này sẽ bị kết án nghiêm khắc. (Mk 12:38-40)
Còn một điều thiếu sót trong các bài giảng của hàng giáo sĩ Công Giáo về đoạn phúc âm của Marcô ở trên là Chúa Giêsu không hề khuyến khích bà góa nghèo bỏ hết mấy xu tiền để nuôi Đền Thờ đến độ không có tiền mua thức ăn. Ngài chỉ nói là bà đã cho thật nhiều qua sự quảng đại của bà, chứ Chúa không hề khuyên bà dâng cúng đến độ phải sống trong sư túng thiếu, đói khổ. Chúa Giêsu biết cái hòm tiền đặt trong Đền Thánh Jerusalem là do nhóm tứ tế trong đó đặt ra để vơ vét thêm. Nói là tiền bỏ vào hòm sẽ xử dụng cho Đền Thờ, nhưng nhóm tư tế này dễ gi xử dụng tiền vào viêc bảo trì Đền Thờ. Chúa Giêsu đã nói Đền Thờ đã biến thành ổ trộm cướp ở chương 11 trước đó.
Đọc phúc âm của thánh sử Marcô xong tôi liên tưởng đến sự lộng quyền của linh mục chánh xứ Reynolds. Người này thích xài tiền phung phí nhưng chỉ là tiền do người khác đóng góp. Linh mục thích lộng quyền, bất chấp luật, khinh chê người nghèo. Nay linh mục có nhu cầu cần tiền thì quay lại xin tiền từ những người mà linh mục đã đuổi ra khỏi phòng họp.
Tôi liên tưởng đến linh mục phó của GX là Preston. Linh mục này tôn sùng Tổng Thống Hoa Kỳ. Bài giảng tuần nào cũng khen đảng chính trị của ông như là đảng đại diện cho Giáo Hội Công Giáo. Linh mục Preston không hề nghĩ đến Bức Tường Ngăn Cách (the Wall) mà tổng thống Mỹ đang ao ước xây để chận người nghèo vào dất Mỹ. Linh mục quên đi lời Giáo Huấn của ĐGH Phanxicô về người nghèo. Đi tu như thế nào mà sau ngày chịu chức thì quên mất lời hứa phục vụ cho người nghèo. Linh mục này giảng mà không biết lịch sử Giáo Hội Công Giáo được bao gồm bởi những ai, bởi những sắc dân nào? Một số người VN cũng a dua vì thiếu hiểu biết, chống đối người nghèo vượt biên giới vào nước Mỹ. Họ quên mất cái ngày cảm động khi họ đặt chân đến xứ sở này. Khi vượt biên thành công, hay được đoàn tụ gia đình, họ tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, tin rằng việc họ đến nước Mỹ là một phép lạ Chúa ban. Bây giờ Chúa lại ban cho người khác cũng cùng một phép lạ, giúp người nghèo khác đến đất Mỹ, thì một số người VN chống. Họ nghĩ “bà góa nghèo với 2 đồng xu” thì quá nghèo, không xứng đáng thuộc về giai cấp xã hội mà họ đang sống.
Tôi liên tưởng đến linh mục quản nhiệm Vi. Linh mục này thích xưng hô mình là “cha” với mọi người. Linh mục thích nghỉ ngơi một ngày trong tuần mà không bị ai quấy rầy, giống như Thiên Chúa tạo dựng thế gian 6 ngày rồi nghỉ một ngày để xả hơi. Linh mục đi tu như thế nào mà đức tin / thần học lủng củng, viết email cho phép thừa tác viên thánh thể và mấy em giúp lễ uống Máu Thánh Chúa còn dư sau thánh lễ. Linh mục này viết là nếu Máu Thánh vẫn còn dư sau khi thừa tác viên thánh thể đã uống thì các em giúp lễ “xin người uống.” Chữ “người” trong câu mang ý nghĩa “mọi người” hay “bất cứ ai” kể cả các em giúp lễ. Các em giúp lễ nay đảm nhận thêm trách nhiệm kiếm người uống Máu Thánh dư. Linh mục Vi đã sai khi viết “không bắt các em giúp lễ phải uống,” thay vì phải viết là luật buộc không cho các em uống. Sau đó linh mục Vi táo bạo viết, nếu Máu Thánh vẫn còn dư “không ai uống, thì “được phép đổ xuống bồn thánh” phía sau cung thánh.” Những lời dưới đây là email linh mục Vi gởi ra cho mọi người đọc (những chữ in đậm là của linh mục Vi):
Thứ đến tiện đây Cha nhắc chung cho mọi người hiểu về việc uống Máu Thánh dư, để tránh những suy nghĩ không đúng. Trường hợp Máu Thánh dư, chỉ khuyến khích TTV uống giúp mà thôi, nếu không thể uống được thì không ép, không có luật nào bắt buộc các TTV phải uống hết máu Thánh còn dư, TTV Thánh Thể là thi hành nhiệm vụ cao quý, cần lòng đạo đức và tư cách gương mẫu chứ không phải vì người đó uống được Máu Thánh dư.
Nên dặn các em giúp lễ, có thể để Máu Thánh lại phía sau cung Thánh, (sau lễ xin người uống, hoặc không ai uống, thì chúng ta được phép đổ xuống "bồn Thánh" phía sau cung Thánh, không bắt các em giúp lễ phải uống).
Linh mục Vi đã không đọc các văn kiện như: Thủ Bản Mục Vụ (Pastoral Manual) H-14, June 1, 2005), Những Quy Tắc cho việc Rước Lễ (Norms for Communion, 52, 55), Những Chỉ Dẫn Tống Quát Sách Lễ Rôma 284b (General Instructions Roman Missal 284b), Huấn Thị Redemptionis Sacramentum (RS) 107. Những văn kiện này không cho phép các em giúp lễ uống Máu Thánh còn dư sau thánh lễ, và có câu “Bánh và Rượu còn dư sau khi đã thánh hiến không bao giờ được phép đổ vào bồn nước trong phòng thánh.” (“The excess consecrated species must never be poured into the sacrarium or a sink.”). Vì không đọc hay đọc không hiểu hay quá hời hợt với Bí Tích Thánh Thể cho nên linh mục Vi cho phép các em giúp lễ làm những gì mà các văn kiên liên quan đến phụng vụ đã cấm. Sự cấm không phải chỉ là luật ngăn ngừa lạm đụng, bất kinh, nhưng còn dựa trên đức tin, sự hiểu biết, và sự kính trọng Bí Tích Thánh Thể mà chỉ có Giáo Hội Công Giáo có. Việc linh mục viết email cho phép các em giúp lễ (và mọi người) uống Máu Thánh dư và đổ Máu Thánh vào bồn rửa tay không phải là một sơ suất nhỏ, nhưng nói lên sự thiếu hiểu biết về đức tin, về Bí Tích Thánh Thể. Chính các giáo phái Tin Lành vẫn tranh biện là nên đổ (discard) Rượu Thánh (consecrated wine) sau Thánh Lễ vì lúc đó Rượu Thánh đã trở nên rươu thường, và do đó không phải là Máu Thánh Thật của Chúa Ki Tô nữa. Việc linh mục Vi cho phép đổ Máu Thánh vào bồn rửa tay vô hình chung trộn lộn thần học của các nhóm Tin Lành vào Tín Lý Công Giáo.
Linh mục Vi cũng thích tranh biện tay đôi với giáo dân qua qua diễn đàn email thông tin của cộng đoàn. Chuyện riêng tư mà muốn giáo dân phải đọc. Thời gian dành cho tranh biện đáng lẽ nên dành để học hỏi thêm thần học hay tu đức. Linh mục không nhận ra bài giảng Chủ Nhật tuần nào của linh mục cũng giống như lấy từ internet xuống để đọc cho giáo dân nghe để xong cái gọi là bổn phận của một người rao giảng. Bài giảng thiếu tính chất tiên tri và vô cùng hời hợt.
Tôi liên tưởng đến thày sáu Tửu. Không hiểu ai đã tin là thầy có ơn gọi, để rồi đề nghị cho thầy đi học thành thầy sáu? Thầy bán đứng người Việt khi cần để bảo vệ nồi cơm của thầy. Thầy bán đứng ĐHY và Giám Mục Chưởng Ấn khi lên đài Radio 900 ở Houston cùng với linh mục Trịnh Tuấn Hoàng để láo lếu là có giấy phép của ĐHY cho bán vé gây quỹ để giúp cái hội Bác Ái Phanxicô (nay đã giải tán). (Ai chưa biết việc này thì cứ lên mạng, bấm youtube tìm Đài Saigòn 900 AM, tìm đoạn Phỏng vấn Linh mục Trịnh Tuấn Hoàng, Bác Ái Phanxicô, thì sẽ biết sự thật.) Sự việc đổ bể, linh mục Trịnh Tuấn Hoàng đã bị cấm vào địa phận Houston, và nay đã hồi tục. Sau đó, thầy sáu Tửu đẻ ra một hội khác lấy tên là ILazarô để tính chuyện vơ vét tiền bạc của giáo dân nhẹ dạ nữa. Thầy cho vợ đứng tên điều hành để Địa phận khỏi bắt lỗi thầy. Thầy nghĩ là nếu Địa phận không bắt lỗi được thầy thì thầy không có lỗi. Thế nhưng khi hỏi thầy giải thích Giáo Luật 518 về quyền hành và về lãnh thổ (jurisdiction) của Địa Phận thì thầy phát lờ, ra vẻ không hiểu, hay không muốn hiểu.
Thầy phụ lễ ở bàn thờ mà cặp mắt của thầy cứ như quan sát xem ai trong giáo dân còn sót mà thầy chưa bán vé để vơ vét. Thầy thích đọc kinh dài dòng ra điều ta đây đạo đức. Từ ngày chịu chức cho đến giờ kiến thức thần học của thầy không hề thấy tiến bộ. Thầy muốn lên bục giảng đạo đức, nhưng khó mở miệng vì tất cả việc đạo đức luôn luôn bị thử thách với đức vậng lời. ĐHY của địa phận hay ĐGM Chưởng Ấn là những người bề trên trực tiếp của thầy mà thầy không vâng lời thì làm sao mà giảng. Thầy chỉ giỏi luồn cúi, khách sáo, để có nơi buôn bán vé ủng hộ cái hội ILazarô của thầy. Trong Phùc Âm, Chúa Giêsu làm phép lạ cho ông Lazarô sống lại để chứng minh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn thầy cho ông Lazarô sống lại để ổng nấu cơm cho thầy và gia đình của thầy. Không biết thầy còn nhớ 3 lời hứa khi chịu chức sáu không? Ba lời hứa đó là: Tin những gì thầy đọc. Dạy dỗ những gì thầy tin. Thực hành những gì thầy dạy. Không cần phải hỏi cũng biết là thầy không giữ một lời hứa nào. Ôi cũng buồn, thầy không khác những giám mục, linh mục, thầy sáu khác khi chạy đuổi cái lợi lộc cá nhân, quên đi cái chức thánh đã lãnh nhận.
Bài phúc âm tuần 32 thường niên, năm B, cũng là bài nhắm vào những cưỡng bức tình dục mà hàng giáo sĩ trong Giáo Hội Công Giáo đã phạm với các trẻ em. Họ không cướp tiền, cướp nhà của bà góa nghèo, nhưng họ tước đoạt sự trong trắng, sư hồn nhiên của các em, gây cho các em một cuộc sống vô cùng khổ sở về đời sống tình cảm, tâm lý và thiêng liêng khi lớn lên. Nhiều em đã không chịu nổi sự quẫn trí này và đã tự tử. Hiện tại chính phủ của 17 tiểu bang đang điều tra, trong đó có tất cả các địa phận thuộc tiểu bang Texas. Đến tháng Giếng, năm 2019, thì Tổng Giáo Phận Galveston – Houston sẽ công bố tên của những Giám Mục, Linh Mục, Thầy Sáu, các Tu Sĩ của các dòng đang làm việc trong tổng Giáo Phận, những người đã phạm tội và phạm pháp về tội cưỡng bức tình dục với trẻ em. Hy vọng là cuối cùng không phải chỉ 17 tiểu bang, mà là tất cả 50 tiểu bang, toàn nước Mỹ và toàn thế giới, sẽ áp dụng biện pháp thanh lọc để loại ra những kẻ ăn trên ngồi trước, lạm dụng quyền hành, núp bóng sau lưng tôn giáo, tìm lợi lộc cá nhân, và chà đạp nhân phẩm của người nghèo.
Nguyễn Hưng An
Cách đây mấy hôm linh mục chánh xứ Reynolds gởi thư cho toàn thể giáo dân của GX Saint Elizabeth Ann Seton, khẩn khoản xin giáo dân đóng góp cho chương trình gây quỹ địa phận Ignite. Linh mục chánh xứ đề nghị các khoản tiền từ 3000 đến 230,000 đồng mỗi gia đình. Tôi đọc thư của linh mục Reynolds rồi ngẫm nghĩ đến sự khôi hài, mâu thuẫn, và trơ trẽn của sự quyên góp này.
Nguyên nhân của các tâm tình xáo trộn trong tôi đến từ một việc mà nó đã xảy ra cách đây hồi tháng 4, 2018. Lúc ấy, có vài người VN tha thiết đến đời sống thiêng liêng của cộng đồng VN tại GX SEAS. Họ đã viết 1 lá thư lên linh mục chánh xứ Reynolds, trình bày về những lạm dụng trong phụng vụ của linh mục quản nhiêm Vi Trần, như làm lễ như người say rượu, hay tráo nước nho (grape juice) với rựơu nho (altar wine) khi dâng Lễ Tro trong mùa Chay vừa qua. Linh mục Reynolds có gọi mấy người VN đã ký tên vào lá thư khiếu nại đến họp. Trong buổi họp có thầy sáu Tửu hiện diện. Sau khi hỏi thăm mấy người VN về lá thư mà chính họ đã ký, linh mục chánh xứ Reynolds quay sang hỏi thấy sáu Tửu, “Ông nghĩ sao? (Tiếng Anh nguyên văn là “What do you think?” Chủ từ “you” trong câu hỏi nếu dịch ra tiếng Việt thì cũng mang nhiều nghĩa tùy theo sự tôn trọng hay thiếu tôn trọng của người hỏi. Nó có thể là “Thầy sáu nghĩ sao? Hay là “Mầy nghĩ sao?” Thầy sáu Tửu bị mắc kẹt không trả lời được. Nếu thầy sáu bênh mấy người VN đã gởi thư khiếu nại thì linh mục chánh xứ sẽ không cần thầy sáu làm việc nữa. Như thế thì làm sao mà thầy có chỗ để bán vé cho cái hội ILazarô của thầy. Nếu thầy bênh linh mục chánh xứ thì thầy làm sao bán vé ủng hộ hội Ilazarô cho mấy người VN. Thế mới biết chánh xứ Reynolds cũng thủ đoạn khi đặt câu hỏi gây chia rẽ trong cộng đoàn người Việt.
Khi thầy sáu Tửu không trả lời được câu hỏi của linh mục chánh xứ Reynolds, linh mục này hống hách đuổi mấy người VN ra khỏi phòng họp. Linh mục này nói, “Các ông (hay chúng mày) là những người phá hoại (troublemakers). Mấy ông (chúng mày) không có đóng góp (tiền bạc) gì cho giáo xứ, cho nên không được khiếu nạị gì hết…”
Sự trơ trẽn của vấn đề là qua việc xua đuổi những người VN đã viết thư khiếu nại, linh mục chánh xứ Reynolds đã hành động trái luật, lạm dụng quyền hành, và trốn tránh trách nhiệm của một chánh xứ. Theo Giáo Luật 212, đoạn 2 và 3 có ghi bằng Anh ngữ:
The Christian faithful are free to make known their needs, especially spiritual ones, and their desires to the pastors of the Church. (Cannon 212, paragraph #2)
In accord with the knowledge, competence and preeminence which they possess, they have the right and even at times a duty to manifest to the sacred pastors their opinion on matters which pertain to the good of the Church, and they have a right to make their opinion known to the other Christian faithful, with due regard for the integrity of faith and morals and reverence toward their pastors, and with consideration for the common good and the dignity of persons. (Cannon 212, paragraph #3)
(Tạm dịch)
Người tín hữu được tự do trình bày, nhất là những nhu cầu về đời sống thiêng liêng, và những ước ao của họ đến những linh mục chánh xứ (GL 212, Đ. 2)
Phù hợp với kiến thức, khả năng, và tài năng mà họ có, họ (giáo dân) có quyền và có lúc có bổn phận bày tỏ đến các linh mục chánh xứ, các ý kiến trên vấn đề có liên quan đến việc lợi ích cho Giáo Hội, và họ có quyền trình bày ý kiến của họ đến các giáo dân khác, với sự quan tâm đến vấn đề thuộc về tín lý và tôn trọng đến cách chánh xứ của họ, và với sự tôn trọng đến lợi ích chung cũng như nhân phẩm của mọi người. (GL 212, Đ. 3)
Không có đoạn nào trong Giáo Luật 212 hay bất cứ Giáo Luật nào trong Giáo Hội Công Giáo đòi hỏi giáo dân phải đóng tiền cho GX rồi mới đựợc khiếu nại. Sự khôi hài của vấn đề là bây giờ chánh xứ Reynolds lại gởi thư đến toàn thể giáo dân xin tiền cho chương trình gây quỹ cho địa phận. Vậy giáo dân VN có nên đóng góp hay không đóng góp? Sự đóng góp sẽ nên như thế nào để nhắc lại sự trơ trẽn, sự lộng hành, sự trốn tránh trách nhiệm của một người chủ chiên? Có nên đóng góp khi những sai trái trong cộng đoàn VN vẫn chưa được sửa sai? Có nên đóng góp khi những chi tiêu trong giáo xứ đã như gáo nước lạnh tạt vào mặt giáo dân, khi chủ chiên đã xây những bàn quỳ xung quanh cung thánh trái với tinh thần Vatican II? Tôi chẳng bao giờ đề nghị bất cứ ai làm điều gì thiệt hại cho giáo xứ, hay cho địa phận. Nhưng cá nhân tôi có tinh thần trách nhiệm với toàn thể Giáo Hội, và tôi phải hành xử theo sự hiểu biết đó.
Cùng với việc xin tiền của linh mục chánh xứ Reynolds trong tuần qua, tôi muốn trình bày lên ý nghĩa của bài thánh kinh của thánh sử Marcô trong tuần 32 mùa thường niên, năm B, 2018, tức hôm Chủ Nhật ngày 11 tháng 11, năm 2018. Ý nghĩa giải thích bài thánh kinh này không phải của tôi, nhưng là của Linh Mục Eugene Hensen, OSB, dòng Biển Đức. Linh mục Eugene có bằng Tiến Sĩ về Kinh Thánh. Linh mục Eugene đã được mời về giảng phòng ở một giáo xứ gần nhà đứa con rể của tôi ở Houston. Bài giảng phòng chú ý hoàn toàn đến những đoạn phúc âm viết bởi thánh sử Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn.”
Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình.”
(Mk 12:38-44)
Theo sự giải thích của Linh Mục Eugene thì sự việc bà góa nghèo bỏ 2 đồng tiền vào hòm là một “tủi nhục,” một “lỗi đạo,” một “xi-căn-đan” (chữ nguyên bản tiếng Anh là “scandal.”) Tại sao lại là một “tủi nhục” hay là một “lỗi đạo,” một “scandal,” khi mà từ trước đến giờ Giáo Hội Công Giáo luôn giải thích là người nghèo dâng cúng cho Giáo Hội thì luôn quý giá hơn là người giàu khi họ (người giàu) chỉ dâng cúng những dư thừa của họ? Theo sự giải thích của linh mục Eugene, thì người đọc đã quên mất đoạn phúc âm khi Chúa Giêsu vào khu vực Đền Thờ Giêrusalem trước đó một ngày (Chương 11). Chúa Giêsu đã dùng roi và đuổi những người buôn bán trong khu vực Đền Thờ. Ngài nói với những người buôn bán trong Đền Thờ: “Các ngươi đã biến nhà Cha Ta thành một ổ trộm cướp.”
Chúa Giêsu và các môn đệ đến Giêrusalem. Chúa vào Đền Thờ. Ngài bắt đầu đuổi những kể đang buôn bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Ngài không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Đền Thờ. Ngày giảng dạy và nói với họ: Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp. (Mk 11:15-17)
Câu trả lời cho câu hỏi trên là khi một tổ chức tôn giáo như Do Thái Giáo, hay Ki Tô Giáo khuyến khích người nghèo bỏ tiền dâng cúng cho đến lúc họ không có tiền để sinh sống nữa thì tổ chức đó, tôn giáo đó, Giáo Hội đó, đã không còn lưong tâm nữa. Họ bòn vét cho thỏa mãn lòng tham lam của họ. Họ không còn quan tâm đến người nghèo. Họ chỉ quan tâm đến cái túi tiền của họ, cái ‘sào huyệt của bọn cướp.” Trong Kinh Thánh Chúa vẫn dạy, Giáo Hội được thành lập để bảo vệ cho người nghèo, chứ người nghèo không có sống để cung phụng Giáo Hội. Hai đồng xu của bà góa nghèo kia bỏ vào hòm là bị nhóm tư tế quản trị Đền Thờ chia chác. Chúng không quan tâm nếu bà có bị chết đói sau đó. Chúng chỉ biết ăn trên ngồi trước và bắt người ta cung phụng chúng.
(Chúng) ưa dạo quanh, huyênh hoang trong áo dài thụng, thích được chào hỏi ở nơi công cộng, thích chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi đầu bàn trong đám tiệc, thích nuốt tài sản của các bà góa, thích làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu dài. Những người này sẽ bị kết án nghiêm khắc. (Mk 12:38-40)
Còn một điều thiếu sót trong các bài giảng của hàng giáo sĩ Công Giáo về đoạn phúc âm của Marcô ở trên là Chúa Giêsu không hề khuyến khích bà góa nghèo bỏ hết mấy xu tiền để nuôi Đền Thờ đến độ không có tiền mua thức ăn. Ngài chỉ nói là bà đã cho thật nhiều qua sự quảng đại của bà, chứ Chúa không hề khuyên bà dâng cúng đến độ phải sống trong sư túng thiếu, đói khổ. Chúa Giêsu biết cái hòm tiền đặt trong Đền Thánh Jerusalem là do nhóm tứ tế trong đó đặt ra để vơ vét thêm. Nói là tiền bỏ vào hòm sẽ xử dụng cho Đền Thờ, nhưng nhóm tư tế này dễ gi xử dụng tiền vào viêc bảo trì Đền Thờ. Chúa Giêsu đã nói Đền Thờ đã biến thành ổ trộm cướp ở chương 11 trước đó.
Đọc phúc âm của thánh sử Marcô xong tôi liên tưởng đến sự lộng quyền của linh mục chánh xứ Reynolds. Người này thích xài tiền phung phí nhưng chỉ là tiền do người khác đóng góp. Linh mục thích lộng quyền, bất chấp luật, khinh chê người nghèo. Nay linh mục có nhu cầu cần tiền thì quay lại xin tiền từ những người mà linh mục đã đuổi ra khỏi phòng họp.
Tôi liên tưởng đến linh mục phó của GX là Preston. Linh mục này tôn sùng Tổng Thống Hoa Kỳ. Bài giảng tuần nào cũng khen đảng chính trị của ông như là đảng đại diện cho Giáo Hội Công Giáo. Linh mục Preston không hề nghĩ đến Bức Tường Ngăn Cách (the Wall) mà tổng thống Mỹ đang ao ước xây để chận người nghèo vào dất Mỹ. Linh mục quên đi lời Giáo Huấn của ĐGH Phanxicô về người nghèo. Đi tu như thế nào mà sau ngày chịu chức thì quên mất lời hứa phục vụ cho người nghèo. Linh mục này giảng mà không biết lịch sử Giáo Hội Công Giáo được bao gồm bởi những ai, bởi những sắc dân nào? Một số người VN cũng a dua vì thiếu hiểu biết, chống đối người nghèo vượt biên giới vào nước Mỹ. Họ quên mất cái ngày cảm động khi họ đặt chân đến xứ sở này. Khi vượt biên thành công, hay được đoàn tụ gia đình, họ tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, tin rằng việc họ đến nước Mỹ là một phép lạ Chúa ban. Bây giờ Chúa lại ban cho người khác cũng cùng một phép lạ, giúp người nghèo khác đến đất Mỹ, thì một số người VN chống. Họ nghĩ “bà góa nghèo với 2 đồng xu” thì quá nghèo, không xứng đáng thuộc về giai cấp xã hội mà họ đang sống.
Tôi liên tưởng đến linh mục quản nhiệm Vi. Linh mục này thích xưng hô mình là “cha” với mọi người. Linh mục thích nghỉ ngơi một ngày trong tuần mà không bị ai quấy rầy, giống như Thiên Chúa tạo dựng thế gian 6 ngày rồi nghỉ một ngày để xả hơi. Linh mục đi tu như thế nào mà đức tin / thần học lủng củng, viết email cho phép thừa tác viên thánh thể và mấy em giúp lễ uống Máu Thánh Chúa còn dư sau thánh lễ. Linh mục này viết là nếu Máu Thánh vẫn còn dư sau khi thừa tác viên thánh thể đã uống thì các em giúp lễ “xin người uống.” Chữ “người” trong câu mang ý nghĩa “mọi người” hay “bất cứ ai” kể cả các em giúp lễ. Các em giúp lễ nay đảm nhận thêm trách nhiệm kiếm người uống Máu Thánh dư. Linh mục Vi đã sai khi viết “không bắt các em giúp lễ phải uống,” thay vì phải viết là luật buộc không cho các em uống. Sau đó linh mục Vi táo bạo viết, nếu Máu Thánh vẫn còn dư “không ai uống, thì “được phép đổ xuống bồn thánh” phía sau cung thánh.” Những lời dưới đây là email linh mục Vi gởi ra cho mọi người đọc (những chữ in đậm là của linh mục Vi):
Thứ đến tiện đây Cha nhắc chung cho mọi người hiểu về việc uống Máu Thánh dư, để tránh những suy nghĩ không đúng. Trường hợp Máu Thánh dư, chỉ khuyến khích TTV uống giúp mà thôi, nếu không thể uống được thì không ép, không có luật nào bắt buộc các TTV phải uống hết máu Thánh còn dư, TTV Thánh Thể là thi hành nhiệm vụ cao quý, cần lòng đạo đức và tư cách gương mẫu chứ không phải vì người đó uống được Máu Thánh dư.
Nên dặn các em giúp lễ, có thể để Máu Thánh lại phía sau cung Thánh, (sau lễ xin người uống, hoặc không ai uống, thì chúng ta được phép đổ xuống "bồn Thánh" phía sau cung Thánh, không bắt các em giúp lễ phải uống).
Linh mục Vi đã không đọc các văn kiện như: Thủ Bản Mục Vụ (Pastoral Manual) H-14, June 1, 2005), Những Quy Tắc cho việc Rước Lễ (Norms for Communion, 52, 55), Những Chỉ Dẫn Tống Quát Sách Lễ Rôma 284b (General Instructions Roman Missal 284b), Huấn Thị Redemptionis Sacramentum (RS) 107. Những văn kiện này không cho phép các em giúp lễ uống Máu Thánh còn dư sau thánh lễ, và có câu “Bánh và Rượu còn dư sau khi đã thánh hiến không bao giờ được phép đổ vào bồn nước trong phòng thánh.” (“The excess consecrated species must never be poured into the sacrarium or a sink.”). Vì không đọc hay đọc không hiểu hay quá hời hợt với Bí Tích Thánh Thể cho nên linh mục Vi cho phép các em giúp lễ làm những gì mà các văn kiên liên quan đến phụng vụ đã cấm. Sự cấm không phải chỉ là luật ngăn ngừa lạm đụng, bất kinh, nhưng còn dựa trên đức tin, sự hiểu biết, và sự kính trọng Bí Tích Thánh Thể mà chỉ có Giáo Hội Công Giáo có. Việc linh mục viết email cho phép các em giúp lễ (và mọi người) uống Máu Thánh dư và đổ Máu Thánh vào bồn rửa tay không phải là một sơ suất nhỏ, nhưng nói lên sự thiếu hiểu biết về đức tin, về Bí Tích Thánh Thể. Chính các giáo phái Tin Lành vẫn tranh biện là nên đổ (discard) Rượu Thánh (consecrated wine) sau Thánh Lễ vì lúc đó Rượu Thánh đã trở nên rươu thường, và do đó không phải là Máu Thánh Thật của Chúa Ki Tô nữa. Việc linh mục Vi cho phép đổ Máu Thánh vào bồn rửa tay vô hình chung trộn lộn thần học của các nhóm Tin Lành vào Tín Lý Công Giáo.
Linh mục Vi cũng thích tranh biện tay đôi với giáo dân qua qua diễn đàn email thông tin của cộng đoàn. Chuyện riêng tư mà muốn giáo dân phải đọc. Thời gian dành cho tranh biện đáng lẽ nên dành để học hỏi thêm thần học hay tu đức. Linh mục không nhận ra bài giảng Chủ Nhật tuần nào của linh mục cũng giống như lấy từ internet xuống để đọc cho giáo dân nghe để xong cái gọi là bổn phận của một người rao giảng. Bài giảng thiếu tính chất tiên tri và vô cùng hời hợt.
Tôi liên tưởng đến thày sáu Tửu. Không hiểu ai đã tin là thầy có ơn gọi, để rồi đề nghị cho thầy đi học thành thầy sáu? Thầy bán đứng người Việt khi cần để bảo vệ nồi cơm của thầy. Thầy bán đứng ĐHY và Giám Mục Chưởng Ấn khi lên đài Radio 900 ở Houston cùng với linh mục Trịnh Tuấn Hoàng để láo lếu là có giấy phép của ĐHY cho bán vé gây quỹ để giúp cái hội Bác Ái Phanxicô (nay đã giải tán). (Ai chưa biết việc này thì cứ lên mạng, bấm youtube tìm Đài Saigòn 900 AM, tìm đoạn Phỏng vấn Linh mục Trịnh Tuấn Hoàng, Bác Ái Phanxicô, thì sẽ biết sự thật.) Sự việc đổ bể, linh mục Trịnh Tuấn Hoàng đã bị cấm vào địa phận Houston, và nay đã hồi tục. Sau đó, thầy sáu Tửu đẻ ra một hội khác lấy tên là ILazarô để tính chuyện vơ vét tiền bạc của giáo dân nhẹ dạ nữa. Thầy cho vợ đứng tên điều hành để Địa phận khỏi bắt lỗi thầy. Thầy nghĩ là nếu Địa phận không bắt lỗi được thầy thì thầy không có lỗi. Thế nhưng khi hỏi thầy giải thích Giáo Luật 518 về quyền hành và về lãnh thổ (jurisdiction) của Địa Phận thì thầy phát lờ, ra vẻ không hiểu, hay không muốn hiểu.
Thầy phụ lễ ở bàn thờ mà cặp mắt của thầy cứ như quan sát xem ai trong giáo dân còn sót mà thầy chưa bán vé để vơ vét. Thầy thích đọc kinh dài dòng ra điều ta đây đạo đức. Từ ngày chịu chức cho đến giờ kiến thức thần học của thầy không hề thấy tiến bộ. Thầy muốn lên bục giảng đạo đức, nhưng khó mở miệng vì tất cả việc đạo đức luôn luôn bị thử thách với đức vậng lời. ĐHY của địa phận hay ĐGM Chưởng Ấn là những người bề trên trực tiếp của thầy mà thầy không vâng lời thì làm sao mà giảng. Thầy chỉ giỏi luồn cúi, khách sáo, để có nơi buôn bán vé ủng hộ cái hội ILazarô của thầy. Trong Phùc Âm, Chúa Giêsu làm phép lạ cho ông Lazarô sống lại để chứng minh Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn thầy cho ông Lazarô sống lại để ổng nấu cơm cho thầy và gia đình của thầy. Không biết thầy còn nhớ 3 lời hứa khi chịu chức sáu không? Ba lời hứa đó là: Tin những gì thầy đọc. Dạy dỗ những gì thầy tin. Thực hành những gì thầy dạy. Không cần phải hỏi cũng biết là thầy không giữ một lời hứa nào. Ôi cũng buồn, thầy không khác những giám mục, linh mục, thầy sáu khác khi chạy đuổi cái lợi lộc cá nhân, quên đi cái chức thánh đã lãnh nhận.
Bài phúc âm tuần 32 thường niên, năm B, cũng là bài nhắm vào những cưỡng bức tình dục mà hàng giáo sĩ trong Giáo Hội Công Giáo đã phạm với các trẻ em. Họ không cướp tiền, cướp nhà của bà góa nghèo, nhưng họ tước đoạt sự trong trắng, sư hồn nhiên của các em, gây cho các em một cuộc sống vô cùng khổ sở về đời sống tình cảm, tâm lý và thiêng liêng khi lớn lên. Nhiều em đã không chịu nổi sự quẫn trí này và đã tự tử. Hiện tại chính phủ của 17 tiểu bang đang điều tra, trong đó có tất cả các địa phận thuộc tiểu bang Texas. Đến tháng Giếng, năm 2019, thì Tổng Giáo Phận Galveston – Houston sẽ công bố tên của những Giám Mục, Linh Mục, Thầy Sáu, các Tu Sĩ của các dòng đang làm việc trong tổng Giáo Phận, những người đã phạm tội và phạm pháp về tội cưỡng bức tình dục với trẻ em. Hy vọng là cuối cùng không phải chỉ 17 tiểu bang, mà là tất cả 50 tiểu bang, toàn nước Mỹ và toàn thế giới, sẽ áp dụng biện pháp thanh lọc để loại ra những kẻ ăn trên ngồi trước, lạm dụng quyền hành, núp bóng sau lưng tôn giáo, tìm lợi lộc cá nhân, và chà đạp nhân phẩm của người nghèo.
Nguyễn Hưng An
Chia Sẻ Mục Tử
Lm. Tôma Phó Q. Luân, OP
Kính thưa quí ông bà, anh chị em:
Cha thích nói về đời sống tâm linh hơn, nhưng đôi khi cũng phải đề cập tới đề tài tài chánh, vì đây cũng là quan tâm của nhiều người, nhất là những người thường xuyên đóng góp và giúp cho giáo họ gây quỹ. Để cho quí vị một khái niệm về những tiến triển, cha xin đưa ra một vài con số. Như đã báo cáo: vào cuối tháng 6 năm 2017, tài sản giáo họ tổng cộng là $674,485; vào cuối tháng 6 năm nay 2018, tài sản là $1,032,222 (tăng 53%). Hiện nay trong ngân khoản chúng ta có ít nhất $1,130,000. Nếu như mọi sự suông sẻ, với ơn trợ giúp của Chúa và lòng rộng rãi đóng góp của mọi người, đến cuối tháng 6 năm 2019 chúng ta có lẽ sẽ có $1.3 triệu. Nghĩa là tài sản sẽ tăng lên gần như gấp đôi trong vòng hai năm, kể từ tháng 6 năm 2017.
Đưa ra những dữ kiện như vậy để chúng ta tạ ơn Chúa, cảm ơn những đóng góp của mọi người, và có thể thêm sự hứng khởi. Nhưng một mặt khác thì chúng ta cũng thấy mình vẫn còn rất xa trong phương diện tài chánh để có thể có nhà thờ. Khi có đất, xây hội trường sẽ tốn khoảng $2 triệu; sau đó xây nhà thờ sẽ tốn ít nhất $5 triệu. Vì vậy cha vẫn sẽ phải tiếp tục cố gắng kêu gọi, làm hết khả năng của mình. Phần quí ông bà, anh chị em – xin tiếp tục ủng hộ, đóng góp cho sự phát triển của giáo họ.
Về vấn đề đất thì cha đã từng thông báo trong nhà thờ, cũng như viết trong bản tin, nhưng vẫn có nhiều người không để ý, nên phải lập lại. Đất ở Centreville mà lâu nay chúng ta muốn mua bị vấn đề vì cần có 2 giấy phép: cái thứ nhất cho phép xây nhà thờ, còn cái thứ 2 thì cho phép xây như thế nào (bao nhiêu chổ ngồi, đậu xe, đường ra vào, v.v...). Giấy phép thứ nhất có, còn cái thứ 2 trong lúc tìm hiểu thì giáo phận thấy rằng chưa có. Vì bên bán gia hạn, bắt giáo phận phải quyết định, nên giáo phận vào tháng 7 vừa qua đã ngưng, bỏ hợp đồng mua đất, để có thêm thời gian nghiên cứu. Sau đó giáo phận họp với cha xứ Trần Trung Liêm và cha, là người đặc trách giáo họ. Các cha đề nghị giáo phận là chúng ta nên cố gắng để làm lại hợp đồng và xin giấy phép thứ 2 của miếng đất Centreville, chứ không nên bỏ luôn miếng đất này, tại vì tìm đất rất khó, tốn thời gian. Mặt khác, chúng ta cũng xin giáo phận giới thiệu, cũng như chính chúng ta sẽ đi tìm xem có chổ nào khác thích hợp không. Hiện thời giáo phận vẫn chưa có tiến triển gì trong việc đất đai. Cha đã lập ban xây cất và suy sét một số đề nghị, nhưng chưa thấy có cái nào thích hợp. Nếu ai có chổ nào nữa xin cứ giới thiệu với cha.
Cách đây vài tuần, các nhân viên của giáo xứ St. Veronica lại một lần nữa phàn nàn về việc chúng ta sử dụng cơ sở của họ và có những sơ suất. Thành ra việc xây dựng cơ sở riêng cho cộng đoàn chúng ta vẫn là điều đè nặng trong tâm trí cha. Xin quí ông bà, anh chị em tiếp tục rộng lòng đóng góp, vì có thể giáo họ sẽ thình lình cần một số tiền rất lớn khi thời cơ mua đất, cơ sở xuất hiện.
Xin Chúa chúc lành cho giáo họ của chúng con.
Lm. Tôma Phó Q. Luân, OP
Đọc bài Chia Sẻ Mục Tử của Cha Tôma Phó Q. Luân, OP viết là cha đã làm hết khả năng của Cha và vẫn đang tiếp tục cố gắng kêu gọi quí ông bà, anh chị em ủng hộ, đóng góp tài chánh cho sự phát triển của giáo họ để có một miếng đất xây nhà thờ, và một hội trường mới.
Nhưng Cha ơi! Ông Bà mình đã có câu "Liệu Cơm Gắp Mắm". Tại sao mình không dùng số tiền hiện nay đang có ít nhất $1,130,000 (Cha viết ở trên) để mua một nhà thờ nhỏ nào đó cho Giáo Họ xử dụng trong ít năm, khi mình có thêm tiền thì sẽ tìm cái lớn hơn, hoặc có thể mua đất xây nhà thờ, hội trường, nhà xứ mới cũng đâu có muộn phải không Cha?
Tại sao mình không học và bắt chước những cái hay của các Giáo Xứ Việt Nam đang có mặt trên nước Mỹ và nhiều Giáo Xứ Việt Nam khác trên thế giới. Khởi đầu họ cũng phải mua một nhà thờ nhỏ, khi nhu cầu cần, họ lại tân trang hoặc mua đất xây nhà thờ lớn hơn.
Chứ Cha Xứ Liêm, Cha Luân Đặc Trách Giáo Họ, Ban Thường Vụ, Ban Tài Chánh cứ ngồi đó mà vẽ voi, vẽ vượn là chúng ta cần phải mua miếng đất chỗ này, miếng đất chỗ kia, rồi xây hội trường $2 triệu, xây nhà thờ ít nhất $5 triệu (dự tính số tiền này xây ngay bây giờ, nhưng chưa có đất, nếu khi có đất chắc số tiền phải lên gấp đôi). Chưa kể NẾU Giáo Phận họ CHƯA MUỐN như Cha Luân Đặc Trách Giáo Họ đã viết trong bài Chia Sẻ Mục Tử là "giáo phận vào tháng 7 vừa qua đã ngưng, bỏ hợp đồng mua đất, để có thêm thời gian nghiên cứu".
Cha viết: "thích nói về đời sống tâm linh hơn, nhưng đôi khi cũng phải đề cập tới vấn đề tài chánh". Giáo dân chúng con nhận thấy. Bây giờ Cha Xứ Liêm, Cha Luân Đặc Trách Giáo Họ, Ban Thường Vụ, Ban Tài Chánh cứ bù đầu, bù tai suy nghĩ về những cách thức tổ chức để kiếm tiền trong những hội chợ, tại nhà hàng, buôn bán trước và sau các Thánh Lễ, để giỏ dưới chân Đức Mẹ trong những dịp lễ. Ôi ôi nhiều thứ lắm không sao kể cho hết.
Vậy, làm sao còn thì giờ để Cha thích nói về đời sống tâm linh đây?
Làm sao còn thì giờ để Cha đi thăm kẻ liệt đây ?
Thôi thì xin các Cha, các chức sắc của Giáo Họ hãy "Liệu Cơm Gắp Mắm" cho chúng con thở.
Quan trọng hơn cả là khi chưa mua được đất để xây hội trường, xây nhà thờ, xin các cha đừng lấy số tiền dâng cúng đóng góp của giáo dân hiện đang có là $1,130,000 mà dùng vào những việc khác, như Cha Xứ Liêm đã lấy số tiền dâng cúng đóng góp để sửa bãi đậu xe của giáo dân giáo xứ Các Thánh Tử Đạo mà mua căn nhà VĨ ĐẠI $1,320,000 cho 4 cha ở.
Người con của Giáo Họ ĐMLV
Thu Nga
TB: Vì không có email của bà con để gửi đi, xin nhờ diễn đàn Ánh Sáng Sự Thật đăng dùm. Cám ơn.
Lm. Tôma Phó Q. Luân, OP
Kính thưa quí ông bà, anh chị em:
Cha thích nói về đời sống tâm linh hơn, nhưng đôi khi cũng phải đề cập tới đề tài tài chánh, vì đây cũng là quan tâm của nhiều người, nhất là những người thường xuyên đóng góp và giúp cho giáo họ gây quỹ. Để cho quí vị một khái niệm về những tiến triển, cha xin đưa ra một vài con số. Như đã báo cáo: vào cuối tháng 6 năm 2017, tài sản giáo họ tổng cộng là $674,485; vào cuối tháng 6 năm nay 2018, tài sản là $1,032,222 (tăng 53%). Hiện nay trong ngân khoản chúng ta có ít nhất $1,130,000. Nếu như mọi sự suông sẻ, với ơn trợ giúp của Chúa và lòng rộng rãi đóng góp của mọi người, đến cuối tháng 6 năm 2019 chúng ta có lẽ sẽ có $1.3 triệu. Nghĩa là tài sản sẽ tăng lên gần như gấp đôi trong vòng hai năm, kể từ tháng 6 năm 2017.
Đưa ra những dữ kiện như vậy để chúng ta tạ ơn Chúa, cảm ơn những đóng góp của mọi người, và có thể thêm sự hứng khởi. Nhưng một mặt khác thì chúng ta cũng thấy mình vẫn còn rất xa trong phương diện tài chánh để có thể có nhà thờ. Khi có đất, xây hội trường sẽ tốn khoảng $2 triệu; sau đó xây nhà thờ sẽ tốn ít nhất $5 triệu. Vì vậy cha vẫn sẽ phải tiếp tục cố gắng kêu gọi, làm hết khả năng của mình. Phần quí ông bà, anh chị em – xin tiếp tục ủng hộ, đóng góp cho sự phát triển của giáo họ.
Về vấn đề đất thì cha đã từng thông báo trong nhà thờ, cũng như viết trong bản tin, nhưng vẫn có nhiều người không để ý, nên phải lập lại. Đất ở Centreville mà lâu nay chúng ta muốn mua bị vấn đề vì cần có 2 giấy phép: cái thứ nhất cho phép xây nhà thờ, còn cái thứ 2 thì cho phép xây như thế nào (bao nhiêu chổ ngồi, đậu xe, đường ra vào, v.v...). Giấy phép thứ nhất có, còn cái thứ 2 trong lúc tìm hiểu thì giáo phận thấy rằng chưa có. Vì bên bán gia hạn, bắt giáo phận phải quyết định, nên giáo phận vào tháng 7 vừa qua đã ngưng, bỏ hợp đồng mua đất, để có thêm thời gian nghiên cứu. Sau đó giáo phận họp với cha xứ Trần Trung Liêm và cha, là người đặc trách giáo họ. Các cha đề nghị giáo phận là chúng ta nên cố gắng để làm lại hợp đồng và xin giấy phép thứ 2 của miếng đất Centreville, chứ không nên bỏ luôn miếng đất này, tại vì tìm đất rất khó, tốn thời gian. Mặt khác, chúng ta cũng xin giáo phận giới thiệu, cũng như chính chúng ta sẽ đi tìm xem có chổ nào khác thích hợp không. Hiện thời giáo phận vẫn chưa có tiến triển gì trong việc đất đai. Cha đã lập ban xây cất và suy sét một số đề nghị, nhưng chưa thấy có cái nào thích hợp. Nếu ai có chổ nào nữa xin cứ giới thiệu với cha.
Cách đây vài tuần, các nhân viên của giáo xứ St. Veronica lại một lần nữa phàn nàn về việc chúng ta sử dụng cơ sở của họ và có những sơ suất. Thành ra việc xây dựng cơ sở riêng cho cộng đoàn chúng ta vẫn là điều đè nặng trong tâm trí cha. Xin quí ông bà, anh chị em tiếp tục rộng lòng đóng góp, vì có thể giáo họ sẽ thình lình cần một số tiền rất lớn khi thời cơ mua đất, cơ sở xuất hiện.
Xin Chúa chúc lành cho giáo họ của chúng con.
Lm. Tôma Phó Q. Luân, OP
Đọc bài Chia Sẻ Mục Tử của Cha Tôma Phó Q. Luân, OP viết là cha đã làm hết khả năng của Cha và vẫn đang tiếp tục cố gắng kêu gọi quí ông bà, anh chị em ủng hộ, đóng góp tài chánh cho sự phát triển của giáo họ để có một miếng đất xây nhà thờ, và một hội trường mới.
Nhưng Cha ơi! Ông Bà mình đã có câu "Liệu Cơm Gắp Mắm". Tại sao mình không dùng số tiền hiện nay đang có ít nhất $1,130,000 (Cha viết ở trên) để mua một nhà thờ nhỏ nào đó cho Giáo Họ xử dụng trong ít năm, khi mình có thêm tiền thì sẽ tìm cái lớn hơn, hoặc có thể mua đất xây nhà thờ, hội trường, nhà xứ mới cũng đâu có muộn phải không Cha?
Tại sao mình không học và bắt chước những cái hay của các Giáo Xứ Việt Nam đang có mặt trên nước Mỹ và nhiều Giáo Xứ Việt Nam khác trên thế giới. Khởi đầu họ cũng phải mua một nhà thờ nhỏ, khi nhu cầu cần, họ lại tân trang hoặc mua đất xây nhà thờ lớn hơn.
Chứ Cha Xứ Liêm, Cha Luân Đặc Trách Giáo Họ, Ban Thường Vụ, Ban Tài Chánh cứ ngồi đó mà vẽ voi, vẽ vượn là chúng ta cần phải mua miếng đất chỗ này, miếng đất chỗ kia, rồi xây hội trường $2 triệu, xây nhà thờ ít nhất $5 triệu (dự tính số tiền này xây ngay bây giờ, nhưng chưa có đất, nếu khi có đất chắc số tiền phải lên gấp đôi). Chưa kể NẾU Giáo Phận họ CHƯA MUỐN như Cha Luân Đặc Trách Giáo Họ đã viết trong bài Chia Sẻ Mục Tử là "giáo phận vào tháng 7 vừa qua đã ngưng, bỏ hợp đồng mua đất, để có thêm thời gian nghiên cứu".
Cha viết: "thích nói về đời sống tâm linh hơn, nhưng đôi khi cũng phải đề cập tới vấn đề tài chánh". Giáo dân chúng con nhận thấy. Bây giờ Cha Xứ Liêm, Cha Luân Đặc Trách Giáo Họ, Ban Thường Vụ, Ban Tài Chánh cứ bù đầu, bù tai suy nghĩ về những cách thức tổ chức để kiếm tiền trong những hội chợ, tại nhà hàng, buôn bán trước và sau các Thánh Lễ, để giỏ dưới chân Đức Mẹ trong những dịp lễ. Ôi ôi nhiều thứ lắm không sao kể cho hết.
Vậy, làm sao còn thì giờ để Cha thích nói về đời sống tâm linh đây?
Làm sao còn thì giờ để Cha đi thăm kẻ liệt đây ?
Thôi thì xin các Cha, các chức sắc của Giáo Họ hãy "Liệu Cơm Gắp Mắm" cho chúng con thở.
Quan trọng hơn cả là khi chưa mua được đất để xây hội trường, xây nhà thờ, xin các cha đừng lấy số tiền dâng cúng đóng góp của giáo dân hiện đang có là $1,130,000 mà dùng vào những việc khác, như Cha Xứ Liêm đã lấy số tiền dâng cúng đóng góp để sửa bãi đậu xe của giáo dân giáo xứ Các Thánh Tử Đạo mà mua căn nhà VĨ ĐẠI $1,320,000 cho 4 cha ở.
Người con của Giáo Họ ĐMLV
Thu Nga
TB: Vì không có email của bà con để gửi đi, xin nhờ diễn đàn Ánh Sáng Sự Thật đăng dùm. Cám ơn.
MỘT VÀI Ý KIẾN ĐÓNG GÓP
Tôi là một giáo dân đi lễ tiếng Việt ở giáo xứ Saint Elizabeth Ann Seton. Tôi cũng có vài đứa con đi lễ tiếng Việt với tôi. Tôi nhận được hai bản báo cáo Tường Trình Buổi Họp của ông/bà Maria Đức gởi đến tôi qua email. Bản báo cáo 1 có đoạn linh mục Quản Nhiệm lưu ý: “Ban Trật Tư từ nay sẽ xin tiền rổ tất cả các hàng ghế thiếu nhi, tập cho các em thói quen biết chia sẽ, đóng góp cho Nhà Thờ.” Trong bản báo cáo 2, linh mục quản nhiệm có xin cha mẹ cho các con tiền để chúng bỏ tiền vào giỏ để tập trách nhiệm đóng góp cho nhà xứ. Để trả lời cho linh mục quản nhiệm về việc dạy dỗ mấy đứa bé đóng góp tiền, tôi có vài nhận xét sau đây:
Khi linh mục quản nhiệm tự ý kêu ban trật tự xin tiền rổ tất cả các hàng ghế thiếu nhi, cho dù với mục đích tập cho các em thói quen biết chia sẻ khi đi nhà thờ, linh mục QN có biết mục đích chính của các em khi đến nhà thờ là gì không? Mục đích chính của các em đến nhà thờ là để được nghe lời Chúa, hiểu thêm về lòng thương xót của Chúa, để biết ơn và đáp trả tình yêu Thiên Chúa qua cuộc sống biết yêu thương. Nếu linh muc QN muốn dùng cơ hội mấy đứa trẻ đi lễ để tập cho chúng việc bỏ tiền, tôi nghĩ là lý luận và sự suy nghĩ của linh mục QN đã sai. Thứ nhất, linh mục QN đã sai khi không bàn thảo với các phụ huynh của các em về vấn đề này. Bởi lẽ các em không có thế đứng tương đồng với người lớn về Giáo Luật hay về luật đời, linh mục QN không được tự ý làm cái gì trên các em mà không xin phép phụ huynh của chúng. Như thế, linh mục QN đã sai khi tự suy nghĩ và tự quyết định, không bàn thảo, không xin phép phụ huynh của các em.
Thứ hai, việc đóng góp bằng tiền chỉ là một trong nhiều cách đóng góp khác nhau, mà tất cả đều dựa vào sự hiểu biết và biết ơn đối với lòng quảng đại của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Do đó, thay vì dạy các em hiểu biết việc đóng tiền, tức là chỉ một khía cạnh, linh mục QN nên dạy các em hiểu biết về lòng quảng đại nói chung. Và nếu muốn dạy cho các em hiểu biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa nói chung là như thế nào thì người lãnh đạo, người dẫn đầu, hay linh mục QN phải dạy và làm gương cho các em biết ý nghĩa của sự quảng đại đó. Thí dụ, linh mục QN phải quảng đại với Thiên Chúa về vấn đề thời gian qua việc sửa soạn tâm hồn để làm lễ cho sốt sắng, soạn bài giảng nghiêm túc cho đúng trách nhiệm của linh mục. Linh mục QN không được cử hành thánh lễ hời hợt, như là bị bắt buộc, chứ chẳng phải vì tình yêu. Linh mục QN không được dâng lễ mà dáng bộ như say rượu, đọc tiếng Mỹ và tiếng Việt không trôi, có mùi rượu từ hơi miệng, gây thắc mắc, làm gương xấu cho các em giúp lễ. (Việc làm lễ trong lúc say rượu đã được báo cáo cho cha sở Reynolds biết.)
Linh mục QN phải quảng đại với Thiên Chúa qua sự dẹp cái tôi của mình. Linh mục vì cái tôi quá lớn mà ra tay dẹp ca đoàn và thay thế vào đó bẵng những người không biết hát, không có giọng hát, không hiểu phụng vụ, và làm chia trí giáo dân, gây căng thẳng trong thánh lễ.. Khi thành viên của ca đoàn lên tiếng phàn nàn sự bất công, linh mục QN bắt họ phải “vâng lời.” Nhân đức vâng lời không thể được dùng để bảo vệ sự lạm dụng quyền lực. Trong Phụng Vụ, mọi sự hướng về Thiên Chúa. Phụng vụ không được dùng để ra oai về cái tôi của linh mục.
Linh mục QN nên quảng đại với Thiên Chúa qua việc bỏ thời gian học hỏi ý nghĩa của Phụng Vụ, Phụng Vụ hướng về Ai? Và Ai là Chủ của Phụng Vụ? Khi mình là linh mục mà mình không hiểu ý nghĩa của Phụng Vụ thì mình sẽ sai bảo ai? Sẽ giảng cái gì?
Linh Mục QN nên rõ ràng với chi thu tiền quyên góp. Vào tháng 1, 2018, linh muc QN có quyên góp hơn 3000 đô la để làm sân khấu tổ chức Tết. Sân khấu chỉ dùng có một ngày Tết rồi dẹp. Như vậy 3000 đô chỉ dùng một lần. Người Việt chúng ta rất tiết kiệm. Khi thấy linh mục QN không hề thương xót sự nhọc nhằn của người đóng góp, họ sẽ không cho linh mục QN lần thứ hai.
Tiền bạc nếu đóng góp chỉ nên vào một mục đích rõ ràng trong một thánh lễ, hay trong tháng đó. Tôi nhận thấy có lúc linh mục QN xin tiền giáo dân đóng góp, rồi lại thấy người khác lén lút bán vé gây quỹ cho các chương trình bác ái mà địa phận không hề hay biết.
Đức Cha George Scheltz đã ra thông báo là bất cứ ai xin tiền gây quỹ trong địa phận mà không xin phép văn phòng Chưởng Ấn là gây quỹ trái phép. Thế nhưng vẫn có người như vợ thầy Sáu Tửu gây quỹ ở ngoài tiệm ăn Kim Sơn. Có những lý luận sai lạc đã đưa ra để đánh lừa sự hiểu biết của mọi người. Họ nói Đức Cha chỉ cấm xin tiền trong phạm vị giáo xứ. Còn xin tiền ở ngoài tiệm Kim Sơn thì không thuộc quyền của Địa Phận. Xin linh mục QN và thầy Sáu Tửu mở Giáo Luật, đọc và giải thích luật 518 cho giáo dân biết.
(Tiện đây cũng xin thầy Sáu Tửu cho biết thầy làm việc cho GX St. Elizabeth Annh Seton? Hay thầy làm việc cho GX La Vang? Ai là người bề trên trực tiếp của Thầy? Cha sở Reynolds hay là cha sở của GX La Vang? Tôi chưa hề thấy ai trong Địa Phận làm thầy Sáu 2 giáo xứ hết. Thầy có giấy bổ nhiệm làm việc hai GX của ĐGM Chưởng Ấn thì xin thông báo cho mọi người biết để sự lầm lẫn không xảy ra.
Cách đây không lâu, thầy Sáu đi qua GX La Vang và cùng với cha Vượng tổ chức lễ (giỗ) xin phong thánh cho cha Trương Bửu Diệp. Trong thánh lễ đó có xin tiền đóng góp. Thầy được cha Vượng chia cho bao nhiêu? Đã báo cáo cho ai? Hồ sơ chi tiêu ở đâu?
Vài năm trước đó, thầy Sáu Tửu và linh mục Trịnh Tuấn Hoàng, dòng Phanxicô, có tổ chức lễ (giỗ) xin phong thánh cho cha Trương Bửu Diệp. Cha sở Lockey cho phép làm lễ giỗ nhưng không cho phép xin tiền cho hội thiên nguyện Phanxicô. Cha Trịnh Tuấn Hoàng và thầy Sáu Tửu có lên đài Radio Saigon 900 ở Houston nói dối là ĐHY có cho phép xin tiền cho hội Phanxicô. Việc nói dối bị đổ bể, cha Hoàng bị cấm xin tiền và nghe nói là bây giờ đã hồi tục. Câu hỏi đươc đặt ra cho thầy Sáu là ai cho phép thầy lên đài Radio 900 để trả lời phỏng vấn? Địa phận đã ra thông cáo là không một tu sĩ nào được trả lời phỏng vấn bởi báo chí nếu không có xin phép trước của Địa Phận. Vây thầy Sáu Tửu có xin phép Địa Phận để lên đài trả lời phỏng vấn không?)
Nói tóm lại, nếu muốn tập cho mấy đứa bé biết đóng góp, biết quảng đại, biết trách nhiệm, biết hy sinh, thì người lãnh đạo, người lớn, linh mục QN, thầy Sáu, phải làm gương trước. Con của tôi không phải là công cụ để cho linh mục QN dùng để ra oai, để ép buộc tinh thần hay vật chất của chúng. Tuy linh mục QN là chủ tế của buổi lễ. Quyền hạn của linh mục QN vẫn bị giới hạn bởi Giáo Luật với mọi người và nhất là với trẻ em. Linh mục QN muốn gì nơi các em thì phải xin phép phụ huynh của chúng. Nếu sự xin phép đưa đến những lạm dụng như làm chúng khó chịu, không thoải mái khi đi lễ, thì tự khắc việc xin phép sẽ trở nên vô lý và trở nên lộng quyền. Ban Trật Tự cũng không được phép làm bất cứ cái gì mà linh mục QN yêu cầu, Xin linh mục QN đừng xử dụng ban Trật Tự như đã xử dụng Ca Đoàn. Lúc thích thì cho hát. Lúc không thích thì dẹp bỏ rồi áp dụng đức vâng lời một cách độc đoán, không cho ta thán.
Nguyễn Hùng An
Tôi là một giáo dân đi lễ tiếng Việt ở giáo xứ Saint Elizabeth Ann Seton. Tôi cũng có vài đứa con đi lễ tiếng Việt với tôi. Tôi nhận được hai bản báo cáo Tường Trình Buổi Họp của ông/bà Maria Đức gởi đến tôi qua email. Bản báo cáo 1 có đoạn linh mục Quản Nhiệm lưu ý: “Ban Trật Tư từ nay sẽ xin tiền rổ tất cả các hàng ghế thiếu nhi, tập cho các em thói quen biết chia sẽ, đóng góp cho Nhà Thờ.” Trong bản báo cáo 2, linh mục quản nhiệm có xin cha mẹ cho các con tiền để chúng bỏ tiền vào giỏ để tập trách nhiệm đóng góp cho nhà xứ. Để trả lời cho linh mục quản nhiệm về việc dạy dỗ mấy đứa bé đóng góp tiền, tôi có vài nhận xét sau đây:
Khi linh mục quản nhiệm tự ý kêu ban trật tự xin tiền rổ tất cả các hàng ghế thiếu nhi, cho dù với mục đích tập cho các em thói quen biết chia sẻ khi đi nhà thờ, linh mục QN có biết mục đích chính của các em khi đến nhà thờ là gì không? Mục đích chính của các em đến nhà thờ là để được nghe lời Chúa, hiểu thêm về lòng thương xót của Chúa, để biết ơn và đáp trả tình yêu Thiên Chúa qua cuộc sống biết yêu thương. Nếu linh muc QN muốn dùng cơ hội mấy đứa trẻ đi lễ để tập cho chúng việc bỏ tiền, tôi nghĩ là lý luận và sự suy nghĩ của linh mục QN đã sai. Thứ nhất, linh mục QN đã sai khi không bàn thảo với các phụ huynh của các em về vấn đề này. Bởi lẽ các em không có thế đứng tương đồng với người lớn về Giáo Luật hay về luật đời, linh mục QN không được tự ý làm cái gì trên các em mà không xin phép phụ huynh của chúng. Như thế, linh mục QN đã sai khi tự suy nghĩ và tự quyết định, không bàn thảo, không xin phép phụ huynh của các em.
Thứ hai, việc đóng góp bằng tiền chỉ là một trong nhiều cách đóng góp khác nhau, mà tất cả đều dựa vào sự hiểu biết và biết ơn đối với lòng quảng đại của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Do đó, thay vì dạy các em hiểu biết việc đóng tiền, tức là chỉ một khía cạnh, linh mục QN nên dạy các em hiểu biết về lòng quảng đại nói chung. Và nếu muốn dạy cho các em hiểu biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa nói chung là như thế nào thì người lãnh đạo, người dẫn đầu, hay linh mục QN phải dạy và làm gương cho các em biết ý nghĩa của sự quảng đại đó. Thí dụ, linh mục QN phải quảng đại với Thiên Chúa về vấn đề thời gian qua việc sửa soạn tâm hồn để làm lễ cho sốt sắng, soạn bài giảng nghiêm túc cho đúng trách nhiệm của linh mục. Linh mục QN không được cử hành thánh lễ hời hợt, như là bị bắt buộc, chứ chẳng phải vì tình yêu. Linh mục QN không được dâng lễ mà dáng bộ như say rượu, đọc tiếng Mỹ và tiếng Việt không trôi, có mùi rượu từ hơi miệng, gây thắc mắc, làm gương xấu cho các em giúp lễ. (Việc làm lễ trong lúc say rượu đã được báo cáo cho cha sở Reynolds biết.)
Linh mục QN phải quảng đại với Thiên Chúa qua sự dẹp cái tôi của mình. Linh mục vì cái tôi quá lớn mà ra tay dẹp ca đoàn và thay thế vào đó bẵng những người không biết hát, không có giọng hát, không hiểu phụng vụ, và làm chia trí giáo dân, gây căng thẳng trong thánh lễ.. Khi thành viên của ca đoàn lên tiếng phàn nàn sự bất công, linh mục QN bắt họ phải “vâng lời.” Nhân đức vâng lời không thể được dùng để bảo vệ sự lạm dụng quyền lực. Trong Phụng Vụ, mọi sự hướng về Thiên Chúa. Phụng vụ không được dùng để ra oai về cái tôi của linh mục.
Linh mục QN nên quảng đại với Thiên Chúa qua việc bỏ thời gian học hỏi ý nghĩa của Phụng Vụ, Phụng Vụ hướng về Ai? Và Ai là Chủ của Phụng Vụ? Khi mình là linh mục mà mình không hiểu ý nghĩa của Phụng Vụ thì mình sẽ sai bảo ai? Sẽ giảng cái gì?
Linh Mục QN nên rõ ràng với chi thu tiền quyên góp. Vào tháng 1, 2018, linh muc QN có quyên góp hơn 3000 đô la để làm sân khấu tổ chức Tết. Sân khấu chỉ dùng có một ngày Tết rồi dẹp. Như vậy 3000 đô chỉ dùng một lần. Người Việt chúng ta rất tiết kiệm. Khi thấy linh mục QN không hề thương xót sự nhọc nhằn của người đóng góp, họ sẽ không cho linh mục QN lần thứ hai.
Tiền bạc nếu đóng góp chỉ nên vào một mục đích rõ ràng trong một thánh lễ, hay trong tháng đó. Tôi nhận thấy có lúc linh mục QN xin tiền giáo dân đóng góp, rồi lại thấy người khác lén lút bán vé gây quỹ cho các chương trình bác ái mà địa phận không hề hay biết.
Đức Cha George Scheltz đã ra thông báo là bất cứ ai xin tiền gây quỹ trong địa phận mà không xin phép văn phòng Chưởng Ấn là gây quỹ trái phép. Thế nhưng vẫn có người như vợ thầy Sáu Tửu gây quỹ ở ngoài tiệm ăn Kim Sơn. Có những lý luận sai lạc đã đưa ra để đánh lừa sự hiểu biết của mọi người. Họ nói Đức Cha chỉ cấm xin tiền trong phạm vị giáo xứ. Còn xin tiền ở ngoài tiệm Kim Sơn thì không thuộc quyền của Địa Phận. Xin linh mục QN và thầy Sáu Tửu mở Giáo Luật, đọc và giải thích luật 518 cho giáo dân biết.
(Tiện đây cũng xin thầy Sáu Tửu cho biết thầy làm việc cho GX St. Elizabeth Annh Seton? Hay thầy làm việc cho GX La Vang? Ai là người bề trên trực tiếp của Thầy? Cha sở Reynolds hay là cha sở của GX La Vang? Tôi chưa hề thấy ai trong Địa Phận làm thầy Sáu 2 giáo xứ hết. Thầy có giấy bổ nhiệm làm việc hai GX của ĐGM Chưởng Ấn thì xin thông báo cho mọi người biết để sự lầm lẫn không xảy ra.
Cách đây không lâu, thầy Sáu đi qua GX La Vang và cùng với cha Vượng tổ chức lễ (giỗ) xin phong thánh cho cha Trương Bửu Diệp. Trong thánh lễ đó có xin tiền đóng góp. Thầy được cha Vượng chia cho bao nhiêu? Đã báo cáo cho ai? Hồ sơ chi tiêu ở đâu?
Vài năm trước đó, thầy Sáu Tửu và linh mục Trịnh Tuấn Hoàng, dòng Phanxicô, có tổ chức lễ (giỗ) xin phong thánh cho cha Trương Bửu Diệp. Cha sở Lockey cho phép làm lễ giỗ nhưng không cho phép xin tiền cho hội thiên nguyện Phanxicô. Cha Trịnh Tuấn Hoàng và thầy Sáu Tửu có lên đài Radio Saigon 900 ở Houston nói dối là ĐHY có cho phép xin tiền cho hội Phanxicô. Việc nói dối bị đổ bể, cha Hoàng bị cấm xin tiền và nghe nói là bây giờ đã hồi tục. Câu hỏi đươc đặt ra cho thầy Sáu là ai cho phép thầy lên đài Radio 900 để trả lời phỏng vấn? Địa phận đã ra thông cáo là không một tu sĩ nào được trả lời phỏng vấn bởi báo chí nếu không có xin phép trước của Địa Phận. Vây thầy Sáu Tửu có xin phép Địa Phận để lên đài trả lời phỏng vấn không?)
Nói tóm lại, nếu muốn tập cho mấy đứa bé biết đóng góp, biết quảng đại, biết trách nhiệm, biết hy sinh, thì người lãnh đạo, người lớn, linh mục QN, thầy Sáu, phải làm gương trước. Con của tôi không phải là công cụ để cho linh mục QN dùng để ra oai, để ép buộc tinh thần hay vật chất của chúng. Tuy linh mục QN là chủ tế của buổi lễ. Quyền hạn của linh mục QN vẫn bị giới hạn bởi Giáo Luật với mọi người và nhất là với trẻ em. Linh mục QN muốn gì nơi các em thì phải xin phép phụ huynh của chúng. Nếu sự xin phép đưa đến những lạm dụng như làm chúng khó chịu, không thoải mái khi đi lễ, thì tự khắc việc xin phép sẽ trở nên vô lý và trở nên lộng quyền. Ban Trật Tự cũng không được phép làm bất cứ cái gì mà linh mục QN yêu cầu, Xin linh mục QN đừng xử dụng ban Trật Tự như đã xử dụng Ca Đoàn. Lúc thích thì cho hát. Lúc không thích thì dẹp bỏ rồi áp dụng đức vâng lời một cách độc đoán, không cho ta thán.
Nguyễn Hùng An
TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM, TIỀN SINH BẤT TỊNH
Các Thầy “Thích Đủ Thứ” đã biến Chuà Chiền Cửa Phật thành các "siêu thị Phật” !!!
Xin chuyển bài viết của Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ để gửi đến Các ông Linh Mục của Công Giáo. Ngày nay các ông sống cũng chỉ biết có Tiền! Tiền! Tiền! Các ông cũng đã biến nhà thờ thành các “siêu thị Mẹ La Vang” !!!
Xin mời xem và chuyển tiếp !!!
TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM,
TIỀN SINH BẤT TỊNH
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Tu hành trong hoàn cảnh kinh tế thị trường hiện nay rất khó. Tu trong xã hội Âu Mỹ với nền kinh tế thực dụng càng khó hơn.
Dịch xây chùa và phấn đấu làm trụ trì của các tu sĩ Việt nam tại các xứ Âu Mỹ đang diễn ra như một chiến trường. Tiền! Tiền! Tiền! trở thành tiếng réo gọi, át tiếng cầu kinh và niệm chú. Các thầy đã biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”. Thầy chưa có chùa thì lo vận động chạy đôn chạy đáo mua đất mua nhà xây chùa dựng tượng. Thầy có chùa rối thì có bao nhiêu là dự án xây dựng để kêu gọi Phật tử đóng góp.
Đồng tiền đã làm cho cửa Thiền thành chợ Trời buôn thần bán thánh.
Không có cách kiếm tiền phàm tục nào ngoài đời mà không có trong các chùa: Xổ số, lô tô, đại nhạc hội, tiệc ăn uống gây quỹ, bán đấu giá, ký sổ cúng dường hàng tháng, mượn vốn không lời… đang trở thành bệnh dịch biến cửa chùa là nơi tôn nghiêm thành nhà hàng bán đồ ăn, biến sân chùa thành sân khấu cho ca sĩ hát hỏng nỉ non uốn éo, biến Phật đài trang nghiêm thành nơi bán và ký gởi tượng Phật. Tất cả những phương tiện hoằng dương chánh pháp thiêng liêng của Phật giáo Đại thừa đang biến thành dịch vụ thương mãi.
Cầu siêu: tiền. Dâng sớ cầu an: tiền. Ma chay, giỗ kỵ: tiền.
Xuống cấp thấp nhất là các thầy thu tiền và bỏ tiền vào túi. Hình ảnh đọa lạc nhất là có những thầy chuyên nghiệp lên sân khấu, cầm micro thay vì nói pháp thì thao thao nói lời thuyết phục vận động xin tiền. Ôi, hồng ân Tam Bảo, long thần hộ pháp làm sao mà tha thứ được.
Những Phật tử mê tín, đầu óc mù mờ u tối đã xem các thầy chùa như Phật thánh. Họ không hiểu rằng đưa phương tiện vật chất vào tay nhà tu là đang làm thay cho ma quỷ tới phá đường tu thanh tịnh của quý thầy. Khi đầu óc đã dính mắc lo nghĩ tới tiền, tới chùa to tượng lớn, tới thế giới màu mè hình tướng thì vô hình chung nhà tu đã không còn an trú trong giới luật.
Đạo Phật Việt Nam đang đi sai đường trầm trọng vì đang lâm vào hai tình trạng cực đoan:* Số các thầy sống ở “cõi trên” thì lo nói toàn những chuyện cao siều huyền hoặc. * Số các thầy đang đoạ lạc vào thám ái thì biến đạo Phật thành mê tín dị đoan để làm phương tiện kiếm tiền.
Thật ra, các thầy ra ngoài giới luật chỉ là nạn nhân. Thủ phạm chính là những người mang danh Phật tử mà không chịu hiểu Phật, đem vật chất làm sa đọa các thầy.
Xin các thầy tỉnh táo lại để khỏi trễ đường tu.
Xin các đạo hữu Phật tử hãy cùng nhau đứng ra xây chùa dựng tượng. Nhưng tuyệt nhiên xin đừng làm xa đọa quý thầy bằng cách đưa tiền, chính là đưa thuốc độc đến cho bậc chân tu.
Đức Phật và Thánh chúng ngày xưa ngày ngày khất thực, chỉ cần có miếng ăn đạm bạc ngày một bữa mà nuôi sống xác thân để thanh tịnh tu hành. Các thầy ngày nay ăn uống có kẻ hầu người hạ, bữa chính bữa phụ thật là đã lạc đường quá xa về xứ Phật.
Đôi điều chân thật nói ra, xin các thầy và Phật tử hoan hỷ suy gẫm.
VP.PHTQ.CANADA
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Các Thầy “Thích Đủ Thứ” đã biến Chuà Chiền Cửa Phật thành các "siêu thị Phật” !!!
Xin chuyển bài viết của Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ để gửi đến Các ông Linh Mục của Công Giáo. Ngày nay các ông sống cũng chỉ biết có Tiền! Tiền! Tiền! Các ông cũng đã biến nhà thờ thành các “siêu thị Mẹ La Vang” !!!
Xin mời xem và chuyển tiếp !!!
TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM,
TIỀN SINH BẤT TỊNH
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Tu hành trong hoàn cảnh kinh tế thị trường hiện nay rất khó. Tu trong xã hội Âu Mỹ với nền kinh tế thực dụng càng khó hơn.
Dịch xây chùa và phấn đấu làm trụ trì của các tu sĩ Việt nam tại các xứ Âu Mỹ đang diễn ra như một chiến trường. Tiền! Tiền! Tiền! trở thành tiếng réo gọi, át tiếng cầu kinh và niệm chú. Các thầy đã biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”. Thầy chưa có chùa thì lo vận động chạy đôn chạy đáo mua đất mua nhà xây chùa dựng tượng. Thầy có chùa rối thì có bao nhiêu là dự án xây dựng để kêu gọi Phật tử đóng góp.
Đồng tiền đã làm cho cửa Thiền thành chợ Trời buôn thần bán thánh.
Không có cách kiếm tiền phàm tục nào ngoài đời mà không có trong các chùa: Xổ số, lô tô, đại nhạc hội, tiệc ăn uống gây quỹ, bán đấu giá, ký sổ cúng dường hàng tháng, mượn vốn không lời… đang trở thành bệnh dịch biến cửa chùa là nơi tôn nghiêm thành nhà hàng bán đồ ăn, biến sân chùa thành sân khấu cho ca sĩ hát hỏng nỉ non uốn éo, biến Phật đài trang nghiêm thành nơi bán và ký gởi tượng Phật. Tất cả những phương tiện hoằng dương chánh pháp thiêng liêng của Phật giáo Đại thừa đang biến thành dịch vụ thương mãi.
Cầu siêu: tiền. Dâng sớ cầu an: tiền. Ma chay, giỗ kỵ: tiền.
Xuống cấp thấp nhất là các thầy thu tiền và bỏ tiền vào túi. Hình ảnh đọa lạc nhất là có những thầy chuyên nghiệp lên sân khấu, cầm micro thay vì nói pháp thì thao thao nói lời thuyết phục vận động xin tiền. Ôi, hồng ân Tam Bảo, long thần hộ pháp làm sao mà tha thứ được.
Những Phật tử mê tín, đầu óc mù mờ u tối đã xem các thầy chùa như Phật thánh. Họ không hiểu rằng đưa phương tiện vật chất vào tay nhà tu là đang làm thay cho ma quỷ tới phá đường tu thanh tịnh của quý thầy. Khi đầu óc đã dính mắc lo nghĩ tới tiền, tới chùa to tượng lớn, tới thế giới màu mè hình tướng thì vô hình chung nhà tu đã không còn an trú trong giới luật.
Đạo Phật Việt Nam đang đi sai đường trầm trọng vì đang lâm vào hai tình trạng cực đoan:* Số các thầy sống ở “cõi trên” thì lo nói toàn những chuyện cao siều huyền hoặc. * Số các thầy đang đoạ lạc vào thám ái thì biến đạo Phật thành mê tín dị đoan để làm phương tiện kiếm tiền.
Thật ra, các thầy ra ngoài giới luật chỉ là nạn nhân. Thủ phạm chính là những người mang danh Phật tử mà không chịu hiểu Phật, đem vật chất làm sa đọa các thầy.
Xin các thầy tỉnh táo lại để khỏi trễ đường tu.
Xin các đạo hữu Phật tử hãy cùng nhau đứng ra xây chùa dựng tượng. Nhưng tuyệt nhiên xin đừng làm xa đọa quý thầy bằng cách đưa tiền, chính là đưa thuốc độc đến cho bậc chân tu.
Đức Phật và Thánh chúng ngày xưa ngày ngày khất thực, chỉ cần có miếng ăn đạm bạc ngày một bữa mà nuôi sống xác thân để thanh tịnh tu hành. Các thầy ngày nay ăn uống có kẻ hầu người hạ, bữa chính bữa phụ thật là đã lạc đường quá xa về xứ Phật.
Đôi điều chân thật nói ra, xin các thầy và Phật tử hoan hỷ suy gẫm.
VP.PHTQ.CANADA
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Tòa liên bang đã kết tội Đức Ông Nguyễn Minh Hiền ở San Jose 14 tội danh gian lận ngân hàng và trốn thuế.
Nguyễn Long Thao 3/23/2017
Tòa liên bang đã kết tội Đức Ông Nguyễn Minh Hiền ở San Jose 14 tội danh gian lận ngân hàng và trốn thuế.
Trong ngày thứ Ba vừa qua, tòa án liên bang khu vực San Jose đã kết án Linh Mục Nguyễn Minh Hiền 14 tội danh gian lận ngân hang và chuyển tiền của giáo dân dâng tặng cho giáo xứ vào trương mục ngân hàng của mình
Thẩm phán Beth Labson Freeman của tòa án liên bang kết luận Linh Mục Nguyễn Minh Hiền 57 tuổi là có tội, trong một phiên xử không có bồi thẩm đoàn vào tháng 2. Khoản tiền được cho là của giáo dân tặng cho Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tại San Jose trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2007 tổng cộng lên tới 19,000 Mỹ kim.
Linh Mục Nguyễn Minh Hiền trước đó đã nhận bốn tội danh trốn thuế trong các năm từ 2008 đến 2011. Linh Mục nhìn nhận trong thỏa thuận nhận tội hồi tháng 8 rằng, Linh Mục đã chuyển các tiền tặng vào trương mục cá nhân trong các năm đó, và không đóng thuế trên các số tiền này.
Vào ngày 30 tháng 6 tới đây Thẩm phán Freeman sẽ tuyên án cho Linh Mục Nguyễn Minh Hiền về hai nhóm tội danh trốn thuế và gian lận ngân hàng.
Theo luật, mức phạt tối đa là 30 năm tù đối với mỗi tội danh gian lận ngân hàng, và 5 năm tù đối với mỗi tội danh trốn thuế.
Được biết Linh Mục Nguyễn Minh Hiền là Linh Mục của giáo phận San Jose từ năm 1995, từng được Đức Giám Mục bổ nhiệm làm Chánh Xứ Giáo Xứ St. Patrick’s và bây giờ đổi là giáo xứ Đức Mẹ La Vang San Jose. Từ năm 2001 đến 2011, là Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, được giáo phận thăng chức Đức Ông và bổ nhiệm chức vụ đặc trách mục vụ cho người Công Giáo Việt Nam tại San Jose.
Linh mục Hiền đã bị bắt tại Fort Lauderdale, bang Florida vào tháng 4 năm 2015.
Nguyễn Long Thao 3/23/2017
Tòa liên bang đã kết tội Đức Ông Nguyễn Minh Hiền ở San Jose 14 tội danh gian lận ngân hàng và trốn thuế.
Trong ngày thứ Ba vừa qua, tòa án liên bang khu vực San Jose đã kết án Linh Mục Nguyễn Minh Hiền 14 tội danh gian lận ngân hang và chuyển tiền của giáo dân dâng tặng cho giáo xứ vào trương mục ngân hàng của mình
Thẩm phán Beth Labson Freeman của tòa án liên bang kết luận Linh Mục Nguyễn Minh Hiền 57 tuổi là có tội, trong một phiên xử không có bồi thẩm đoàn vào tháng 2. Khoản tiền được cho là của giáo dân tặng cho Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tại San Jose trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2007 tổng cộng lên tới 19,000 Mỹ kim.
Linh Mục Nguyễn Minh Hiền trước đó đã nhận bốn tội danh trốn thuế trong các năm từ 2008 đến 2011. Linh Mục nhìn nhận trong thỏa thuận nhận tội hồi tháng 8 rằng, Linh Mục đã chuyển các tiền tặng vào trương mục cá nhân trong các năm đó, và không đóng thuế trên các số tiền này.
Vào ngày 30 tháng 6 tới đây Thẩm phán Freeman sẽ tuyên án cho Linh Mục Nguyễn Minh Hiền về hai nhóm tội danh trốn thuế và gian lận ngân hàng.
Theo luật, mức phạt tối đa là 30 năm tù đối với mỗi tội danh gian lận ngân hàng, và 5 năm tù đối với mỗi tội danh trốn thuế.
Được biết Linh Mục Nguyễn Minh Hiền là Linh Mục của giáo phận San Jose từ năm 1995, từng được Đức Giám Mục bổ nhiệm làm Chánh Xứ Giáo Xứ St. Patrick’s và bây giờ đổi là giáo xứ Đức Mẹ La Vang San Jose. Từ năm 2001 đến 2011, là Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam, được giáo phận thăng chức Đức Ông và bổ nhiệm chức vụ đặc trách mục vụ cho người Công Giáo Việt Nam tại San Jose.
Linh mục Hiền đã bị bắt tại Fort Lauderdale, bang Florida vào tháng 4 năm 2015.
Văn phòng Cáo Thỉnh Viên phong thánh cho Cha Trương Bửi Diệp không có phép của TGM Orange
Lm Trần Văn Kiểm 1/29/2017
THÔNG BÁO CỦA TRUNG TÂM Công Giáo VIỆT NAM TẠI GIÁO PHẬN ORANGE VỀ VIỆC KHÔNG CÓ PHÉP CỦA VĂN PHÒNG CÁO THỈNH VIÊN XIN PHONG THÁNH CHO CHA TRƯƠNG BỬU DIỆP
Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên là văn phòng liên lạc với Tòa Thánh trong việc xin phong thánh nên khi văn phòng này được đặt ở đâu thì phải có phép của vị Giám Mục Địa Phận ở đó. Đặt trường hợp nếu Tòa Thánh liên lạc với Đức Giám Mục Địa Phận Orange, hỏi về Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên nằm trong địa phận của ngài mà ngài không biết gì về sự hiện diện của văn phòng này, thì đây là một việc làm sai luật và là sự xúc phạm tới Đức Giám Mục.
Việc này đã thật sự xảy ra: Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên xin phong thánh cho Cha Trương Bửu Diệp nằm trong Địa Phận Orange đã được cắt băng khánh thành và làm phép vào Thứ Bẩy ngày 7 tháng 1 năm 2017 nhưng chính Đức Giám Mục của địa phận lại hoàn toàn không biết gì về chuyện này. Ngài đã không cho phép và cũng đã không nhận được giấy xin phép. Như thế Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên xin phong thánh cho Cha Trương Bửu Diệp đã không có phép của Đức Giám Mục để có thể hiện diện trong Địa Phận Orange. Khi không có phép thì không thể đưa vào hoạt động.
Một điều nữa chúng ta cũng cần nên biết đó là tất cả những văn phòng hay cơ sở có tên Cha Trương Bửu Diệp Foundation trong Địa Phận Orange này, không thuộc về Trung Tâm Công Giáo và cũng không thuộc về Tòa Giám Mục Orange. Tất cả những văn phòng hay cơ sở mang tên Cha Trương Bửu Diệp này đều ở dưới dạng hoặc hình thức tư nhân, cho nên Giáo Quyền Công Giáo tại Orange không có quyền thẩm phán hoặc thẩm xét trên họ. Nhưng nếu những cơ sở đó, vẫn mang danh là Công Giáo, mà lại làm những điều sai đức tin hoặc phụng vụ… thì Giáo Quyền ở đây sẽ có trách nhiệm và bổn phận phải lên tiếng. Việc này đã xảy ra mấy năm trước đây, khi một cơ sở mang tên Cha Trương Bửu Diệp trong Quận Orange, đã đưa một linh mục Công Giáo ở ngoài địa phận tới để dâng lễ thường xuyên mà không có phép.
Theo thông lệ đã xảy ra trong Giáo Hội là người ta đúc tượng hoặc dựng tượng các bậc đáng kính, chưa được phong thánh, tại một nơi chốn nào đó ở quê hương các vị này, hoặc một nơi nào đó trong địa phận của các vị này, để tôn kính các ngài. Bởi vì chưa được phong thánh, việc làm như thế phải được sự chuẩn nhận của Đức Giám Mục địa phương. Nhưng việc đúc tượng, làm tượng, tạc tượng các vị này, và gởi đi nơi khác, gởi đi khắp nơi, để cổ võ lòng tôn sùng các vị này, có khi còn xin làm phép tượng nữa, thì đó là điều không đúng. Lý do đơn giản là vì các ngài chưa được phong thánh theo quy luật của Giáo Hội mà đã tạc tượng hoặc làm tượng. Một vị Giám Mục Việt Nam đã nói: “Điều này giống như cái cày đặt trước con trâu.” Và nếu tiến trình phong thánh cho các vị này kéo dài thời gian, thì tội nghiệp các ngài phải đứng chờ hơi lâu.
Trừ trường hợp của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hay Thánh Têrêsa thành Calcutta mà chúng ta thường gọi là Mẹ Têrêsa, hoặc một số vị thánh khác nữa, lịch sử đã cho thấy tiến trình phong thánh cũng rất lâu dài. Thí dụ trường hợp Thánh Martinô De Porres cho chúng ta thấy 258 năm sau ngày sinh của ngài, thì ngài mới được phong chân phước và 125 năm sau khi ngài được phong chân phước, lúc đó ngài mới được phong thánh vào năm 1962.
Khi các vị chưa được phong thánh và chúng ta muốn tỏ lòng tôn kính, việc sử dụng hình ảnh của các ngài dưới dạng tranh hoặc ảnh, hoặc một bản khắc khuôn mặt hoặc chân dung các ngài, là chuyện dễ chấp nhận. Còn đúc tượng, làm tượng, tạc tượng phổ biến mọi nơi, đó là điều không nên. Ơn quan trọng nhất mà chúng ta cần cầu khấn với các thánh, và ngay cả với những vị lành thánh chưa được phong thánh những có lẽ đang ở trên thiên quốc, đó là xin các ngài dẫn chúng ta tới với Chúa.
Xin Trân Trọng Thông Báo
Ngày 28/1/2017
LM Trần Văn Kiểm
Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo
Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm 3/21/2016
LTS: Đây là ý kiến của Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh Tâm, quản nhiệm cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Nam Úc, không nhất thiết là quan điểm của VietCatholic.
http://vietcatholic.net/News/Html/181066.htm
Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
21/03/2016
Anh chị em thân mến,
1.Từ năm ngoái 2015 đến nay, một vấn đề làm hoang mang nhiều người trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc, đó là việc vận động tuyên thánh Linh Mục Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Vì thế, tôi viết bài này giúp anh chị em hiểu rõ về sự việc, để khỏi bị lung lạc do nhiều nguồn tin khác nhau.
2.Việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp là do Đức Giám Mục đương nhiệm của Giáo Phận Cần Thơ, Stêphanô Tri Bửu Thiên, bắt đầu. Đức Cha Thiên đã gửi lá thư đề ngày 03/09/2013 để hỏi ý kiến Bộ Tuyên Thánh và đã được chấp thuận về việc thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh. Văn thư chấp thuận được gọi tóm tắt bằng tiếng La Tinh là “NIHIL OBSTAT” đề ngày 31/10/2014, dịch nghĩa là “KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ”. Khi có văn thư chấp thuận như thế, Cha Diệp được liệt vào bậc “Tôi Tớ Chúa” trong tiến trình vận động tuyên thánh.
3.Văn thư của Bộ Tuyên Thánh cho phép Đức Cha Thiên thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, nhưng văn thư không đòi buộc mọi người tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thi hành việc vận động tuyên thánh này. Mỗi người tín hữu Công Giáo đều có tự do của mình để chọn lựa việc làm. Do đó, Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không buộc phải theo văn thư NIHIL OBSTAT về việc vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
4.Sau khi Bộ Tuyên Thánh ra văn thư NIHIL OBSTAT, Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên thuộc Giáo Phận Saint Paul in Alberta, Canada đến Adelaide, Nam Úc và thành lập một hội có tên là Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp vào ngày 22/12/2014. Linh Mục Tuyên và ban điều hành của hội này không bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Họ tự ý thành lập hội này, mà ngay cả Đức Tổng Giám Mục Adelaide cũng không hề hay biết. Việc tự ý thành lập một hội đoàn có tầm ảnh hưởng lên đức tin, tình hiệp thông và sự ổn định của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, mà không thèm bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm địa phương là một hành động không thể chấp nhận được. Đây là một hành vi không công bình và không bác ái đối với người có trách nhiệm và có quyền điều hành Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc.
5.Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp bắt đầu hoạt động công khai với buổi ra mắt vào ngày 24/06/2015 tại hội trường Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu/Nam Úc. Chỉ hơn hai tháng sau, thì những chuyện rắc rối bắt đầu xảy ra, gây nên căng thẳng, hoang mang và chia rẽ trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Ngày 08/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm nhận được một lá thư mạo danh, chửi bới ngài cách nặng nề và đòi buộc ngài từ chức. Đó là những lời gian dối, hiểm độc và vô căn cứ. Sở dĩ gọi là mạo danh vì tác giả sử dụng tên của một người khác để viết thư. Mục đích của kẻ viết thư là để làm gì? Để gây hoang mang và chia rẽ? Để buộc Linh Mục Quản Nhiệm ra đi? Rồi làm gì? Một điều có thể xảy ra là, nếu Linh Mục Quản Nhiệm ra đi và một Linh Mục khác đến phục vụ, thì tác giả lá thư mạo danh và những người liên quan đến lá thư mạo danh đó sẽ khuynh đảo, lôi kéo Linh Mục mới làm theo ý đồ riêng tư của họ. Nếu chuyện đó xảy ra, thì Cộng Đồng sẽ lâm vào cảnh xáo trộn và chia rẽ trầm trọng như đã từng xảy ra nhiều năm trước đây.
6.Ngày 17/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm lại nhận được một điện thư do một kẻ lấy tên là Thi Hoài gửi đến. Nội dung của điện thư này vu cáo rằng Linh Mục Quản Nhiệm chống lại Cha Diệp, trong khi Linh Mục Quản Nhiệm không hề có một điều gì xúc phạm đến vị Linh Mục quá cố này. Lời lẽ trong thư cũng chửi bới và đe dọa tương tự như lá thư mạo danh xuất hiện trước đó hơn một tuần. Chúng ta tự hỏi: “Tác giả Thi Hoài có mối liên hệ mật thiết nào đối với Cha Diệp và những hiện tượng liên quan đến Cha Diệp? Tác giả Thi Hoài có liên quan mật thiết nào với kẻ viết thư mạo danh hơn một tuần trước đó? Kẻ viết thư mạo danh lại có mối liên hệ mật thiết nào với việc vận động tuyên thánh Cha Diệp? Trong khoảng thời gian kế tiếp cho đến bây giờ, cũng có một vài chuyện khác xảy ra nhằm triệt hạ uy tín của Linh Mục Quản Nhiệm và gây khó khăn cho những người cộng tác với ngài để phục vụ Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Những chuyện này cũng biểu lộ một số dấu hiệu có liên quan đến việc vận động tuyên thánh Cha Diệp và kẻ viết thư mạo danh cùng tác giả Thi Hoài được đề cập trên đây.
7.Cộng Đồng Công Công Giáo Việt Nam – Nam Úc sinh hoạt ổn định, an lành, vui vẻ và hiệp thông với nhau trong nhiều năm qua. Nhưng kể từ khi Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp do Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên lập ra, bắt đầu hoạt động công khai tại Adelaide vào ngày 24/6/2015, thì chỉ một thời gian ngắn sau đó là xáo trộn, hoang mang và chia rẽ xảy ra ngay trong Cộng Đồng này. Tại sao lại có sự xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như vậy? Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không gây ra tình trạng này. Chắc chắn Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp cũng không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ. Một phần là vì ngài đã qua đời, và người đã qua đời không làm ra những chuyện này. Phần khác là vì chúng ta tin rằng Cha Phanxicô Xaviê là một Linh Mục thánh thiện. Mà người thánh thiện chắc chắn không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ trong bất cứ cộng đoàn nào. Vậy ai đã gây ra những xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như thế? Câu trả lời là tùy từng cá nhân. Mỗi người hãy cầu nguyện, hãy xét mình, hãy đối diện với lương tâm, với Thiên Chúa, với Đức Mẹ cùng các thiên thần và các thánh, để tìm ra câu trả lời cho chính mình.
8.Việc vận động tuyên thánh Cha Diệp cần phải có văn thư của Đức Giám Mục đương nhiệm Giáo Phận Cần Thơ kêu gọi xin hỗ trợ mới được. Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên đã gửi một văn thư đề ngày 24/10/2012, ủy nhiệm cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo tại Hoa Kỳ để đại diện Giáo Phận Cần Thơ lo việc vận động tuyên thánh Cha Diệp tại Hoa Kỳ. Còn ở Úc thì không có văn thư nào tương tự như thế. Vì vậy, Linh Mục Quản Nhiệm CĐCGVNNU không thể đại diện Giáo Phận Cần Thơ để tự ý thực hiện việc vận động tuyên thánh này.
9.Một mặt, Đức Giám Mục Stêphanô Tri Bửu Thiên bổ nhiệm Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên làm Cáo Thỉnh Viên trong Bản Tuyên Bố ký ngày 20/08/2011, để lo việc vận động tuyên thánh. Mặt khác, Đức Cha Thiên lại ra ủy nhiệm thư ký ngày 24/10/2012 cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ lo việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp tại nơi đây. Nội dung ủy nhiệm thư quy định là tại Hoa Kỳ trách nhiệm và quyền vận động tuyên thánh cho Cha Diệp thuộc về giới lãnh đạo Công Giáo Việt Nam ở quốc gia này. Ủy nhiệm thư không đề cập đến Cha Tuyên. Do đó, chúng ta không biết rõ trách nhiệm và quyền hạn của Cha Tuyên bao quát đến mức độ nào? Trong tình trạng mù mờ như thế, điều khôn ngoan nhất là không nên hành động vội vã, kẻo gây hiểu lầm và tạo ra xáo trộn.
10.Giả sử Đức Cha Thiên có kêu gọi hỗ trợ việc vận động tuyên thánh đi nữa, thì công việc này cũng không nhất thiết đòi hỏi là phải thành lập hội đoàn. Bởi vì việc vận động tuyên thánh có nhiều cách để làm, tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm trong từng địa phương. Theo hoàn cảnh hiện nay, đối với Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, việc lập thêm hội đoàn là điều không cần thiết. Cộng Đồng đã có quá nhiều hội đoàn, mà thành viên của các hội đoàn hầu hết là những khuôn mặt quen thuộc. Những người tham gia hội đoàn này, cũng thường tham gia hội đoàn khác. Có người là thành viên của ba bốn hội đoàn. Vì vậy, khi chúng ta đi họp hội đoàn nào, chúng ta cũng thấy những khuôn mặt quen thuộc đó hiện diện. Cho nên, căn cứ theo hoàn cảnh hiện tại, Cộng Đồng không cần lập thêm hay công nhận thêm một hội đoàn nào khác nữa, ngoại trừ trường hợp rất cần thiết theo phán đoán mục vụ của Linh Mục Quản Nhiệm, thì ngài mới thành lập thêm hội đoàn. Trong mức độ liên quan đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, chúng ta phải coi hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp chỉ là một tổ chức của tư nhân ngoài Cộng Đồng mà thôi. Nói chung, việc thành lập hội đoàn thì mọi người đều có quyền thực hiện, miễn là hợp pháp. Tuy nhiên, khi một hội đoàn nào có liên quan đến đức tin và làm ảnh hưởng tiêu cực đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, thì trách nhiệm và lương tâm mục tử đòi buộc Linh Mục Quản Nhiệm phải có thái độ và hành động xứng hợp để bảo vệ đức tin của giáo dân mình coi sóc.
11.Việc tôn kính một cá nhân mà mình ngưỡng mộ là chuyện tự do của mỗi người. Ai muốn chọn người nào để tôn kính và cách thức nào để tôn kính vị đó thì tùy ý. Việc tôn kính này không buộc ai phải gia nhập hội đoàn hay lập thêm hội đoàn. Nếu ai muốn tôn kính người nào hay lập hội đoàn nào, thì tùy ý, nhưng đừng nên đòi hỏi người khác phải chấp nhận việc tôn kính như mình hay chấp nhận hội đoàn của mình. Mỗi một Linh Mục coi sóc giáo xứ hay điều hành cộng đoàn sắc tộc đều có trách nhiệm và có quyền điều hành giáo xứ hay cộng đoàn của họ. Trách nhiệm điều hành và quyền điều hành bao giờ cũng đi đôi với nhau. Theo lẽ thường, mọi người đều buộc phải tôn trọng trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các vị ấy. Do đó, khi một hay nhiều Linh Mục khách hoặc một nhóm người nào đó không tôn trọng phạm vi trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các Linh Mục coi xứ hoặc các Linh Mục coi sóc cộng đoàn sắc tộc, thì các vị ấy đã vi phạm đức công bình và đức bác ái.
12.Một tín hữu Công Giáo được vận động để tuyên thánh phải trải qua một tiến trình gồm bốn bậc: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (còn gọi là Á Thánh), và Hiển Thánh. Xét tận căn, bốn bậc này đều là Tôi Tớ Chúa cả, nhưng sự khác biệt giữa các bậc như sau: *Tôi Tớ Chúa (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), *Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính, *Tôi Tớ Chúa Chân Phước (còn gọi là Tôi Tớ Chúa Á Thánh), và *Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh. Nói vắn tắt, bốn bậc là: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (Á Thánh), và Hiển Thánh. Cha Diệp đang còn ở trong bậc Tôi Tớ Chúa, nghĩa là Tôi Tớ Chúa đơn giản mà thôi.
13.Trong Giáo Luật, điều 1187 qui định rõ ràng: “Chỉ được phép tôn kính công khai những Tôi Tớ của Thiên Chúa đã được giáo quyền liệt kê vào sổ bộ Chân Phước hay Hiển Thánh.” Điều luật này cho thấy chỉ có Tôi Tớ Chúa Chân Phước và Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh mới được phép tôn kính công khai mà thôi. Còn hai bậc khác là Tôi Tớ Chúa đơn giản và Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính thì chỉ được tôn kính riêng tư. Do đó, khi tôn kính một người nào đang còn ở trong giai đoạn “Tôi Tớ Chúa” (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), thì nguyên tắc căn bản là không nên thực hiện việc tôn kính thái quá khiến cho nhiều người lầm tưởng là vị ấy đã được Giáo Hội tuyên phong Chân Phước hay Hiển Thánh rồi. Ngay cả khi tôn kính Chân Phước hay Hiển Thánh, người tín hữu Công Giáo cũng không nên làm những hành vi sùng bái quá đáng, đến nỗi họ chỉ biết dâng hiến xác hồn cho cá nhân người được sùng kính, mà không còn thiết tha gì đến Thiên Chúa nữa. Một khi hiện tượng này xảy ra, thì việc tôn kính cá nhân đó trở thành một thứ tôn thờ ngẫu thần, tương tự như việc tôn thờ bò vàng của dân Do Thái trong sa mạc (Xuất Hành 32).
14.Khi thiên hạ nói rằng mình được ơn lạ từ vị này vị kia, thì điều đó chưa hẳn là ơn lạ hay phép lạ. Bởi vì chúng ta dựa vào chứng cớ nào để tin? Lời nói của một người hay nhiều người vẫn chưa đủ để chứng minh về ơn lạ hay phép lạ. Những cái gọi là ơn lạ hay phép lạ phải được xét nghiệm theo phương pháp khoa học và phải được Thẩm Quyền của Giáo Hội tuyên bố; bấy giờ người tín hữu Công Giáo mới nên tin là phép lạ.
15.Đức tin của Giáo Hội bắt nguồn từ thời các thánh Tông Đồ và tiếp diễn cho đến nay. Điều cốt yếu là chúng ta đón nhận và sống đức tin do Giáo Hội truyền dạy. Đức tin của chúng ta được nâng đỡ và khích lệ qua việc tôn kính các thánh. Việc tôn kính các thánh có hai mục đích, đó là học theo gương sáng của các ngài và xin các ngài cầu bầu cùng Chúa để Chúa ban ơn cho chúng ta (GLHTCG 828). Trong hai mục đích này, việc học hỏi gương sáng các thánh là điều chính yếu, bởi vì nó giúp chúng ta thăng tiến đời sống để nên thánh như ý Chúa muốn. Chúa Giêsu đã dạy rõ ràng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi tôn kính một vị thánh nào hay một tín hữu Công Giáo nào đang được vận động để được tuyên thánh, thì điểm chính yếu là chúng ta học theo gương sáng của họ. Gương sáng căn bản là: tôn trọng sự thật, công bình và bác ái, để kiến tạo hòa bình. Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô dạy trong bài Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9).
16.Như đã nói trên đây, chúng ta tin rằng Cha Phaxicô Xaviê Trương Bửu Diệp là một vị Linh Mục thánh thiện. Bộ Tuyên Thánh đã chấp thuận cho ngài được vận động để tuyên thánh, nên ngài được gọi là Tôi Tớ Chúa. Tuy nhiên, văn thư NIHIL OBSTAT (nghĩa là: không có gì ngăn trở) của Bộ Tuyên Thánh không đòi buộc mọi tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thực hiện cuộc vận động đó. Mỗi tín hữu đều có tự do của mình để chọn lựa. Nếu chọn lựa vận động tuyên thánh, thì có nhiều phương pháp để thực hiện tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm của từng nơi chốn. Phương pháp vận động tuyên thánh có xứng hợp hay không, thì tùy thuộc sự phán đoán của mỗi tín hữu. Có Chúa biết rõ lòng dạ chúng ta. Mỗi người trong anh chị em cần suy nghĩ để chọn lựa thái độ và lối sống đức tin cho mình. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa Thiên Chúa về mọi việc làm của mình ở trần gian này.
Thân mến chào anh chị em,
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
Quản Nhiệm CĐCGVNNU
20/03/2016
*****************************
Sau khi đọc xong bài "Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?" của Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm, viết ngày 20 tháng 3 năm 2016 và được đăng trong trang mạng http://vietcatholic.net/News/Html/181066.htm ngày 21 tháng 3 năm 2016 , Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật thành thật cám ơn Đức Ông đã viết bài này giúp anh chị em BBT ASST nói riêng, giáo dân Việt Nam nói chung để hiểu rõ về sự việc. BBT ASST có nhận xét như sau:
- Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Mục địa phương tại Việt Nam, các Dòng, các Linh Mục chánh xứ trong nước và ngoại quốc là những chủ chiên, các Ngài thông hiểu và am tường rất rõ về Giáo Luật cũng như các Điều Luật của tiến trình trước khi được Bộ Tuyên Thánh phong thánh cho ai thì cần phải làm những gì, và những gì chưa được phép làm. Nhưng các Ngài đã làm ngơ, hoặc cố tình đứng ra với nhóm con chiên này, đoàn chiên kia để tổ chức những Thánh Lễ giỗ thật vĩ đại, thật linh đình.
- Mới đây có 1 Giáo Xứ ở ngoại quốc, Cha Xứ cho tổ chức Thánh Lễ Giỗ 70 năm của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Trong phần xin TIỀN, không biết đây là ý kiến của Cha Xứ hay của Ban Tổ Chức mà giáo dân phải xếp hàng đi lên chỗ tượng ảnh của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp để bỏ TIỀN vào giỏ. Chưa hết, Cha Xứ còn đứng trước tượng của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp mà đặt hai tay của mình lên đầu của giáo dân nào muốn xin ơn, sau Thánh Lễ lại còn có phần sinh hoạt văn nghệ đặc sắc nữa chứ. không biết trong Giáo Luật cũng như trong các Điều Luật của Bộ Phong Thánh có chỗ nào ghi cho phép khi đang Vận động xin tuyên thánh cho ai, Linh Mục được phép làm những chuyện như thế này không?
Thật sự, nếu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Mục địa phương tại Việt Nam, các Dòng, các Linh Mục chánh xứ trong nước và ngoại quốc mà có trách nhiệm lên tiếng về những sự việc mà Đức Ông viết ra ở trên thì người dân Việt Nam nói chung, người Công Giáo nói riêng sẽ hiểu rõ vấn đề, nhất là sẽ tránh được những kẻ xấu xa lạm dụng lòng tin và tôn kính của chúng ta đối với Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp.
Bởi vì, người dân Việt Nam chúng ta nói chung, giáo dân công giáo nói riêng, khi nghe được những tin tức, hoặc truyền miệng mách bảo với nhau rằng: nơi này, chỗ kia, có Ông Thánh này, Bà Thánh nọ, người này, người kia rất linh thiêng thì thường đổ xô nhau đi tới đó để khấn vái, xin ơn, nhất là trong gia đình nào có người bị bệnh mà hết thuốc chữa, hoặc vv và vv...
Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật
Lm Trần Văn Kiểm 1/29/2017
THÔNG BÁO CỦA TRUNG TÂM Công Giáo VIỆT NAM TẠI GIÁO PHẬN ORANGE VỀ VIỆC KHÔNG CÓ PHÉP CỦA VĂN PHÒNG CÁO THỈNH VIÊN XIN PHONG THÁNH CHO CHA TRƯƠNG BỬU DIỆP
Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên là văn phòng liên lạc với Tòa Thánh trong việc xin phong thánh nên khi văn phòng này được đặt ở đâu thì phải có phép của vị Giám Mục Địa Phận ở đó. Đặt trường hợp nếu Tòa Thánh liên lạc với Đức Giám Mục Địa Phận Orange, hỏi về Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên nằm trong địa phận của ngài mà ngài không biết gì về sự hiện diện của văn phòng này, thì đây là một việc làm sai luật và là sự xúc phạm tới Đức Giám Mục.
Việc này đã thật sự xảy ra: Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên xin phong thánh cho Cha Trương Bửu Diệp nằm trong Địa Phận Orange đã được cắt băng khánh thành và làm phép vào Thứ Bẩy ngày 7 tháng 1 năm 2017 nhưng chính Đức Giám Mục của địa phận lại hoàn toàn không biết gì về chuyện này. Ngài đã không cho phép và cũng đã không nhận được giấy xin phép. Như thế Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên xin phong thánh cho Cha Trương Bửu Diệp đã không có phép của Đức Giám Mục để có thể hiện diện trong Địa Phận Orange. Khi không có phép thì không thể đưa vào hoạt động.
Một điều nữa chúng ta cũng cần nên biết đó là tất cả những văn phòng hay cơ sở có tên Cha Trương Bửu Diệp Foundation trong Địa Phận Orange này, không thuộc về Trung Tâm Công Giáo và cũng không thuộc về Tòa Giám Mục Orange. Tất cả những văn phòng hay cơ sở mang tên Cha Trương Bửu Diệp này đều ở dưới dạng hoặc hình thức tư nhân, cho nên Giáo Quyền Công Giáo tại Orange không có quyền thẩm phán hoặc thẩm xét trên họ. Nhưng nếu những cơ sở đó, vẫn mang danh là Công Giáo, mà lại làm những điều sai đức tin hoặc phụng vụ… thì Giáo Quyền ở đây sẽ có trách nhiệm và bổn phận phải lên tiếng. Việc này đã xảy ra mấy năm trước đây, khi một cơ sở mang tên Cha Trương Bửu Diệp trong Quận Orange, đã đưa một linh mục Công Giáo ở ngoài địa phận tới để dâng lễ thường xuyên mà không có phép.
Theo thông lệ đã xảy ra trong Giáo Hội là người ta đúc tượng hoặc dựng tượng các bậc đáng kính, chưa được phong thánh, tại một nơi chốn nào đó ở quê hương các vị này, hoặc một nơi nào đó trong địa phận của các vị này, để tôn kính các ngài. Bởi vì chưa được phong thánh, việc làm như thế phải được sự chuẩn nhận của Đức Giám Mục địa phương. Nhưng việc đúc tượng, làm tượng, tạc tượng các vị này, và gởi đi nơi khác, gởi đi khắp nơi, để cổ võ lòng tôn sùng các vị này, có khi còn xin làm phép tượng nữa, thì đó là điều không đúng. Lý do đơn giản là vì các ngài chưa được phong thánh theo quy luật của Giáo Hội mà đã tạc tượng hoặc làm tượng. Một vị Giám Mục Việt Nam đã nói: “Điều này giống như cái cày đặt trước con trâu.” Và nếu tiến trình phong thánh cho các vị này kéo dài thời gian, thì tội nghiệp các ngài phải đứng chờ hơi lâu.
Trừ trường hợp của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hay Thánh Têrêsa thành Calcutta mà chúng ta thường gọi là Mẹ Têrêsa, hoặc một số vị thánh khác nữa, lịch sử đã cho thấy tiến trình phong thánh cũng rất lâu dài. Thí dụ trường hợp Thánh Martinô De Porres cho chúng ta thấy 258 năm sau ngày sinh của ngài, thì ngài mới được phong chân phước và 125 năm sau khi ngài được phong chân phước, lúc đó ngài mới được phong thánh vào năm 1962.
Khi các vị chưa được phong thánh và chúng ta muốn tỏ lòng tôn kính, việc sử dụng hình ảnh của các ngài dưới dạng tranh hoặc ảnh, hoặc một bản khắc khuôn mặt hoặc chân dung các ngài, là chuyện dễ chấp nhận. Còn đúc tượng, làm tượng, tạc tượng phổ biến mọi nơi, đó là điều không nên. Ơn quan trọng nhất mà chúng ta cần cầu khấn với các thánh, và ngay cả với những vị lành thánh chưa được phong thánh những có lẽ đang ở trên thiên quốc, đó là xin các ngài dẫn chúng ta tới với Chúa.
Xin Trân Trọng Thông Báo
Ngày 28/1/2017
LM Trần Văn Kiểm
Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo
Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm 3/21/2016
LTS: Đây là ý kiến của Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh Tâm, quản nhiệm cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Nam Úc, không nhất thiết là quan điểm của VietCatholic.
http://vietcatholic.net/News/Html/181066.htm
Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
21/03/2016
Anh chị em thân mến,
1.Từ năm ngoái 2015 đến nay, một vấn đề làm hoang mang nhiều người trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc, đó là việc vận động tuyên thánh Linh Mục Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Vì thế, tôi viết bài này giúp anh chị em hiểu rõ về sự việc, để khỏi bị lung lạc do nhiều nguồn tin khác nhau.
2.Việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp là do Đức Giám Mục đương nhiệm của Giáo Phận Cần Thơ, Stêphanô Tri Bửu Thiên, bắt đầu. Đức Cha Thiên đã gửi lá thư đề ngày 03/09/2013 để hỏi ý kiến Bộ Tuyên Thánh và đã được chấp thuận về việc thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh. Văn thư chấp thuận được gọi tóm tắt bằng tiếng La Tinh là “NIHIL OBSTAT” đề ngày 31/10/2014, dịch nghĩa là “KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ”. Khi có văn thư chấp thuận như thế, Cha Diệp được liệt vào bậc “Tôi Tớ Chúa” trong tiến trình vận động tuyên thánh.
3.Văn thư của Bộ Tuyên Thánh cho phép Đức Cha Thiên thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, nhưng văn thư không đòi buộc mọi người tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thi hành việc vận động tuyên thánh này. Mỗi người tín hữu Công Giáo đều có tự do của mình để chọn lựa việc làm. Do đó, Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không buộc phải theo văn thư NIHIL OBSTAT về việc vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
4.Sau khi Bộ Tuyên Thánh ra văn thư NIHIL OBSTAT, Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên thuộc Giáo Phận Saint Paul in Alberta, Canada đến Adelaide, Nam Úc và thành lập một hội có tên là Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp vào ngày 22/12/2014. Linh Mục Tuyên và ban điều hành của hội này không bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Họ tự ý thành lập hội này, mà ngay cả Đức Tổng Giám Mục Adelaide cũng không hề hay biết. Việc tự ý thành lập một hội đoàn có tầm ảnh hưởng lên đức tin, tình hiệp thông và sự ổn định của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, mà không thèm bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm địa phương là một hành động không thể chấp nhận được. Đây là một hành vi không công bình và không bác ái đối với người có trách nhiệm và có quyền điều hành Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc.
5.Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp bắt đầu hoạt động công khai với buổi ra mắt vào ngày 24/06/2015 tại hội trường Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu/Nam Úc. Chỉ hơn hai tháng sau, thì những chuyện rắc rối bắt đầu xảy ra, gây nên căng thẳng, hoang mang và chia rẽ trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Ngày 08/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm nhận được một lá thư mạo danh, chửi bới ngài cách nặng nề và đòi buộc ngài từ chức. Đó là những lời gian dối, hiểm độc và vô căn cứ. Sở dĩ gọi là mạo danh vì tác giả sử dụng tên của một người khác để viết thư. Mục đích của kẻ viết thư là để làm gì? Để gây hoang mang và chia rẽ? Để buộc Linh Mục Quản Nhiệm ra đi? Rồi làm gì? Một điều có thể xảy ra là, nếu Linh Mục Quản Nhiệm ra đi và một Linh Mục khác đến phục vụ, thì tác giả lá thư mạo danh và những người liên quan đến lá thư mạo danh đó sẽ khuynh đảo, lôi kéo Linh Mục mới làm theo ý đồ riêng tư của họ. Nếu chuyện đó xảy ra, thì Cộng Đồng sẽ lâm vào cảnh xáo trộn và chia rẽ trầm trọng như đã từng xảy ra nhiều năm trước đây.
6.Ngày 17/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm lại nhận được một điện thư do một kẻ lấy tên là Thi Hoài gửi đến. Nội dung của điện thư này vu cáo rằng Linh Mục Quản Nhiệm chống lại Cha Diệp, trong khi Linh Mục Quản Nhiệm không hề có một điều gì xúc phạm đến vị Linh Mục quá cố này. Lời lẽ trong thư cũng chửi bới và đe dọa tương tự như lá thư mạo danh xuất hiện trước đó hơn một tuần. Chúng ta tự hỏi: “Tác giả Thi Hoài có mối liên hệ mật thiết nào đối với Cha Diệp và những hiện tượng liên quan đến Cha Diệp? Tác giả Thi Hoài có liên quan mật thiết nào với kẻ viết thư mạo danh hơn một tuần trước đó? Kẻ viết thư mạo danh lại có mối liên hệ mật thiết nào với việc vận động tuyên thánh Cha Diệp? Trong khoảng thời gian kế tiếp cho đến bây giờ, cũng có một vài chuyện khác xảy ra nhằm triệt hạ uy tín của Linh Mục Quản Nhiệm và gây khó khăn cho những người cộng tác với ngài để phục vụ Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Những chuyện này cũng biểu lộ một số dấu hiệu có liên quan đến việc vận động tuyên thánh Cha Diệp và kẻ viết thư mạo danh cùng tác giả Thi Hoài được đề cập trên đây.
7.Cộng Đồng Công Công Giáo Việt Nam – Nam Úc sinh hoạt ổn định, an lành, vui vẻ và hiệp thông với nhau trong nhiều năm qua. Nhưng kể từ khi Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp do Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên lập ra, bắt đầu hoạt động công khai tại Adelaide vào ngày 24/6/2015, thì chỉ một thời gian ngắn sau đó là xáo trộn, hoang mang và chia rẽ xảy ra ngay trong Cộng Đồng này. Tại sao lại có sự xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như vậy? Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không gây ra tình trạng này. Chắc chắn Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp cũng không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ. Một phần là vì ngài đã qua đời, và người đã qua đời không làm ra những chuyện này. Phần khác là vì chúng ta tin rằng Cha Phanxicô Xaviê là một Linh Mục thánh thiện. Mà người thánh thiện chắc chắn không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ trong bất cứ cộng đoàn nào. Vậy ai đã gây ra những xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như thế? Câu trả lời là tùy từng cá nhân. Mỗi người hãy cầu nguyện, hãy xét mình, hãy đối diện với lương tâm, với Thiên Chúa, với Đức Mẹ cùng các thiên thần và các thánh, để tìm ra câu trả lời cho chính mình.
8.Việc vận động tuyên thánh Cha Diệp cần phải có văn thư của Đức Giám Mục đương nhiệm Giáo Phận Cần Thơ kêu gọi xin hỗ trợ mới được. Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên đã gửi một văn thư đề ngày 24/10/2012, ủy nhiệm cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo tại Hoa Kỳ để đại diện Giáo Phận Cần Thơ lo việc vận động tuyên thánh Cha Diệp tại Hoa Kỳ. Còn ở Úc thì không có văn thư nào tương tự như thế. Vì vậy, Linh Mục Quản Nhiệm CĐCGVNNU không thể đại diện Giáo Phận Cần Thơ để tự ý thực hiện việc vận động tuyên thánh này.
9.Một mặt, Đức Giám Mục Stêphanô Tri Bửu Thiên bổ nhiệm Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên làm Cáo Thỉnh Viên trong Bản Tuyên Bố ký ngày 20/08/2011, để lo việc vận động tuyên thánh. Mặt khác, Đức Cha Thiên lại ra ủy nhiệm thư ký ngày 24/10/2012 cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ lo việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp tại nơi đây. Nội dung ủy nhiệm thư quy định là tại Hoa Kỳ trách nhiệm và quyền vận động tuyên thánh cho Cha Diệp thuộc về giới lãnh đạo Công Giáo Việt Nam ở quốc gia này. Ủy nhiệm thư không đề cập đến Cha Tuyên. Do đó, chúng ta không biết rõ trách nhiệm và quyền hạn của Cha Tuyên bao quát đến mức độ nào? Trong tình trạng mù mờ như thế, điều khôn ngoan nhất là không nên hành động vội vã, kẻo gây hiểu lầm và tạo ra xáo trộn.
10.Giả sử Đức Cha Thiên có kêu gọi hỗ trợ việc vận động tuyên thánh đi nữa, thì công việc này cũng không nhất thiết đòi hỏi là phải thành lập hội đoàn. Bởi vì việc vận động tuyên thánh có nhiều cách để làm, tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm trong từng địa phương. Theo hoàn cảnh hiện nay, đối với Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, việc lập thêm hội đoàn là điều không cần thiết. Cộng Đồng đã có quá nhiều hội đoàn, mà thành viên của các hội đoàn hầu hết là những khuôn mặt quen thuộc. Những người tham gia hội đoàn này, cũng thường tham gia hội đoàn khác. Có người là thành viên của ba bốn hội đoàn. Vì vậy, khi chúng ta đi họp hội đoàn nào, chúng ta cũng thấy những khuôn mặt quen thuộc đó hiện diện. Cho nên, căn cứ theo hoàn cảnh hiện tại, Cộng Đồng không cần lập thêm hay công nhận thêm một hội đoàn nào khác nữa, ngoại trừ trường hợp rất cần thiết theo phán đoán mục vụ của Linh Mục Quản Nhiệm, thì ngài mới thành lập thêm hội đoàn. Trong mức độ liên quan đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, chúng ta phải coi hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp chỉ là một tổ chức của tư nhân ngoài Cộng Đồng mà thôi. Nói chung, việc thành lập hội đoàn thì mọi người đều có quyền thực hiện, miễn là hợp pháp. Tuy nhiên, khi một hội đoàn nào có liên quan đến đức tin và làm ảnh hưởng tiêu cực đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, thì trách nhiệm và lương tâm mục tử đòi buộc Linh Mục Quản Nhiệm phải có thái độ và hành động xứng hợp để bảo vệ đức tin của giáo dân mình coi sóc.
11.Việc tôn kính một cá nhân mà mình ngưỡng mộ là chuyện tự do của mỗi người. Ai muốn chọn người nào để tôn kính và cách thức nào để tôn kính vị đó thì tùy ý. Việc tôn kính này không buộc ai phải gia nhập hội đoàn hay lập thêm hội đoàn. Nếu ai muốn tôn kính người nào hay lập hội đoàn nào, thì tùy ý, nhưng đừng nên đòi hỏi người khác phải chấp nhận việc tôn kính như mình hay chấp nhận hội đoàn của mình. Mỗi một Linh Mục coi sóc giáo xứ hay điều hành cộng đoàn sắc tộc đều có trách nhiệm và có quyền điều hành giáo xứ hay cộng đoàn của họ. Trách nhiệm điều hành và quyền điều hành bao giờ cũng đi đôi với nhau. Theo lẽ thường, mọi người đều buộc phải tôn trọng trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các vị ấy. Do đó, khi một hay nhiều Linh Mục khách hoặc một nhóm người nào đó không tôn trọng phạm vi trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các Linh Mục coi xứ hoặc các Linh Mục coi sóc cộng đoàn sắc tộc, thì các vị ấy đã vi phạm đức công bình và đức bác ái.
12.Một tín hữu Công Giáo được vận động để tuyên thánh phải trải qua một tiến trình gồm bốn bậc: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (còn gọi là Á Thánh), và Hiển Thánh. Xét tận căn, bốn bậc này đều là Tôi Tớ Chúa cả, nhưng sự khác biệt giữa các bậc như sau: *Tôi Tớ Chúa (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), *Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính, *Tôi Tớ Chúa Chân Phước (còn gọi là Tôi Tớ Chúa Á Thánh), và *Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh. Nói vắn tắt, bốn bậc là: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (Á Thánh), và Hiển Thánh. Cha Diệp đang còn ở trong bậc Tôi Tớ Chúa, nghĩa là Tôi Tớ Chúa đơn giản mà thôi.
13.Trong Giáo Luật, điều 1187 qui định rõ ràng: “Chỉ được phép tôn kính công khai những Tôi Tớ của Thiên Chúa đã được giáo quyền liệt kê vào sổ bộ Chân Phước hay Hiển Thánh.” Điều luật này cho thấy chỉ có Tôi Tớ Chúa Chân Phước và Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh mới được phép tôn kính công khai mà thôi. Còn hai bậc khác là Tôi Tớ Chúa đơn giản và Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính thì chỉ được tôn kính riêng tư. Do đó, khi tôn kính một người nào đang còn ở trong giai đoạn “Tôi Tớ Chúa” (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), thì nguyên tắc căn bản là không nên thực hiện việc tôn kính thái quá khiến cho nhiều người lầm tưởng là vị ấy đã được Giáo Hội tuyên phong Chân Phước hay Hiển Thánh rồi. Ngay cả khi tôn kính Chân Phước hay Hiển Thánh, người tín hữu Công Giáo cũng không nên làm những hành vi sùng bái quá đáng, đến nỗi họ chỉ biết dâng hiến xác hồn cho cá nhân người được sùng kính, mà không còn thiết tha gì đến Thiên Chúa nữa. Một khi hiện tượng này xảy ra, thì việc tôn kính cá nhân đó trở thành một thứ tôn thờ ngẫu thần, tương tự như việc tôn thờ bò vàng của dân Do Thái trong sa mạc (Xuất Hành 32).
14.Khi thiên hạ nói rằng mình được ơn lạ từ vị này vị kia, thì điều đó chưa hẳn là ơn lạ hay phép lạ. Bởi vì chúng ta dựa vào chứng cớ nào để tin? Lời nói của một người hay nhiều người vẫn chưa đủ để chứng minh về ơn lạ hay phép lạ. Những cái gọi là ơn lạ hay phép lạ phải được xét nghiệm theo phương pháp khoa học và phải được Thẩm Quyền của Giáo Hội tuyên bố; bấy giờ người tín hữu Công Giáo mới nên tin là phép lạ.
15.Đức tin của Giáo Hội bắt nguồn từ thời các thánh Tông Đồ và tiếp diễn cho đến nay. Điều cốt yếu là chúng ta đón nhận và sống đức tin do Giáo Hội truyền dạy. Đức tin của chúng ta được nâng đỡ và khích lệ qua việc tôn kính các thánh. Việc tôn kính các thánh có hai mục đích, đó là học theo gương sáng của các ngài và xin các ngài cầu bầu cùng Chúa để Chúa ban ơn cho chúng ta (GLHTCG 828). Trong hai mục đích này, việc học hỏi gương sáng các thánh là điều chính yếu, bởi vì nó giúp chúng ta thăng tiến đời sống để nên thánh như ý Chúa muốn. Chúa Giêsu đã dạy rõ ràng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi tôn kính một vị thánh nào hay một tín hữu Công Giáo nào đang được vận động để được tuyên thánh, thì điểm chính yếu là chúng ta học theo gương sáng của họ. Gương sáng căn bản là: tôn trọng sự thật, công bình và bác ái, để kiến tạo hòa bình. Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô dạy trong bài Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9).
16.Như đã nói trên đây, chúng ta tin rằng Cha Phaxicô Xaviê Trương Bửu Diệp là một vị Linh Mục thánh thiện. Bộ Tuyên Thánh đã chấp thuận cho ngài được vận động để tuyên thánh, nên ngài được gọi là Tôi Tớ Chúa. Tuy nhiên, văn thư NIHIL OBSTAT (nghĩa là: không có gì ngăn trở) của Bộ Tuyên Thánh không đòi buộc mọi tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thực hiện cuộc vận động đó. Mỗi tín hữu đều có tự do của mình để chọn lựa. Nếu chọn lựa vận động tuyên thánh, thì có nhiều phương pháp để thực hiện tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm của từng nơi chốn. Phương pháp vận động tuyên thánh có xứng hợp hay không, thì tùy thuộc sự phán đoán của mỗi tín hữu. Có Chúa biết rõ lòng dạ chúng ta. Mỗi người trong anh chị em cần suy nghĩ để chọn lựa thái độ và lối sống đức tin cho mình. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa Thiên Chúa về mọi việc làm của mình ở trần gian này.
Thân mến chào anh chị em,
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
Quản Nhiệm CĐCGVNNU
20/03/2016
*****************************
Sau khi đọc xong bài "Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?" của Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm, viết ngày 20 tháng 3 năm 2016 và được đăng trong trang mạng http://vietcatholic.net/News/Html/181066.htm ngày 21 tháng 3 năm 2016 , Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật thành thật cám ơn Đức Ông đã viết bài này giúp anh chị em BBT ASST nói riêng, giáo dân Việt Nam nói chung để hiểu rõ về sự việc. BBT ASST có nhận xét như sau:
- Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Mục địa phương tại Việt Nam, các Dòng, các Linh Mục chánh xứ trong nước và ngoại quốc là những chủ chiên, các Ngài thông hiểu và am tường rất rõ về Giáo Luật cũng như các Điều Luật của tiến trình trước khi được Bộ Tuyên Thánh phong thánh cho ai thì cần phải làm những gì, và những gì chưa được phép làm. Nhưng các Ngài đã làm ngơ, hoặc cố tình đứng ra với nhóm con chiên này, đoàn chiên kia để tổ chức những Thánh Lễ giỗ thật vĩ đại, thật linh đình.
- Mới đây có 1 Giáo Xứ ở ngoại quốc, Cha Xứ cho tổ chức Thánh Lễ Giỗ 70 năm của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Trong phần xin TIỀN, không biết đây là ý kiến của Cha Xứ hay của Ban Tổ Chức mà giáo dân phải xếp hàng đi lên chỗ tượng ảnh của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp để bỏ TIỀN vào giỏ. Chưa hết, Cha Xứ còn đứng trước tượng của Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp mà đặt hai tay của mình lên đầu của giáo dân nào muốn xin ơn, sau Thánh Lễ lại còn có phần sinh hoạt văn nghệ đặc sắc nữa chứ. không biết trong Giáo Luật cũng như trong các Điều Luật của Bộ Phong Thánh có chỗ nào ghi cho phép khi đang Vận động xin tuyên thánh cho ai, Linh Mục được phép làm những chuyện như thế này không?
Thật sự, nếu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Mục địa phương tại Việt Nam, các Dòng, các Linh Mục chánh xứ trong nước và ngoại quốc mà có trách nhiệm lên tiếng về những sự việc mà Đức Ông viết ra ở trên thì người dân Việt Nam nói chung, người Công Giáo nói riêng sẽ hiểu rõ vấn đề, nhất là sẽ tránh được những kẻ xấu xa lạm dụng lòng tin và tôn kính của chúng ta đối với Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp.
Bởi vì, người dân Việt Nam chúng ta nói chung, giáo dân công giáo nói riêng, khi nghe được những tin tức, hoặc truyền miệng mách bảo với nhau rằng: nơi này, chỗ kia, có Ông Thánh này, Bà Thánh nọ, người này, người kia rất linh thiêng thì thường đổ xô nhau đi tới đó để khấn vái, xin ơn, nhất là trong gia đình nào có người bị bệnh mà hết thuốc chữa, hoặc vv và vv...
Ban Biên Tập Ánh Sáng Sự Thật
Một Cuộc Di Cư Nguy Hiểm
Xuân Hàn
Nhiều người bạn, ngoại quốc và ngay cả Việt, đã từng hỏi : Tại sao người Việt Nam có nhiều chùa như vậy ? Câu trả lời không dễ trả lời, vì nó bao trùm nhiều lãnh vực. Nhưng để đơn giản, chúng ta thử quay về nguồn gốc của vấn đề. Nhiều chùa thì lắm thầy. Mà lắm thầy thì các thầy từ đâu đến ?
Cơ quan Di Trú Hoa Kỳ có 4 dạng chiếu khán lao động theo thứ tự từ EB1 đến EB4 cho những người có khả năng đặc biệt nếu họ muốn làm việc ở Mỹ. EB4 là những người tu sĩ tôn giáo hoặc cư sĩ, tín đồ hoạt động cho các tôn giáo. Trong năm 2015, con số người Việt qua Mỹ theo dạng EB4 là 350 người, cao nhất so với các hạng lao động khác. Đây cũng là con số cao thứ hai so với tất cả các nước khác, chỉ sau Mexico, nước láng giềng của Mỹ với con số 376 EB4 visa.
Kiếm được một visa để qua Mỹ làm việc không phải là chuyện dễ. Một cơ quan (Phi chính phủ) NGO trên mạng viết “many cases where people paid Twenty Thousand Dollars or more” (nhiều trường hợp người ta phải trả hai chục ngàn đồng Mỹ kim hay hơn nữa) để được chiếu khán lao động tại Hoa Kỳ.
EB4 có hai hạng : thứ nhất là hạng tu sĩ, Phật Giáo hay Thiên chúa giáo ; thứ hai là hạng cư sĩ hay tín đồ hoạt động cho các tôn giáo. Mỹ không có giới hạn cho số tu sĩ di cư sang Mỹ làm việc. Giới hạn cho hạng cư sĩ / tín đồ là 5.000 người một năm.
Để được di cư, những người đi theo dạng EB4 cần có ba điều kiện chính. Thứ nhất, họ phải được bảo lãnh bởi một tổ chức tôn giáo ở Mỹ được miễn thuế, được xác nhận là 501(c)(3). Thứ hai, họ đã làm việc ít nhất là hai năm cho tôn giáo đó ở Việt Nam. Thứ ba, họ phải có được việc làm có lương và làm việc ít nhất là 35 giờ một tuần. Vợ (hoặc chồng) và con (dưới 21) được quyền tháp tùng người tu sĩ hay cư sĩ. Ngay sau khi được nhận qua dạng EB4, các tu sĩ và cư sĩ có quyền xin tá túc cố định (permanent resident), bắt đầu qui trình trở thành công dân Mỹ.
Việt Nam là một nước không có tự do tôn giáo, do đó cũng không có tu sĩ tự do. Các tu sĩ được Chính quyền cộng sản chấp thuận để được di trú ở Mỹ là những tu sĩ được chế độ ưu tiên, hay đủ tài chánh để trả $20,000 cho một chiếu khán. Nếu được ưu tiên, thì phải có lý do. Mà lý đó có lợi cho Chính quyền Hà Nội thì e rằng không có lợi cho cộng đồng người Việt ở Mỹ. Để tiện so sánh, chúng ta cũng nên biết là không có EB-4 visa nào từ Trung Quốc. Với một số lớn tu sĩ được EB-4 đến từ Việt Nam, chúng ta có ba giả thuyết :
Có một số đặc điểm của các trụ sở tôn giáo, đặc biệt là Phật Giáo, đứng ra bảo lãnh các vị tu sĩ này. Thứ nhất, họ là các tổ chức tôn giáo miễn thuế vì thế phải chấp nhận các luật lệ của Sở Thuế Vụ. Thứ hai, họ không là đơn vị của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vì vị thế bất đồng chính kiến của Giáo Hội cũng như của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, người lãnh đạo Giáo Hội. Vì vậy, việc họ từ bỏ Giáo Hội để rồi bảo lãnh cho các tu sĩ từ Việt Nam không phải vì dị biệt với cá nhân nầy hay với lập trường nọ, mà là vì nhu cầu kinh doanh hay công tác chính trị.
Thứ ba, theo luật pháp, các tu sĩ Phật Giáo di cư phải làm việc cho các trụ sở Phật Giáo bảo lãnh họ. Nếu các tu sĩ này phải trả tiền cho các trụ sở Phật Giáo, thay vì ngược lại, thì đó không những là trái luật mà còn cố tình phạm pháp. Cộng đồng người Việt Quốc Gia nào chấp nhận những hoạt động này của các trụ sở Phật Giáo là không trung thực với lập trường Chống Cộng. Mỗi cá nhân chúng ta, biết ơn sự cưu mang của đất nước thứ hai này, không thể làm ngơ trước những hoạt động phi pháp, làm hại cho cộng đồng, hại cho tôn giáo, và hại cho cả đất nước mình đang cư ngụ.
Muốn báo cáo gian lận liên quan đến luật di trú, quí vị có thể liên lạc trực tiếp với tiểu bang nơi quí vị cư ngụ. Xin tham khảo trang sau đây để biết thêm chi tiết : https://www.uscis.gov/avoid-scams/report-immigration-scams. Ở California, xin quí vị liên lạc về :
California Department of Justice
Office of Immigrant Assistance
(888) 587-0557
(Đón xem kỳ tới, Bài 2 : Sự Đào Tạo Của Một Sư Quốc Doanh)
Xuân Hàn
Nhiều người bạn, ngoại quốc và ngay cả Việt, đã từng hỏi : Tại sao người Việt Nam có nhiều chùa như vậy ? Câu trả lời không dễ trả lời, vì nó bao trùm nhiều lãnh vực. Nhưng để đơn giản, chúng ta thử quay về nguồn gốc của vấn đề. Nhiều chùa thì lắm thầy. Mà lắm thầy thì các thầy từ đâu đến ?
Cơ quan Di Trú Hoa Kỳ có 4 dạng chiếu khán lao động theo thứ tự từ EB1 đến EB4 cho những người có khả năng đặc biệt nếu họ muốn làm việc ở Mỹ. EB4 là những người tu sĩ tôn giáo hoặc cư sĩ, tín đồ hoạt động cho các tôn giáo. Trong năm 2015, con số người Việt qua Mỹ theo dạng EB4 là 350 người, cao nhất so với các hạng lao động khác. Đây cũng là con số cao thứ hai so với tất cả các nước khác, chỉ sau Mexico, nước láng giềng của Mỹ với con số 376 EB4 visa.
Kiếm được một visa để qua Mỹ làm việc không phải là chuyện dễ. Một cơ quan (Phi chính phủ) NGO trên mạng viết “many cases where people paid Twenty Thousand Dollars or more” (nhiều trường hợp người ta phải trả hai chục ngàn đồng Mỹ kim hay hơn nữa) để được chiếu khán lao động tại Hoa Kỳ.
EB4 có hai hạng : thứ nhất là hạng tu sĩ, Phật Giáo hay Thiên chúa giáo ; thứ hai là hạng cư sĩ hay tín đồ hoạt động cho các tôn giáo. Mỹ không có giới hạn cho số tu sĩ di cư sang Mỹ làm việc. Giới hạn cho hạng cư sĩ / tín đồ là 5.000 người một năm.
Để được di cư, những người đi theo dạng EB4 cần có ba điều kiện chính. Thứ nhất, họ phải được bảo lãnh bởi một tổ chức tôn giáo ở Mỹ được miễn thuế, được xác nhận là 501(c)(3). Thứ hai, họ đã làm việc ít nhất là hai năm cho tôn giáo đó ở Việt Nam. Thứ ba, họ phải có được việc làm có lương và làm việc ít nhất là 35 giờ một tuần. Vợ (hoặc chồng) và con (dưới 21) được quyền tháp tùng người tu sĩ hay cư sĩ. Ngay sau khi được nhận qua dạng EB4, các tu sĩ và cư sĩ có quyền xin tá túc cố định (permanent resident), bắt đầu qui trình trở thành công dân Mỹ.
Việt Nam là một nước không có tự do tôn giáo, do đó cũng không có tu sĩ tự do. Các tu sĩ được Chính quyền cộng sản chấp thuận để được di trú ở Mỹ là những tu sĩ được chế độ ưu tiên, hay đủ tài chánh để trả $20,000 cho một chiếu khán. Nếu được ưu tiên, thì phải có lý do. Mà lý đó có lợi cho Chính quyền Hà Nội thì e rằng không có lợi cho cộng đồng người Việt ở Mỹ. Để tiện so sánh, chúng ta cũng nên biết là không có EB-4 visa nào từ Trung Quốc. Với một số lớn tu sĩ được EB-4 đến từ Việt Nam, chúng ta có ba giả thuyết :
- Thứ nhất, đây là một chuyện ngẫu nhiên, nhưng đã liên tục xảy ra trong nhiều năm ;
- Thứ hai, Việt Nam là một nước mà Phật giáo phát triển cực thịnh, đưa đến nhiều tu sĩ qua Mỹ để hoằng dương Phật pháp ; hoặc là
- Thứ ba, đây là một chính sách từ Chính quyền Hà Nội với mục tiêu không tốt đẹp cho Phật giáo cũng như cho chính thể quốc gia. Có lẽ bạn đọc đồng ý với chúng tôi giả thuyết thứ ba là chính xác nhất.
Có một số đặc điểm của các trụ sở tôn giáo, đặc biệt là Phật Giáo, đứng ra bảo lãnh các vị tu sĩ này. Thứ nhất, họ là các tổ chức tôn giáo miễn thuế vì thế phải chấp nhận các luật lệ của Sở Thuế Vụ. Thứ hai, họ không là đơn vị của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vì vị thế bất đồng chính kiến của Giáo Hội cũng như của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, người lãnh đạo Giáo Hội. Vì vậy, việc họ từ bỏ Giáo Hội để rồi bảo lãnh cho các tu sĩ từ Việt Nam không phải vì dị biệt với cá nhân nầy hay với lập trường nọ, mà là vì nhu cầu kinh doanh hay công tác chính trị.
Thứ ba, theo luật pháp, các tu sĩ Phật Giáo di cư phải làm việc cho các trụ sở Phật Giáo bảo lãnh họ. Nếu các tu sĩ này phải trả tiền cho các trụ sở Phật Giáo, thay vì ngược lại, thì đó không những là trái luật mà còn cố tình phạm pháp. Cộng đồng người Việt Quốc Gia nào chấp nhận những hoạt động này của các trụ sở Phật Giáo là không trung thực với lập trường Chống Cộng. Mỗi cá nhân chúng ta, biết ơn sự cưu mang của đất nước thứ hai này, không thể làm ngơ trước những hoạt động phi pháp, làm hại cho cộng đồng, hại cho tôn giáo, và hại cho cả đất nước mình đang cư ngụ.
Muốn báo cáo gian lận liên quan đến luật di trú, quí vị có thể liên lạc trực tiếp với tiểu bang nơi quí vị cư ngụ. Xin tham khảo trang sau đây để biết thêm chi tiết : https://www.uscis.gov/avoid-scams/report-immigration-scams. Ở California, xin quí vị liên lạc về :
California Department of Justice
Office of Immigrant Assistance
(888) 587-0557
(Đón xem kỳ tới, Bài 2 : Sự Đào Tạo Của Một Sư Quốc Doanh)
GIAN DỐI KHÔNG THỂ “THÀNH NHÂN” ĐƯỢC!
Đầu năm học 2016-2017, Đức Giám Mục Giuse Đinh Đức Đạo- Chủ tịch Ủy ban Giáo dục Công Giáo đã có “ Thư gửi các sinh viên, học sinh Công Giáo dịp đầu năm học 2016-2017”. Trong thư có viết: “…Vì vậy, để trở thành những người con xứng đáng và hữu ích cho Giáo Hội và Quê hương, ngay từ bây giờ, khi đến trường, các con không được chỉ tìm học thêm kiến thức, nhưng còn phải rèn luyện con người của mình về mọi mặt mà Cha gồm tóm lại trong 4 chữ “Thành”: Thành Tài, Thành Công, Thành Nhân, Thành Thánh”. Và trong “ Thư gửi anh chị em giáo chức Công Giáo nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2016” Đức Giám Mục Giuse Đinh Đức Đạo đã giải thích : “ để Thành Nhân, các em phải rèn luyện để có lòng ngay thẳng, có con tim nhạy bén để cảm thông với những đau khổ của nhân loại”.
Đức Giám Mục Giuse đã căn dặn các giáo chức: “ Để Thành Nhân, các em phải được giúp đỡ trong việc luyện tập các đức tính nhân bản. Ở đây, tôi xin được nhắc đặc biệt đến đức tính ngay thẳng, vì trên khắp thế giới và ngay cả tại Việt Nam thân yêu của chúng ta, người ta ngao ngán vì những chuyện lừa bịp, tham nhũng bất công lan tràn nhan nhản khắp nơi”.
Hiện nay tỷ lệ học sinh nói dối tăng dần theo tuổi. Tại hội thảo “Thực trạng văn hóa học đường và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học” tổ chức vào ngày 24/09/2013, Giáo sư – Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm. Giám đốc Trung tâm Văn hóa học lý luận và ứng dụng (ĐHQGTP.HCM) đã đưa ra một kết quả điều tra: Tỷ lệ nói dối cha mẹ ở học sinh cấp Tiểu học là 22%, cấp THCS là 50%, cấp THPT là 64%, sinh viên là 80%( www.nguoiduatin.vn/ti-le-hoc-sinh-noi-doi-tang-dan-theo-tuoi-a106618.html)
Tình trạng gian dối trong sinh viên, học sinh hiện nay là do đâu? Đã có “quả” ắt phải có “nhân”.Kinh Dịch viết: “thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hỹ, do biện chi bất tảo biện giả”(làm tôi mà giết vua, làm con mà giết cha, há phải cái cớ một sớm một chiều mà gây nên đâu, cái gốc là đã có từ lâu rồi mà người ta không biện biệt sớm mà thôi).Cũng vậy tình trạng gian dối trong sinh viên, học sinh cũng không phải một sớm một chiều mà có, nó đã có gốc rễ từ lâu rồi. Hiện nay gian dối len lõi vào mọi ngõ ngách trong cuộc sống của người Việt. Từ trụ sở chính quyền, bệnh viện, trường học đến những nơi hỗn tạp như bến tàu, bến xe, không nơi nào mà người ta không phải gian dối.
Gian dối được sử dụng như một phương cách để thăng tiến bản thân trong sự nghiệp. Ông Hạ Đình Nguyên nói: “Đang làm quan mà nói thật, thì mất hết, thân có thể vào nhà lao, tinh thần có thể bị giày xéo, nhục mạ, đã và đang có bao nhiêu là điển hình! Vì thế mà không thể nói thật. Nói dối cưỡng bức, lâu ngày thành nói dối hồn nhiên, bạo dạn, trơn tru…”
Nhiều người có tâm huyết đã day dứt với việc kêu gọi “ Nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” đã diễn ra trong suốt nhiều năm nhưng tiêu cực vẫn còn và ngày càng tinh vi hơn. Không đơn giản là những kỳ thi phổ thông, mà ngay cả bằng đại học, thạc sĩ hay thậm chí cả tiến sĩ vẫn có thể mua bằng tiền chứ không phải bằng nỗ lực đèn sách. Bệnh thành tích vẫn còn đó: Nhiều học sinh thậm chí lớp 5, lớp 6 không biết đọc, biết viết vẫn phải lên lớp; Học sinh lớp 6 bị xuống lớp 1 vì không biết đọc biết viết…(quechoaplus.blogspot.com/2016/11/nhieu-hoc-sinh-tham-chi-lop-5-lop-6-khong-biet-doc-biet-viet-van-phai-len-lop.html; thanhnien.vn/giao-duc/hoc-sinh-lop-6-bi-xuong-lop-1-vi-khong-biet-doc-biet-viet-750053.html).
Mẩu chuyện “Vì sao con bỏ học” của tác giả Bút Bi đăng trên trang 2 báo Tuổi Trẻ ra thứ tư ngày 12/03/2008 cho thấy phần nào cách giáo dục thiếu trung thực trong ngành giáo dục:
“ Con là Nguyễn Văn Tèo. Nay con rấm rứt viết thơ này để bày tỏ nỗi niềm vì sao con nghỉ học, cái việc mà hổm rày người lớn bàn tán tùm lum.
“ Vì sao con nghỉ học? Mấy cô chú nói đúng rồi đó: Nhà con nghèo, con phải đi làm kiếm ăn; con học yếu, con nản…Nhưng đâu chỉ có vậy. Con nghỉ học vì nhiều chuyện phát ớn…
“Hồi con học lớp 2, thầy dạy vẽ cho cả lớp chủ đề “Vẽ về quyền thiếu nhi”. Nhà con nghèo, con thèm được ăn no nên con vẽ hai bát cơm to. Thầy nói con vẽ sai, phải vẽ trẻ em vui chơi, có chim bồ câu và trái địa cầu mới đúng. Con bị 1 điểm.
“ Lên lớp 3, con được dự thi “vở sạch chữ đẹp”. Con mừng nhưng té ra lại khổ cái thân: con không được đưa cuốn vở mình đang học để đi thi mà trường bắt mua một cuốn vở mới, chép lại y chang cuốn vở đã học để đi thi cho nó sạch và đẹp. Con thấy thi thố kiểu này chẳng sạch và đẹp chút nào.
“ Mới đây trường con có đoàn thanh tra dự giờ. Trường gom hết học sinh xịn nhất khối về một lớp, tụi con giải toán rẹt rẹt, đọc bài re re làm mấy thầy thanh tra khen quá trời đất! Tụi con mắc cười bể bụng luôn…Và nhiều chuyện nữa mắc cười lắm.
“Con kể mấy chuyện này với ngoại. Ngoại buồn lắm. Ngoại nói học hành kiểu đó thì khó thành người. Con sợ quá, chẳng thà con làm con người không biết chữ chớ biết chữ mà thành con khác thì con không chịu.
“Vì vậy mà con nghỉ học!”
Đức Giám Mục Giuse đã nhắn nhủ các giáo chức: “ Xã hội sẽ trong lành, người người sẽ sống trong an bình và tin tưởng nhau, khi lòng con người trong sáng và sống ngay thẳng trung thực. Loại xã hội này hình thành từ trường học, nếu sinh viên , học sinh được dạy dỗ”.
Phải giáo dục tính chân thật trong học đường: “Thấy vui muốn cười cứ cười/ Thấy buồn muốn khóc là khóc/ Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu” (Lời mẹ dặn- Phùng Quán)
Kinh Thánh dạy: Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng sẽ trung tín trong việc lớn; Ai gian dối trong việc nhỏ thì cũng sẽ gian dối trong việc lớn.
Sách Luận ngữ viết: “ Nhơn nhi vô tín bất tri kỳ khả dã” (Người mà không có tín thật, không biết người ấy làm việc gì cho nên được)
Nếu không được giáo dục lối sống ngay thẳng trung thực cho sinh viên , học sinh thì sinh viên , học sinh khó mà thành người được. Nói một cách văn vẻ là khó mà “Thành Nhân” được!
Nguyễn Văn Nghệ
Gx. Cây Vông- Nha Trang
Đầu năm học 2016-2017, Đức Giám Mục Giuse Đinh Đức Đạo- Chủ tịch Ủy ban Giáo dục Công Giáo đã có “ Thư gửi các sinh viên, học sinh Công Giáo dịp đầu năm học 2016-2017”. Trong thư có viết: “…Vì vậy, để trở thành những người con xứng đáng và hữu ích cho Giáo Hội và Quê hương, ngay từ bây giờ, khi đến trường, các con không được chỉ tìm học thêm kiến thức, nhưng còn phải rèn luyện con người của mình về mọi mặt mà Cha gồm tóm lại trong 4 chữ “Thành”: Thành Tài, Thành Công, Thành Nhân, Thành Thánh”. Và trong “ Thư gửi anh chị em giáo chức Công Giáo nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2016” Đức Giám Mục Giuse Đinh Đức Đạo đã giải thích : “ để Thành Nhân, các em phải rèn luyện để có lòng ngay thẳng, có con tim nhạy bén để cảm thông với những đau khổ của nhân loại”.
Đức Giám Mục Giuse đã căn dặn các giáo chức: “ Để Thành Nhân, các em phải được giúp đỡ trong việc luyện tập các đức tính nhân bản. Ở đây, tôi xin được nhắc đặc biệt đến đức tính ngay thẳng, vì trên khắp thế giới và ngay cả tại Việt Nam thân yêu của chúng ta, người ta ngao ngán vì những chuyện lừa bịp, tham nhũng bất công lan tràn nhan nhản khắp nơi”.
Hiện nay tỷ lệ học sinh nói dối tăng dần theo tuổi. Tại hội thảo “Thực trạng văn hóa học đường và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học” tổ chức vào ngày 24/09/2013, Giáo sư – Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm. Giám đốc Trung tâm Văn hóa học lý luận và ứng dụng (ĐHQGTP.HCM) đã đưa ra một kết quả điều tra: Tỷ lệ nói dối cha mẹ ở học sinh cấp Tiểu học là 22%, cấp THCS là 50%, cấp THPT là 64%, sinh viên là 80%( www.nguoiduatin.vn/ti-le-hoc-sinh-noi-doi-tang-dan-theo-tuoi-a106618.html)
Tình trạng gian dối trong sinh viên, học sinh hiện nay là do đâu? Đã có “quả” ắt phải có “nhân”.Kinh Dịch viết: “thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hỹ, do biện chi bất tảo biện giả”(làm tôi mà giết vua, làm con mà giết cha, há phải cái cớ một sớm một chiều mà gây nên đâu, cái gốc là đã có từ lâu rồi mà người ta không biện biệt sớm mà thôi).Cũng vậy tình trạng gian dối trong sinh viên, học sinh cũng không phải một sớm một chiều mà có, nó đã có gốc rễ từ lâu rồi. Hiện nay gian dối len lõi vào mọi ngõ ngách trong cuộc sống của người Việt. Từ trụ sở chính quyền, bệnh viện, trường học đến những nơi hỗn tạp như bến tàu, bến xe, không nơi nào mà người ta không phải gian dối.
Gian dối được sử dụng như một phương cách để thăng tiến bản thân trong sự nghiệp. Ông Hạ Đình Nguyên nói: “Đang làm quan mà nói thật, thì mất hết, thân có thể vào nhà lao, tinh thần có thể bị giày xéo, nhục mạ, đã và đang có bao nhiêu là điển hình! Vì thế mà không thể nói thật. Nói dối cưỡng bức, lâu ngày thành nói dối hồn nhiên, bạo dạn, trơn tru…”
Nhiều người có tâm huyết đã day dứt với việc kêu gọi “ Nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” đã diễn ra trong suốt nhiều năm nhưng tiêu cực vẫn còn và ngày càng tinh vi hơn. Không đơn giản là những kỳ thi phổ thông, mà ngay cả bằng đại học, thạc sĩ hay thậm chí cả tiến sĩ vẫn có thể mua bằng tiền chứ không phải bằng nỗ lực đèn sách. Bệnh thành tích vẫn còn đó: Nhiều học sinh thậm chí lớp 5, lớp 6 không biết đọc, biết viết vẫn phải lên lớp; Học sinh lớp 6 bị xuống lớp 1 vì không biết đọc biết viết…(quechoaplus.blogspot.com/2016/11/nhieu-hoc-sinh-tham-chi-lop-5-lop-6-khong-biet-doc-biet-viet-van-phai-len-lop.html; thanhnien.vn/giao-duc/hoc-sinh-lop-6-bi-xuong-lop-1-vi-khong-biet-doc-biet-viet-750053.html).
Mẩu chuyện “Vì sao con bỏ học” của tác giả Bút Bi đăng trên trang 2 báo Tuổi Trẻ ra thứ tư ngày 12/03/2008 cho thấy phần nào cách giáo dục thiếu trung thực trong ngành giáo dục:
“ Con là Nguyễn Văn Tèo. Nay con rấm rứt viết thơ này để bày tỏ nỗi niềm vì sao con nghỉ học, cái việc mà hổm rày người lớn bàn tán tùm lum.
“ Vì sao con nghỉ học? Mấy cô chú nói đúng rồi đó: Nhà con nghèo, con phải đi làm kiếm ăn; con học yếu, con nản…Nhưng đâu chỉ có vậy. Con nghỉ học vì nhiều chuyện phát ớn…
“Hồi con học lớp 2, thầy dạy vẽ cho cả lớp chủ đề “Vẽ về quyền thiếu nhi”. Nhà con nghèo, con thèm được ăn no nên con vẽ hai bát cơm to. Thầy nói con vẽ sai, phải vẽ trẻ em vui chơi, có chim bồ câu và trái địa cầu mới đúng. Con bị 1 điểm.
“ Lên lớp 3, con được dự thi “vở sạch chữ đẹp”. Con mừng nhưng té ra lại khổ cái thân: con không được đưa cuốn vở mình đang học để đi thi mà trường bắt mua một cuốn vở mới, chép lại y chang cuốn vở đã học để đi thi cho nó sạch và đẹp. Con thấy thi thố kiểu này chẳng sạch và đẹp chút nào.
“ Mới đây trường con có đoàn thanh tra dự giờ. Trường gom hết học sinh xịn nhất khối về một lớp, tụi con giải toán rẹt rẹt, đọc bài re re làm mấy thầy thanh tra khen quá trời đất! Tụi con mắc cười bể bụng luôn…Và nhiều chuyện nữa mắc cười lắm.
“Con kể mấy chuyện này với ngoại. Ngoại buồn lắm. Ngoại nói học hành kiểu đó thì khó thành người. Con sợ quá, chẳng thà con làm con người không biết chữ chớ biết chữ mà thành con khác thì con không chịu.
“Vì vậy mà con nghỉ học!”
Đức Giám Mục Giuse đã nhắn nhủ các giáo chức: “ Xã hội sẽ trong lành, người người sẽ sống trong an bình và tin tưởng nhau, khi lòng con người trong sáng và sống ngay thẳng trung thực. Loại xã hội này hình thành từ trường học, nếu sinh viên , học sinh được dạy dỗ”.
Phải giáo dục tính chân thật trong học đường: “Thấy vui muốn cười cứ cười/ Thấy buồn muốn khóc là khóc/ Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu” (Lời mẹ dặn- Phùng Quán)
Kinh Thánh dạy: Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng sẽ trung tín trong việc lớn; Ai gian dối trong việc nhỏ thì cũng sẽ gian dối trong việc lớn.
Sách Luận ngữ viết: “ Nhơn nhi vô tín bất tri kỳ khả dã” (Người mà không có tín thật, không biết người ấy làm việc gì cho nên được)
Nếu không được giáo dục lối sống ngay thẳng trung thực cho sinh viên , học sinh thì sinh viên , học sinh khó mà thành người được. Nói một cách văn vẻ là khó mà “Thành Nhân” được!
Nguyễn Văn Nghệ
Gx. Cây Vông- Nha Trang
THỨ KHÔNG MUA ĐƯỢC BẰNG TIỀN
THỨ KHÔNG MUA ĐƯỢC BẰNG TIỀN ĐÓ LÀ…
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
Không được, Thần Chết lắc đầu.
Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không..? Anh ta tiếp tục van xin.
Không được. Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
Không được. Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.
– Mục đích của câu chuyện này là nhấn mạnh cách sử dụng cuộc sống. Dù cả đời bạn làm việc cật lực để kiếm tiền, nhưng bạn không biết cách sử dụng chúng cho những điều tốt đẹp, thời gian cũng là vô ích. Bạn sẽ không để lại điều gì đẹp đẽ cho đời. Khối tài sản hiện có cũng vô giá trị về mặt tinh thần, bạn ra đi mà không có kỉ niệm vui, không có những năm tháng hạnh phúc bên người thân, bạn bè, không có những ngày “lăn lộn” cùng chiến hữu… Đó mới chính là giá trị thực mà không thứ gì mua được.
Bạn sống 20 năm, nhưng đối tốt với người thân, bạn bè, làm những việc có ích cho đời, còn hơn sống 70 năm mà sống hoài sống phí. Hoặc một mình cô độc giữ khư khư khối tài sản, hoặc làm những việc ngốc nghếch tổn hại đến bản thân.
Thứ giá trị nhất mà cuộc sống cho ta là thời gian. Khi còn chưa làm được gì có ích cho đời, thì cũng đừng làm những điều vô vị.
Bởi đồng tiền không mua được tất cả, nên phải sử dụng chúng một cách hợp lý.
Đừng vì một người, một vài lời nói, mà làm những điều vô tri, đánh mất thứ quý giá của bản thân.
* Hãy nhớ rằng:
– Tiền có thể mua được một ngôi nhà nhưng ko thể mua được một tổ ấm.
– Tiền có thể mua được một chiếc giường nhưng ko thể mua được giấc ngủ ngon.
– Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không thể mua được thời gian.
– Tiền có thể mua được một cuốn sách nhưng ko mua được kiến thức.
– Tiền có thể mua được nhan sắc nhưng ko thể mua được tuổi thanh xuân.
– Tiền có thể mua được máu nhưng ko mua được cuộc sống.
– Tiền có thể mua đươc thuốc nhưng ko thể mua được sức khoẻ.
– Tiền có thể mua được người yêu nhưng ko mua được tình yêu.
– Tiền có thể mua được sự phục tùng của nô bộc nhưng ko mua được sự trung thành của họ.
– Tiền mua được địa vị nhưng không mua được sự nể trọng.
– Tiền có thể mua được sự im lặng của dư luận nhưng ko mua được suy nghĩ của họ.
Và còn rất nhiều thứ mà tiền không thể mua được, có tiền không phải là có tất cả..!
– Tôi chỉ muốn nói với thế giới và mọi người rằng chúng ta phải sống tốt hơn. Nơi đây chưa phải là cuộc sống vĩnh hằng, nhưng tuy không phải là mãi mãi thì hôm nay chúng ta cũng phải tập sống tốt hơn. Tôi luôn kính trọng và yêu mến những người trung thực. Vì nhờ sự trung thực mà con người ngày càng tiến bộ hơn, hạnh phúc hơn. Người sống trung thực sẽ không hối hận về những gì đã qua vì thế một đời không phải day dứt. Phí phạm lắm khi ta bỏ phí một đời để sống trong sự day dứt hay tội lỗi. Tiền là phương tiện, hăng say lao động nhưng không có nghĩa tiền là mục đích sống.
Tiền luôn làm chúng ta đau đầu, nhưng không có nghĩa rằng chúng ta phải có tiền bằng mọi cách. Ở cùng người bạn đạo đức và giàu có thì luôn hạnh phúc hơn người bạn giàu có nhưng thiếu đạo. Như vậy hạnh phúc cốt ở tình cảm dù cho xã hội có phát triển cỡ nào thì đạo đức luôn được xem trọng, là thước đo hạnh phúc của nền văn minh đó. Lúc nào đó chúng ta nói dối thì hãy tưởng tượng như ta lấy sợi dây mà tự treo ngược mình lên. Nói dối tức là lật ngược như vậy đó, đã treo lên thì chúng ta sẽ không bao giờ đi lên được. Đời này chúng ta không nên tự hào gì cả, có sao dùng vậy, không có gì là bền vững mãi mãi cả. Khiêm tốn và đừng nên đánh giá ai bởi ẩn dấu trong con người thô kệch lại là một phẩm chất tốt hơn mình, đôi khi chính ta còn tệ hơn họ. Không phải chê ai là chúng ta hơn họ, họ tự biết và mọi người công nhận cho họ.
Đôi khi cuộc sống làm chúng ta phân tâm mệt mỏi, hãy bỏ tất cả để ngồi thiền định, quán chiếu về sự chết, hơi thở và sự tan rả, ta sẽ thấy điều gì là cần làm nhất. Người ta nói tiền không mua được hạnh phúc, họ nói đúng! Nếu có hạnh phúc bạn sẽ làm ra tiền và đừng cầu mong sự sung túc bởi nhân loại chỉ mới đi bộ trên mặt đất chịu thiên tai lũ lụt và nhiều thứ dịch bệnh thì sung túc đôi khi chỉ làm tư tưởng thêm sầu muộn mà thôi. Nếu có mơ ước hãy mơ ước một tâm hồn vô tư, vì vô tư là hạnh phúc vậy thôi.
DoDom st
THỨ KHÔNG MUA ĐƯỢC BẰNG TIỀN ĐÓ LÀ…
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.
Không được, Thần Chết lắc đầu.
Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không..? Anh ta tiếp tục van xin.
Không được. Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?
Không được. Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.
– Mục đích của câu chuyện này là nhấn mạnh cách sử dụng cuộc sống. Dù cả đời bạn làm việc cật lực để kiếm tiền, nhưng bạn không biết cách sử dụng chúng cho những điều tốt đẹp, thời gian cũng là vô ích. Bạn sẽ không để lại điều gì đẹp đẽ cho đời. Khối tài sản hiện có cũng vô giá trị về mặt tinh thần, bạn ra đi mà không có kỉ niệm vui, không có những năm tháng hạnh phúc bên người thân, bạn bè, không có những ngày “lăn lộn” cùng chiến hữu… Đó mới chính là giá trị thực mà không thứ gì mua được.
Bạn sống 20 năm, nhưng đối tốt với người thân, bạn bè, làm những việc có ích cho đời, còn hơn sống 70 năm mà sống hoài sống phí. Hoặc một mình cô độc giữ khư khư khối tài sản, hoặc làm những việc ngốc nghếch tổn hại đến bản thân.
Thứ giá trị nhất mà cuộc sống cho ta là thời gian. Khi còn chưa làm được gì có ích cho đời, thì cũng đừng làm những điều vô vị.
Bởi đồng tiền không mua được tất cả, nên phải sử dụng chúng một cách hợp lý.
Đừng vì một người, một vài lời nói, mà làm những điều vô tri, đánh mất thứ quý giá của bản thân.
* Hãy nhớ rằng:
– Tiền có thể mua được một ngôi nhà nhưng ko thể mua được một tổ ấm.
– Tiền có thể mua được một chiếc giường nhưng ko thể mua được giấc ngủ ngon.
– Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không thể mua được thời gian.
– Tiền có thể mua được một cuốn sách nhưng ko mua được kiến thức.
– Tiền có thể mua được nhan sắc nhưng ko thể mua được tuổi thanh xuân.
– Tiền có thể mua được máu nhưng ko mua được cuộc sống.
– Tiền có thể mua đươc thuốc nhưng ko thể mua được sức khoẻ.
– Tiền có thể mua được người yêu nhưng ko mua được tình yêu.
– Tiền có thể mua được sự phục tùng của nô bộc nhưng ko mua được sự trung thành của họ.
– Tiền mua được địa vị nhưng không mua được sự nể trọng.
– Tiền có thể mua được sự im lặng của dư luận nhưng ko mua được suy nghĩ của họ.
Và còn rất nhiều thứ mà tiền không thể mua được, có tiền không phải là có tất cả..!
– Tôi chỉ muốn nói với thế giới và mọi người rằng chúng ta phải sống tốt hơn. Nơi đây chưa phải là cuộc sống vĩnh hằng, nhưng tuy không phải là mãi mãi thì hôm nay chúng ta cũng phải tập sống tốt hơn. Tôi luôn kính trọng và yêu mến những người trung thực. Vì nhờ sự trung thực mà con người ngày càng tiến bộ hơn, hạnh phúc hơn. Người sống trung thực sẽ không hối hận về những gì đã qua vì thế một đời không phải day dứt. Phí phạm lắm khi ta bỏ phí một đời để sống trong sự day dứt hay tội lỗi. Tiền là phương tiện, hăng say lao động nhưng không có nghĩa tiền là mục đích sống.
Tiền luôn làm chúng ta đau đầu, nhưng không có nghĩa rằng chúng ta phải có tiền bằng mọi cách. Ở cùng người bạn đạo đức và giàu có thì luôn hạnh phúc hơn người bạn giàu có nhưng thiếu đạo. Như vậy hạnh phúc cốt ở tình cảm dù cho xã hội có phát triển cỡ nào thì đạo đức luôn được xem trọng, là thước đo hạnh phúc của nền văn minh đó. Lúc nào đó chúng ta nói dối thì hãy tưởng tượng như ta lấy sợi dây mà tự treo ngược mình lên. Nói dối tức là lật ngược như vậy đó, đã treo lên thì chúng ta sẽ không bao giờ đi lên được. Đời này chúng ta không nên tự hào gì cả, có sao dùng vậy, không có gì là bền vững mãi mãi cả. Khiêm tốn và đừng nên đánh giá ai bởi ẩn dấu trong con người thô kệch lại là một phẩm chất tốt hơn mình, đôi khi chính ta còn tệ hơn họ. Không phải chê ai là chúng ta hơn họ, họ tự biết và mọi người công nhận cho họ.
Đôi khi cuộc sống làm chúng ta phân tâm mệt mỏi, hãy bỏ tất cả để ngồi thiền định, quán chiếu về sự chết, hơi thở và sự tan rả, ta sẽ thấy điều gì là cần làm nhất. Người ta nói tiền không mua được hạnh phúc, họ nói đúng! Nếu có hạnh phúc bạn sẽ làm ra tiền và đừng cầu mong sự sung túc bởi nhân loại chỉ mới đi bộ trên mặt đất chịu thiên tai lũ lụt và nhiều thứ dịch bệnh thì sung túc đôi khi chỉ làm tư tưởng thêm sầu muộn mà thôi. Nếu có mơ ước hãy mơ ước một tâm hồn vô tư, vì vô tư là hạnh phúc vậy thôi.
DoDom st
Hàng Giáo phẩm là ai và có Chức năng gì?
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn .9/15/2016
Hỏi: xin cha giải thích rõ chức vụ và chức năng của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ và địa phương.
Trả lời:
Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội duy nhất mà Chúa Kitô đã thiết lập trên nền tảng Tông Đồ với Sứ Mệnh rao giảng Tin Mừng cứu độ ,”làm cho muôn dân trở hành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em ..”(Mt 28: 19-20)
Thi hành Sứ Mệnh trên, Giáo Hội có cơ chế Hàng giáo phẩm (Hierachy) rất chặt chẽ và hữu hiệu từ trung ương cho đến địa phương với các phẩm trật như sau:
HÀNG GIÁO SĨ (Clergy)
I- Đức Thánh Cha:
Đứng đầu hàng giáo phẩm, giáo sĩ và Tu sĩ là Đức Thánh Cha, vị Đai Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Kitô trên trần gian và là Chủ Chăn của toàn thể Giáo Hội, với sự công tác, hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của hàng Giám Mục trong toàn Giáo Hội. Ngài có quyền thông thường tối cao, sung mãn, trực tiếp và phổ quát trong Giáo Hội, và ngài luôn luôn có thể tự do hành sử quyền ấy.(x Giáo luật số 331)
Đức Thánh Cha phải là người có chức Giám mục. Do đó, ai được bầu lên ngôi Giáo Hoàng mà chưa có chức Giám mục thì lập tức phải được truyền chức Giám Mục, trước khi đăng quang, chính thức thi hành nhiệm vụ Giáo Hoàng.(x giáo luật số 332 & 1)
Như thế chức Giám Mục là chức thánh cao nhất trong Giáo Hội Công Giáo. Thứ đến là chức Linh mục và cuối cùng là chức Phó Tế
Đức Thánh Cha cũng không bị giới hạn thời gian phục vụ Giáo Hội ở chức vụ Giáo Hoàng. Nghĩa là ngài có thể phục vụ bao lâu ngài muốn, vì giáo luật không ấn định thời gian phục vu cho Đức Thánh Cha, như ấn định cho Giám mục phải từ chức khi tròn 75 tuổi. (x giáo luật số 401&1.)
Đức Thánh Cha được hưởng ơn bất khả ngộ (infallibility),tức là được gìn giữ cho khỏi sai lầm khi Ngài dậy dỗ điều gì thuộc phạm vi đức tin hay luân lý. Các Giám mục cũng được hưởng ơn này khi hiệp thông với Đức Thánh Cha để dạy dỗ trong hai pham vi nói trên.(x giáo luật số 749, &1, 2).
Sau hết, Đức Thánh Cha có quyền từ chức, nếu ngài tự ý chọn lựa như vậy và việc từ chức này đương nhiên có hiệu lực, không cần được ai phê chuẩn hay chấp nhận. Đó là trường hợp Đức Thánh Cha Bê-nê đictô XVI từ chức năm 2012.(x giáo luật số 332, & 1 và 2)
II- Giám Mục Đoàn (College of Bishops):
Giám mục là người kế vị các Thánh Tông Đồ, được Đức Thánh Cha chọn và bổ nhiệm để cộng tác với Ngài trong sứ mệnh cai quản, dậy dỗ và thánh hóa Dân Chúa được trao phó cho các ngài coi sóc ở các Giáo Hội địa phương tức các Giáo Phận (Dioceses) ở các quốc gia trên toàn thế giới. Các Giám Mục họp lại thành Giám Mục Đoàn, đặt dưới quyền coi sóc của Đức Thánh Cha là Thủ Lãnh và cũng là Giám Mục Roma mà các Giám mục khác phải hiệp thông và vâng phục trọn vẹn.
Để thi hành nhiệm vụ và trách nhiệm, Giám Mục được phân chia thành ba cấp bậc như sau:
1- Giám mục chính tòa (Diocesan bishop= Ordinary) tức Giám mục cai quản một địa phận hay Giáo phận (Diocese)
2- Giám mục Phó (Coadjutor) là Giám Mục có quyền kế vị Giám muc chính tòa khi vi này đột nhiên từ trần hay đến tuổi phải về hưu (giáo luật số 403&3)
3- Giám mục Phụ Tá (Auxiliary Bishop) là Giám mục được chọn để phụ giúp Giám mục chính tòa. Giám mục phụ tá không có quyền kế vị như Giám mục Phó, (giáo luật số 403& 1). Muốn kế vị, Giám mục phụ tá phải được Đức Thánh Cha bổ nhiệm vào chức vụ mới.
Như vậy, các Giám Mục, tuy khác nhau về địa vị và trách nhiệm , nhưng bằng nhau về chức thánh cấp Giám mục, là chức thánh cao nhất của Giáo Hội Công Giáo. Đức Thánh Cha và các Hồng Y (sẽ nói sau) cũng chỉ có chức Giám mục mà thôi, nhưng có địa vị và trách nhiệm lớn hơn Giám mục.
Khi các Giám mục tròn 75 tuổi,và đang coi Địa Phận hay giữ chức vụ nào trong Giáo Triều Roma, thì phải xin về hưu (giáo luật số 401 & 1)
4-Tổng Giám mục (Archbishop): cũng là Giám mục, nhưng được cử để coi sóc một Tổng Giáo Phận (Archdiocese) hay còn gọi là Giáo Tỉnh (Ecclesial Province). Tuỳ theo nhu cầu mục vụ đòi hỏi, Tòa Thánh có thể gom một số Giáo Phận thành Tổng Giáo Phận hay Giáo Tỉnh. Người đứng đầu một Tổng Giáo Phận được gọi là Tổng Giám Mục, ngài cũng là Giám mục chính tòa của Địa Phận mình coi sóc.
Tổng Giám Mục có trách nhiệm sau đây:
- III- Hồng Y ĐOÀN (College of Cardinals)
- Hồng Y được mệnh danh là “những Hoàng Tử của Giáo Hội= Princes of the Church), được chọn trong hàng Giám Mục trong toàn Giáo Hội với chức năng làm cố vấn cho Đức Thánh Cha và là cử tri (Elector) đi bầu Giáo Hoàng mới cho Giáo Hội khi Giáo Hoàng đương kim qua đời hay tự ý từ chức (Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI năm 2012)
- Hồng Y là một tước vi cao (title) chứ không phải là Chức Thánh, nhưng được chọn với hai chức năng nói trên vì lợi ích của Giáo Hội.
- Theo giáo luật hiện hành thì chỉ có các Hồng Y dưới 80 tuổi mới được đi bầu Giáo Hoàng mà thôi. Khi vào Mât hội (Conclave) các Hồng Y cũng đương nhiên là những ứng viên (potential candidates) có thể được bầu mặc dù không ra tranh cử.
- Ngoài Giám mục ra, một vài linh mục cũng có thể được chọn làm Hồng Y. Nhưng sau khi được chọn, các vị này cũng sẽ được thụ phong Giám mục. Và nếu Hồng Y nào chưa có chức Giám mục mà được bầu làm Giáo Hoàng thì phải được truyền chức Giám Mục ngay, trước khi đăng quang, do Hồng Y niên trưởng tấn phong. (x giáo luật số 355& 1)
- Hồng Y họp lại thành Hồng Y Đoàn (College of Cardinals) do một vị làm niên Trưởng (Dean)
- Có ba đẳng cấp Hồng Y như sau:
- 1- Hồng Y Giám mục (Cardinal Bíshops) từng là những giám mục đã coi sóc các Địa phận chung quanh Roma,và nay là những Hồng Y thâm niên làm việc trọn thời gian (full time) trong Giáo Triều Roma (Roman Curia)
- 2- Hồng Y Linh mục (Cardinal Priests)là những Hồng Y hiện đang làm việc trong Giáo Triều hay đang coi các Tổng Giáo Phận ở Ý hay ở các quốc gia trên thế giới’
- 3- Hồng Y Phó Tế (Cardinal Deacons) là những giám mục hiệu tòa (Titular Bishops) tức là không coi sóc địa phận nào và đang làm việc trọn thời gian trong Giáo Triều. (x giáo luật số 350 & 1-2)
- Khi các Hồng Y trọn 75 tuổi –và diện đang giữ các chức vụ quan trọng trong Giáo Triều, hay coi sóc các Tổng Giáo Phận trên toàn thế giới đều phải xin từ chức và tùy Đức Thánh Cha cho từ chức hay tạm lưu chức thêm môt thời gian nữa.
- Các Hồng Y, nếu không coi sóc Giáo Phận nào, thì buộc phải cư trú ở Rome. (x. giáo luật số 356)
IV- Linh mục đoàn và Phó Tế
Linh mục là cộng sự viên đắc lực nhất của Giám mục (co-workers) mình trưc thuộc trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, dạy dỗ chân lý đức tin và luân lý cùng coi sóc giáo dân ở các giáo xứ (Parishes)được trao phó cho mình phục vụ với tư cách chủ chăn.
Linh mục rất cần thiết và quan trọng cho sứ mệnh của Giáo Hội nói chung, vì là người trực tiếp coi sóc giáo dân thay mặt cho Giám mục Giáo Phận. Nếu không có linh mục, thì sẽ không có Thánh Lễ hay Bi Tích Thánh Thể và các Bí Tích Hòa giải, Sức dầu bệnh nhân, là những bí tích rất quan quan trọng cho đời sống Kitô Giáo.
Linh mục được phân chia thành:
Linh mục Giáo Phận (Diocesan Priests) hay còn gọi là linh mục Triều, và
Linh mục Dòng (Religious Priests) tức Linh muc thuộc một Dòng Tu hay Tu Hội, như Linh mục Dòng Đa Minh, Linh mục Dòng Tên (SJ), Dòng Ngôi Lời (SVD) .v.v
Linh mục Triều thì trực thuộc Giám mục của một Giáo Phận, còn Linh muc Dòng thì thuộc quyền Bề trên một Dòng tu hay Tu Hội. Muốn thi hành sứ vụ linh mục (Priestly ministries) thì linh mục phải được Giám mục trao cho năng quyền (Faculties) để cử hành Thánh Lễ và các bí tích. Nếu vì lý do gì mà năng quyền này bị rút(suspension) tạm thời hay vĩnh viễn (hay gọi nôm na là bị treo chén) thì linh mục không được phép cử hành Thánh Lễ và các bí tích, bao lâu không có năng quyền.
Phụ tá linh mục trong sứ vụ có các Phó tế vĩnh viễn , tức những người đang có vợ con nhưng được chịu chức Phó Tế để phục vụ trong một giáo xứ. Phó tế được phụ giúp Bàn Thánh, được đọc Phúc Âm và có thể chia sẻ lời Chúa, được rửa tội cho trẻ em, được chứng hôn phối và chủ sự nghi lễ an táng (Rite of Christian Funerals)
Trên đây là tất cả các chức vụ trong hệ thống Giáo quyền của Hàng Giáo Phẩm Công Giáo.Như thế, không ai có thể làm mục vụ trong Giáo Hội mà lại không thuộc Hàng Giáo Phẩm trên đây.
Cụ thể, không có Giám mục nào mà không thuộc một Giáo Phận để phục vụ và về hưu. Không một linh mục hay Phó tế nào mà không trực thuộc một Giám mục hay Bề Trên một Dòng Tu hay Tu Hội. Nếu không trực thuộc thì sẽ không có năng quyền (Faculties) để thi hành tác vụ linh mục hay Phó tế, dù cho có chức thánh linh mục hay Phó tế.
B- HÀNG TU SĨ (Religious)
Tu sĩ là những người có ba lời khấn khó nghèo (poverty), độc thân ,khiết tịnh (celibacy, chastity) và vâng phục (obedience) và thuộc về một Dòng Tu hay Tu Hội được thành lập hợp pháp (đúng giáo luật) trong Giáo Hội.Thí dụ Dòng ĐaMinh, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Ngôi Lời (SVD) Dòng Mến Thánh Giá, Tu Hội Tận Hiến, v.v
Mỗi Dòng Tu hay Tu Hội đều có đặc sủng (charism) và linh đạo riêng ((spirituality) , nên ai thích linh đạo nào thì gia nhập Dòng hay Tu Hội cổ võ cho linh đạo đó.
Tu sĩ nam có thể học để lãnh chức linh mục và có thể được chọn làm Giám Mục, Hồng Y hay Giáo Hoàng (Đức Thánh Cha đương kim là tu sĩ Dòng Tên (Sj).
Giáo sĩ (clerics) như Phó tế, Linh mục, Giám mục thì không phải là Tu sĩ và chỉ có hai lời khấn khiết tịnh (độc thân) và vâng phuc mà thôi. Ngược lại Tu Sĩ có thể là giáo sĩ nếu có chức Phó Tế, Linh mục hay Giám mục, và cả Giáo Hoàng nữa.
Tu sĩ của các Dòng Tu và Tu Hội đều thuộc quyền coi sóc tối cao của Đức Thánh Cha, và hoạt động trong khuôn khổ giáo luật,và luật Dòng cho phép. Nhưng khi làm việc trong một Giáo Phận thì Dòng Tu hay tu sĩ của Dòng đó phải có phép của Giám mục liên hệ.
Tóm lại, tất cả các vị trong Hàng Giáo Phẩm và Tu sĩ đều lãnh trách nhiệm từ các Bề Trên liên hệ, trừ Đức Thánh Cha được Hồng Y Đoàn bầu lên cách hợp lệ và lãnh trách nhiệm từ chức vụ được bầu này để thay mặt Chúa Kitô chăn dắt đoàn chiên của Người cho đến ngày hết nhiệm vụ vì từ trần hay tự ý từ chức.
Chúng ta cùng cầu xin cho các vị lãnh đạo Trong Hàng Giáo Phẩm (giáo sĩ và Tu sĩ) được sung mãn ơn Chúa để chu toàn trách nhiệm của mình trong toàn Giáo Hội.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn .9/15/2016
Hỏi: xin cha giải thích rõ chức vụ và chức năng của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ và địa phương.
Trả lời:
Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội duy nhất mà Chúa Kitô đã thiết lập trên nền tảng Tông Đồ với Sứ Mệnh rao giảng Tin Mừng cứu độ ,”làm cho muôn dân trở hành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em ..”(Mt 28: 19-20)
Thi hành Sứ Mệnh trên, Giáo Hội có cơ chế Hàng giáo phẩm (Hierachy) rất chặt chẽ và hữu hiệu từ trung ương cho đến địa phương với các phẩm trật như sau:
HÀNG GIÁO SĨ (Clergy)
I- Đức Thánh Cha:
Đứng đầu hàng giáo phẩm, giáo sĩ và Tu sĩ là Đức Thánh Cha, vị Đai Diện (Vicar) duy nhất của Chúa Kitô trên trần gian và là Chủ Chăn của toàn thể Giáo Hội, với sự công tác, hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của hàng Giám Mục trong toàn Giáo Hội. Ngài có quyền thông thường tối cao, sung mãn, trực tiếp và phổ quát trong Giáo Hội, và ngài luôn luôn có thể tự do hành sử quyền ấy.(x Giáo luật số 331)
Đức Thánh Cha phải là người có chức Giám mục. Do đó, ai được bầu lên ngôi Giáo Hoàng mà chưa có chức Giám mục thì lập tức phải được truyền chức Giám Mục, trước khi đăng quang, chính thức thi hành nhiệm vụ Giáo Hoàng.(x giáo luật số 332 & 1)
Như thế chức Giám Mục là chức thánh cao nhất trong Giáo Hội Công Giáo. Thứ đến là chức Linh mục và cuối cùng là chức Phó Tế
Đức Thánh Cha cũng không bị giới hạn thời gian phục vụ Giáo Hội ở chức vụ Giáo Hoàng. Nghĩa là ngài có thể phục vụ bao lâu ngài muốn, vì giáo luật không ấn định thời gian phục vu cho Đức Thánh Cha, như ấn định cho Giám mục phải từ chức khi tròn 75 tuổi. (x giáo luật số 401&1.)
Đức Thánh Cha được hưởng ơn bất khả ngộ (infallibility),tức là được gìn giữ cho khỏi sai lầm khi Ngài dậy dỗ điều gì thuộc phạm vi đức tin hay luân lý. Các Giám mục cũng được hưởng ơn này khi hiệp thông với Đức Thánh Cha để dạy dỗ trong hai pham vi nói trên.(x giáo luật số 749, &1, 2).
Sau hết, Đức Thánh Cha có quyền từ chức, nếu ngài tự ý chọn lựa như vậy và việc từ chức này đương nhiên có hiệu lực, không cần được ai phê chuẩn hay chấp nhận. Đó là trường hợp Đức Thánh Cha Bê-nê đictô XVI từ chức năm 2012.(x giáo luật số 332, & 1 và 2)
II- Giám Mục Đoàn (College of Bishops):
Giám mục là người kế vị các Thánh Tông Đồ, được Đức Thánh Cha chọn và bổ nhiệm để cộng tác với Ngài trong sứ mệnh cai quản, dậy dỗ và thánh hóa Dân Chúa được trao phó cho các ngài coi sóc ở các Giáo Hội địa phương tức các Giáo Phận (Dioceses) ở các quốc gia trên toàn thế giới. Các Giám Mục họp lại thành Giám Mục Đoàn, đặt dưới quyền coi sóc của Đức Thánh Cha là Thủ Lãnh và cũng là Giám Mục Roma mà các Giám mục khác phải hiệp thông và vâng phục trọn vẹn.
Để thi hành nhiệm vụ và trách nhiệm, Giám Mục được phân chia thành ba cấp bậc như sau:
1- Giám mục chính tòa (Diocesan bishop= Ordinary) tức Giám mục cai quản một địa phận hay Giáo phận (Diocese)
2- Giám mục Phó (Coadjutor) là Giám Mục có quyền kế vị Giám muc chính tòa khi vi này đột nhiên từ trần hay đến tuổi phải về hưu (giáo luật số 403&3)
3- Giám mục Phụ Tá (Auxiliary Bishop) là Giám mục được chọn để phụ giúp Giám mục chính tòa. Giám mục phụ tá không có quyền kế vị như Giám mục Phó, (giáo luật số 403& 1). Muốn kế vị, Giám mục phụ tá phải được Đức Thánh Cha bổ nhiệm vào chức vụ mới.
Như vậy, các Giám Mục, tuy khác nhau về địa vị và trách nhiệm , nhưng bằng nhau về chức thánh cấp Giám mục, là chức thánh cao nhất của Giáo Hội Công Giáo. Đức Thánh Cha và các Hồng Y (sẽ nói sau) cũng chỉ có chức Giám mục mà thôi, nhưng có địa vị và trách nhiệm lớn hơn Giám mục.
Khi các Giám mục tròn 75 tuổi,và đang coi Địa Phận hay giữ chức vụ nào trong Giáo Triều Roma, thì phải xin về hưu (giáo luật số 401 & 1)
4-Tổng Giám mục (Archbishop): cũng là Giám mục, nhưng được cử để coi sóc một Tổng Giáo Phận (Archdiocese) hay còn gọi là Giáo Tỉnh (Ecclesial Province). Tuỳ theo nhu cầu mục vụ đòi hỏi, Tòa Thánh có thể gom một số Giáo Phận thành Tổng Giáo Phận hay Giáo Tỉnh. Người đứng đầu một Tổng Giáo Phận được gọi là Tổng Giám Mục, ngài cũng là Giám mục chính tòa của Địa Phận mình coi sóc.
Tổng Giám Mục có trách nhiệm sau đây:
- -theo dõi việc thi hành giáo lý đức tin và kỷ luật Giáo Hội trong Giáo Tỉnh của mình để báo cáo cho Đức Thánh Cha biết về những lạm dụng,hay sai trái nếu có.
- - Bổ nhiệm Giám Quản cho Giáo Phận khi Giám Mục chính tòa về hưu hay từ trần trong khi chờ Tòa Thánh bổ nhiệm Giám Mục chính tòa mới.Nhưng Tổng Giám Mục không có quyền hạn gì trên các Giám Mục trong Giáo Tỉnh của mình.Tất cả các Giám Mục, và Tổng Giám Mục đều trực tiếp chịu trách nhiệm trước Đức Thánh Cha mà thôi
- - Khi được bổ nhiệm coi sóc một Tổng Giáo Phận, Tổng Giám mục được Đức Thánh Cha trao cho dây PALLIUM là dấu chỉ quyền hành của Tổng Giám mục và cũng là dây hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo La Mã do
- - Đức Thánh Cha lãnh đạo , thay mặt Chúa Kitô trên trần gian.
- - -Nếu Giám mục nào trong Giáo Tỉnh của mình vắng mặt cách bất hợp pháp trong sáu tháng ở Địa Phận mình coi sóc, thì Tổng Giám mục phải thông tri cho Tòa Thánh biết. Nhưng nếu Tổng Giám mục cũng vắng mặt như vậy, thì Giám muc cao niên nhất trong Giáo Tỉnh sẽ thông tri việc này.(x Giáo luật số 395 &4)
- - Tổng Giám Mục được phép đeo dây Pallium trong bất cứ Thánh Đường nào thuộc Giáo Tỉnh của mình (x giáo luật số 437 &1-2)
- - Khi Tổng Giám Mục được thuyên chuyển đến một Giáo Tỉnh khác, thì phải xin lại dây Pallium này.
- III- Hồng Y ĐOÀN (College of Cardinals)
- Hồng Y được mệnh danh là “những Hoàng Tử của Giáo Hội= Princes of the Church), được chọn trong hàng Giám Mục trong toàn Giáo Hội với chức năng làm cố vấn cho Đức Thánh Cha và là cử tri (Elector) đi bầu Giáo Hoàng mới cho Giáo Hội khi Giáo Hoàng đương kim qua đời hay tự ý từ chức (Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI năm 2012)
- Hồng Y là một tước vi cao (title) chứ không phải là Chức Thánh, nhưng được chọn với hai chức năng nói trên vì lợi ích của Giáo Hội.
- Theo giáo luật hiện hành thì chỉ có các Hồng Y dưới 80 tuổi mới được đi bầu Giáo Hoàng mà thôi. Khi vào Mât hội (Conclave) các Hồng Y cũng đương nhiên là những ứng viên (potential candidates) có thể được bầu mặc dù không ra tranh cử.
- Ngoài Giám mục ra, một vài linh mục cũng có thể được chọn làm Hồng Y. Nhưng sau khi được chọn, các vị này cũng sẽ được thụ phong Giám mục. Và nếu Hồng Y nào chưa có chức Giám mục mà được bầu làm Giáo Hoàng thì phải được truyền chức Giám Mục ngay, trước khi đăng quang, do Hồng Y niên trưởng tấn phong. (x giáo luật số 355& 1)
- Hồng Y họp lại thành Hồng Y Đoàn (College of Cardinals) do một vị làm niên Trưởng (Dean)
- Có ba đẳng cấp Hồng Y như sau:
- 1- Hồng Y Giám mục (Cardinal Bíshops) từng là những giám mục đã coi sóc các Địa phận chung quanh Roma,và nay là những Hồng Y thâm niên làm việc trọn thời gian (full time) trong Giáo Triều Roma (Roman Curia)
- 2- Hồng Y Linh mục (Cardinal Priests)là những Hồng Y hiện đang làm việc trong Giáo Triều hay đang coi các Tổng Giáo Phận ở Ý hay ở các quốc gia trên thế giới’
- 3- Hồng Y Phó Tế (Cardinal Deacons) là những giám mục hiệu tòa (Titular Bishops) tức là không coi sóc địa phận nào và đang làm việc trọn thời gian trong Giáo Triều. (x giáo luật số 350 & 1-2)
- Khi các Hồng Y trọn 75 tuổi –và diện đang giữ các chức vụ quan trọng trong Giáo Triều, hay coi sóc các Tổng Giáo Phận trên toàn thế giới đều phải xin từ chức và tùy Đức Thánh Cha cho từ chức hay tạm lưu chức thêm môt thời gian nữa.
- Các Hồng Y, nếu không coi sóc Giáo Phận nào, thì buộc phải cư trú ở Rome. (x. giáo luật số 356)
IV- Linh mục đoàn và Phó Tế
Linh mục là cộng sự viên đắc lực nhất của Giám mục (co-workers) mình trưc thuộc trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, dạy dỗ chân lý đức tin và luân lý cùng coi sóc giáo dân ở các giáo xứ (Parishes)được trao phó cho mình phục vụ với tư cách chủ chăn.
Linh mục rất cần thiết và quan trọng cho sứ mệnh của Giáo Hội nói chung, vì là người trực tiếp coi sóc giáo dân thay mặt cho Giám mục Giáo Phận. Nếu không có linh mục, thì sẽ không có Thánh Lễ hay Bi Tích Thánh Thể và các Bí Tích Hòa giải, Sức dầu bệnh nhân, là những bí tích rất quan quan trọng cho đời sống Kitô Giáo.
Linh mục được phân chia thành:
Linh mục Giáo Phận (Diocesan Priests) hay còn gọi là linh mục Triều, và
Linh mục Dòng (Religious Priests) tức Linh muc thuộc một Dòng Tu hay Tu Hội, như Linh mục Dòng Đa Minh, Linh mục Dòng Tên (SJ), Dòng Ngôi Lời (SVD) .v.v
Linh mục Triều thì trực thuộc Giám mục của một Giáo Phận, còn Linh muc Dòng thì thuộc quyền Bề trên một Dòng tu hay Tu Hội. Muốn thi hành sứ vụ linh mục (Priestly ministries) thì linh mục phải được Giám mục trao cho năng quyền (Faculties) để cử hành Thánh Lễ và các bí tích. Nếu vì lý do gì mà năng quyền này bị rút(suspension) tạm thời hay vĩnh viễn (hay gọi nôm na là bị treo chén) thì linh mục không được phép cử hành Thánh Lễ và các bí tích, bao lâu không có năng quyền.
Phụ tá linh mục trong sứ vụ có các Phó tế vĩnh viễn , tức những người đang có vợ con nhưng được chịu chức Phó Tế để phục vụ trong một giáo xứ. Phó tế được phụ giúp Bàn Thánh, được đọc Phúc Âm và có thể chia sẻ lời Chúa, được rửa tội cho trẻ em, được chứng hôn phối và chủ sự nghi lễ an táng (Rite of Christian Funerals)
Trên đây là tất cả các chức vụ trong hệ thống Giáo quyền của Hàng Giáo Phẩm Công Giáo.Như thế, không ai có thể làm mục vụ trong Giáo Hội mà lại không thuộc Hàng Giáo Phẩm trên đây.
Cụ thể, không có Giám mục nào mà không thuộc một Giáo Phận để phục vụ và về hưu. Không một linh mục hay Phó tế nào mà không trực thuộc một Giám mục hay Bề Trên một Dòng Tu hay Tu Hội. Nếu không trực thuộc thì sẽ không có năng quyền (Faculties) để thi hành tác vụ linh mục hay Phó tế, dù cho có chức thánh linh mục hay Phó tế.
B- HÀNG TU SĨ (Religious)
Tu sĩ là những người có ba lời khấn khó nghèo (poverty), độc thân ,khiết tịnh (celibacy, chastity) và vâng phục (obedience) và thuộc về một Dòng Tu hay Tu Hội được thành lập hợp pháp (đúng giáo luật) trong Giáo Hội.Thí dụ Dòng ĐaMinh, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Ngôi Lời (SVD) Dòng Mến Thánh Giá, Tu Hội Tận Hiến, v.v
Mỗi Dòng Tu hay Tu Hội đều có đặc sủng (charism) và linh đạo riêng ((spirituality) , nên ai thích linh đạo nào thì gia nhập Dòng hay Tu Hội cổ võ cho linh đạo đó.
Tu sĩ nam có thể học để lãnh chức linh mục và có thể được chọn làm Giám Mục, Hồng Y hay Giáo Hoàng (Đức Thánh Cha đương kim là tu sĩ Dòng Tên (Sj).
Giáo sĩ (clerics) như Phó tế, Linh mục, Giám mục thì không phải là Tu sĩ và chỉ có hai lời khấn khiết tịnh (độc thân) và vâng phuc mà thôi. Ngược lại Tu Sĩ có thể là giáo sĩ nếu có chức Phó Tế, Linh mục hay Giám mục, và cả Giáo Hoàng nữa.
Tu sĩ của các Dòng Tu và Tu Hội đều thuộc quyền coi sóc tối cao của Đức Thánh Cha, và hoạt động trong khuôn khổ giáo luật,và luật Dòng cho phép. Nhưng khi làm việc trong một Giáo Phận thì Dòng Tu hay tu sĩ của Dòng đó phải có phép của Giám mục liên hệ.
Tóm lại, tất cả các vị trong Hàng Giáo Phẩm và Tu sĩ đều lãnh trách nhiệm từ các Bề Trên liên hệ, trừ Đức Thánh Cha được Hồng Y Đoàn bầu lên cách hợp lệ và lãnh trách nhiệm từ chức vụ được bầu này để thay mặt Chúa Kitô chăn dắt đoàn chiên của Người cho đến ngày hết nhiệm vụ vì từ trần hay tự ý từ chức.
Chúng ta cùng cầu xin cho các vị lãnh đạo Trong Hàng Giáo Phẩm (giáo sĩ và Tu sĩ) được sung mãn ơn Chúa để chu toàn trách nhiệm của mình trong toàn Giáo Hội.
Không Ai Có Thể Được Cứu Độ Nhờ Tiền
SUY NIỆM TIN MỪNG Chúa Nhật XXV - C
(Lc 16, 1-13)
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến một thứ rất quen thuộc và được sử dụng hàng ngày trong cuộc sống đó là “tiền”. Chẳng ai muốn nói tới tiền, vì đó là một chủ đề cấm kỵ. Tiền vừa là thứ được yêu thích, và cũng là thứ gây mặc cảm.
Lời khuyên của Chúa Giêsu : “ … các con : Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16, 9), và câu kết đoạn Tin Mừng : “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16,13) khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Tiền chỉ là một mảnh giấy, một vật làm bằng kim loại vô tri vô giác, nhưng nó đã đuợc chọn làm tương giao đổi chác, chi phối chúng tq quá nhiều. Tiền giữ một vị trí quan trọng, khiến nhiều bậc thang có giá trị bị đảo lộn, nhiều người có cùng quan điểm “có tiền là có tất cả”.
Đúng là có nhiều điều quan trọng ta không thực hiện được chỉ vì không có tiền, nhưng không thể nói rằng có tiền là có thể mua đuợc mọi thứ trên đời. Tiền chỉ là một công cụ để chúng ta trao đổi, tự bản chất tiền không nói lên một giá trị gì cả. Như thế, tiền không thể bảo đảm sự sung túc. Ví dụ: Trên con thuyền giữa đại dương, khi người ta không còn gì để ăn, thì một túi ngân phiếu cũng không giúp ích được gì. Tiền không thể thay thế được bất cứ nhu cầu nào. Người ta không thể sống bằng những con số tiền ở ngân hàng, nhưng bằng bánh và Lời Chúa. Tiền không thể làm cho lúa lớn lên được, nó chỉ làm tăng thêm hiệu quả của công sức con người trong tương quan với thiên nhiên.
Cuốn sách mang tựa đề “Happy Money: The Science of Smarter Spending”, (tạm dịch: Tiền hạnh phúc: Khoa học chi tiêu thông minh). Tác giả của cuốn sách này là hai nhà khoa học nghiên cứu hành vi nổi tiếng: Tiến sĩ Elizabeth Dunn và Tiến sĩ Michael Norton viết rằng : Tất cả chúng ta đều mắc một sai lầm về tiền khi cho rằng kiếm được càng nhiều tiền thì chúng ta càng cảm thấy hạnh phúc. Nếu muốn mua cho mình một cuộc sống trọn vẹn, vấn đề không nằm ở chỗ kiếm được bao nhiêu tiền, mà nằm ở cách bạn tiêu tiền.
Khi nói đến sức mạnh và giá trị của đồng tiền, có nhiều ý kiến trái chiều, chúng ta từng nghe một số nhận định sau:
Tiền có thể mua một ngôi nhà, nhưng không thể mua một mái ấm gia đình.
Tiền có thể mua chiếc giường đẹp, nhưng không thể mua giấc mộng vàng.
Tiền có thể mua chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian.
Tiền có thể mua quyển sách, nhưng không mua được kiến thức.
Tiền có thể mua chức vụ, nhưng không mua được sự kính trọng.
Tiền có thể trả cho bác sĩ, nhưng không thể mua được sức khoẻ.
Tiền có thể mua máu đào, nhưng không thể mua được mạng sống.
Tiền có thể mua xác thịt, nhưng không mua được tình yêu.
Có người hỏi : tiền có mua được hạnh phúc không ?
Số đông quả quyết rằng “không”. Có người cho rằng, tiền không mua được hạnh phúc nhưng nó có thể là công cụ mang lại hạnh phúc.
Tại sao tiền bạc có thể mua đuợc rất nhiều thứ ngoại trừ hạnh phúc?
Tiền thì không thể mua đuợc hạnh phúc vì hạnh phúc của con người không thể đo bằng thước, và càng lại không thể dùng giá trị của đồng tiền để mua hạnh phúc. Tiền là một thứ tiêu biểu cho giá trị vật chất, nên chỉ có thể mua những gì thuộc về vật chất. Còn hạnh phúc là một loại tiêu biểu cho giá trị tinh thần. Chẳng thế, Dunn và Norton cho rằng, làm cho người khác hạnh phúc trước và chắc chắn bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sau. Đây là một điều hiển nhiên, nhưng thật ngạc nhiên, quá nhiều người quên rằng, đây là điều phù hợp với tinh thần Kitô.
Một câu hỏi lớn được đặt ra cho chúng ta : Tiền có thể cứu độ được con người không ?
Giảng trong thánh lễ sáng thứ Sáu 20 tháng 9 năm 2013, Đức Phanxicô nhắc lại rằng : “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” bởi vì “một khi người ta dành tình yêu cho tiền và hướng về, thì tiền lôi kéo người ta xa rời Thiên Chúa”. Ngài kết luận : “Không ai có thể được cứu độ bằng tiền”. Vì vậy, chúng ta phải chọn lựa, chúng ta không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền của được. Chúng ta không thể. Hoặc là Thiên Chúa hoặc là tiền của.
Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra tội lỗi, nhưng thánh Phaolô nhấn mạnh rằng : “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham thích tiền bạc” (1Tm 6,10). Vì ham thích tiền mà một số người từ bỏ đức tin và gây nhiều đau khổ”. Thật vậy, sức mạnh của đồng tiền làm cho người tín hữu xa rời đức tin và thậm chí, tiền làm cho đức tin yếu dần và đưa người ta đến chỗ mất đức tin. Tiền là chỗ dựa không vững chắc, là thước đo lường sai và với sự hấp dẫn của nó, con người có nguy cơ bị tiền chế ngự. Thần Tiền tạo ra ảo giác rằng khi có tiền, tôi có thể có được mọi thứ, mọi ước muốn sẽ được thoả mãn, và qua đó, tiền làm cho chúng ta thành nô lệ.
Thiên Chúa muốn gì nơi chúng ta ?
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phục thực sự. Ngài muốn chúng ta đi vào Giao Ước, chứ không phải là Bò vàng, Mammon, một giá trị biểu trưng sự an toàn tuyệt đối. Nếu không muốn trở thành nô lệ, cách thức duy nhất là chọn làm tôi Chúa và phục vụ Ngài. Chỉ có Thiên Chúa mới giải thoát được chúng ta.
Trong Mười Điều Răn, không có điều răn nào nói về tiền bạc. Tuy nhiên, chúng ta có thể lỗi phạm điều thứ nhất, nếu chúng ta hành động vì tiền. Đó là tội thờ ngẫu tượng. Vì tiền trở nên thần tượng để chúng ta tôn thờ. Ma quỷ luôn cám dỗ người ta về: sự giàu có, thỏa mãn; tự phụ, cảm thấy mình quan trọng ; và kiêu ngạo. Và cuối cùng, tiền tạo ra sự tôn thờ ngẫu tượng.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con khỏi rơi vào cái bẫy của thần tượng bạc tiền và chọn Chúa, vì chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM TIN MỪNG Chúa Nhật XXV - C
(Lc 16, 1-13)
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến một thứ rất quen thuộc và được sử dụng hàng ngày trong cuộc sống đó là “tiền”. Chẳng ai muốn nói tới tiền, vì đó là một chủ đề cấm kỵ. Tiền vừa là thứ được yêu thích, và cũng là thứ gây mặc cảm.
Lời khuyên của Chúa Giêsu : “ … các con : Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16, 9), và câu kết đoạn Tin Mừng : “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16,13) khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Tiền chỉ là một mảnh giấy, một vật làm bằng kim loại vô tri vô giác, nhưng nó đã đuợc chọn làm tương giao đổi chác, chi phối chúng tq quá nhiều. Tiền giữ một vị trí quan trọng, khiến nhiều bậc thang có giá trị bị đảo lộn, nhiều người có cùng quan điểm “có tiền là có tất cả”.
Đúng là có nhiều điều quan trọng ta không thực hiện được chỉ vì không có tiền, nhưng không thể nói rằng có tiền là có thể mua đuợc mọi thứ trên đời. Tiền chỉ là một công cụ để chúng ta trao đổi, tự bản chất tiền không nói lên một giá trị gì cả. Như thế, tiền không thể bảo đảm sự sung túc. Ví dụ: Trên con thuyền giữa đại dương, khi người ta không còn gì để ăn, thì một túi ngân phiếu cũng không giúp ích được gì. Tiền không thể thay thế được bất cứ nhu cầu nào. Người ta không thể sống bằng những con số tiền ở ngân hàng, nhưng bằng bánh và Lời Chúa. Tiền không thể làm cho lúa lớn lên được, nó chỉ làm tăng thêm hiệu quả của công sức con người trong tương quan với thiên nhiên.
Cuốn sách mang tựa đề “Happy Money: The Science of Smarter Spending”, (tạm dịch: Tiền hạnh phúc: Khoa học chi tiêu thông minh). Tác giả của cuốn sách này là hai nhà khoa học nghiên cứu hành vi nổi tiếng: Tiến sĩ Elizabeth Dunn và Tiến sĩ Michael Norton viết rằng : Tất cả chúng ta đều mắc một sai lầm về tiền khi cho rằng kiếm được càng nhiều tiền thì chúng ta càng cảm thấy hạnh phúc. Nếu muốn mua cho mình một cuộc sống trọn vẹn, vấn đề không nằm ở chỗ kiếm được bao nhiêu tiền, mà nằm ở cách bạn tiêu tiền.
Khi nói đến sức mạnh và giá trị của đồng tiền, có nhiều ý kiến trái chiều, chúng ta từng nghe một số nhận định sau:
Tiền có thể mua một ngôi nhà, nhưng không thể mua một mái ấm gia đình.
Tiền có thể mua chiếc giường đẹp, nhưng không thể mua giấc mộng vàng.
Tiền có thể mua chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian.
Tiền có thể mua quyển sách, nhưng không mua được kiến thức.
Tiền có thể mua chức vụ, nhưng không mua được sự kính trọng.
Tiền có thể trả cho bác sĩ, nhưng không thể mua được sức khoẻ.
Tiền có thể mua máu đào, nhưng không thể mua được mạng sống.
Tiền có thể mua xác thịt, nhưng không mua được tình yêu.
Có người hỏi : tiền có mua được hạnh phúc không ?
Số đông quả quyết rằng “không”. Có người cho rằng, tiền không mua được hạnh phúc nhưng nó có thể là công cụ mang lại hạnh phúc.
Tại sao tiền bạc có thể mua đuợc rất nhiều thứ ngoại trừ hạnh phúc?
Tiền thì không thể mua đuợc hạnh phúc vì hạnh phúc của con người không thể đo bằng thước, và càng lại không thể dùng giá trị của đồng tiền để mua hạnh phúc. Tiền là một thứ tiêu biểu cho giá trị vật chất, nên chỉ có thể mua những gì thuộc về vật chất. Còn hạnh phúc là một loại tiêu biểu cho giá trị tinh thần. Chẳng thế, Dunn và Norton cho rằng, làm cho người khác hạnh phúc trước và chắc chắn bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sau. Đây là một điều hiển nhiên, nhưng thật ngạc nhiên, quá nhiều người quên rằng, đây là điều phù hợp với tinh thần Kitô.
Một câu hỏi lớn được đặt ra cho chúng ta : Tiền có thể cứu độ được con người không ?
Giảng trong thánh lễ sáng thứ Sáu 20 tháng 9 năm 2013, Đức Phanxicô nhắc lại rằng : “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” bởi vì “một khi người ta dành tình yêu cho tiền và hướng về, thì tiền lôi kéo người ta xa rời Thiên Chúa”. Ngài kết luận : “Không ai có thể được cứu độ bằng tiền”. Vì vậy, chúng ta phải chọn lựa, chúng ta không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền của được. Chúng ta không thể. Hoặc là Thiên Chúa hoặc là tiền của.
Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra tội lỗi, nhưng thánh Phaolô nhấn mạnh rằng : “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham thích tiền bạc” (1Tm 6,10). Vì ham thích tiền mà một số người từ bỏ đức tin và gây nhiều đau khổ”. Thật vậy, sức mạnh của đồng tiền làm cho người tín hữu xa rời đức tin và thậm chí, tiền làm cho đức tin yếu dần và đưa người ta đến chỗ mất đức tin. Tiền là chỗ dựa không vững chắc, là thước đo lường sai và với sự hấp dẫn của nó, con người có nguy cơ bị tiền chế ngự. Thần Tiền tạo ra ảo giác rằng khi có tiền, tôi có thể có được mọi thứ, mọi ước muốn sẽ được thoả mãn, và qua đó, tiền làm cho chúng ta thành nô lệ.
Thiên Chúa muốn gì nơi chúng ta ?
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phục thực sự. Ngài muốn chúng ta đi vào Giao Ước, chứ không phải là Bò vàng, Mammon, một giá trị biểu trưng sự an toàn tuyệt đối. Nếu không muốn trở thành nô lệ, cách thức duy nhất là chọn làm tôi Chúa và phục vụ Ngài. Chỉ có Thiên Chúa mới giải thoát được chúng ta.
Trong Mười Điều Răn, không có điều răn nào nói về tiền bạc. Tuy nhiên, chúng ta có thể lỗi phạm điều thứ nhất, nếu chúng ta hành động vì tiền. Đó là tội thờ ngẫu tượng. Vì tiền trở nên thần tượng để chúng ta tôn thờ. Ma quỷ luôn cám dỗ người ta về: sự giàu có, thỏa mãn; tự phụ, cảm thấy mình quan trọng ; và kiêu ngạo. Và cuối cùng, tiền tạo ra sự tôn thờ ngẫu tượng.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con khỏi rơi vào cái bẫy của thần tượng bạc tiền và chọn Chúa, vì chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Vô cảm: Một căn bệnh quái ác của thời đại.
Giuse Thẩm Nguyễn 8/18/2016
Vô cảm là thờ ơ, là bịt mắt che tai trước nỗi đớn đau của người khác. Vô cảm là ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, gia đình mình mà không hề muốn chia sẻ với bất cứ ai.
Trong Phúc Âm Thánh Luca (10, 29-37), dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành, có một người bị cướp nằm dở sống dở chết trên đường đi từ Giê-su-sa-lem đến Giê-ri-cô. Vì vô cảm nên thày tư tế và thày Lê-vi đều tránh sang mé đường bên kia mà đi. Chỉ có người Sa-ma-ri là động lòng trắc ẩn ra tay giúp đỡ. Cảm thông và chia sẻ là thực hiện giới răn yêu thương của Chúa.
Vô cảm là một trọng tội dẫn đến án phạt đời đời như trong đoạn Tin Mừng của Thánh Luca (16, 19-31)- Ông nhà giàu và người nghèo La-za-rô. Ông nhà giàu không xua đuổi người nghèo nằm trước cửa nhà mình. Ông cũng chẳng gây khó khăn hay chửi mắng người nghèo. Ông chỉ có một cái tội là thái độ vô cảm để cuối cùng thì “bị lửa thiêu đốt” đời đời. Hậu quả của bệnh này thật khủng khiếp theo lương tâm Công Giáo.
Còn thái độ vô cảm đối với tiền đồ dân tộc thì sao? Trong cuộc sống hiện nay của những người Việt Nam tại hải ngoại, nếu ai không còn cảm thấy băn khoăn trước những biến cố xảy ra cho Giáo Hội mình, cho dân tộc mình thì người ấy có lẽ đã lây nhiễm bệnh vô cảm.
Vô cảm hay thờ ơ là thái độ mặc kệ nó trước những sự việc lớn nhỏ đang xảy ra có ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai, vận mệnh của mình, của cộng đồng mình, của đất nước mình.
Dù rằng phương tiện truyền thông của thời đại chúng ta, mỗi tin lớn tin nhỏ đều được loan ra đến tất cả mọi người qua Iphone, Youtube, Facebook, Twitter, website, truyền thanh, truyền hình…nhưng những tin ấy đến rồi lại đi, tôi nghe đấy mà không hiểu, nhìn đấy mà không thấy và đầu óc hay trái tim chẳng có một suy nghĩ hay cảm xúc gì bề bản tin vừa nhận được.
Một số người cố ý hay lầm tưởng rằng người Công Giáo không được phép làm chính trị để thoái thác mọi trách nhiệm công dân của mình. Có người Công Giáo đã tự khước từ quyền bầu cứ hiến định của mình, chẳng biết là ứng cử viên Tổng Thống Hillary Clinton hay Donald Trump đã có lập trường như thế nào và Giáo Hội đã có những hướng dẫn cụ thể ra sao khi xử dụng lá phiếu của mình.
Với một cái nhìn tiêu cực thì có thể kết luận rằng mình có đi bầu thì cũng thế thôi và nếu ai cũng nghĩ như vậy thì tại sao chúng ta liên tiếp nhận được thư rơi hay email cổ vũ cho ứng cử viên này mà đả kích ứng cử viên khác? Mỗi khi tôi băn khoăn, dừng lại để nghĩ về tương lai dân tộc mình qua những biến cố thời cuộc, là tôi đang gieo những mầm sống để chờ cơ hội cây công lý, hòa bình, tự do, dân chủ mọc lên.
Gặp một người quen, tôi hỏi “Anh có nghe bài giảng mới đây của cha Nam Phong ở nhà thờ Thái Hà, Hà Nội không”. https://www.youtube.com/watch?v=Y_je3VMmyRw
Người ấy thản nhiên trả lời “Không có giờ, với lại tôi có nghe hay không thì cũng chẳng ăn thua gì!” Nghe anh trả lời, tự nhiên tôi cảm thấy lòng buồn vời vợi.
Tôi nghĩ rằng để có một bài giảng khẳng định rõ lập trường như thế giữa thành phố Hà Nội hôm nay, vị linh mục đáng kính của chúng ta hẳn là người rất can đảm, dám liều thân đánh đổi cả sinh mệnh của mình để nói lên sự thật, vạch ra cái ác, cái khốn nạn của bọn cầm quyền ở Việt Nam. Giữa một rừng gươm, dao găm mã tấu, súng đạn và những công an chìm nổi vẫn vang lên tiếng nói của hòa bình, của công lý, của tự do. Sau khi nghe hết bài giảng của ngài, tôi vẫn tin rằng thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay, tuy bị ảnh hưởng nhiều ít do chính sách ngu dân hóa bởi người Cộng Sản, vẫn nhận ra đâu là lẽ phải, là chân lý và họ đã và đang ra sức dành lại.
Thay vì suy ngẫm cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình ở Việt Nam hay cộng tác bằng nhiều hình thức để góp phần vào công việc cứu nguy sơn hà, người ta lại rất coi thường, thản nhiên như không có gì đang xảy ra. Không có giờ để đọc, nghe và xem những tin tức liên quan đến cuộc đấu tranh chung của dân tộc, không có giờ cho những tin tức Công Giáo, bài nguyện gẫm, bài giảng trên mạng nhưng lại có rất nhiều giờ cho những phim truyện nhảm nhí, chuyện đời tư của đám “vô loài” đang đua nhau về Việt Nam hát hò…
Tôi có nói chuyện với một gia đình mới từ Việt Nam sang định cư tại Hoa Kỳ. Họ là những người trí thức thế mà khi hỏi về tình hình trong nước họ như mù tịt. Ừ, thì vì bưng bít thông tin họ không biết đã đành, nhưng sau khi sang tới Hoa Kỳ, một xứ sở tự do, họ có đầy đủ tất cả thông tin, vậy mà khi đặt câu hỏi cả hai vợ chồng đều như muốn bịt tai, mắt nhìn ráo rác như thể con ma Cộng Sản đang ngồi trong xó nhà và kết luận rằng “thôi chúng tôi chẳng quan tâm đến chính trị đâu… và rằng nếu Trung Quốc có chiếm Việt Nam thì mình cũng như Hồng Kông là cùng.” Đừng có mơ, Trung Cộng là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam và khi mà nó chiếm Việt Nam thì số phận mình sẽ không khác gì dân tộc Mông Cổ đâu.!
Bệnh vô cảm biến con người trở thành ích kỷ, chỉ lo cho mình. Đôi khi nó còn làm cho người ta hoang tưởng, tự an ủi lương tâm chai cứng của mình.
Khi tôi không còn cảm thông với nỗi đau của đồng loại, không còn bất bình với cái ác của xã hội thì tình yêu trong tôi cạn kiệt dần và giới răn mến Chúa Yêu Người sẽ không có chỗ trong tâm hồn tôi.
Trước đây ở Việt Nam, dù coi thường dư luận, bọn cầm quyền cũng luôn tìm cách bịt miệng người dân. Nhiều người đã bị tù tội về những phát biểu của mình mà dân gian thường nói một cách mỉa mai “cái miệng hại cái thân.”
Đến giai đoạn này thì đám Cộng Sản không thể bị miệng mọi người được nữa, sự thật được vạch trần nhưng bọn chúng vẫn chộm chễ ăn trên ngồi trốc, bọc lột toàn dân vì hầu như đa số người dân đã mắc một căn bệnh chết tiệt là bệnh vô cảm.
Giuse Thẩm Nguyễn
Giuse Thẩm Nguyễn 8/18/2016
Vô cảm là thờ ơ, là bịt mắt che tai trước nỗi đớn đau của người khác. Vô cảm là ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, gia đình mình mà không hề muốn chia sẻ với bất cứ ai.
Trong Phúc Âm Thánh Luca (10, 29-37), dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành, có một người bị cướp nằm dở sống dở chết trên đường đi từ Giê-su-sa-lem đến Giê-ri-cô. Vì vô cảm nên thày tư tế và thày Lê-vi đều tránh sang mé đường bên kia mà đi. Chỉ có người Sa-ma-ri là động lòng trắc ẩn ra tay giúp đỡ. Cảm thông và chia sẻ là thực hiện giới răn yêu thương của Chúa.
Vô cảm là một trọng tội dẫn đến án phạt đời đời như trong đoạn Tin Mừng của Thánh Luca (16, 19-31)- Ông nhà giàu và người nghèo La-za-rô. Ông nhà giàu không xua đuổi người nghèo nằm trước cửa nhà mình. Ông cũng chẳng gây khó khăn hay chửi mắng người nghèo. Ông chỉ có một cái tội là thái độ vô cảm để cuối cùng thì “bị lửa thiêu đốt” đời đời. Hậu quả của bệnh này thật khủng khiếp theo lương tâm Công Giáo.
Còn thái độ vô cảm đối với tiền đồ dân tộc thì sao? Trong cuộc sống hiện nay của những người Việt Nam tại hải ngoại, nếu ai không còn cảm thấy băn khoăn trước những biến cố xảy ra cho Giáo Hội mình, cho dân tộc mình thì người ấy có lẽ đã lây nhiễm bệnh vô cảm.
Vô cảm hay thờ ơ là thái độ mặc kệ nó trước những sự việc lớn nhỏ đang xảy ra có ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai, vận mệnh của mình, của cộng đồng mình, của đất nước mình.
Dù rằng phương tiện truyền thông của thời đại chúng ta, mỗi tin lớn tin nhỏ đều được loan ra đến tất cả mọi người qua Iphone, Youtube, Facebook, Twitter, website, truyền thanh, truyền hình…nhưng những tin ấy đến rồi lại đi, tôi nghe đấy mà không hiểu, nhìn đấy mà không thấy và đầu óc hay trái tim chẳng có một suy nghĩ hay cảm xúc gì bề bản tin vừa nhận được.
Một số người cố ý hay lầm tưởng rằng người Công Giáo không được phép làm chính trị để thoái thác mọi trách nhiệm công dân của mình. Có người Công Giáo đã tự khước từ quyền bầu cứ hiến định của mình, chẳng biết là ứng cử viên Tổng Thống Hillary Clinton hay Donald Trump đã có lập trường như thế nào và Giáo Hội đã có những hướng dẫn cụ thể ra sao khi xử dụng lá phiếu của mình.
Với một cái nhìn tiêu cực thì có thể kết luận rằng mình có đi bầu thì cũng thế thôi và nếu ai cũng nghĩ như vậy thì tại sao chúng ta liên tiếp nhận được thư rơi hay email cổ vũ cho ứng cử viên này mà đả kích ứng cử viên khác? Mỗi khi tôi băn khoăn, dừng lại để nghĩ về tương lai dân tộc mình qua những biến cố thời cuộc, là tôi đang gieo những mầm sống để chờ cơ hội cây công lý, hòa bình, tự do, dân chủ mọc lên.
Gặp một người quen, tôi hỏi “Anh có nghe bài giảng mới đây của cha Nam Phong ở nhà thờ Thái Hà, Hà Nội không”. https://www.youtube.com/watch?v=Y_je3VMmyRw
Người ấy thản nhiên trả lời “Không có giờ, với lại tôi có nghe hay không thì cũng chẳng ăn thua gì!” Nghe anh trả lời, tự nhiên tôi cảm thấy lòng buồn vời vợi.
Tôi nghĩ rằng để có một bài giảng khẳng định rõ lập trường như thế giữa thành phố Hà Nội hôm nay, vị linh mục đáng kính của chúng ta hẳn là người rất can đảm, dám liều thân đánh đổi cả sinh mệnh của mình để nói lên sự thật, vạch ra cái ác, cái khốn nạn của bọn cầm quyền ở Việt Nam. Giữa một rừng gươm, dao găm mã tấu, súng đạn và những công an chìm nổi vẫn vang lên tiếng nói của hòa bình, của công lý, của tự do. Sau khi nghe hết bài giảng của ngài, tôi vẫn tin rằng thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay, tuy bị ảnh hưởng nhiều ít do chính sách ngu dân hóa bởi người Cộng Sản, vẫn nhận ra đâu là lẽ phải, là chân lý và họ đã và đang ra sức dành lại.
Thay vì suy ngẫm cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình ở Việt Nam hay cộng tác bằng nhiều hình thức để góp phần vào công việc cứu nguy sơn hà, người ta lại rất coi thường, thản nhiên như không có gì đang xảy ra. Không có giờ để đọc, nghe và xem những tin tức liên quan đến cuộc đấu tranh chung của dân tộc, không có giờ cho những tin tức Công Giáo, bài nguyện gẫm, bài giảng trên mạng nhưng lại có rất nhiều giờ cho những phim truyện nhảm nhí, chuyện đời tư của đám “vô loài” đang đua nhau về Việt Nam hát hò…
Tôi có nói chuyện với một gia đình mới từ Việt Nam sang định cư tại Hoa Kỳ. Họ là những người trí thức thế mà khi hỏi về tình hình trong nước họ như mù tịt. Ừ, thì vì bưng bít thông tin họ không biết đã đành, nhưng sau khi sang tới Hoa Kỳ, một xứ sở tự do, họ có đầy đủ tất cả thông tin, vậy mà khi đặt câu hỏi cả hai vợ chồng đều như muốn bịt tai, mắt nhìn ráo rác như thể con ma Cộng Sản đang ngồi trong xó nhà và kết luận rằng “thôi chúng tôi chẳng quan tâm đến chính trị đâu… và rằng nếu Trung Quốc có chiếm Việt Nam thì mình cũng như Hồng Kông là cùng.” Đừng có mơ, Trung Cộng là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam và khi mà nó chiếm Việt Nam thì số phận mình sẽ không khác gì dân tộc Mông Cổ đâu.!
Bệnh vô cảm biến con người trở thành ích kỷ, chỉ lo cho mình. Đôi khi nó còn làm cho người ta hoang tưởng, tự an ủi lương tâm chai cứng của mình.
Khi tôi không còn cảm thông với nỗi đau của đồng loại, không còn bất bình với cái ác của xã hội thì tình yêu trong tôi cạn kiệt dần và giới răn mến Chúa Yêu Người sẽ không có chỗ trong tâm hồn tôi.
Trước đây ở Việt Nam, dù coi thường dư luận, bọn cầm quyền cũng luôn tìm cách bịt miệng người dân. Nhiều người đã bị tù tội về những phát biểu của mình mà dân gian thường nói một cách mỉa mai “cái miệng hại cái thân.”
Đến giai đoạn này thì đám Cộng Sản không thể bị miệng mọi người được nữa, sự thật được vạch trần nhưng bọn chúng vẫn chộm chễ ăn trên ngồi trốc, bọc lột toàn dân vì hầu như đa số người dân đã mắc một căn bệnh chết tiệt là bệnh vô cảm.
Giuse Thẩm Nguyễn
Chó nhà thánh cũng sủa ra được chữ
Chó nhà đạo nhất cử cũng e dè
Thư kính gửi: Quý vị lãnh đạo các tôn giáo
Kính thưa các ngài,
Trước hiện tình Việt nam bên bờ diệt vong, các ngài làm gì cho đất nước?
Tiên tri Isaiah: “sống đạo là phá vỡ xiềng xích của bọn ác nhân, cất đi gánh nặng của kẻ lầm than, giải thoát cho kẻ bị áp bức, và phá tan mọi gông xiềng” (Isaiah 58:6).
Năm 1982, khi về thăm quê hương, còn chế độ tà quyền cộng sản, ĐGH Gioan Phaolô II đã nói trong Thánh Lễ đại trào: “Anh chị em thân mến. Dù đời sống của người Ba Lan khó khăn thế nào, chúng ta cũng đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tựdo và nhân phẩm của con người. ”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Tôi muốn một Giáo Hội bị thương tích, đau đớn và lấm bùn vì dám dấn thân xuống đường, thay vì một Giáo Hội ẩn mình sau một lớp bình phong của kinh kệ, lễ nghi và lề luật mà xa lìa những tâm hồn đổ nát”.
Cách nay 30 năm, Hồng Y Giacobe Sin, ở Phi Luật Tân đã dẫn hơn 1 triệu giáo dân xuống đường; họ đọc kinh, ca hát và kêu gọi Tổng Thống Fidel Marcos từ chức. Fidel Marcos đã bị lật đổ. Nếu so sự sai trái của Fidel Marcos thì chẳng là gì với những tội ác tầy trời của đảng Cộng sản Việt Nam, chúng đang đẩy cả dân tộc vào vòng nô lệ và diệt vong.
Với các ngài lãnh đạo Phật giáo, Cao đài, Hoà Hảo, Tin lành...
Như các ngài đã biết, đường lối của đảng Cộng sản là mị dân, là bán nước, buôn dân, ăn cướp tài sản của nhân dân, của các tôn giáo, và làm tay sai cho giặc Trung cộng.
Từ khi có tà quyền Cộng sản, nhân dân Việt Nam phải rên xiết, nhục nhã, đau khổ ngập tràn. Dòng lịch sử Việt nam, chưa có thời nào dân tộc phải khốn khổ và nhục nhã như thế.
Mỗi chúng ta chỉ có một lần để sống. Vậy phải sống như thế nào để không uổng phí đời sống? Chúng ta có nên bịt mắt, bịt tai, bịt miệng trước những đau khổ, rên xiết của cả dân tộc hay không?
Mỗi chúng ta chỉ có một lần phải chết. Vậy có nên chọn chết vì tổ quốc, vì dân tộc, vì sự sinh tồn của các thế, và vì nhiềm tin của chúng ta; hay chọn cái chết tầm thường vì già, vì bịnh như những sinh vật không có lương tri ??
Người viết trộm nghĩ, nếu có vài ngài Giám mục, vài ngài Hoà thượng, vài ngài Chức Sắc Cao Cấp của mọi tôn giáo ... cùng một lúc xuống đường với nhân dân Việt nam, để đòi công lý, đòi sự thật, đòi sự sống cho toàn dân, thì sẽ có hằng triệu người cùng xuống đường với các ngài.
Người viêt nghĩ rằng, tà quyền Cộng sản sẽ không dám đụng đến các ngài, bởi chúng đụng đến các ngài là đụng đến 90 triệu nhân dân Việt nam và nhân loại trên thế giới; bởi hầu hết các quốc gia đều có tôn giáo.
Xin Thiên Chúa thương xót, soi sáng và dẫn dắt chúng con (và các ngài).
Kính thư,
Phaolô Thái, ngày 8 tháng năm, 2016
Chó nhà đạo nhất cử cũng e dè
Thư kính gửi: Quý vị lãnh đạo các tôn giáo
Kính thưa các ngài,
Trước hiện tình Việt nam bên bờ diệt vong, các ngài làm gì cho đất nước?
Tiên tri Isaiah: “sống đạo là phá vỡ xiềng xích của bọn ác nhân, cất đi gánh nặng của kẻ lầm than, giải thoát cho kẻ bị áp bức, và phá tan mọi gông xiềng” (Isaiah 58:6).
Năm 1982, khi về thăm quê hương, còn chế độ tà quyền cộng sản, ĐGH Gioan Phaolô II đã nói trong Thánh Lễ đại trào: “Anh chị em thân mến. Dù đời sống của người Ba Lan khó khăn thế nào, chúng ta cũng đừng nản lòng tranh đấu cho công lý và sự thật, cho tựdo và nhân phẩm của con người. ”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Tôi muốn một Giáo Hội bị thương tích, đau đớn và lấm bùn vì dám dấn thân xuống đường, thay vì một Giáo Hội ẩn mình sau một lớp bình phong của kinh kệ, lễ nghi và lề luật mà xa lìa những tâm hồn đổ nát”.
Cách nay 30 năm, Hồng Y Giacobe Sin, ở Phi Luật Tân đã dẫn hơn 1 triệu giáo dân xuống đường; họ đọc kinh, ca hát và kêu gọi Tổng Thống Fidel Marcos từ chức. Fidel Marcos đã bị lật đổ. Nếu so sự sai trái của Fidel Marcos thì chẳng là gì với những tội ác tầy trời của đảng Cộng sản Việt Nam, chúng đang đẩy cả dân tộc vào vòng nô lệ và diệt vong.
Với các ngài lãnh đạo Phật giáo, Cao đài, Hoà Hảo, Tin lành...
Như các ngài đã biết, đường lối của đảng Cộng sản là mị dân, là bán nước, buôn dân, ăn cướp tài sản của nhân dân, của các tôn giáo, và làm tay sai cho giặc Trung cộng.
Từ khi có tà quyền Cộng sản, nhân dân Việt Nam phải rên xiết, nhục nhã, đau khổ ngập tràn. Dòng lịch sử Việt nam, chưa có thời nào dân tộc phải khốn khổ và nhục nhã như thế.
Mỗi chúng ta chỉ có một lần để sống. Vậy phải sống như thế nào để không uổng phí đời sống? Chúng ta có nên bịt mắt, bịt tai, bịt miệng trước những đau khổ, rên xiết của cả dân tộc hay không?
Mỗi chúng ta chỉ có một lần phải chết. Vậy có nên chọn chết vì tổ quốc, vì dân tộc, vì sự sinh tồn của các thế, và vì nhiềm tin của chúng ta; hay chọn cái chết tầm thường vì già, vì bịnh như những sinh vật không có lương tri ??
Người viết trộm nghĩ, nếu có vài ngài Giám mục, vài ngài Hoà thượng, vài ngài Chức Sắc Cao Cấp của mọi tôn giáo ... cùng một lúc xuống đường với nhân dân Việt nam, để đòi công lý, đòi sự thật, đòi sự sống cho toàn dân, thì sẽ có hằng triệu người cùng xuống đường với các ngài.
Người viêt nghĩ rằng, tà quyền Cộng sản sẽ không dám đụng đến các ngài, bởi chúng đụng đến các ngài là đụng đến 90 triệu nhân dân Việt nam và nhân loại trên thế giới; bởi hầu hết các quốc gia đều có tôn giáo.
Xin Thiên Chúa thương xót, soi sáng và dẫn dắt chúng con (và các ngài).
Kính thư,
Phaolô Thái, ngày 8 tháng năm, 2016
BẢY TỘI LỖI XÃ HỘI
Mahatma Gandhi là một chính khách vĩ đại, một nhà hiền triết của Ấn Độ, người được Liên hiệp quốc vinh danh thật sự (chứ không như ai đó tự vơ vào mình). Chẳng hiểu sao mỗi khi nghĩ về hiện tình của đất nước làm tôi nhớ đến Gandhi, người đã từng cảnh báo thế giới về cái mà ông gọi là Bảy tội lỗi xã hội (Seven Social Sins) mà ông viết ra từ năm 1925, đúng 90 năm trước:
1. Làm giàu mà không nhờ lao động (Wealth without work)
2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm (Please without conscience)
3. Có kiến thức mà không có nhân cách (Knowledge without character)
4. Làm thương mại mà không có đạo đức (Business without morality/ethics)
5. Khoa học mà không có nhân văn (Science without humanity)
6. Có tôn giáo mà không thờ phượng (Religion without sacrifice)
7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc (Politics without principles)
Chúng ta thử xem xét nhanh những tội lỗi này xem sao:
1. Làm giàu không nhờ lao động: Hiện nay, có một nhóm người làm giàu rất nhanh, không phải nhờ kinh doanh giỏi hay làm việc tốt, mà qua quan hệ và hậu duệ. Họ chỉ cần dùng mánh khoé để lôi kéo, “qui hoạch” nhân sự và thế là tạo ra tài sản. Một số thì làm giàu nhờ quan hệ nên tiếp cận được và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một số khác thì làm ra tiền nhờ vào lợi dụng thông tin trong để thao túng thị trường chứng khoán. Một số khác thì làm giàu nhờ tham nhũng, chẳng cần tốn công lao động gì cả.
2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm: Đây là những người ích kỉ, lúc nào cũng muốn hưởng lợi cho cá nhân mà không quan tâm đến phúc lợi của người khác. Đối với họ, câu hỏi đầu tiên là “Tôi làm cái này sẽ có lợi gì cho tôi, việc này có giúp tôi thăng tiến trong sự nghiệp, có làm cho tôi giàu thêm”, và quyết định hành động của họ cũng dựa trên câu hỏi đó. Họ không quan tâm đến người khác, không cần biết đến văn hoá “to give and to take”, không cần có trách nhiệm xã hội và chẳng biết đến hiến dâng là gì. Những người này rất nhiều ở Việt Nam.
3. Có kiến thức mà không có nhân cách: Có ít kiến thức đã là một thiệt thòi, có khi là nguy hiểm, nhưng có nhiều kiến thức mà thiếu nhân cách thì còn nguy hiểm hơn. Chỉ học cho nhiều để có kiến thức mà không cần quan tâm đến cái nội tâm, thì chẳng khác gì đưa một chiếc xe hơi thể thao cho một thiếu niên. Điều này cũng xảy ra trong thế giới khoa bảng, nơi mà người ta thường quan tâm đến sản sinh ra tri thức mới nhưng ít khi nào để ý đến khía cạnh nhân văn của tri thức. Ở Việt Nam, có nhiều người đi học để tiếp thu kiến thức không phải vì dấn thân xã hội, mà vì muốn ăn trên ngồi trốc. Họ hám danh chứ không phải ham học.
4. Làm thương mại mà không có đạo đức: Ngay cả những nhà kinh tế học cổ điển cũng xem đạo đức là nền tảng của thành công trong kinh tế. Cách mà chúng ta đối xử với người khác trong tinh thần bác ái, phục vụ và cống hiến là nền tảng của kinh tế – xã hội. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, các nhà quan sát cho rằng Việt Nam đang ở trong thời kì “chủ nghĩa tư bản man rợ, rừng rú”, chứ không phải “chủ nghĩa tư bản văn minh.” Những người nhận định như thế dựa trên quan sát rằng có những nhóm lợi ích tỏ ra tham lam vô độ, luôn luôn muốn thao túng kinh tế. Có người cho rằng các nhóm lợi ích, nhóm làm giàu bất chính đang tàn phá đất nước.
5. Khoa học mà không có nhân văn: Kinh doanh mà không dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và không xem trọng trách nhiệm xã hội là loại kinh doanh nguy hiểm. Tương tự, trong khoa học, tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm cũng là một tiêu chí quan trọng. Một công trình nghiên cứu cho dù mang tính khả thi cao và có ý tưởng tốt, nhưng làm phương hại đến cộng đồng và xã hội vẫn không được đánh giá là đạt chuẩn mực. Chính vì bản chất đạo đức của khoa học, nhà khoa học còn phải có trách nhiệm với xã hội, vì nhà khoa học cũng chỉ là một thành viên trong xã hội, không thể nào đứng ngoài hay đứng cao hơn xã hội. Công trình tạo ra chủng virút mới của Tàu có thể đó là một thành tựu về kĩ thuật, nhưng không đạt tiêu chuẩn về đạo đức và trách nhiệm xã hội vì thành tựu đó chẳng đem lại phúc lợi gì cho xã hội hay giúp giảm sự đe dọa của một đại dịch. Ở Việt Nam, khoa học chưa phát triển, nhưng đây đó có nhiều người dùng khoa học để làm những chuyện thiếu đạo đức.
6. Có tôn giáo mà không thờ phượng: Nhìn từ ngoài và từ xa, Việt Nam là một nước ngoan đạo, với số lượng chùa chiền và nhà thờ khá nhiều. Người ta đi lễ hội và đi chùa cũng rất nhiều. Nhưng nếu nhìn kĩ thì việc viếng chùa của họ không phải là vì thờ phượng, mà chủ yếu là mê tín, và hối lộ thần thánh. Có thể nói rất nhiều người đến chùa để cầu thần thánh ban cho chức tước và hanh thông trong sự nghiệp, chứ chẳng phải để thờ phượng và hiến dâng. Ngay cả những người trụ trì trong chùa chưa chắc là người tu hành thật, mà có thể đang đóng một vai diễn nào đó để phục vụ cho một thế lực đang chống lưng họ. Có thể nói rằng cái nền tảng tôn giáo ở Việt Nam đã bị xói mòn từ hơn 40 năm qua.
7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc: Đối với Gandhi, những người ham quyền lực thường hành động bất chấp nguyên lí và chân lí. Những người cố vị (nhất định bám ghế) bằng mọi giá và mọi cách là những chính trị gia không có đạo đức. Những nguyên tắc trong chính trị mà Gandhi nghĩ đến bao gồm giúp người dân đi đến những lựa chọn sáng suốt, đối xử với dân một cách công bằng, giữ lời hứa và tuân thủ những gì đã đồng ý, không được nói dối và xuyên tạc, và tôn trọng nhân quyền. Ở Việt Nam, những người như thế này thật là … xưa nay hiếm.
Đối chiếu lại thực tế những gì đang xảy ra, có thể nói là Việt Nam đang – không nhiều thì ít – phạm phải tất cả 7 tội lỗi này. Một thiết chế xã hội tạo ra những con người làm giàu không nhờ lao động và bất chấp đạo đức, những người thích hưởng thụ trên sự đau khổ của đồng bào, những người bằng cấp đầy mình nhưng thiếu nhân cách, những người buôn bán và hối lộ thần thánh, những người cầm quyền mà chẳng quan tâm đến sự thật và lợi ích của xã hội và dân tộc.
Nguyễn Tuấn.
Nguồn: Đa Minh Việt Nam
Mahatma Gandhi là một chính khách vĩ đại, một nhà hiền triết của Ấn Độ, người được Liên hiệp quốc vinh danh thật sự (chứ không như ai đó tự vơ vào mình). Chẳng hiểu sao mỗi khi nghĩ về hiện tình của đất nước làm tôi nhớ đến Gandhi, người đã từng cảnh báo thế giới về cái mà ông gọi là Bảy tội lỗi xã hội (Seven Social Sins) mà ông viết ra từ năm 1925, đúng 90 năm trước:
1. Làm giàu mà không nhờ lao động (Wealth without work)
2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm (Please without conscience)
3. Có kiến thức mà không có nhân cách (Knowledge without character)
4. Làm thương mại mà không có đạo đức (Business without morality/ethics)
5. Khoa học mà không có nhân văn (Science without humanity)
6. Có tôn giáo mà không thờ phượng (Religion without sacrifice)
7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc (Politics without principles)
Chúng ta thử xem xét nhanh những tội lỗi này xem sao:
1. Làm giàu không nhờ lao động: Hiện nay, có một nhóm người làm giàu rất nhanh, không phải nhờ kinh doanh giỏi hay làm việc tốt, mà qua quan hệ và hậu duệ. Họ chỉ cần dùng mánh khoé để lôi kéo, “qui hoạch” nhân sự và thế là tạo ra tài sản. Một số thì làm giàu nhờ quan hệ nên tiếp cận được và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một số khác thì làm ra tiền nhờ vào lợi dụng thông tin trong để thao túng thị trường chứng khoán. Một số khác thì làm giàu nhờ tham nhũng, chẳng cần tốn công lao động gì cả.
2. Hưởng lạc thú mà không có lương tâm: Đây là những người ích kỉ, lúc nào cũng muốn hưởng lợi cho cá nhân mà không quan tâm đến phúc lợi của người khác. Đối với họ, câu hỏi đầu tiên là “Tôi làm cái này sẽ có lợi gì cho tôi, việc này có giúp tôi thăng tiến trong sự nghiệp, có làm cho tôi giàu thêm”, và quyết định hành động của họ cũng dựa trên câu hỏi đó. Họ không quan tâm đến người khác, không cần biết đến văn hoá “to give and to take”, không cần có trách nhiệm xã hội và chẳng biết đến hiến dâng là gì. Những người này rất nhiều ở Việt Nam.
3. Có kiến thức mà không có nhân cách: Có ít kiến thức đã là một thiệt thòi, có khi là nguy hiểm, nhưng có nhiều kiến thức mà thiếu nhân cách thì còn nguy hiểm hơn. Chỉ học cho nhiều để có kiến thức mà không cần quan tâm đến cái nội tâm, thì chẳng khác gì đưa một chiếc xe hơi thể thao cho một thiếu niên. Điều này cũng xảy ra trong thế giới khoa bảng, nơi mà người ta thường quan tâm đến sản sinh ra tri thức mới nhưng ít khi nào để ý đến khía cạnh nhân văn của tri thức. Ở Việt Nam, có nhiều người đi học để tiếp thu kiến thức không phải vì dấn thân xã hội, mà vì muốn ăn trên ngồi trốc. Họ hám danh chứ không phải ham học.
4. Làm thương mại mà không có đạo đức: Ngay cả những nhà kinh tế học cổ điển cũng xem đạo đức là nền tảng của thành công trong kinh tế. Cách mà chúng ta đối xử với người khác trong tinh thần bác ái, phục vụ và cống hiến là nền tảng của kinh tế – xã hội. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, các nhà quan sát cho rằng Việt Nam đang ở trong thời kì “chủ nghĩa tư bản man rợ, rừng rú”, chứ không phải “chủ nghĩa tư bản văn minh.” Những người nhận định như thế dựa trên quan sát rằng có những nhóm lợi ích tỏ ra tham lam vô độ, luôn luôn muốn thao túng kinh tế. Có người cho rằng các nhóm lợi ích, nhóm làm giàu bất chính đang tàn phá đất nước.
5. Khoa học mà không có nhân văn: Kinh doanh mà không dựa trên nền tảng đạo đức xã hội và không xem trọng trách nhiệm xã hội là loại kinh doanh nguy hiểm. Tương tự, trong khoa học, tiêu chuẩn đạo đức và trách nhiệm cũng là một tiêu chí quan trọng. Một công trình nghiên cứu cho dù mang tính khả thi cao và có ý tưởng tốt, nhưng làm phương hại đến cộng đồng và xã hội vẫn không được đánh giá là đạt chuẩn mực. Chính vì bản chất đạo đức của khoa học, nhà khoa học còn phải có trách nhiệm với xã hội, vì nhà khoa học cũng chỉ là một thành viên trong xã hội, không thể nào đứng ngoài hay đứng cao hơn xã hội. Công trình tạo ra chủng virút mới của Tàu có thể đó là một thành tựu về kĩ thuật, nhưng không đạt tiêu chuẩn về đạo đức và trách nhiệm xã hội vì thành tựu đó chẳng đem lại phúc lợi gì cho xã hội hay giúp giảm sự đe dọa của một đại dịch. Ở Việt Nam, khoa học chưa phát triển, nhưng đây đó có nhiều người dùng khoa học để làm những chuyện thiếu đạo đức.
6. Có tôn giáo mà không thờ phượng: Nhìn từ ngoài và từ xa, Việt Nam là một nước ngoan đạo, với số lượng chùa chiền và nhà thờ khá nhiều. Người ta đi lễ hội và đi chùa cũng rất nhiều. Nhưng nếu nhìn kĩ thì việc viếng chùa của họ không phải là vì thờ phượng, mà chủ yếu là mê tín, và hối lộ thần thánh. Có thể nói rất nhiều người đến chùa để cầu thần thánh ban cho chức tước và hanh thông trong sự nghiệp, chứ chẳng phải để thờ phượng và hiến dâng. Ngay cả những người trụ trì trong chùa chưa chắc là người tu hành thật, mà có thể đang đóng một vai diễn nào đó để phục vụ cho một thế lực đang chống lưng họ. Có thể nói rằng cái nền tảng tôn giáo ở Việt Nam đã bị xói mòn từ hơn 40 năm qua.
7. Làm chính trị mà không có nguyên tắc: Đối với Gandhi, những người ham quyền lực thường hành động bất chấp nguyên lí và chân lí. Những người cố vị (nhất định bám ghế) bằng mọi giá và mọi cách là những chính trị gia không có đạo đức. Những nguyên tắc trong chính trị mà Gandhi nghĩ đến bao gồm giúp người dân đi đến những lựa chọn sáng suốt, đối xử với dân một cách công bằng, giữ lời hứa và tuân thủ những gì đã đồng ý, không được nói dối và xuyên tạc, và tôn trọng nhân quyền. Ở Việt Nam, những người như thế này thật là … xưa nay hiếm.
Đối chiếu lại thực tế những gì đang xảy ra, có thể nói là Việt Nam đang – không nhiều thì ít – phạm phải tất cả 7 tội lỗi này. Một thiết chế xã hội tạo ra những con người làm giàu không nhờ lao động và bất chấp đạo đức, những người thích hưởng thụ trên sự đau khổ của đồng bào, những người bằng cấp đầy mình nhưng thiếu nhân cách, những người buôn bán và hối lộ thần thánh, những người cầm quyền mà chẳng quan tâm đến sự thật và lợi ích của xã hội và dân tộc.
Nguyễn Tuấn.
Nguồn: Đa Minh Việt Nam
GIÁM MỤC ĂN XIN
Trần Mỹ Duyệt
LTS. Bài viết khá hay này của Trần Mỹ Duyệt đã được đăng trong Sứ Mệnh Giáo Dân số 53. Tuy nhiên vào dịp có nhiều tác giả đề cập về đề tài “Giám mục ăn xin,” chúng tôi xin được phổ biến trên TNGD để rộng đường dư luận.
Tôi muốn lấy đầu đề cho bài viết này bằng cụm từ "Giám Mục Ăn Xin". Tôi dùng từ "ăn xin", vì đây chính là lời mà Giám Mục Nguyễn Chí Linh đã công khai dùng để nói về mục đích xuất ngoại của mình, đồng thời so sánh việc làm này với các giám mục khác.
Hôm đó là chiều Thứ Bẩy 21 tháng 4 năm 2007. Trong thánh lễ lúc 8 giờ tối thay Chúa Nhật, tại cộng đoàn Thánh Linh (Holy Spirit) thuộc Giáo Phận Orange County, Giám Mục Nguyễn Chí Linh, Giám Mục Thanh Hóa, kiêm Giám Quản Tông Tòa Phát Diệm, đã chủ tế thánh lễ và giảng thuyết. Tôi đã chăm chú nghe rất kỹ bài giảng của vị giám mục này, không phải vì lòng yêu mến, sốt sắng, cho bằng nghe coi những lời chia sẻ ấy mang ý nghĩa gì.
Bỏ qua những thành kiến và những ảnh hưởng của các quan niệm khác nhau, tôi nhận ra điều này, đó là giám mục Linh ít ra cũng dám nói đụng chạm đến Cộng Sản và chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam. Ngài đã nhắc đi nhắc lại là sau mấy chục năm thống nhất, vậy mà tại giáo phận miền Bắc của ngài rất nhiều em chịp phép thêm sức đã không có lấy một đôi dép để đi. Ngài cũng đã so sánh sự tụt hậu và yếu kém của nền kỹ nghệ, nông nghiệp của Việt Nam khi so sánh với các quốc gia tiên tiến. Nơi các quốc gia tiên tiến việc cấy, gặt, canh tác được dùng bằng sức máy móc, nhưng ở Việt Nam thì vẫn là sức người. Lao động cực nhọc và vất vả. Ngài cũng đã làm cho người nghe thấy mủi lòng khi đề cập đến tình trạng đói khổ đã làm cho một số không ít người phải rời bỏ quê hương ra Hà Nội, vào Sàigon kiếm sống, rồi ở đó đã bị dẫn dắt và lường gạt đi vào con đường sa đọa. Nhất là ngài không ngần ngại nói rõ mục đích xuất ngoại của mình là để "ăn xin" cho giáo phận, nhân danh những người nghèo khổ. Theo ngài, để làm được việc ấy, ngài cũng đã suy nghĩ và phải đi ra khỏi cái sợ sệt, nhút nhát của chính bản thân mình. Và cũng theo ngài, quyết định ăn xin lần này đã có sự suy nghĩ cẩn thận, nhất là sau khi thấy nhiều vị này, vị khác ăn xin đã khấm khá, và ăn nên, làm ra.
GIÁM MỤC ĂN XIN
Những người nghèo khó ăn xin. Những người dân thường ăn xin là chuyện thường tình. Nhưng chuyện khó tin mà có thật là chuyện nhiều vị giám mục đi ăn xin, và hiện tượng này chỉ xẩy ra cho Giáo Hội Việt Nam ở vào thời điểm và thời đại tối tân hiện nay. Đặc biệt hiện tượng này đang nở rộ vào thời gian gần đây, nhất là vào tháng Tư năm 2007. Với nhiều hình thức và danh nghĩa khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng là kiếm tìm sự giúp đỡ tài chánh từ phía những giáo dân Việt Nam ở hải ngoại, cách riêng tại Hoa Kỳ.
Tuy mang danh nghĩa ăn xin, nhưng đây là thành phần những người ăn xin hạng sang, có bằng cấp, và địa vị. Ăn xin không phải đứng ở đầu đường, xó chợ, hoặc những nơi đông người qua lại. Ăn xin không phải cằm giỏ, mũ, nón hay bát. Ăn xin mà có những người khác theo hầu. Chủ sự các buổi phụng vụ, và là khách mời danh dự của các bữa tiệc linh đình, sang trọng. Những hình thức ăn xin này nằm dưới danh nghĩa:
- Thăm viếng thân nhân.
- Thăm viếng đồng hương.
- Chủ tế hay thuyết giảng các đại lễ.
- Làm phép hay thánh hiến nguyện đường, trung tâm.
- Thuyết trình trong các hội nghị.
Và thành phần ăn xin trên gồm hồng y, tổng giám mục, và giám mục.
TÂM LÝ ĂN XIN
Ăn xin vui hay buồn? Ăn xin khổ hay sướng? Đối với phần đông, thì ăn xin chẳng sung sướng và hãnh diện gì. Nhưng cũng không hẳn là thế, và còn tùy vào những hình thức và kiểu cách của người ăn xin.
Gần đây chính quyền Trung Quốc đã ra tay dẹp bỏ tệ nạn ăn xin tại những trung tâm du lịch của họ. Lý do vì người ăn xin thật sự thì ít, mà kẻ lợi dụng thời cơ làm nghề ăn xin thì nhiều. Họ là những tay ăn xin chuyên nghiệp, và ăn xin có bài bản. Chính vì thế, du khách dễ bị trấn lột, và tạo nên một hình ảnh xấu về Trung Quốc vỹ đại dưới con mắt những du khách đang muốn tìm hiểu về quốc gia rộng lớn này.
Cũng mới đây khi đề cập đến chuyện ăn xin, và những kiểu cách ăn xin của Mỹ, cô em gái tôi mới qua chơi cũng đã chia sẻ với tôi, đại khái cô nói rằng ăn xin thì ở đâu mà chả có, ở Việt Nam nghệ thuật ăn xin còn ngầu hơn cả Mỹ nữa là khác. Và cô đã kể cho tôi nghe một câu truyện mà cô là người chứng kiến. Cô nói:
Em nhớ một hôm em đang ở nhà ông nội của các con em, thì có một bà đến nhà xin ăn, bà khóc lóc và kể lể rất thảm thiết rằng chồng bà vừa bị xe đụng gẫy chân nằm trên giường không di chuyển được, đau đớn và khổ sở lắm. Gia đình bà lại đông con, nên bà chỉ xin giúp đỡ chút ít để có tiền chạy chữa cho chồng.
Nhưng khi vừa về đến nhà mình, thì đã thấy bà ấy đang kể lể với mẹ rằng chồng bà bị ung thư phổi ở thời kỳ nguy kịch và có thể chết bất cứ lúc nào. Bà xin giúp đỡ tiền thuốc cho chồng, hoặc ít ra là có chút ít lo việc ma chay nếu như Chúa cất chồng bà về nay mai.
Thấy bà xạo quá, em tức mình nói: "Tôi vừa gặp bà ở nhà bố chồng tôi ít phút trước đây. Ở đó bà đã kể lể rằng chồng bà bị xe đụng gẫy giò, bây giờ bà lại chù ẻo chồng bà về bệnh ung thư tức là làm sao. Bà về đi, lo làm ăn lương thiện may ra Chúa cứu chồng bà và cho ông ấy chóng khỏi chân và lành bệnh ung thư."
Đối với những người ăn xin chuyên nghiệp hoặc như người đàn bà trên đây thì ăn xin rất có lợi và đôi khi vui nữa, vì vừa nhàn không phải làm gì vừa có tiền, lại vừa có được cái cảm giác lừa được người khác. Nhưng ăn xin thật thì không những không vui, mà còn rất tủi hổ.
Một cuộc khảo cứu về tâm lý ăn xin đã được trình chiếu trên hệ thống truyền hình Mỹ gần đây. Người được chọn làm mẫu sau khi đã được hóa trang và trở thành một người ăn xin, đã được đưa đến một địa điểm có đông người qua lại. Toàn cuộc khảo cứu đã được thâu hình. Và sau một ngày ăn xin, người ấy đã tắm rửa sạch sẽ, áo quần đàng hoàng xuất hiện để trả lời cuộc phỏng vấn. Cuốn băng ghi lại buổi ăn xin này được chiếu lại cho thấy trong đó có kẻ cho, người từ chối. Kẻ thông cảm, người khó chịu, nhưng phần đông là không cho và có thái độ dửng dưng. Khảo cứu này đưa đến kết luận ăn xin thật sự không mấy hứng thú và đôi khi gặp nhiều rủi ro bởi những thành phần côn đồ, và những người ác ý.
ĂN XIN KIỂU GIÁM MỤC
Là hồng y, tổng giám mục, và giám mục, cung cách ăn xin cũng khác người. Thí dụ:
- Không phải hóa trang thành bẩn thỉu, lem luốc mà vẻ mặt sáng ngời, uy nghi, đạo mạo.
- Không phải mặc áo quần rách rưới, đầu tóc lôi thôi mà là ăn mặc sang trọng, gọn gàng, sạch sẽ.
- Không đứng đầu đường, xó chợ mà là đứng trên bục cao, chủ sự những nghi lễ trang trọng, hoặc những thành phần thích giả chọn lọc.
- Không thu bạc cắc, bạc lẻ, nhưng là thu tiền trăm, tiền ngàn, hoặc hàng chục ngàn.
- Không bị chê bai, xỉ nhục, nhưng phần lớn được ca tụng và hoan hô.
Hơn thế, còn được nhiều người tỏ ra xót xa khi thấy các ngài không quản ngại đường xá xa xôi và bỏ ra thời giờ vàng ngọc để đến với mình, để yên ủi và nâng đỡ mình.
Nhưng như vừa trình bày trên, không phải hễ ăn xin kiểu giám mục là không gặp rủi ro. Và hễ ăn xin như một vị giám mục là không bị nghi vấn về chủ đích và sự sòng phẳng của cái mà mình đã xin được. Sau đây chỉ là một vài ví dụ:
Giáo dân Maria Goretti "tiếp xúc" với GM Nguyễn Chí Linh
Chúa Nhật 29-4-07, sau khi dâng thánh lễ tại nhà thờ Maria Goretti, San Jose. GM Nguyễn Chí Linh đã ra cuối nhà thờ để tiếp xúc với giáo dân và nhận tiện do giáo dân trao cho, sau khi đã vận động xin giáo dân giúp đỡ tài chánh để xây dựng những cơ sở sinh hoạt cho giáo phận Thanh Hoá.
Khi Ngài vừa ra và đang nhận món tiền đầu tiên (đang cầm tay) thì có 2 nữ giáo dân cầm 2 lá cờ vàng 3 sọc đỏ của VNCH đến "Xin Đức Cha chụp với chúng con một tấm hìn kỷ niệm ngày Quốc Hận 30-4-75, vì ngày đó chúng con bỏ nước ra đi."
Đang vui vẻ bỗng mặt ĐC đanh lại khi thấy là cờ vàng 3 sọc đỏ và tỏ ra rất miễn cưỡng. Một giáo dân thấy vậy nói "Cất cờ đi" thì lập tức có người rất nhiều tiếng phản đối, trong đó có người đang cầm giỏ xin tiền cũng nói "Người ta chỉ xin chụp hình thôi mà."
Một trong 2 giáo nữ giáo dân liền lên tiếng với người đòi cất cờ: "Anh ở phía nào mà anh không biết lá cờ này? Đây là lá cờ chúng ta sống chết để bảo vệ nó."
Ông này (vẻ mặt hung ác đứng bên người đàn bà mang kính trắng) định chụp lá cờ để bẻ, lập tức nữ giáo dân la lên:
- Mày đụng đến lá cờ này, mày biết tay bà, tao sống chết với lá cờ này.
Thấy nguy hiểm ông ta bèn rút lui. Ông khác (bận áo len) đòi gọi police, cũng bị mấy người phản đối, tạo nên cảnh hỗn loạn.
Trong khi đó thì nữ giáo dân kia trình Đức Cha: "Có phải Nguyễn Tấn Dũng sai Đức Cha qua đấy phải không? Đức Cha có biết ngày này là ngày Quốc Hận không? Đức Cha qua đây mở tiệc ăn mừng rồi còn nói xấu các cha tuyên uý của chúng con..."
Thấy không thể nán lại được, mấy linh mục đi theo hộ tống Đức Cha vào trong nhà thờ và đóng cửa lại. Cuộc xin tiền [vắt bò sữa] thất bại gần như hoàn toàn vì chỉ có một người [con bò] cho [sữa] thôi.
Giám Mục Nguyễn Chí Linh đã đi vào nhà thờ, nhưng giáo dân hãy con tụ họp bàn tán. Có nhiều người rất ngạc nhiên không biết những chuyện xẩy ra tại Việt-Nam và lý do các Giám Mục phải sang Hoa Kỳ trong thời điểm này, do đó đã có một số người giải thích. Họ giải thích:"Đức Mẹ của tôi bị đánh tan nát mà các giám mục không ai lên tiếng ủi an. Cực lòng tôi lắm, các Đức Cha qua đây để xin tiền nhưng các ĐC đã không đếm xỉa gì đến nỗi lòng của giáo dân tha phương khi thấy thái độ của các Đức Cha đã im lặng mặc cho Cộng Sản làm gì thì làm."
Thấy vị giáo dân này nói một lúc càng hăng say hùng hồn, những kẻ nịnh hót Giám Mục từ từ rút lui. (Trích: website Tiếng Dân)
Và sau đây là một phần phần trích thuật bài viết: "Lấy Thúng úp Voi' của Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất được phổ biến trênwww.tiengnoigiaodan.net
HY Phạm Minh Mẫn gọi người tỵ nạn là dân tha phương cầu thực. Hiện nay đang lúc các cộng đồng tỵ nạn đau buồn tưởng niệm Quốc Hận 30-4, thì một số các giám mục xênh xang ra nước ngoài. Đón rước um xùm. Tiệc tùng linh đình. Quyên góp ì xèo. Tất cả những chuyện đó gom lại đốt lên một ngọn lửa căm phẫn ngút trời. Không phải chỉ riêng người công giáo căm phẫn, mà có thể nói là toàn thể khối người Việt Nam tỵ nạn CS trên thế giới đều căm phẫn.
Trừ một số rất ít oi con cái bọn CS đi làm ăn ở ngước ngoài, còn đại đa số người Việt Nam sinh sống tại ngoại quốc đều là người tỵ nạn CS. Các ngài không cảm được nỗi đau của những kẻ đánh mất quê hương. Các ngài gọi con chiên là bọn tha phương cầu thực, các ngài có biết con chiên đau đớn và tủi nhục đến cỡ nào không? ......
Con chiên bỏ nhà bỏ cửa trốn ra đi. Người chết ngoài biển. Kẻ gởi thây trên rừng. Các ngài dửng dưng và thản nhiên đứng nhìn không một lời an ủi. Bây giờ những người này tạm có được cuộc sống yên bình dễ thở thì các ngài đổ xô lớp này rồi lớp khác đến xin tiền. Các ngài nghĩ thế nào?
Có những con chiên đã tự ví mình như bò sữa để các ngài đến vắt. Nghe mà đau nhói trong tim. Các ngài đi xin tiền thì cứ nói là xin tiền. Nói đi làm mục vụ để làm gì?
Địa phương nào đã có giáo hội địa phương đó lo vấn đề mục vụ rồi. Nếu thiếu mục vụ thì chắc chắn ở trong nước thiếu chứ ngoài này không thiếu. Xin các ngài yên tâm, đừng lo giáo dân VN ở nước ngoài thiếu người lo mục vụ để tránh trường hợp các đấng bản quyền địa phương buộc lòng phải có hành vi dằn mặt các ngài như mới xẩy ra ở dưới vùng nam California.
Các ngài xin tiền về lo công việc GH là chuyện chính đáng và cần thiết. Nhưng vấn đề là cách xin và cách xài đồng tiền mà các ngài quyên góp được có hợp lý không.
Hình ảnh một đức cha ăn mặc phẩm phục giám mục đứng cuối nhà thờ ngửa tay trước mặt con chiên ông đi qua, bà đi lại xem chừng không đẹp mắt tí nào. Can đảm thiệt. Không sợ người Mỹ cười! Con chiên thấy cảnh này cũng phải cúi gầm mặt mà đi.
- Về Cách Xài Tiền:
Những cách thức xin tiền của các đức cha VN khi sang Mỹ đại loại như trên thì ôi thôi nhiều vô số kể. Kể hoài cũng không hết. Còn cách xài tiền của các ngài thì cũng không phải là ít.
Đức HY Phạm Minh Mẫn sang Mỹ xin tiền lập được một bệnh viện. Nghe đâu cái bệnh viện nay đã được CS quản lý dùm để lo chữa bệnh cho các đồng chí đảng viên. Đổi lại, nhà nước tặng cho Đức HY một cái bằng khen để treo trong nhà cho đẹp mắt. Không biết chuyện này có thực không? Con người mới là vốn quí. Một cái bệnh viện thôi nhằm nhò gì. Nhiều gia đình có con em đổi cả sinh mạng lấy cái bằng liệt sĩ kia mà. Bằng khen cũng đáng lắm chứ?! Đặt tên cho kiểu xài tiền này là kiểu "cốc mò cò xơi". Nên chăng? Đã có bài hát vì tôi là linh mục. Biết đâu rồi sẽ chẳng có nhạc sĩ nào đó cảm tác thành bài vì tôi là hồng y?
Việc làm của đức Hồng Y là việc đáng ca ngợi, nhưng nó cũng nói lên sự ngây thơ của những người tin vào sự thành tâm của CS. Chuyện này cho thấy rõ cái lòng tham vô đáy của CS. Nói chung các vị đi ngoại quốc xin tiền về đều bị CS lột. Không nhiều thì ít. Không cách này thì cách khác. Trường hợp đức Hồng Y gọi là cướp trắng. Nạn cướp trắng hay lột sạch có khi xẩy ra ngay tại phi trường khi các ngài đem tiền về. CS gài bẫy mà toàn bẫy độc. Nạn nhân sau khi bị cướp còn cho là mình may mắn. Đem được tiền về đến nhà phải chia tứ lục với CS là chuyện đương nhiên. Những vị đi xin tiền ai cũng biết thế, nhưng tiền chùa mà. Quí vị đâu có "ke". Dù sao cũng thắng hoặc cùng lắm là huề thôi.
Chuyện đi ngoại quốc xin tiền thì phải nói Đ/C Nguyễn Văn Sang là người nổi tiếng vô địch. Ngài đi khắp năm châu bốn bể. Đi luôn cả dịp lễ Phục Sinh. Đi một vài tháng liền là chuyện thường. Cách xài tiền quyên cúng của ngài cũng lừng danh thế giới CS và cả thế giới tự do nữa. Ngài sắm xế xịn chỉ thua Võ Văn Kiệt. Tòa giám mục Thái Bình được một linh mục nhạc sĩ nổi tiếng sang Mỹ khen là cực kỳ xa hoa. Ngài còn xây nhà thờ chính tòa mới sau khi đập bỏ ngôi thánh đường cũ khá đồ sộ và kiên cố.
Cách ăn xài như thế cho thấy Đ/C Sang là một điển hình của hai khuynh hướng xài tiền kiếm được. Một là làm một cái gì đó để tiếng lại cho người đời sau, và hai là tìm thỏa mãn những đòi hỏi thụ hưởng các tiện nghi hiện đại.
Báo chí đã nói rất nhiều về nạn các linh mục đập bỏ nhà thờ cũ mặc dầu hãy còn xử dụng tốt rồi đi Mỹ xin tiền xây nhà thờ mới. Hiện nay lại mới xuất hiện khuynh hướng các đấng bậc ở bên Mỹ gom bi đem về xứ sở hay làng quê của mình để xây công trình kỷ niệm. Tất cả đều nằm trong mơ ước được để tiếng lại cho đời của các ngài. Đi liền với khuynh hướng để tiếng lại là sự đam mê hưởng thụ vật chất. Bà con về VN kể lại các linh mục xài xe hơi, xe gắn máy đắt tiền hiện nay không phải ít. Còn chuyện sắm giàn nhạc, gắn máy lạnh nhà xứ, xài phone tay v.v. đều là chuyện quá thường.
Tội cho một số các linh mục truyền giáo tại các vùng sâu nghèo nàn. Những vị này thường không có người quen ở ngoại quốc. Có vị chạy vạy dựng lên được một cái "chòi thờ" kín đáo tránh được mưa gió là mừng lắm rồi. Hiện nay mạnh giám mục, giám mục kiếm chác. Mạnh cha xứ, cha xứ xoay xở.
Tình trạng thật là hỗn loạn. Không thấy có vị giám mục nào đề ra sáng kiến. Chẳng hạn như nếu trong một giáo phận, GM gom tất cả mọi thứ tiền quyên góp được về một mối. Rồi ngài phân phối tùy theo tình hình và nhu cầu của từng giáo xứ. Ưu tiên cho các giáo xứ truyền giáo vùng sâu nghèo khó. Cấm chỉ đập bỏ những thánh đường còn xử dụng tốt. Đẹp hơn nữa là có thể giúp đỡ cho những đền chùa miếu mạo chẳng trông nhờ vào đâu được. Được như vậy chắc chắn vừa phát huy tinh thần liên đới trách nhiệm, vừa thắt chặt tình huynh đệ giữa các linh mục trong cùng một giáo phận, tránh được nạn đèn nhà ai nấy rạng lâu nay, lại đỡ được những phí phạm vô bổ. Hơn nữa đến với những đồng bào khác tôn giáo theo cung cách đó, ít nữa người lương cũng nhìn Chúa một cách có thiện cảm hơn.
MỘT VÀI GỢI Ý
Không người con nào cảm thấy hãnh diện và sung sướng khi thấy bố mẹ mình đi ăn xin. Không một Kitô hữu nào thấy hãnh diện và sung sướng khi thấy các chủ chăn mình phải đi ăn xin. Vì không cầm lòng được trước sự ăn xin của các vị chủ chăn mình, và với vai trò một tín hữu xin được đóng góp một vài gợi ý xây dựng:
1. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:
Thiết tưởng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cần nghiêm chỉnh ngồi lại với nhau và cứu xét vấn đề này. Cần phải có một ủy ban nghiên cứu các dự án, và ưu tiên cho những giáo phận cần được nâng đỡ trước. Các vị giám mục cũng nên đưa ra những phương cách thực hiện những dự án ấy như thế nào cho vừa đẹp đẽ, vừa tránh tạo nên những phản ứng bất lợi, cũng như tạo cơ hội cho những chê bai, đàm tiếu.
a) Xây chủng viện, thánh đường, hay sửa sang tòa giám mục: Xin tiền về xây chủng viện, xây tòa giám mục, xây nhà thờ chính toà, hay bất cứ một dự án nào cũng có thể là tốt. Nhưng những việc làm ấy lúc này có phải là một hình thức phô trương, và chối bỏ sự thật không?
Sự thật là tại Việt Nam không có tự do tôn giáo. Sự thật là những hoạt động tôn giáo đều bị kiểm soát. Như vậy, với cái dáng vẻ bề ngoài kia, những chủng viện, những thánh đường nguy nga, những cơ sở tôn giáo được tu sửa và xây cất sẽ hàm ý nói rằng những gì mà các giám mục, những gì mà người khác nói về sự bắt bớ, kiềm chế, và mất tự do tôn giáo tại Việt Nam là không đúng, là sai với sự thật.
Có những nhận xét cho rằng ơn gọi tại Việt Nam lúc này đang nở rộ. Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong dịp viếng thăm Nhật đã hứa sẽ gửi các linh mục Việt Nam qua phục vụ tại các giáo phận Nhật. Dư thừa ơn gọi, và ơn gọi ngày càng đông tại Việt Nam. Nhưng đó có phải là dấu hiệu đáng mừng để mở thêm các chủng viện không?
Có lẽ trong cái hồ hởi về ơn gọi ấy, chúng ta cũng cần phải để ý đến một yếu tố tâm lý và xã hội. Tại một nơi mà cuộc sống quá nghèo khổ, sự khác biệt quá rõ ràng giữa những giáo dân và hàng linh mục, thì việc mơ màng và ao ước được trở thành linh mục chưa hẳn là tiếng Chúa gọi. Khi Chúa Giêsu gọi các tông đồ, các ông đã có cái để từ bỏ: bỏ vợ con, bỏ nhà cửa, và bỏ sở hữu của mình. Nhưng hầu hết các chủng sinh hiện nay tại Việt Nam có gì để bỏ?! Không phải bỏ, mà còn có lợi tại sao không thèm khát!! Nhất nữa, việc làm này lại được lồng vào cái nhãn hiệu tôn giáo đầy cao cả: Dấn thân phục vụ Chúa và các linh hồn.
Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, có thể nói khi một bạn trẻ được chấp nhận vào chủng viện là được chấp nhận đi vào một nếp sống hoàn toàn đổi mới. Chủng viện cao sang, rộng rãi, tiện nghi. Ăn uống đầy đủ. Được học hành. Và nhất là được bảo đảm cho mình một chỗ đứng mới trong xã hội và giáo hội sau này. Trong nhiều trường hợp, sự đổi mới ấy đem lại một ảnh hưởng tâm lý rất mãnh liệt mà theo từ ngữ chuyên môn có thể coi như một post traumatic syndrome. Do ảnh hưởng tâm lý này, người chủng sinh nào đó sẽ cố tạo cho mình một nhân dáng mới, một cung cách mới, và một tâm lý sống mới cho phù hợp với hoàn cảnh và nếp sống mới. Cứ như thế, chủng sinh này quên bẵng cái quá khứ rách nát và nghèo khổ của mình. Hoặc cố tình quên mất nó. Cho đến khi ra làm linh mục thì lối sống ấy, tư tưởng ấy sẽ dẫn người linh mục đến một nơi mà thay vì phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, phục vụ các linh hồn lại chỉ để làm bảo vệ được cái địa vị mà mình đã vất vả để có được.
Và như thế, một chủng viện được xây cất nguy nga, đồ sộ và tiện nghi trong một hoàn cảnh và môi trường xã hội không phù hợp đã đóng góp phần lớn cho những thay đổi nếp sống và tâm lý sống của người linh mục sau này.
b) Xây dựng trường sở, xây dựng bệnh xá, và xây dựng các trung tâm huấn nghệ: Khi được hỏi nếu cần phải xây một thánh đường hay một trường học trước, nếu tôi nhớ không nhầm thì Thánh Giáo Hoàng Piô X trả lời là ngài sẽ xây trường học trước. Bởi vì ở trường học các học sinh được học biết và chỉ cho biết Chúa Giêsu có trong Nhà Tạm, nhờ đó Chúa mới được nhận biết và tôn thờ trong thánh đường.
Xây trường học, xây bệnh viện hay bệnh xá, hoặc một trung tâm huấn nghiệp là những gì mà môi trường xã hội Việt Nam đang rất cần thiết. Và ở những nơi này mọi người có dịp tiếp nhận và gặp gỡ Chúa, cũng như Chúa gặp gỡ con người nhiều hơn ở tòa giám mục hay ở thánh đường.
Biết bao người lương, giáo đang thiếu thốn giáo dục, thiếu thốn sự chăm sóc sức khỏe, và thiếu thốn một lời, một nơi an ủi, hướng dẫn để trở thành người tốt hơn, thay vì chỉ đứng ngoài nhìn tòa giám mục, hoặc nhìn bức tường và tháp chuông nhà thờ!
Tóm lại, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nên có những dự án thiết thực và cần thiết theo nhu cầu ưu tiên của mỗi giáo phận dựa vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước. Những dự án này sẽ được nghiên cứu để làm cách nào có được ngân khoản tài trợ từ các tổ chức và tư nhân hảo tâm của người Việt Nam Hải Ngoại không phân biệt tôn giáo mà không mang tiếng phải xuất ngoại ăn xin, một mặt lại tuyên truyền cho chế độ.
2. Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ:
Liên Đoàn này đã được thành lập và cũng đã có nhiều dự án được thực hiện. Nhưng nếu Liên Đoàn thành lập thêm một ủy ban lấy tên là Ủy Ban Tài Trợ Giáo Hội Mẹ Việt Nam để duyệt xét, và hoặch định kế hoặch tìm nguồn tài trợ cho những dự án mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cậy nhờ thì đó là một hành động và việc làm rất thực tế và đáng khâm phục.
Người Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ rất hãnh diện đã có một Giám Mục người Mỹ gốc Việt, Đức Giám Mục Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange. Với vai trò ấy, và với tiếng nói của ngài trong Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, hay các giám mục địa phương nơi có đông người Công Giáo Việt Nam ở thì những lần quyên góp như vậy chắc không phải là việc khó khăn.
Từ đó, khi một hoặc hai giám mục Việt Nam qua với chương trình, thời khóa biểu, và dự án rõ ràng sẽ không phải đối diện với cái cảnh "dàn chào", hoặc "biểu tình" như đã xẩy ra trước đây. Bởi vì người Công Giáo Việt Nam, nhất là tại Hoa Kỳ đã biết rõ mục đích xuất ngoại của các ngài, và thời khóa biểu. Không phải là thăm viếng mục vụ, hoặc thăm đồng hương, mà rõ ràng là gây quỹ cho một dự án nào đó của Giáo Hội Việt Nam.
Hành động như vậy sẽ tạo nên mối liên lạc mật thiết giữa Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Sẽ không có cảnh mạnh được yếu thua. Giám mục nào có nhiều bà con, thân nhân, hoặc giáo phận nào có nhiều giáo dân gốc thì cứ việc qua "hốt hụi", trong khi đó một giáo mục nào đó không có thân nhân, bà con, và giáo dân của giáo phận gốc ấy lại không nhiều thì đành ngậm đắng nuốt cay.
LỜI NGUYỆN KẾT
"Phúc cho ai có tinh thần nghèo" (Mt 5:3). Nếu một hồng y, tổng giám mục, hay giám mục mà nghèo đến độ phải đi ăn xin thì cũng là điều đáng mừng vì Chúa đã phán như vậy. Nhưng tinh thần nghèo ở đây không chỉ là cái nghèo vật chất, mà còn là một tâm hồn trong sạch, khiêm nhường, đơn sơ và tín thác. Nhất là tín thác và tin tưởng vào Đấng đã gọi mình sống nghèo và rao giảng tinh thần nghèo.
Xin Thần Linh Chúa hướng dẫn và thổi một làn gió mới là tinh thần nghèo Phúc Âm trên Giáo Hội Việt Nam, trên những chủ chăn của chúng con để đừng vì những vật chất bên ngoài mà nhiều người thiện tâm không nhận ra Chúa, và không đến được với Chúa.
Trần Mỹ Duyệt
LTS. Bài viết khá hay này của Trần Mỹ Duyệt đã được đăng trong Sứ Mệnh Giáo Dân số 53. Tuy nhiên vào dịp có nhiều tác giả đề cập về đề tài “Giám mục ăn xin,” chúng tôi xin được phổ biến trên TNGD để rộng đường dư luận.
Tôi muốn lấy đầu đề cho bài viết này bằng cụm từ "Giám Mục Ăn Xin". Tôi dùng từ "ăn xin", vì đây chính là lời mà Giám Mục Nguyễn Chí Linh đã công khai dùng để nói về mục đích xuất ngoại của mình, đồng thời so sánh việc làm này với các giám mục khác.
Hôm đó là chiều Thứ Bẩy 21 tháng 4 năm 2007. Trong thánh lễ lúc 8 giờ tối thay Chúa Nhật, tại cộng đoàn Thánh Linh (Holy Spirit) thuộc Giáo Phận Orange County, Giám Mục Nguyễn Chí Linh, Giám Mục Thanh Hóa, kiêm Giám Quản Tông Tòa Phát Diệm, đã chủ tế thánh lễ và giảng thuyết. Tôi đã chăm chú nghe rất kỹ bài giảng của vị giám mục này, không phải vì lòng yêu mến, sốt sắng, cho bằng nghe coi những lời chia sẻ ấy mang ý nghĩa gì.
Bỏ qua những thành kiến và những ảnh hưởng của các quan niệm khác nhau, tôi nhận ra điều này, đó là giám mục Linh ít ra cũng dám nói đụng chạm đến Cộng Sản và chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam. Ngài đã nhắc đi nhắc lại là sau mấy chục năm thống nhất, vậy mà tại giáo phận miền Bắc của ngài rất nhiều em chịp phép thêm sức đã không có lấy một đôi dép để đi. Ngài cũng đã so sánh sự tụt hậu và yếu kém của nền kỹ nghệ, nông nghiệp của Việt Nam khi so sánh với các quốc gia tiên tiến. Nơi các quốc gia tiên tiến việc cấy, gặt, canh tác được dùng bằng sức máy móc, nhưng ở Việt Nam thì vẫn là sức người. Lao động cực nhọc và vất vả. Ngài cũng đã làm cho người nghe thấy mủi lòng khi đề cập đến tình trạng đói khổ đã làm cho một số không ít người phải rời bỏ quê hương ra Hà Nội, vào Sàigon kiếm sống, rồi ở đó đã bị dẫn dắt và lường gạt đi vào con đường sa đọa. Nhất là ngài không ngần ngại nói rõ mục đích xuất ngoại của mình là để "ăn xin" cho giáo phận, nhân danh những người nghèo khổ. Theo ngài, để làm được việc ấy, ngài cũng đã suy nghĩ và phải đi ra khỏi cái sợ sệt, nhút nhát của chính bản thân mình. Và cũng theo ngài, quyết định ăn xin lần này đã có sự suy nghĩ cẩn thận, nhất là sau khi thấy nhiều vị này, vị khác ăn xin đã khấm khá, và ăn nên, làm ra.
GIÁM MỤC ĂN XIN
Những người nghèo khó ăn xin. Những người dân thường ăn xin là chuyện thường tình. Nhưng chuyện khó tin mà có thật là chuyện nhiều vị giám mục đi ăn xin, và hiện tượng này chỉ xẩy ra cho Giáo Hội Việt Nam ở vào thời điểm và thời đại tối tân hiện nay. Đặc biệt hiện tượng này đang nở rộ vào thời gian gần đây, nhất là vào tháng Tư năm 2007. Với nhiều hình thức và danh nghĩa khác nhau, nhưng mục tiêu cuối cùng là kiếm tìm sự giúp đỡ tài chánh từ phía những giáo dân Việt Nam ở hải ngoại, cách riêng tại Hoa Kỳ.
Tuy mang danh nghĩa ăn xin, nhưng đây là thành phần những người ăn xin hạng sang, có bằng cấp, và địa vị. Ăn xin không phải đứng ở đầu đường, xó chợ, hoặc những nơi đông người qua lại. Ăn xin không phải cằm giỏ, mũ, nón hay bát. Ăn xin mà có những người khác theo hầu. Chủ sự các buổi phụng vụ, và là khách mời danh dự của các bữa tiệc linh đình, sang trọng. Những hình thức ăn xin này nằm dưới danh nghĩa:
- Thăm viếng thân nhân.
- Thăm viếng đồng hương.
- Chủ tế hay thuyết giảng các đại lễ.
- Làm phép hay thánh hiến nguyện đường, trung tâm.
- Thuyết trình trong các hội nghị.
Và thành phần ăn xin trên gồm hồng y, tổng giám mục, và giám mục.
TÂM LÝ ĂN XIN
Ăn xin vui hay buồn? Ăn xin khổ hay sướng? Đối với phần đông, thì ăn xin chẳng sung sướng và hãnh diện gì. Nhưng cũng không hẳn là thế, và còn tùy vào những hình thức và kiểu cách của người ăn xin.
Gần đây chính quyền Trung Quốc đã ra tay dẹp bỏ tệ nạn ăn xin tại những trung tâm du lịch của họ. Lý do vì người ăn xin thật sự thì ít, mà kẻ lợi dụng thời cơ làm nghề ăn xin thì nhiều. Họ là những tay ăn xin chuyên nghiệp, và ăn xin có bài bản. Chính vì thế, du khách dễ bị trấn lột, và tạo nên một hình ảnh xấu về Trung Quốc vỹ đại dưới con mắt những du khách đang muốn tìm hiểu về quốc gia rộng lớn này.
Cũng mới đây khi đề cập đến chuyện ăn xin, và những kiểu cách ăn xin của Mỹ, cô em gái tôi mới qua chơi cũng đã chia sẻ với tôi, đại khái cô nói rằng ăn xin thì ở đâu mà chả có, ở Việt Nam nghệ thuật ăn xin còn ngầu hơn cả Mỹ nữa là khác. Và cô đã kể cho tôi nghe một câu truyện mà cô là người chứng kiến. Cô nói:
Em nhớ một hôm em đang ở nhà ông nội của các con em, thì có một bà đến nhà xin ăn, bà khóc lóc và kể lể rất thảm thiết rằng chồng bà vừa bị xe đụng gẫy chân nằm trên giường không di chuyển được, đau đớn và khổ sở lắm. Gia đình bà lại đông con, nên bà chỉ xin giúp đỡ chút ít để có tiền chạy chữa cho chồng.
Nhưng khi vừa về đến nhà mình, thì đã thấy bà ấy đang kể lể với mẹ rằng chồng bà bị ung thư phổi ở thời kỳ nguy kịch và có thể chết bất cứ lúc nào. Bà xin giúp đỡ tiền thuốc cho chồng, hoặc ít ra là có chút ít lo việc ma chay nếu như Chúa cất chồng bà về nay mai.
Thấy bà xạo quá, em tức mình nói: "Tôi vừa gặp bà ở nhà bố chồng tôi ít phút trước đây. Ở đó bà đã kể lể rằng chồng bà bị xe đụng gẫy giò, bây giờ bà lại chù ẻo chồng bà về bệnh ung thư tức là làm sao. Bà về đi, lo làm ăn lương thiện may ra Chúa cứu chồng bà và cho ông ấy chóng khỏi chân và lành bệnh ung thư."
Đối với những người ăn xin chuyên nghiệp hoặc như người đàn bà trên đây thì ăn xin rất có lợi và đôi khi vui nữa, vì vừa nhàn không phải làm gì vừa có tiền, lại vừa có được cái cảm giác lừa được người khác. Nhưng ăn xin thật thì không những không vui, mà còn rất tủi hổ.
Một cuộc khảo cứu về tâm lý ăn xin đã được trình chiếu trên hệ thống truyền hình Mỹ gần đây. Người được chọn làm mẫu sau khi đã được hóa trang và trở thành một người ăn xin, đã được đưa đến một địa điểm có đông người qua lại. Toàn cuộc khảo cứu đã được thâu hình. Và sau một ngày ăn xin, người ấy đã tắm rửa sạch sẽ, áo quần đàng hoàng xuất hiện để trả lời cuộc phỏng vấn. Cuốn băng ghi lại buổi ăn xin này được chiếu lại cho thấy trong đó có kẻ cho, người từ chối. Kẻ thông cảm, người khó chịu, nhưng phần đông là không cho và có thái độ dửng dưng. Khảo cứu này đưa đến kết luận ăn xin thật sự không mấy hứng thú và đôi khi gặp nhiều rủi ro bởi những thành phần côn đồ, và những người ác ý.
ĂN XIN KIỂU GIÁM MỤC
Là hồng y, tổng giám mục, và giám mục, cung cách ăn xin cũng khác người. Thí dụ:
- Không phải hóa trang thành bẩn thỉu, lem luốc mà vẻ mặt sáng ngời, uy nghi, đạo mạo.
- Không phải mặc áo quần rách rưới, đầu tóc lôi thôi mà là ăn mặc sang trọng, gọn gàng, sạch sẽ.
- Không đứng đầu đường, xó chợ mà là đứng trên bục cao, chủ sự những nghi lễ trang trọng, hoặc những thành phần thích giả chọn lọc.
- Không thu bạc cắc, bạc lẻ, nhưng là thu tiền trăm, tiền ngàn, hoặc hàng chục ngàn.
- Không bị chê bai, xỉ nhục, nhưng phần lớn được ca tụng và hoan hô.
Hơn thế, còn được nhiều người tỏ ra xót xa khi thấy các ngài không quản ngại đường xá xa xôi và bỏ ra thời giờ vàng ngọc để đến với mình, để yên ủi và nâng đỡ mình.
Nhưng như vừa trình bày trên, không phải hễ ăn xin kiểu giám mục là không gặp rủi ro. Và hễ ăn xin như một vị giám mục là không bị nghi vấn về chủ đích và sự sòng phẳng của cái mà mình đã xin được. Sau đây chỉ là một vài ví dụ:
Giáo dân Maria Goretti "tiếp xúc" với GM Nguyễn Chí Linh
Chúa Nhật 29-4-07, sau khi dâng thánh lễ tại nhà thờ Maria Goretti, San Jose. GM Nguyễn Chí Linh đã ra cuối nhà thờ để tiếp xúc với giáo dân và nhận tiện do giáo dân trao cho, sau khi đã vận động xin giáo dân giúp đỡ tài chánh để xây dựng những cơ sở sinh hoạt cho giáo phận Thanh Hoá.
Khi Ngài vừa ra và đang nhận món tiền đầu tiên (đang cầm tay) thì có 2 nữ giáo dân cầm 2 lá cờ vàng 3 sọc đỏ của VNCH đến "Xin Đức Cha chụp với chúng con một tấm hìn kỷ niệm ngày Quốc Hận 30-4-75, vì ngày đó chúng con bỏ nước ra đi."
Đang vui vẻ bỗng mặt ĐC đanh lại khi thấy là cờ vàng 3 sọc đỏ và tỏ ra rất miễn cưỡng. Một giáo dân thấy vậy nói "Cất cờ đi" thì lập tức có người rất nhiều tiếng phản đối, trong đó có người đang cầm giỏ xin tiền cũng nói "Người ta chỉ xin chụp hình thôi mà."
Một trong 2 giáo nữ giáo dân liền lên tiếng với người đòi cất cờ: "Anh ở phía nào mà anh không biết lá cờ này? Đây là lá cờ chúng ta sống chết để bảo vệ nó."
Ông này (vẻ mặt hung ác đứng bên người đàn bà mang kính trắng) định chụp lá cờ để bẻ, lập tức nữ giáo dân la lên:
- Mày đụng đến lá cờ này, mày biết tay bà, tao sống chết với lá cờ này.
Thấy nguy hiểm ông ta bèn rút lui. Ông khác (bận áo len) đòi gọi police, cũng bị mấy người phản đối, tạo nên cảnh hỗn loạn.
Trong khi đó thì nữ giáo dân kia trình Đức Cha: "Có phải Nguyễn Tấn Dũng sai Đức Cha qua đấy phải không? Đức Cha có biết ngày này là ngày Quốc Hận không? Đức Cha qua đây mở tiệc ăn mừng rồi còn nói xấu các cha tuyên uý của chúng con..."
Thấy không thể nán lại được, mấy linh mục đi theo hộ tống Đức Cha vào trong nhà thờ và đóng cửa lại. Cuộc xin tiền [vắt bò sữa] thất bại gần như hoàn toàn vì chỉ có một người [con bò] cho [sữa] thôi.
Giám Mục Nguyễn Chí Linh đã đi vào nhà thờ, nhưng giáo dân hãy con tụ họp bàn tán. Có nhiều người rất ngạc nhiên không biết những chuyện xẩy ra tại Việt-Nam và lý do các Giám Mục phải sang Hoa Kỳ trong thời điểm này, do đó đã có một số người giải thích. Họ giải thích:"Đức Mẹ của tôi bị đánh tan nát mà các giám mục không ai lên tiếng ủi an. Cực lòng tôi lắm, các Đức Cha qua đây để xin tiền nhưng các ĐC đã không đếm xỉa gì đến nỗi lòng của giáo dân tha phương khi thấy thái độ của các Đức Cha đã im lặng mặc cho Cộng Sản làm gì thì làm."
Thấy vị giáo dân này nói một lúc càng hăng say hùng hồn, những kẻ nịnh hót Giám Mục từ từ rút lui. (Trích: website Tiếng Dân)
Và sau đây là một phần phần trích thuật bài viết: "Lấy Thúng úp Voi' của Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất được phổ biến trênwww.tiengnoigiaodan.net
HY Phạm Minh Mẫn gọi người tỵ nạn là dân tha phương cầu thực. Hiện nay đang lúc các cộng đồng tỵ nạn đau buồn tưởng niệm Quốc Hận 30-4, thì một số các giám mục xênh xang ra nước ngoài. Đón rước um xùm. Tiệc tùng linh đình. Quyên góp ì xèo. Tất cả những chuyện đó gom lại đốt lên một ngọn lửa căm phẫn ngút trời. Không phải chỉ riêng người công giáo căm phẫn, mà có thể nói là toàn thể khối người Việt Nam tỵ nạn CS trên thế giới đều căm phẫn.
Trừ một số rất ít oi con cái bọn CS đi làm ăn ở ngước ngoài, còn đại đa số người Việt Nam sinh sống tại ngoại quốc đều là người tỵ nạn CS. Các ngài không cảm được nỗi đau của những kẻ đánh mất quê hương. Các ngài gọi con chiên là bọn tha phương cầu thực, các ngài có biết con chiên đau đớn và tủi nhục đến cỡ nào không? ......
Con chiên bỏ nhà bỏ cửa trốn ra đi. Người chết ngoài biển. Kẻ gởi thây trên rừng. Các ngài dửng dưng và thản nhiên đứng nhìn không một lời an ủi. Bây giờ những người này tạm có được cuộc sống yên bình dễ thở thì các ngài đổ xô lớp này rồi lớp khác đến xin tiền. Các ngài nghĩ thế nào?
Có những con chiên đã tự ví mình như bò sữa để các ngài đến vắt. Nghe mà đau nhói trong tim. Các ngài đi xin tiền thì cứ nói là xin tiền. Nói đi làm mục vụ để làm gì?
Địa phương nào đã có giáo hội địa phương đó lo vấn đề mục vụ rồi. Nếu thiếu mục vụ thì chắc chắn ở trong nước thiếu chứ ngoài này không thiếu. Xin các ngài yên tâm, đừng lo giáo dân VN ở nước ngoài thiếu người lo mục vụ để tránh trường hợp các đấng bản quyền địa phương buộc lòng phải có hành vi dằn mặt các ngài như mới xẩy ra ở dưới vùng nam California.
Các ngài xin tiền về lo công việc GH là chuyện chính đáng và cần thiết. Nhưng vấn đề là cách xin và cách xài đồng tiền mà các ngài quyên góp được có hợp lý không.
Hình ảnh một đức cha ăn mặc phẩm phục giám mục đứng cuối nhà thờ ngửa tay trước mặt con chiên ông đi qua, bà đi lại xem chừng không đẹp mắt tí nào. Can đảm thiệt. Không sợ người Mỹ cười! Con chiên thấy cảnh này cũng phải cúi gầm mặt mà đi.
- Về Cách Xài Tiền:
Những cách thức xin tiền của các đức cha VN khi sang Mỹ đại loại như trên thì ôi thôi nhiều vô số kể. Kể hoài cũng không hết. Còn cách xài tiền của các ngài thì cũng không phải là ít.
Đức HY Phạm Minh Mẫn sang Mỹ xin tiền lập được một bệnh viện. Nghe đâu cái bệnh viện nay đã được CS quản lý dùm để lo chữa bệnh cho các đồng chí đảng viên. Đổi lại, nhà nước tặng cho Đức HY một cái bằng khen để treo trong nhà cho đẹp mắt. Không biết chuyện này có thực không? Con người mới là vốn quí. Một cái bệnh viện thôi nhằm nhò gì. Nhiều gia đình có con em đổi cả sinh mạng lấy cái bằng liệt sĩ kia mà. Bằng khen cũng đáng lắm chứ?! Đặt tên cho kiểu xài tiền này là kiểu "cốc mò cò xơi". Nên chăng? Đã có bài hát vì tôi là linh mục. Biết đâu rồi sẽ chẳng có nhạc sĩ nào đó cảm tác thành bài vì tôi là hồng y?
Việc làm của đức Hồng Y là việc đáng ca ngợi, nhưng nó cũng nói lên sự ngây thơ của những người tin vào sự thành tâm của CS. Chuyện này cho thấy rõ cái lòng tham vô đáy của CS. Nói chung các vị đi ngoại quốc xin tiền về đều bị CS lột. Không nhiều thì ít. Không cách này thì cách khác. Trường hợp đức Hồng Y gọi là cướp trắng. Nạn cướp trắng hay lột sạch có khi xẩy ra ngay tại phi trường khi các ngài đem tiền về. CS gài bẫy mà toàn bẫy độc. Nạn nhân sau khi bị cướp còn cho là mình may mắn. Đem được tiền về đến nhà phải chia tứ lục với CS là chuyện đương nhiên. Những vị đi xin tiền ai cũng biết thế, nhưng tiền chùa mà. Quí vị đâu có "ke". Dù sao cũng thắng hoặc cùng lắm là huề thôi.
Chuyện đi ngoại quốc xin tiền thì phải nói Đ/C Nguyễn Văn Sang là người nổi tiếng vô địch. Ngài đi khắp năm châu bốn bể. Đi luôn cả dịp lễ Phục Sinh. Đi một vài tháng liền là chuyện thường. Cách xài tiền quyên cúng của ngài cũng lừng danh thế giới CS và cả thế giới tự do nữa. Ngài sắm xế xịn chỉ thua Võ Văn Kiệt. Tòa giám mục Thái Bình được một linh mục nhạc sĩ nổi tiếng sang Mỹ khen là cực kỳ xa hoa. Ngài còn xây nhà thờ chính tòa mới sau khi đập bỏ ngôi thánh đường cũ khá đồ sộ và kiên cố.
Cách ăn xài như thế cho thấy Đ/C Sang là một điển hình của hai khuynh hướng xài tiền kiếm được. Một là làm một cái gì đó để tiếng lại cho người đời sau, và hai là tìm thỏa mãn những đòi hỏi thụ hưởng các tiện nghi hiện đại.
Báo chí đã nói rất nhiều về nạn các linh mục đập bỏ nhà thờ cũ mặc dầu hãy còn xử dụng tốt rồi đi Mỹ xin tiền xây nhà thờ mới. Hiện nay lại mới xuất hiện khuynh hướng các đấng bậc ở bên Mỹ gom bi đem về xứ sở hay làng quê của mình để xây công trình kỷ niệm. Tất cả đều nằm trong mơ ước được để tiếng lại cho đời của các ngài. Đi liền với khuynh hướng để tiếng lại là sự đam mê hưởng thụ vật chất. Bà con về VN kể lại các linh mục xài xe hơi, xe gắn máy đắt tiền hiện nay không phải ít. Còn chuyện sắm giàn nhạc, gắn máy lạnh nhà xứ, xài phone tay v.v. đều là chuyện quá thường.
Tội cho một số các linh mục truyền giáo tại các vùng sâu nghèo nàn. Những vị này thường không có người quen ở ngoại quốc. Có vị chạy vạy dựng lên được một cái "chòi thờ" kín đáo tránh được mưa gió là mừng lắm rồi. Hiện nay mạnh giám mục, giám mục kiếm chác. Mạnh cha xứ, cha xứ xoay xở.
Tình trạng thật là hỗn loạn. Không thấy có vị giám mục nào đề ra sáng kiến. Chẳng hạn như nếu trong một giáo phận, GM gom tất cả mọi thứ tiền quyên góp được về một mối. Rồi ngài phân phối tùy theo tình hình và nhu cầu của từng giáo xứ. Ưu tiên cho các giáo xứ truyền giáo vùng sâu nghèo khó. Cấm chỉ đập bỏ những thánh đường còn xử dụng tốt. Đẹp hơn nữa là có thể giúp đỡ cho những đền chùa miếu mạo chẳng trông nhờ vào đâu được. Được như vậy chắc chắn vừa phát huy tinh thần liên đới trách nhiệm, vừa thắt chặt tình huynh đệ giữa các linh mục trong cùng một giáo phận, tránh được nạn đèn nhà ai nấy rạng lâu nay, lại đỡ được những phí phạm vô bổ. Hơn nữa đến với những đồng bào khác tôn giáo theo cung cách đó, ít nữa người lương cũng nhìn Chúa một cách có thiện cảm hơn.
MỘT VÀI GỢI Ý
Không người con nào cảm thấy hãnh diện và sung sướng khi thấy bố mẹ mình đi ăn xin. Không một Kitô hữu nào thấy hãnh diện và sung sướng khi thấy các chủ chăn mình phải đi ăn xin. Vì không cầm lòng được trước sự ăn xin của các vị chủ chăn mình, và với vai trò một tín hữu xin được đóng góp một vài gợi ý xây dựng:
1. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:
Thiết tưởng Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cần nghiêm chỉnh ngồi lại với nhau và cứu xét vấn đề này. Cần phải có một ủy ban nghiên cứu các dự án, và ưu tiên cho những giáo phận cần được nâng đỡ trước. Các vị giám mục cũng nên đưa ra những phương cách thực hiện những dự án ấy như thế nào cho vừa đẹp đẽ, vừa tránh tạo nên những phản ứng bất lợi, cũng như tạo cơ hội cho những chê bai, đàm tiếu.
a) Xây chủng viện, thánh đường, hay sửa sang tòa giám mục: Xin tiền về xây chủng viện, xây tòa giám mục, xây nhà thờ chính toà, hay bất cứ một dự án nào cũng có thể là tốt. Nhưng những việc làm ấy lúc này có phải là một hình thức phô trương, và chối bỏ sự thật không?
Sự thật là tại Việt Nam không có tự do tôn giáo. Sự thật là những hoạt động tôn giáo đều bị kiểm soát. Như vậy, với cái dáng vẻ bề ngoài kia, những chủng viện, những thánh đường nguy nga, những cơ sở tôn giáo được tu sửa và xây cất sẽ hàm ý nói rằng những gì mà các giám mục, những gì mà người khác nói về sự bắt bớ, kiềm chế, và mất tự do tôn giáo tại Việt Nam là không đúng, là sai với sự thật.
Có những nhận xét cho rằng ơn gọi tại Việt Nam lúc này đang nở rộ. Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong dịp viếng thăm Nhật đã hứa sẽ gửi các linh mục Việt Nam qua phục vụ tại các giáo phận Nhật. Dư thừa ơn gọi, và ơn gọi ngày càng đông tại Việt Nam. Nhưng đó có phải là dấu hiệu đáng mừng để mở thêm các chủng viện không?
Có lẽ trong cái hồ hởi về ơn gọi ấy, chúng ta cũng cần phải để ý đến một yếu tố tâm lý và xã hội. Tại một nơi mà cuộc sống quá nghèo khổ, sự khác biệt quá rõ ràng giữa những giáo dân và hàng linh mục, thì việc mơ màng và ao ước được trở thành linh mục chưa hẳn là tiếng Chúa gọi. Khi Chúa Giêsu gọi các tông đồ, các ông đã có cái để từ bỏ: bỏ vợ con, bỏ nhà cửa, và bỏ sở hữu của mình. Nhưng hầu hết các chủng sinh hiện nay tại Việt Nam có gì để bỏ?! Không phải bỏ, mà còn có lợi tại sao không thèm khát!! Nhất nữa, việc làm này lại được lồng vào cái nhãn hiệu tôn giáo đầy cao cả: Dấn thân phục vụ Chúa và các linh hồn.
Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, có thể nói khi một bạn trẻ được chấp nhận vào chủng viện là được chấp nhận đi vào một nếp sống hoàn toàn đổi mới. Chủng viện cao sang, rộng rãi, tiện nghi. Ăn uống đầy đủ. Được học hành. Và nhất là được bảo đảm cho mình một chỗ đứng mới trong xã hội và giáo hội sau này. Trong nhiều trường hợp, sự đổi mới ấy đem lại một ảnh hưởng tâm lý rất mãnh liệt mà theo từ ngữ chuyên môn có thể coi như một post traumatic syndrome. Do ảnh hưởng tâm lý này, người chủng sinh nào đó sẽ cố tạo cho mình một nhân dáng mới, một cung cách mới, và một tâm lý sống mới cho phù hợp với hoàn cảnh và nếp sống mới. Cứ như thế, chủng sinh này quên bẵng cái quá khứ rách nát và nghèo khổ của mình. Hoặc cố tình quên mất nó. Cho đến khi ra làm linh mục thì lối sống ấy, tư tưởng ấy sẽ dẫn người linh mục đến một nơi mà thay vì phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, phục vụ các linh hồn lại chỉ để làm bảo vệ được cái địa vị mà mình đã vất vả để có được.
Và như thế, một chủng viện được xây cất nguy nga, đồ sộ và tiện nghi trong một hoàn cảnh và môi trường xã hội không phù hợp đã đóng góp phần lớn cho những thay đổi nếp sống và tâm lý sống của người linh mục sau này.
b) Xây dựng trường sở, xây dựng bệnh xá, và xây dựng các trung tâm huấn nghệ: Khi được hỏi nếu cần phải xây một thánh đường hay một trường học trước, nếu tôi nhớ không nhầm thì Thánh Giáo Hoàng Piô X trả lời là ngài sẽ xây trường học trước. Bởi vì ở trường học các học sinh được học biết và chỉ cho biết Chúa Giêsu có trong Nhà Tạm, nhờ đó Chúa mới được nhận biết và tôn thờ trong thánh đường.
Xây trường học, xây bệnh viện hay bệnh xá, hoặc một trung tâm huấn nghiệp là những gì mà môi trường xã hội Việt Nam đang rất cần thiết. Và ở những nơi này mọi người có dịp tiếp nhận và gặp gỡ Chúa, cũng như Chúa gặp gỡ con người nhiều hơn ở tòa giám mục hay ở thánh đường.
Biết bao người lương, giáo đang thiếu thốn giáo dục, thiếu thốn sự chăm sóc sức khỏe, và thiếu thốn một lời, một nơi an ủi, hướng dẫn để trở thành người tốt hơn, thay vì chỉ đứng ngoài nhìn tòa giám mục, hoặc nhìn bức tường và tháp chuông nhà thờ!
Tóm lại, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nên có những dự án thiết thực và cần thiết theo nhu cầu ưu tiên của mỗi giáo phận dựa vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước. Những dự án này sẽ được nghiên cứu để làm cách nào có được ngân khoản tài trợ từ các tổ chức và tư nhân hảo tâm của người Việt Nam Hải Ngoại không phân biệt tôn giáo mà không mang tiếng phải xuất ngoại ăn xin, một mặt lại tuyên truyền cho chế độ.
2. Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ:
Liên Đoàn này đã được thành lập và cũng đã có nhiều dự án được thực hiện. Nhưng nếu Liên Đoàn thành lập thêm một ủy ban lấy tên là Ủy Ban Tài Trợ Giáo Hội Mẹ Việt Nam để duyệt xét, và hoặch định kế hoặch tìm nguồn tài trợ cho những dự án mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cậy nhờ thì đó là một hành động và việc làm rất thực tế và đáng khâm phục.
Người Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ rất hãnh diện đã có một Giám Mục người Mỹ gốc Việt, Đức Giám Mục Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange. Với vai trò ấy, và với tiếng nói của ngài trong Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, hay các giám mục địa phương nơi có đông người Công Giáo Việt Nam ở thì những lần quyên góp như vậy chắc không phải là việc khó khăn.
Từ đó, khi một hoặc hai giám mục Việt Nam qua với chương trình, thời khóa biểu, và dự án rõ ràng sẽ không phải đối diện với cái cảnh "dàn chào", hoặc "biểu tình" như đã xẩy ra trước đây. Bởi vì người Công Giáo Việt Nam, nhất là tại Hoa Kỳ đã biết rõ mục đích xuất ngoại của các ngài, và thời khóa biểu. Không phải là thăm viếng mục vụ, hoặc thăm đồng hương, mà rõ ràng là gây quỹ cho một dự án nào đó của Giáo Hội Việt Nam.
Hành động như vậy sẽ tạo nên mối liên lạc mật thiết giữa Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Sẽ không có cảnh mạnh được yếu thua. Giám mục nào có nhiều bà con, thân nhân, hoặc giáo phận nào có nhiều giáo dân gốc thì cứ việc qua "hốt hụi", trong khi đó một giáo mục nào đó không có thân nhân, bà con, và giáo dân của giáo phận gốc ấy lại không nhiều thì đành ngậm đắng nuốt cay.
LỜI NGUYỆN KẾT
"Phúc cho ai có tinh thần nghèo" (Mt 5:3). Nếu một hồng y, tổng giám mục, hay giám mục mà nghèo đến độ phải đi ăn xin thì cũng là điều đáng mừng vì Chúa đã phán như vậy. Nhưng tinh thần nghèo ở đây không chỉ là cái nghèo vật chất, mà còn là một tâm hồn trong sạch, khiêm nhường, đơn sơ và tín thác. Nhất là tín thác và tin tưởng vào Đấng đã gọi mình sống nghèo và rao giảng tinh thần nghèo.
Xin Thần Linh Chúa hướng dẫn và thổi một làn gió mới là tinh thần nghèo Phúc Âm trên Giáo Hội Việt Nam, trên những chủ chăn của chúng con để đừng vì những vật chất bên ngoài mà nhiều người thiện tâm không nhận ra Chúa, và không đến được với Chúa.
VĂN HÓA THỜ Ơ
Có nhiều loại văn hóa. Khi nói tới văn hóa, chúng ta nghĩ tới những điều tốt đẹp. Văn hóa cần luôn thiết cho cuộc sống, xã hội, quốc gia, kể cả Giáo Hội. Nhưng ngày nay còn có những loại văn hóa độc hại: Văn hóa sự chết và văn hóa thờ ơ.
Đối với văn hóa sự chết, chúng ta dễ nhận thấy sự nguy hiểm, nhưng với văn hóa thờ ơ, có thể chúng ta cho đó là “chuyện nhỏ”, bình thường thôi. Nhưng thật ra, nó cũng nguy hại, chứ không như chúng ta tưởng.
Có thể nói rằng mối đe dọa lớn nhất đối với tương lai là sự thờ ơ. Người ta vì ích kỷ mà có thái độ “bất cần”, bàng quan, từ đó dẫn tới thờ ơ với mọi thứ, sự thờ ơ khiến người ta lãnh đạm, cuối cùng là vô cảm. Sự vô cảm ngày nay đã trở thành hội chứng, và người ta gọi là “bệnh vô cảm”. Trong cuộc sống, chúng ta gọi những người thờ ơ là vô tình hoặc vô tâm. Bệnh này không “nhẹ” như chúng ta tưởng, mà nó đã trở thành chứng “nan y” như một loại ung thư bất trị, nó không làm người ta chết về thể lý, nhưng nó làm người ta chết về tinh thần!
Cách đây không lâu, bài văn của em Phan Hoàng Yến, một học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An (Hà Nội), đã gây “chấn động” không chỉ bởi đề tài em chọn mà còn bởi cách hành văn rất tinh tế và sắc sảo. Bài văn đó được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét: “Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý”. Đây là một phần trong bài văn của em Yến:
Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay, một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn, làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều: Đó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân, mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm.
Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?
Trước hết là về cái đẹp, bây giờ ra ngoài đường, hiếm ai có thể bắt gặp một người đàn ông đạp xe ung dung dạo mát, thưởng ngoạn cái không khí trong lành, tươi mát dưới những hàng cây cổ thụ vàm bóng quanh bờ hồ; một người con gái dịu hiền, yêu kiều trong chiếc váy thanh thoát tản bộ trên những con đường hoa sấu, hoa sữa đầy mộng mơ, mà hầu hết là những dòng người tấp nập, vội vã, chen lấn xô đẩy trên đường, xe buýt. Lúc ấy cũng chính là lúc mà con người ta mất một phần tâm hồn đẹp đẽ đã bị chôn vùi dưới lớp cát. Phải chăng cũng vì như thế mà họ càng lúc càng khép chặt cánh cửa trái tim mình lại, không còn biết hưởng thụ cái đẹp mà chỉ nghĩ đến tiền, đến công việc ngày mai?
Vô cảm với cái đẹp mới chỉ là bước đầu. Một khi người ta đã không biết ngưỡng mộ, không biết say mê, rung động trước những điều đẹp đẽ thì trái tim cũng dần chai sạn rồi đến đóng băng. Khi ấy, không chỉ là cái đẹp mà đứng trước những hành động ác độc, vô lương tâm, người ta cũng cảm thấy bình thường, không oán trách cũng không cảm thông, động lòng với những nạn nhân bị hại. Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán. Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô bé đi bệnh viện.
Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy! Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người “không dại gì”, và cũng chính “nhờ” những người “không dại gì” đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan.
“Con người ta không phải là cái đồng hồ và trái tim ta cũng không phải là cái lò xo” – một giáo sư người Anh đã nói như thế. Tóm lại, ta nhận thấy rằng, căn bệnh vô cảm đang lan tràn ngày càng rộng lớn và trở nên vô cùng nguy hiểm, biến con người thành một cỗ máy vô tri chỉ biệt vận động. Đừng để điều đó xảy ra mà hãy đấu tranh để giành lại phần “người”, giành lại “trái tim” mà Thượng Đế, mà Tạo Hóa đã ban cho chúng ta. Hãy đào thải căn bệnh vô tình quái ác ra khỏi xã hội!
Một em gái mới độ tuổi thiếu niên mà đã có nhận xét tinh tế và sâu sắc quá. Thật đáng khâm phục! Với tâm hồn đầy tình người như vậy, chắc hẳn em đã được thừa hưởng từ gia đình có cách giáo dục rất nhân bản. Nếu em là Kitô hữu, chắc hẳn em là người sống đạo nghiêm chỉnh và đẹp lòng Thiên Chúa, vì em biết chạnh lòng thương người như Chúa Giêsu chứ không thờ ơ như một số người khác.
Vô cảm chính là sự chai lì cảm xúc, xơ cứng tâm hồn, sống dửng dưng, có “máu lạnh”, thờ ơ với những gì xảy ra trong xã hội chung quanh mình, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Vô cảm là ích kỷ. Gặp cái đẹp hoặc cái xấu cũng trơ trơ, không chút rung động. Chứng vô cảm càng ngày càng có chiều hướng lây lan, nếu không có những biện pháp ngăn chặn thì có thể trở thành một căn bệnh mang tính xã hội. Trong cơn lốc toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cùng với việc tiếp thu những tinh hoa của văn minh nhân loại, lối sống hưởng thụ và mặt trái của nền kinh tế thị trường đang tác động mạnh đến tâm lý xã hội, dần dần hình thành lối sống thực dụng trong một số người. Thật đáng báo động đỏ!
Sự thờ ơ không chỉ xảy ra giữa những người xa lạ hoặc không quen biết, mà xảy ra ngay trong gia đình, giữa những người máu mủ ruột rà với nhau. Bạn không tin ư? Thời Cựu Ước đã xảy ra rồi đấy. Quả thật, chỉ vì để “cái tôi” nổi dậy và bất kể mọi thứ mà Ca-in đã nhẫn tâm hạt sát chính em ruột của mình (St 4:3-8). Tương tự, chỉ vì ích kỷ và vô cảm mà mấy người anh đã nỡ lòng bán đứng em ruột mình là Giu-se (St 37:12-36).Thiên Chúa vẫn luôn nói với mỗi chúng ta: “Ta thương con, thương con thật nhiều” (Gr 31:20).
Vậy tại sao chúng ta lại không thương người khác, các anh chị em của mình? Chắc hẳn có người “cự nự” rằng mình không vô cảm, vẫn thương người, nhưng đó chỉ là thương người thương mình, hợp với mình, cùng phe với mình. Chúa Giêsu đã đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:46-47).
Là người đời, tiền nhân cũng dạy chúng ta: “Thương người như thể thương thân”. Luật Chúa là Luật Yêu: “Kính mến Thiên Chúa và yêu người như yêu mình”. Yêu thương là cách trở nên hoàn thiện như Cha trên trời. Yêu thương trước tiên là biết chạnh lòng thương, biết động lòng trắc ẩn, cũng là bác ái, là thương xót. Thánh Phaolô vừa căn dặn vừa khuyến cáo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12:9-13).
Helen Adams Keller (1880-1968), nhà văn, nhà chính trị và giảng viên người Mỹ, đã nhận xét: “Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, đó là sự vô cảm của con người”. Chính khách Bob Riley (1944, Hoa Kỳ) nói: “Khoan dung cho cái ác chỉ dẫn tới thêm nhiều điều ác. Khi người tốt đứng nhìn và chẳng làm gì trong sự thống trị của cái ác, cộng đồng của họ sẽ bị nuốt trọn”. Đó là sự bàng quan, chính sự bàng quan là một dạng thờ ơ, vô cảm đối với tha nhân.
Bác học Albert Einstein (1879-1955) xác định: “Thế giới sẽ bị hủy diệt không phải bởi những người làm điều ác, mà bởi những người đứng nhìn mà không làm gì cả”. Cách so sánh thật đáng giật mình. Thật vậy, mọi thứ, kể cả tội lỗi, đều có tính dây chuyền như hiệu ứng Domino, đó chính là tính liên đới.
Tân Ước cũng cho biết nhiều trường hợp thờ ơ, lãnh đạm. Chẳng hạn như “Người Tá Điền Sát Nhân” (Mt 21:33-39; Mc 12:1-9; Lc 20:9-15). Vì vô cảm mà bất kể mọi sự, không chút xót thương bất cứ người nào. Trường hợp vô cảm khác là các kinh sư và cả nhóm Pha-ri-sêu, họ đã thờ ơ với “Người Phụ Nữ Ngoại Tình” (Ga 8:2-11), họ dẫn chị đến gặp Chúa Giêsu, vừa để tố cáo chị vừa tìm cách gài bẫy Ngài.
Rồi trường hợp khác nữa, những người Pha-ri-sêu và ông Si-môn cũng đã thờ ơ với “Người Phụ Nữ Tội Lỗi” (Lc 7:36-50). Họ rất “ngứa mắt” khi thấy chị ngồi lì bên chân Chúa Giêsu mà khóc lóc và lấy tóc lau chân Ngài. Ông Si-môn “vô tư” nên nghĩ bụng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!”. Chúa Giêsu biết tỏng ngay, và Ngài trách tính vô cảm của ông: “Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi”. Xấu hổ hết sức, tưởng mình “ngon lành” nào ngờ tệ lậu!
Còn trong dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc 10:29-37), người đã cứu giúp nạn nhân bị cướp đánh trọng thương, những kẻ vô tâm lại chính là hai người có địa vị, danh giá. Đó là thầy tư tế và thầy Lê-vi, những người tưởng mình là đạo đức thì lại là những kẻ thờ ơ “chính hiệu”. Thật là khủng khiếp và đáng buồn biết bao!
Tại vườn Gết-si-ma-ni, ba môn đệ được Thầy Giêsu tín cẩn nhất mà lại thờ ơ nhất, Thầy lo buồn đến chết được mà ba trò vẫn vô tư ngáy khò khò (Mt 26:36-46; Mc 14:32-42; Lc 22:39-46). Đừng thấy mình được ưu tiên mà tưởng mình là người “ngon lành” hơn người khác, thực chất chỉ là vô cảm!
Làm sao khả dĩ điều trị bệnh vô cảm? Trước tiên phải tập yêu, yêu chính những gì mình không thích, thông cảm với những người không ưa mình. Thế mới khó. Khó lắm. Nhưng khó không có nghĩa là không làm được. Tập rồi sẽ quen. Yêu cũng phải tập yêu để biết cách yêu. Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36). Có lòng nhân từ là biết thở hơi thở của tình yêu, trái tim đập những nhịp của lòng thương xót. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại” (Cl 3:12).
Ngoài ra, một “liệu pháp” hiệu nghiệm là cầu xin được biến đổi, như tác giả Thánh Vịnh đã cầu xin: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51:12). Và tất nhiên, một điều không thể thiếu là sự tín thác, điều mà chính Chúa Giêsu đã dạy Thánh nữ Faustina: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.
Sự ích kỷ, sự bàng quan, sự thờ ơ, sự lãnh đạm, sự dửng dưng, sự vô cảm,… đó chính là chướng ngại vật ngăn cản chúng ta đến với Thiên Chúa, là rào cản chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa qua tha nhân, mà không gặp được Thiên Chúa thì không thể làm công dân Nước Trời. Thật vậy, Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20).
Tháng Năm, Giáo Hội muốn chúng ta hiệp nhất với 2 ý cầu nguyện: [1] Cầu cho chúng ta biết khước từ nền văn hoá của sự thờ ơ, để quan tâm đến những nỗi thống khổ của tha nhân, nhất là những người bệnh tật và nghèo khó; [2] Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, xin cho các Kitô hữu đang sống trong các bối cảnh thế tục, luôn sẵn sàng để rao giảng về Đức Giêsu.
Qua đó, chúng ta thấy rằng Giáo Hội muốn chúng ta không thờ ơ với bất cứ thứ gì, nhất là đối với những người đau khổ, những kẻ bé mọn. Có vậy thì chúng ta mới có thể là chứng nhân của Ngài ở mọi nơi, mọi lúc. Tháng Năm nhắc chúng ta cố gắng gom góp những đóa hoa lòng đượm sắc màu tin yêu để dâng kính Đức Mẹ, nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.
Người ta nhút nhát mà khiếp sợ, không dám bảo vệ sự thật, không dám bảo vệ công lý. Đó là “phong cách” của những người quan niệm rằng “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Đó là động thái thờ ơ. Thờ ơ là vô cảm, thờ ơ là lỗi đức ái, thờ ơ là tội chứ không như chúng ta tưởng. Mà lỗi đức ái là tội nặng, và sẽ bị tống giam trong ngục tối, không ai có thể ra khỏi đó “trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5:26). Kinh khủng quá, lạy Chúa tôi!
TRẦM THIÊN THU
Có nhiều loại văn hóa. Khi nói tới văn hóa, chúng ta nghĩ tới những điều tốt đẹp. Văn hóa cần luôn thiết cho cuộc sống, xã hội, quốc gia, kể cả Giáo Hội. Nhưng ngày nay còn có những loại văn hóa độc hại: Văn hóa sự chết và văn hóa thờ ơ.
Đối với văn hóa sự chết, chúng ta dễ nhận thấy sự nguy hiểm, nhưng với văn hóa thờ ơ, có thể chúng ta cho đó là “chuyện nhỏ”, bình thường thôi. Nhưng thật ra, nó cũng nguy hại, chứ không như chúng ta tưởng.
Có thể nói rằng mối đe dọa lớn nhất đối với tương lai là sự thờ ơ. Người ta vì ích kỷ mà có thái độ “bất cần”, bàng quan, từ đó dẫn tới thờ ơ với mọi thứ, sự thờ ơ khiến người ta lãnh đạm, cuối cùng là vô cảm. Sự vô cảm ngày nay đã trở thành hội chứng, và người ta gọi là “bệnh vô cảm”. Trong cuộc sống, chúng ta gọi những người thờ ơ là vô tình hoặc vô tâm. Bệnh này không “nhẹ” như chúng ta tưởng, mà nó đã trở thành chứng “nan y” như một loại ung thư bất trị, nó không làm người ta chết về thể lý, nhưng nó làm người ta chết về tinh thần!
Cách đây không lâu, bài văn của em Phan Hoàng Yến, một học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An (Hà Nội), đã gây “chấn động” không chỉ bởi đề tài em chọn mà còn bởi cách hành văn rất tinh tế và sắc sảo. Bài văn đó được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét: “Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý”. Đây là một phần trong bài văn của em Yến:
Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay, một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn, làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều: Đó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân, mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm.
Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?
Trước hết là về cái đẹp, bây giờ ra ngoài đường, hiếm ai có thể bắt gặp một người đàn ông đạp xe ung dung dạo mát, thưởng ngoạn cái không khí trong lành, tươi mát dưới những hàng cây cổ thụ vàm bóng quanh bờ hồ; một người con gái dịu hiền, yêu kiều trong chiếc váy thanh thoát tản bộ trên những con đường hoa sấu, hoa sữa đầy mộng mơ, mà hầu hết là những dòng người tấp nập, vội vã, chen lấn xô đẩy trên đường, xe buýt. Lúc ấy cũng chính là lúc mà con người ta mất một phần tâm hồn đẹp đẽ đã bị chôn vùi dưới lớp cát. Phải chăng cũng vì như thế mà họ càng lúc càng khép chặt cánh cửa trái tim mình lại, không còn biết hưởng thụ cái đẹp mà chỉ nghĩ đến tiền, đến công việc ngày mai?
Vô cảm với cái đẹp mới chỉ là bước đầu. Một khi người ta đã không biết ngưỡng mộ, không biết say mê, rung động trước những điều đẹp đẽ thì trái tim cũng dần chai sạn rồi đến đóng băng. Khi ấy, không chỉ là cái đẹp mà đứng trước những hành động ác độc, vô lương tâm, người ta cũng cảm thấy bình thường, không oán trách cũng không cảm thông, động lòng với những nạn nhân bị hại. Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán. Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô bé đi bệnh viện.
Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy! Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người “không dại gì”, và cũng chính “nhờ” những người “không dại gì” đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan.
“Con người ta không phải là cái đồng hồ và trái tim ta cũng không phải là cái lò xo” – một giáo sư người Anh đã nói như thế. Tóm lại, ta nhận thấy rằng, căn bệnh vô cảm đang lan tràn ngày càng rộng lớn và trở nên vô cùng nguy hiểm, biến con người thành một cỗ máy vô tri chỉ biệt vận động. Đừng để điều đó xảy ra mà hãy đấu tranh để giành lại phần “người”, giành lại “trái tim” mà Thượng Đế, mà Tạo Hóa đã ban cho chúng ta. Hãy đào thải căn bệnh vô tình quái ác ra khỏi xã hội!
Một em gái mới độ tuổi thiếu niên mà đã có nhận xét tinh tế và sâu sắc quá. Thật đáng khâm phục! Với tâm hồn đầy tình người như vậy, chắc hẳn em đã được thừa hưởng từ gia đình có cách giáo dục rất nhân bản. Nếu em là Kitô hữu, chắc hẳn em là người sống đạo nghiêm chỉnh và đẹp lòng Thiên Chúa, vì em biết chạnh lòng thương người như Chúa Giêsu chứ không thờ ơ như một số người khác.
Vô cảm chính là sự chai lì cảm xúc, xơ cứng tâm hồn, sống dửng dưng, có “máu lạnh”, thờ ơ với những gì xảy ra trong xã hội chung quanh mình, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Vô cảm là ích kỷ. Gặp cái đẹp hoặc cái xấu cũng trơ trơ, không chút rung động. Chứng vô cảm càng ngày càng có chiều hướng lây lan, nếu không có những biện pháp ngăn chặn thì có thể trở thành một căn bệnh mang tính xã hội. Trong cơn lốc toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cùng với việc tiếp thu những tinh hoa của văn minh nhân loại, lối sống hưởng thụ và mặt trái của nền kinh tế thị trường đang tác động mạnh đến tâm lý xã hội, dần dần hình thành lối sống thực dụng trong một số người. Thật đáng báo động đỏ!
Sự thờ ơ không chỉ xảy ra giữa những người xa lạ hoặc không quen biết, mà xảy ra ngay trong gia đình, giữa những người máu mủ ruột rà với nhau. Bạn không tin ư? Thời Cựu Ước đã xảy ra rồi đấy. Quả thật, chỉ vì để “cái tôi” nổi dậy và bất kể mọi thứ mà Ca-in đã nhẫn tâm hạt sát chính em ruột của mình (St 4:3-8). Tương tự, chỉ vì ích kỷ và vô cảm mà mấy người anh đã nỡ lòng bán đứng em ruột mình là Giu-se (St 37:12-36).Thiên Chúa vẫn luôn nói với mỗi chúng ta: “Ta thương con, thương con thật nhiều” (Gr 31:20).
Vậy tại sao chúng ta lại không thương người khác, các anh chị em của mình? Chắc hẳn có người “cự nự” rằng mình không vô cảm, vẫn thương người, nhưng đó chỉ là thương người thương mình, hợp với mình, cùng phe với mình. Chúa Giêsu đã đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:46-47).
Là người đời, tiền nhân cũng dạy chúng ta: “Thương người như thể thương thân”. Luật Chúa là Luật Yêu: “Kính mến Thiên Chúa và yêu người như yêu mình”. Yêu thương là cách trở nên hoàn thiện như Cha trên trời. Yêu thương trước tiên là biết chạnh lòng thương, biết động lòng trắc ẩn, cũng là bác ái, là thương xót. Thánh Phaolô vừa căn dặn vừa khuyến cáo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12:9-13).
Helen Adams Keller (1880-1968), nhà văn, nhà chính trị và giảng viên người Mỹ, đã nhận xét: “Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, đó là sự vô cảm của con người”. Chính khách Bob Riley (1944, Hoa Kỳ) nói: “Khoan dung cho cái ác chỉ dẫn tới thêm nhiều điều ác. Khi người tốt đứng nhìn và chẳng làm gì trong sự thống trị của cái ác, cộng đồng của họ sẽ bị nuốt trọn”. Đó là sự bàng quan, chính sự bàng quan là một dạng thờ ơ, vô cảm đối với tha nhân.
Bác học Albert Einstein (1879-1955) xác định: “Thế giới sẽ bị hủy diệt không phải bởi những người làm điều ác, mà bởi những người đứng nhìn mà không làm gì cả”. Cách so sánh thật đáng giật mình. Thật vậy, mọi thứ, kể cả tội lỗi, đều có tính dây chuyền như hiệu ứng Domino, đó chính là tính liên đới.
Tân Ước cũng cho biết nhiều trường hợp thờ ơ, lãnh đạm. Chẳng hạn như “Người Tá Điền Sát Nhân” (Mt 21:33-39; Mc 12:1-9; Lc 20:9-15). Vì vô cảm mà bất kể mọi sự, không chút xót thương bất cứ người nào. Trường hợp vô cảm khác là các kinh sư và cả nhóm Pha-ri-sêu, họ đã thờ ơ với “Người Phụ Nữ Ngoại Tình” (Ga 8:2-11), họ dẫn chị đến gặp Chúa Giêsu, vừa để tố cáo chị vừa tìm cách gài bẫy Ngài.
Rồi trường hợp khác nữa, những người Pha-ri-sêu và ông Si-môn cũng đã thờ ơ với “Người Phụ Nữ Tội Lỗi” (Lc 7:36-50). Họ rất “ngứa mắt” khi thấy chị ngồi lì bên chân Chúa Giêsu mà khóc lóc và lấy tóc lau chân Ngài. Ông Si-môn “vô tư” nên nghĩ bụng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!”. Chúa Giêsu biết tỏng ngay, và Ngài trách tính vô cảm của ông: “Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi”. Xấu hổ hết sức, tưởng mình “ngon lành” nào ngờ tệ lậu!
Còn trong dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc 10:29-37), người đã cứu giúp nạn nhân bị cướp đánh trọng thương, những kẻ vô tâm lại chính là hai người có địa vị, danh giá. Đó là thầy tư tế và thầy Lê-vi, những người tưởng mình là đạo đức thì lại là những kẻ thờ ơ “chính hiệu”. Thật là khủng khiếp và đáng buồn biết bao!
Tại vườn Gết-si-ma-ni, ba môn đệ được Thầy Giêsu tín cẩn nhất mà lại thờ ơ nhất, Thầy lo buồn đến chết được mà ba trò vẫn vô tư ngáy khò khò (Mt 26:36-46; Mc 14:32-42; Lc 22:39-46). Đừng thấy mình được ưu tiên mà tưởng mình là người “ngon lành” hơn người khác, thực chất chỉ là vô cảm!
Làm sao khả dĩ điều trị bệnh vô cảm? Trước tiên phải tập yêu, yêu chính những gì mình không thích, thông cảm với những người không ưa mình. Thế mới khó. Khó lắm. Nhưng khó không có nghĩa là không làm được. Tập rồi sẽ quen. Yêu cũng phải tập yêu để biết cách yêu. Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36). Có lòng nhân từ là biết thở hơi thở của tình yêu, trái tim đập những nhịp của lòng thương xót. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại” (Cl 3:12).
Ngoài ra, một “liệu pháp” hiệu nghiệm là cầu xin được biến đổi, như tác giả Thánh Vịnh đã cầu xin: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51:12). Và tất nhiên, một điều không thể thiếu là sự tín thác, điều mà chính Chúa Giêsu đã dạy Thánh nữ Faustina: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.
Sự ích kỷ, sự bàng quan, sự thờ ơ, sự lãnh đạm, sự dửng dưng, sự vô cảm,… đó chính là chướng ngại vật ngăn cản chúng ta đến với Thiên Chúa, là rào cản chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa qua tha nhân, mà không gặp được Thiên Chúa thì không thể làm công dân Nước Trời. Thật vậy, Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20).
Tháng Năm, Giáo Hội muốn chúng ta hiệp nhất với 2 ý cầu nguyện: [1] Cầu cho chúng ta biết khước từ nền văn hoá của sự thờ ơ, để quan tâm đến những nỗi thống khổ của tha nhân, nhất là những người bệnh tật và nghèo khó; [2] Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, xin cho các Kitô hữu đang sống trong các bối cảnh thế tục, luôn sẵn sàng để rao giảng về Đức Giêsu.
Qua đó, chúng ta thấy rằng Giáo Hội muốn chúng ta không thờ ơ với bất cứ thứ gì, nhất là đối với những người đau khổ, những kẻ bé mọn. Có vậy thì chúng ta mới có thể là chứng nhân của Ngài ở mọi nơi, mọi lúc. Tháng Năm nhắc chúng ta cố gắng gom góp những đóa hoa lòng đượm sắc màu tin yêu để dâng kính Đức Mẹ, nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.
Người ta nhút nhát mà khiếp sợ, không dám bảo vệ sự thật, không dám bảo vệ công lý. Đó là “phong cách” của những người quan niệm rằng “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Đó là động thái thờ ơ. Thờ ơ là vô cảm, thờ ơ là lỗi đức ái, thờ ơ là tội chứ không như chúng ta tưởng. Mà lỗi đức ái là tội nặng, và sẽ bị tống giam trong ngục tối, không ai có thể ra khỏi đó “trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5:26). Kinh khủng quá, lạy Chúa tôi!
TRẦM THIÊN THU
Thư Ngỏ
(gửi các LM, GM, tu sĩ công giáo về việc lên tiếng bênh vục cho công lý và sự an nguy của đồng bào)
Kính thưa quý LM, quý thầy sáu tại giáo phận San Jose Và HĐGMVN
Tôi đã gửi thư vài lần cho các TGM VN, vài LM ở VN cũng như San Jose mà tôi có địa chỉ e-mail. Không ai trả lời tôi thì nay tôi đành đưa lên cánh đồng thiếu thợ gặt vậy. Xin thông cảm cho tôi nhé.
Tôi là một giáo dân tại San Jose.
Tôi rất buồn khi thấy sự thờ ơ vô cảm của quý vị về việc Cá Chết vì chất độc đã xả ra môi trường qúa rộng lớn, độc hại đã tràn lan khắp trên vùng biển trải dài trên cả ngàn cây số bờ biển nước ta. Có thể đưa đến nạn đói cho toàn dân cả nước, ngoại trừ đám cán bộ VC.
Khắp nơi từ trong nước ra đến Hải Ngoại. Người dân nôn nóng xuống đường đòi quyền được sống trong môi trường trong sạch, họ đã bị đánh sưng mặt , bể đầu mà chẳng hiểu sao quý vị vẫn có thể bình chân như vại, chẳng khác nào những thầy Tế, những kinh sư khi qua đường thấy một người bộ hành bị hoạn nạn, cướp bóc, hành hung mà họ đã phớt lờ, bỏ mặc; cuối cùng thì một kẻ ngoại người Samaritano đã ra tay cứu chữa, đưa đi gửi nơi điều trị ...
Hình ảnh của quý vị trong đầu tôi, y như những thầy tư tế trong kinh thánh vậy ! Thế thì các vị thực thi lời Kinh Chúa dậy ở chỗ nào ???
Kính mến Chúa yêu thương người ở chỗ nào ?
Ông nào cũng tôi bận, tôi bận !!! Tôi bận thì cũng sai mấy ông trong Ban Mục Vụ nhà thờ lo vài trăm cây nến rồi thắp lên với một lời Kinh cầu khẩn với tâm tình thật lòng hướng về quê hương cũng được vậy ! Hay là tất cả cha con đều bận ?
Ở Hải Ngoại,
Các ông cũng là người Tỵ Nạn, cũng trốn chạy chế độ cộng Sản vậy ! Các ông cũng mang danh nghĩa Tỵ Nạn để được sống ở Hoa Kỳ quê Hương tạm dung này như mọi người vậy ! Nếu không mang danh nghĩa Tỵ Nạn thì các ông có được vào Mỹ không ???
Chắc chắn là không ! Tại sao các ông dễ quên mau đến thế ?!
Nếu nói là bận thì có lẽ những thằng bố đời như chúng tôi còn phải lo vợ, lo con, lo cơm áo gạo tiền cho con, cho cháu hơn các ông nhiều. Chúng tôi vẫn có thể đi tham dự với đồng bào những buổi thắp nến yểm trợ tinh thần cho đồng bào trong nước nhiều lần, nhiều năm, nhiều tháng mà nếu nói không ngoa thì cả mấy chục năm chúng tôi rất hiếm khi thấy có vài ông LM tham gia với đồng bào trong các dịp như vậy !
Một em SV công giáo tranh đấu ở trong nước trước đây, ngày hôm nay tham dự buổi thắp nến với đồng bào đã phát biểu rằng : Khi ở trong nước nhìn thấy những hình ảnh các cô chú bác ở Hải Ngoại biểu tình, hỗ trợ tinh thần cho chúng con những người tranh đấu ở trong nước cảm thấy ấm lòng và lên tinh thần vô cùng. Hôm nay con đến đây tham dự với quý cô chú bác ở đây, hướng về quê hương đang đau khổ con thấy vui mừng phấn khởi lắm. Con biết đồng bào trong nước đang mong chờ.
Thưa quý LM. Nếu quý ngài mà hiện diện hai hoặc ba vị ở nơi biểu tình vài phút thì những người biểu tình cũng ấm lòng lắm và nơi đây mới chính là cánh đồng đầy lúa chín mà thiếu thợ gặt !
Nơi đây mới cần thợ đến gặt !
Chủ chiên, chúa chiên thì bỏ 99 con chiên ở bầy để mà đi tìm con chiên lạc để đưa về, để cõng về. Đó mới là hình ảnh của Chúa chiên lành !
Nếu bận một lần không sao ! Bận vài lần không sao !
Nhưng bận triền miên khói lửa !
Bận hết năm này qua năm khác !
Bận cả mấy chục năm !
Bận hết thế hệ già đến thế hệ trẻ !
Đúng là vườn cỗi, cây không còn đâm trái lành, có lẽ phải đem đốn đi vứt vào lửa như Phúc Âm nói.
Thầy dở thì làm sao có trò hay ?
Dở từ trên xuống dưới !
Dở từ già đến trẻ !
Dở từ LM đến thầy sáu !
Chỉ vì sợ không dám mở miệng để nói lên những sự thật đau lòng mà không ai dám mở miệng !
Miệng chỉ mở để quyên tiền !
Tiền để làm gì ? !!!
Để ra tòa ? Để trả tiền sờ mó trái phép ư ???
Đừng quyên tiền nữa !!
Đừng bao giờ quyên tiền hai, hoặc ba lần trong Thánh Lễ nữa !
Anh nào đi Tu mà còn lung tung thì ra đi, không thì mặc họ đi tù đi !
Không ai bắt quý vị đi TU !
Quý vị đi Tu vì muốn để vinh danh quý vị, vinh danh bố mẹ quý vị, để bố mẹ quý vị làm ông bà cố ?
Có xứng đáng không khi quý vị không bằng những người không đi tu ??? Tại sao các nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế có nhiều Tân Tòng ? Có nhiều người đến xin theo Chúa thế ???
Có phải vì họ giầu tiền bạc hơn quý vị ở đây không ? Lương nhiều hơn quý vị ở đây không ???
Xin thưa là không 100% là không !
Nhưng chắc chắn là họ tốt lành, họ can đảm hơn quý vị ở đây cả ngàn lần ! Họ dám giảng, dám chia sẻ những sự thật phũ phàng, lên án bọn cầm quyền bán nước, những lời chính đáng công khai, không sợ sệt. Họ dám bênh đỡ người cô thế bất kể nguy hiểm. Họ chính là hình ảnh Mẫu Mực của chủ chiên, chúa chiên, họ dám liều mạng sống vì chiên ! Họ không hèn nhát như quý vị !
Họ còn rất trẻ.
Tại sao họ can đảm vậy ?
Tại sao họ giỏi vậy ?
Xin thưa là họ có thầy giỏi. Mà thầy giỏi thì trò phải giỏi !
Những Đấng ấy mới xứng đáng làm Giám Mục. Còn như đại đa số Hội Đồng GMVN như bây giờ thì nên ném vào lửa như Phúc Âm nói.
Tổng GM Chủ Tịch Bùi văn Đọc thì nên vứt đi ! Nhà thờ Đức Bà là đại bản doanh của ông. đồng bào biểu tình đông như thế, bị đánh đập tàn bạo như thế mà ông không thấy sao ? Hay ông thấy mà ông phải im để được yên vị, tại chức ngồi ở Tòa GM T/P tên Hồ.
Ông viết một lá thư không nên viết.
Một là thư mà từ lương đến giáo, không ai buồn muốn đọc !
Giọng điệu giống y như bọn buôn dân bán nước ở Hà Nội ngày nay ?
Ông Hồng Y Nhơn cũng vậy ?
Ông không khác gì Cain !
Nhiều khẩu hiệu đã đập vào mắt ông Ở nhà thờ khi ông chịu chức !
EM ngươi giờ ở Đâu ?
Các ông mặt chai lỳ không khác gì bọn cầm quyền ở Hà Nội !!!
Bọn nó làm lỗi, cướp đất của dân bán đất, bán chỗ cho Tầu Cộng mấy chục năm để làm nhà máy gây tác hại cho đất nước, bán nơi hiểm yếu chiến lược cho giặc Tầu, nhưng có đứa nào nhận lỗi mà từ chức đâu ! Chỗ tốt, béo bở quá mà, sao mà từ chức được ? !
Các ông thì thật chẳng khác gì ?
Thưa quý vị.
Tôi biết tôi sẽ bị búa rìu dư luận từ đồng đạo, từ những người nhìn ông cha là Chúa, nhìn ông sư là Phật, những kẻ thấy người có chức tước là sợ.
Tôi chấp nhận búa rìu dư luận khi viết bài này,
Tôi chấp nhận ngồi tọa kháng dơ mặt để cho các ông vả tôi, như đồng bào trong nước ngồi chấp nhận cho Việt gian, VC vả họ vậy. Miễn là trả biển sạch, trả cá không bị ô nhiễm cho họ !
Còn tôi thì các ông hãy trả lại ĐTGM Kiệt lại cho TGP Hà Nội.
Các GM im lặng không dám nói, không dám làm gương thì nên về vườn để trống chỗ, để Mũ Gậy lai cho các LM Dòng Chúa Cứu Thế trám vào các chỗ đó đi. Các vị có nhớ ngày xưa chức GM là do dân chúng bầu lên không ? Dân đã hô vang Ambrocio Giám Mục.
Ambrocio Giám mục đó có đúng không ???
Thưa quý vị.
Sự thật mất lòng. Tôi cực đắng lòng để nói lên những sự thật đau lòng mà từ lâu tôi không muốn nói lên nhưng mãi mấy chục năm nên tôi phải nói thôi.
Con xin lỗi Đức Cha Long ( Úc Châu )
Xin Lỗi GM NT Hợp xin ngài hãy can đảm lên, noi gương vị tiền nhiệm để chúng tôi lấy lại niềm tin nơi ngài.
Xin đừng để chúng tôi thất vọng như vài năm tháng trước đây.
Cám ơn ngài đã viết bức thư mới đây nhất. (tháng 5-2016)
Nhưng xin ngài dấn thân thêm nữa. Xin noi gương can đảm, hằng thánh thiện của vị tiền nhiệm, Đức Cha Cao đình Thuyên, sự khôn ngoan vững vàng của Đức Cha Oanh mà mọi giáo dân, mọi đồng bào từ lương đến giáo đều nghe tiếng và mộ mến, kính phục.
Con xin lỗi quý cha Dòng chúa Cứu Thế và một số cha rất can đảm ở VN.
Con xin lỗi quý cụ ông, cụ bà đạo đức thật lòng kính Chúa, yêu Giáo Hội.
Tôi xin lỗi quý ông bà anh chị em vì tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi vì tôi dám nói lên những sự thật đau lòng này.
Vì vậy kính xin ông bà, anh chị em cầu bầu cho tôi trước mặt Thiên Chúa, Chúa chúng ta Amen.
Vũ Huynh Trưởng
(gửi các LM, GM, tu sĩ công giáo về việc lên tiếng bênh vục cho công lý và sự an nguy của đồng bào)
Kính thưa quý LM, quý thầy sáu tại giáo phận San Jose Và HĐGMVN
Tôi đã gửi thư vài lần cho các TGM VN, vài LM ở VN cũng như San Jose mà tôi có địa chỉ e-mail. Không ai trả lời tôi thì nay tôi đành đưa lên cánh đồng thiếu thợ gặt vậy. Xin thông cảm cho tôi nhé.
Tôi là một giáo dân tại San Jose.
Tôi rất buồn khi thấy sự thờ ơ vô cảm của quý vị về việc Cá Chết vì chất độc đã xả ra môi trường qúa rộng lớn, độc hại đã tràn lan khắp trên vùng biển trải dài trên cả ngàn cây số bờ biển nước ta. Có thể đưa đến nạn đói cho toàn dân cả nước, ngoại trừ đám cán bộ VC.
Khắp nơi từ trong nước ra đến Hải Ngoại. Người dân nôn nóng xuống đường đòi quyền được sống trong môi trường trong sạch, họ đã bị đánh sưng mặt , bể đầu mà chẳng hiểu sao quý vị vẫn có thể bình chân như vại, chẳng khác nào những thầy Tế, những kinh sư khi qua đường thấy một người bộ hành bị hoạn nạn, cướp bóc, hành hung mà họ đã phớt lờ, bỏ mặc; cuối cùng thì một kẻ ngoại người Samaritano đã ra tay cứu chữa, đưa đi gửi nơi điều trị ...
Hình ảnh của quý vị trong đầu tôi, y như những thầy tư tế trong kinh thánh vậy ! Thế thì các vị thực thi lời Kinh Chúa dậy ở chỗ nào ???
Kính mến Chúa yêu thương người ở chỗ nào ?
Ông nào cũng tôi bận, tôi bận !!! Tôi bận thì cũng sai mấy ông trong Ban Mục Vụ nhà thờ lo vài trăm cây nến rồi thắp lên với một lời Kinh cầu khẩn với tâm tình thật lòng hướng về quê hương cũng được vậy ! Hay là tất cả cha con đều bận ?
Ở Hải Ngoại,
Các ông cũng là người Tỵ Nạn, cũng trốn chạy chế độ cộng Sản vậy ! Các ông cũng mang danh nghĩa Tỵ Nạn để được sống ở Hoa Kỳ quê Hương tạm dung này như mọi người vậy ! Nếu không mang danh nghĩa Tỵ Nạn thì các ông có được vào Mỹ không ???
Chắc chắn là không ! Tại sao các ông dễ quên mau đến thế ?!
Nếu nói là bận thì có lẽ những thằng bố đời như chúng tôi còn phải lo vợ, lo con, lo cơm áo gạo tiền cho con, cho cháu hơn các ông nhiều. Chúng tôi vẫn có thể đi tham dự với đồng bào những buổi thắp nến yểm trợ tinh thần cho đồng bào trong nước nhiều lần, nhiều năm, nhiều tháng mà nếu nói không ngoa thì cả mấy chục năm chúng tôi rất hiếm khi thấy có vài ông LM tham gia với đồng bào trong các dịp như vậy !
Một em SV công giáo tranh đấu ở trong nước trước đây, ngày hôm nay tham dự buổi thắp nến với đồng bào đã phát biểu rằng : Khi ở trong nước nhìn thấy những hình ảnh các cô chú bác ở Hải Ngoại biểu tình, hỗ trợ tinh thần cho chúng con những người tranh đấu ở trong nước cảm thấy ấm lòng và lên tinh thần vô cùng. Hôm nay con đến đây tham dự với quý cô chú bác ở đây, hướng về quê hương đang đau khổ con thấy vui mừng phấn khởi lắm. Con biết đồng bào trong nước đang mong chờ.
Thưa quý LM. Nếu quý ngài mà hiện diện hai hoặc ba vị ở nơi biểu tình vài phút thì những người biểu tình cũng ấm lòng lắm và nơi đây mới chính là cánh đồng đầy lúa chín mà thiếu thợ gặt !
Nơi đây mới cần thợ đến gặt !
Chủ chiên, chúa chiên thì bỏ 99 con chiên ở bầy để mà đi tìm con chiên lạc để đưa về, để cõng về. Đó mới là hình ảnh của Chúa chiên lành !
Nếu bận một lần không sao ! Bận vài lần không sao !
Nhưng bận triền miên khói lửa !
Bận hết năm này qua năm khác !
Bận cả mấy chục năm !
Bận hết thế hệ già đến thế hệ trẻ !
Đúng là vườn cỗi, cây không còn đâm trái lành, có lẽ phải đem đốn đi vứt vào lửa như Phúc Âm nói.
Thầy dở thì làm sao có trò hay ?
Dở từ trên xuống dưới !
Dở từ già đến trẻ !
Dở từ LM đến thầy sáu !
Chỉ vì sợ không dám mở miệng để nói lên những sự thật đau lòng mà không ai dám mở miệng !
Miệng chỉ mở để quyên tiền !
Tiền để làm gì ? !!!
Để ra tòa ? Để trả tiền sờ mó trái phép ư ???
Đừng quyên tiền nữa !!
Đừng bao giờ quyên tiền hai, hoặc ba lần trong Thánh Lễ nữa !
Anh nào đi Tu mà còn lung tung thì ra đi, không thì mặc họ đi tù đi !
Không ai bắt quý vị đi TU !
Quý vị đi Tu vì muốn để vinh danh quý vị, vinh danh bố mẹ quý vị, để bố mẹ quý vị làm ông bà cố ?
Có xứng đáng không khi quý vị không bằng những người không đi tu ??? Tại sao các nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế có nhiều Tân Tòng ? Có nhiều người đến xin theo Chúa thế ???
Có phải vì họ giầu tiền bạc hơn quý vị ở đây không ? Lương nhiều hơn quý vị ở đây không ???
Xin thưa là không 100% là không !
Nhưng chắc chắn là họ tốt lành, họ can đảm hơn quý vị ở đây cả ngàn lần ! Họ dám giảng, dám chia sẻ những sự thật phũ phàng, lên án bọn cầm quyền bán nước, những lời chính đáng công khai, không sợ sệt. Họ dám bênh đỡ người cô thế bất kể nguy hiểm. Họ chính là hình ảnh Mẫu Mực của chủ chiên, chúa chiên, họ dám liều mạng sống vì chiên ! Họ không hèn nhát như quý vị !
Họ còn rất trẻ.
Tại sao họ can đảm vậy ?
Tại sao họ giỏi vậy ?
Xin thưa là họ có thầy giỏi. Mà thầy giỏi thì trò phải giỏi !
Những Đấng ấy mới xứng đáng làm Giám Mục. Còn như đại đa số Hội Đồng GMVN như bây giờ thì nên ném vào lửa như Phúc Âm nói.
Tổng GM Chủ Tịch Bùi văn Đọc thì nên vứt đi ! Nhà thờ Đức Bà là đại bản doanh của ông. đồng bào biểu tình đông như thế, bị đánh đập tàn bạo như thế mà ông không thấy sao ? Hay ông thấy mà ông phải im để được yên vị, tại chức ngồi ở Tòa GM T/P tên Hồ.
Ông viết một lá thư không nên viết.
Một là thư mà từ lương đến giáo, không ai buồn muốn đọc !
Giọng điệu giống y như bọn buôn dân bán nước ở Hà Nội ngày nay ?
Ông Hồng Y Nhơn cũng vậy ?
Ông không khác gì Cain !
Nhiều khẩu hiệu đã đập vào mắt ông Ở nhà thờ khi ông chịu chức !
EM ngươi giờ ở Đâu ?
Các ông mặt chai lỳ không khác gì bọn cầm quyền ở Hà Nội !!!
Bọn nó làm lỗi, cướp đất của dân bán đất, bán chỗ cho Tầu Cộng mấy chục năm để làm nhà máy gây tác hại cho đất nước, bán nơi hiểm yếu chiến lược cho giặc Tầu, nhưng có đứa nào nhận lỗi mà từ chức đâu ! Chỗ tốt, béo bở quá mà, sao mà từ chức được ? !
Các ông thì thật chẳng khác gì ?
Thưa quý vị.
Tôi biết tôi sẽ bị búa rìu dư luận từ đồng đạo, từ những người nhìn ông cha là Chúa, nhìn ông sư là Phật, những kẻ thấy người có chức tước là sợ.
Tôi chấp nhận búa rìu dư luận khi viết bài này,
Tôi chấp nhận ngồi tọa kháng dơ mặt để cho các ông vả tôi, như đồng bào trong nước ngồi chấp nhận cho Việt gian, VC vả họ vậy. Miễn là trả biển sạch, trả cá không bị ô nhiễm cho họ !
Còn tôi thì các ông hãy trả lại ĐTGM Kiệt lại cho TGP Hà Nội.
Các GM im lặng không dám nói, không dám làm gương thì nên về vườn để trống chỗ, để Mũ Gậy lai cho các LM Dòng Chúa Cứu Thế trám vào các chỗ đó đi. Các vị có nhớ ngày xưa chức GM là do dân chúng bầu lên không ? Dân đã hô vang Ambrocio Giám Mục.
Ambrocio Giám mục đó có đúng không ???
Thưa quý vị.
Sự thật mất lòng. Tôi cực đắng lòng để nói lên những sự thật đau lòng mà từ lâu tôi không muốn nói lên nhưng mãi mấy chục năm nên tôi phải nói thôi.
Con xin lỗi Đức Cha Long ( Úc Châu )
Xin Lỗi GM NT Hợp xin ngài hãy can đảm lên, noi gương vị tiền nhiệm để chúng tôi lấy lại niềm tin nơi ngài.
Xin đừng để chúng tôi thất vọng như vài năm tháng trước đây.
Cám ơn ngài đã viết bức thư mới đây nhất. (tháng 5-2016)
Nhưng xin ngài dấn thân thêm nữa. Xin noi gương can đảm, hằng thánh thiện của vị tiền nhiệm, Đức Cha Cao đình Thuyên, sự khôn ngoan vững vàng của Đức Cha Oanh mà mọi giáo dân, mọi đồng bào từ lương đến giáo đều nghe tiếng và mộ mến, kính phục.
Con xin lỗi quý cha Dòng chúa Cứu Thế và một số cha rất can đảm ở VN.
Con xin lỗi quý cụ ông, cụ bà đạo đức thật lòng kính Chúa, yêu Giáo Hội.
Tôi xin lỗi quý ông bà anh chị em vì tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi vì tôi dám nói lên những sự thật đau lòng này.
Vì vậy kính xin ông bà, anh chị em cầu bầu cho tôi trước mặt Thiên Chúa, Chúa chúng ta Amen.
Vũ Huynh Trưởng
Xây Chùa, đúc tượng
“...Miếng cơm trắng, mồ hôi tín thí,
Mảnh y vàng, nước mắt đàn na!”
Trước đây ít lâu trên trang Phụ Nữ Người Việt, trong mục tâm tình, một phụ nữ đã than phiền về một ngôi nhà hàng xóm của bà, một ngày kia, bỗng dưng biến thành một ngôi Chùa. Việc này không có gì lạ, nếu không có câu chuyện tiếp theo, là xe cộ bắt đầu đậu dầy đặc, lấn chiếm vào khu vực của nhà bà và làm mất sự yên tĩnh của một khu phố lặng lẽ ngày trước.
Nói đến Chùa là nói đến thanh tịnh, bình yên.
Ngày xưa còn nhỏ, khi có dịp đi thăm viếng những cảnh chùa chiền trong những vùng quê hay bên những ngọn đồi, ven sông yên tĩnh, tôi vẫn mơ ước, phải chi lớn lên, mình có được một ngôi nhà ở cạnh Chùa để được hưởng cái không khí thánh thiện, trầm mặc, tránh xa những xô bồ, bon chen của cuộc đời thường.
Nhưng ngày nay Chùa cần phải ở ngay phố thị, gần chợ chừng nào hay chừng đấy, trước hết cho đủ số tín đồ lui tới nuôi sống Chùa, còn như xây Chùa ở chốn cùng cốc lam sơn, lấy đâu ra tương chao, dầu đèn chi dụng mỗi ngày.
Hãy về vùng quận Cam, Nam Cali mà người đời thường nôm na gọi là khu Bolsa để xem sự phát triển của chùa chiền. Có những ngôi nhà nhỏ, nằm khiêm nhường trong một con đường nhỏ, một ngày kia, lái xe ngang qua, dù không nhằm ngày lễ lược, tôi bỗng nhận ra, trước cửa nhà treo hai ngọn đại kỳ, một của Việt, một của Mỹ. Một tháng sau, xe cần trục chở về đây một tượng Phật Quán Thế Âm hay Phật A Di Đà lớn, toạ lạc chính giữa sân, ngay cổng đi vào, và sau đó nhiều lá cờ ngũ sắc Phật Giáo được treo lên, đó là ngày ra đời một ngôi Chùa Phật Giáo trên đất Mỹ.
Có Chùa, tất là có người muốn kiếm phước. Vào Chùa việc đầu tiên của tín đồ là đi tìm “thùng phước sương,” ở Mỹ có ghi rõ “Donation” cho ngay cả Mỹ cũng biết. Mười năm trở lại đây, Chùa chiền phát triển rất nhanh, nhiều Chùa mới được dựng lên, nhiều Chùa nhỏ hay cũ được phá bỏ để xây lại Chùa mới hơn, đẹp hơn. Phật sự dành cho người chết, nghi lễ an táng, cầu siêu, cho người sống: cầu an, cầu phước. Mỗi Chùa, một Thầy. Không hề có tăng đoàn, không hề có nơi cho người dốc lòng tu học. Hầu hết sinh hoạt của nhà chùa là lễ lược, phát tang, cầu siêu, cầu an, bùa chú, xin xăm. Điều gì làm cho người khác mà thu tiền vào được, thế gian đặt tên là “dịch vụ!”
Chùa treo cờ VNCH, tức là cờ quốc gia, hễ ai chê Thầy, biểu tình chống lại chuyện bê bối, đạo đức của nhà Chùa, tức là “Việt Cộng,” hay tệ lắm cũng “tay sai Việt Cộng” đang tìm cách đánh phá, triệt hạ...quốc gia.
Hoà Thượng Thích Tuyên Hoá, một nhà sư gốc Trung Hoa đã đến San Francisco, Hoa Kỳ năm 1962, thành lập Tu Viện Kim Sơn và sau đó là Vạn Phật thánh Thành, ông chủ trương thành lập tăng đoàn tại Tây phương, với hơn hai trăm giới tử với nhiều quốc tịch đã xuất gia, thọ giới dưới sự chỉ dạy của Sư. Trong cuốn Thị Luận, (*) ông đã lên án, việc người xuất gia “sống một mình một chùa:”
“Người xuất gia sống một mình một chùa, xưng vương xưng bá, làm vua một cõi. Người tại gia do thiếu Trạch Pháp Nhãn nên đi theo hộ Pháp cho họ, hộ tới hộ lui, và hộ luôn xuống địa ngục!
Vào thời kỳ Chánh Pháp, tất cả đại chúng đều sống chung trong một đại tùng lâm của chùa, và cùng nhau dụng công tu Đạo. Song, vào thời kỳ Mạt Pháp, người ta lại không thích nề nếp sinh hoạt của đại tùng lâm nữa. Mỗi người đều ở một chùa riêng - ông theo cách của ông, tôi theo cách của tôi - khiến cho người tại gia trở nên hoang mang, bối rối. Họ thấy ông Sư nầy tướng mạo trông đẹp đẽ bèn hộ pháp cho ông ta, xây chùa riêng cho ông ta trụ trì. Rồi sau đó lại thấy một vị Sư khác cũng không tệ lắm, họ lại xây cho vị đó một ngôi chùa nữa. Hộ tới hộ lui, rốt cuộc là làm cho những người xuất gia sanh lòng tham danh hám lợi đến nỗi phải hoàn tục!”
Từ bộ nâu sồng, y trang của quý Vi tăng ni, ngày nay, như ở Việt Nam, càng ngày càng kiểu cách, lộng lẫy. Người xuất gia, phế bỏ việc đời, nhưng đi đâu cũng lọng choé, vòng hoa và có người làm hàng rào danh dự, ngất ngưỡng, dành phần cao để an vị.
Ngày nay Chùa mất hết vẻ thanh tịnh, mà trở thành nơi xôn xao. Nhiều người cho rằng những chuyện tổ chức ca nhạc, gây quỹ, xổ số, bán đấu giá... để gây quỹ không nên có ở trong sân nhà Chùa. Ồn ào, vọng động hơn nữa còn có đốt pháo, múa lân, đại nhạc hội với bích chương mang hình mỹ nữ... Chùa cần vận động đông đảo thiện nam, tín nữ đến Chùa để mong Chùa càng ngày càng phát triển, và có người nghĩ Chùa càng nhiều, Phật Phật Tử đông là dấu hiệu Phật Giáo phát triển.
Buổi đầu sư tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) đặt chân đến Trung Quốc, có buổi gặp gỡ với Vua Lương Vũ Đế. Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây nhiều chùa chiền, bảo tháp. Vũ Đế hỏi Đức Bồ Đề Đạt Ma:
-“Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?”
Đạt Ma đáp:
- “Không có công đức gì!”
Vua lại hỏi:
- “Vậy công đức chân thật là gì?”
Sư đáp:
- “Trí phải được Thanh Tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không hoàn toàn, như vậy mới là công đức.”
Tâm trí người tu hành nếu xôn xao, vọng động theo sắt thép, gạch gỗ, tính toán cộng trừ nhân chia, lo sắp xếp lễ lạt thì trí làm sao thanh tịnh. Thầy cũng để lòng kẻ thương, người ghét, người cúng dường lui tới, kẻ ba trăm tấn thóc, người vỏn vẹn có một bơ gạo; người nghìn lít dầu, kẻ một ngọn đèn nhỏ, làm sao để lòng trống không, không thiên vị công đức. Vì vậy, làm công đức cũng bon chen.
Xây Chùa, đúc tượng là công đức, thì giữa tỷ phú, đại gia và “bà già cúng đèn” khốn khổ, ai hơn ai?
“...Miếng cơm trắng, mồ hôi tín thí,
Mảnh y vàng, nước mắt đàn na!”
Trước đây ít lâu trên trang Phụ Nữ Người Việt, trong mục tâm tình, một phụ nữ đã than phiền về một ngôi nhà hàng xóm của bà, một ngày kia, bỗng dưng biến thành một ngôi Chùa. Việc này không có gì lạ, nếu không có câu chuyện tiếp theo, là xe cộ bắt đầu đậu dầy đặc, lấn chiếm vào khu vực của nhà bà và làm mất sự yên tĩnh của một khu phố lặng lẽ ngày trước.
Nói đến Chùa là nói đến thanh tịnh, bình yên.
Ngày xưa còn nhỏ, khi có dịp đi thăm viếng những cảnh chùa chiền trong những vùng quê hay bên những ngọn đồi, ven sông yên tĩnh, tôi vẫn mơ ước, phải chi lớn lên, mình có được một ngôi nhà ở cạnh Chùa để được hưởng cái không khí thánh thiện, trầm mặc, tránh xa những xô bồ, bon chen của cuộc đời thường.
Nhưng ngày nay Chùa cần phải ở ngay phố thị, gần chợ chừng nào hay chừng đấy, trước hết cho đủ số tín đồ lui tới nuôi sống Chùa, còn như xây Chùa ở chốn cùng cốc lam sơn, lấy đâu ra tương chao, dầu đèn chi dụng mỗi ngày.
Hãy về vùng quận Cam, Nam Cali mà người đời thường nôm na gọi là khu Bolsa để xem sự phát triển của chùa chiền. Có những ngôi nhà nhỏ, nằm khiêm nhường trong một con đường nhỏ, một ngày kia, lái xe ngang qua, dù không nhằm ngày lễ lược, tôi bỗng nhận ra, trước cửa nhà treo hai ngọn đại kỳ, một của Việt, một của Mỹ. Một tháng sau, xe cần trục chở về đây một tượng Phật Quán Thế Âm hay Phật A Di Đà lớn, toạ lạc chính giữa sân, ngay cổng đi vào, và sau đó nhiều lá cờ ngũ sắc Phật Giáo được treo lên, đó là ngày ra đời một ngôi Chùa Phật Giáo trên đất Mỹ.
Có Chùa, tất là có người muốn kiếm phước. Vào Chùa việc đầu tiên của tín đồ là đi tìm “thùng phước sương,” ở Mỹ có ghi rõ “Donation” cho ngay cả Mỹ cũng biết. Mười năm trở lại đây, Chùa chiền phát triển rất nhanh, nhiều Chùa mới được dựng lên, nhiều Chùa nhỏ hay cũ được phá bỏ để xây lại Chùa mới hơn, đẹp hơn. Phật sự dành cho người chết, nghi lễ an táng, cầu siêu, cho người sống: cầu an, cầu phước. Mỗi Chùa, một Thầy. Không hề có tăng đoàn, không hề có nơi cho người dốc lòng tu học. Hầu hết sinh hoạt của nhà chùa là lễ lược, phát tang, cầu siêu, cầu an, bùa chú, xin xăm. Điều gì làm cho người khác mà thu tiền vào được, thế gian đặt tên là “dịch vụ!”
Chùa treo cờ VNCH, tức là cờ quốc gia, hễ ai chê Thầy, biểu tình chống lại chuyện bê bối, đạo đức của nhà Chùa, tức là “Việt Cộng,” hay tệ lắm cũng “tay sai Việt Cộng” đang tìm cách đánh phá, triệt hạ...quốc gia.
Hoà Thượng Thích Tuyên Hoá, một nhà sư gốc Trung Hoa đã đến San Francisco, Hoa Kỳ năm 1962, thành lập Tu Viện Kim Sơn và sau đó là Vạn Phật thánh Thành, ông chủ trương thành lập tăng đoàn tại Tây phương, với hơn hai trăm giới tử với nhiều quốc tịch đã xuất gia, thọ giới dưới sự chỉ dạy của Sư. Trong cuốn Thị Luận, (*) ông đã lên án, việc người xuất gia “sống một mình một chùa:”
“Người xuất gia sống một mình một chùa, xưng vương xưng bá, làm vua một cõi. Người tại gia do thiếu Trạch Pháp Nhãn nên đi theo hộ Pháp cho họ, hộ tới hộ lui, và hộ luôn xuống địa ngục!
Vào thời kỳ Chánh Pháp, tất cả đại chúng đều sống chung trong một đại tùng lâm của chùa, và cùng nhau dụng công tu Đạo. Song, vào thời kỳ Mạt Pháp, người ta lại không thích nề nếp sinh hoạt của đại tùng lâm nữa. Mỗi người đều ở một chùa riêng - ông theo cách của ông, tôi theo cách của tôi - khiến cho người tại gia trở nên hoang mang, bối rối. Họ thấy ông Sư nầy tướng mạo trông đẹp đẽ bèn hộ pháp cho ông ta, xây chùa riêng cho ông ta trụ trì. Rồi sau đó lại thấy một vị Sư khác cũng không tệ lắm, họ lại xây cho vị đó một ngôi chùa nữa. Hộ tới hộ lui, rốt cuộc là làm cho những người xuất gia sanh lòng tham danh hám lợi đến nỗi phải hoàn tục!”
Từ bộ nâu sồng, y trang của quý Vi tăng ni, ngày nay, như ở Việt Nam, càng ngày càng kiểu cách, lộng lẫy. Người xuất gia, phế bỏ việc đời, nhưng đi đâu cũng lọng choé, vòng hoa và có người làm hàng rào danh dự, ngất ngưỡng, dành phần cao để an vị.
Ngày nay Chùa mất hết vẻ thanh tịnh, mà trở thành nơi xôn xao. Nhiều người cho rằng những chuyện tổ chức ca nhạc, gây quỹ, xổ số, bán đấu giá... để gây quỹ không nên có ở trong sân nhà Chùa. Ồn ào, vọng động hơn nữa còn có đốt pháo, múa lân, đại nhạc hội với bích chương mang hình mỹ nữ... Chùa cần vận động đông đảo thiện nam, tín nữ đến Chùa để mong Chùa càng ngày càng phát triển, và có người nghĩ Chùa càng nhiều, Phật Phật Tử đông là dấu hiệu Phật Giáo phát triển.
Buổi đầu sư tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) đặt chân đến Trung Quốc, có buổi gặp gỡ với Vua Lương Vũ Đế. Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây nhiều chùa chiền, bảo tháp. Vũ Đế hỏi Đức Bồ Đề Đạt Ma:
-“Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?”
Đạt Ma đáp:
- “Không có công đức gì!”
Vua lại hỏi:
- “Vậy công đức chân thật là gì?”
Sư đáp:
- “Trí phải được Thanh Tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không hoàn toàn, như vậy mới là công đức.”
Tâm trí người tu hành nếu xôn xao, vọng động theo sắt thép, gạch gỗ, tính toán cộng trừ nhân chia, lo sắp xếp lễ lạt thì trí làm sao thanh tịnh. Thầy cũng để lòng kẻ thương, người ghét, người cúng dường lui tới, kẻ ba trăm tấn thóc, người vỏn vẹn có một bơ gạo; người nghìn lít dầu, kẻ một ngọn đèn nhỏ, làm sao để lòng trống không, không thiên vị công đức. Vì vậy, làm công đức cũng bon chen.
Xây Chùa, đúc tượng là công đức, thì giữa tỷ phú, đại gia và “bà già cúng đèn” khốn khổ, ai hơn ai?
Gương Mẫu Của Kẻ Tu Hành
Tám năm sau ngày chịu chức, cha FX. Nguyễn Đức Nhật – dòng Saledieng Don Bosco đã mạnh dạn ra đi phục vụ nơi miền đất châu Phi xa xôi. Cho đến nay, hành trình ấy vẫn chưa dừng lại
Đáp lại ơn gọi
Ngày còn học phổ thông, nhiều lần chứng kiến cảnh đau đớn do bệnh tật của người dì, cha Nhật ao ước sau này lớn lên sẽ trở thành bác sĩ để cứu người. Tốt nghiệp lớp 12, cha đạt loại giỏi và là một trong hai học sinh có kết quả cao nhất trường. Đó là một niềm khích lệ lớn lao để cha theo đuổi ước mơ thuở bé, tiếc rằng kỳ thi Đại học Y năm đó kết quả không như ý muốn. Tuy nhiên, cha lại nhận được học bổng vào trường Trung học Y tế TƯ 3 nên đã vừa học, vừa dành thời gian ôn luyện để thi vào năm sau.
Đáp lại ơn gọi
Ngày còn học phổ thông, nhiều lần chứng kiến cảnh đau đớn do bệnh tật của người dì, cha Nhật ao ước sau này lớn lên sẽ trở thành bác sĩ để cứu người. Tốt nghiệp lớp 12, cha đạt loại giỏi và là một trong hai học sinh có kết quả cao nhất trường. Đó là một niềm khích lệ lớn lao để cha theo đuổi ước mơ thuở bé, tiếc rằng kỳ thi Đại học Y năm đó kết quả không như ý muốn. Tuy nhiên, cha lại nhận được học bổng vào trường Trung học Y tế TƯ 3 nên đã vừa học, vừa dành thời gian ôn luyện để thi vào năm sau.
Vừa mới lên Sài Gòn trọ học, cha “bị” một số bạn trẻ ở giáo xứ Thánh Khang, quận Thủ Đức rủ tham gia sinh hoạt vào các hoạt động dành cho giới trẻ tại đây. Không ngờ, từ đó lại khởi đầu con đường dấn thân của cha. Thấy cậu thiếu niên bề ngoài thánh thiện, bên trong ngoan hiền, có tố chất của một tu sĩ nên nhiều người, trong đó có người dì là một nữ tu dòng Đa Minh Rosa Lima khuyến khích cậu thử tìm hiểu ơn gọi. Ban đầu chỉ xem đó như là một “thử thách” mới, tuy nhiên, càng đi sâu tìm hiểu một số dòng, cha càng cảm nhận “Tình yêu Giêsu” từ trong đáy lòng. Nhất là khi đến với dòng Don Bosco, cha bị tinh thần của dòng chinh phục hoàn toàn. Từ đó, chàng sinh viên trẻ ngày đêm chuyên tâm ôn luyện để thi vào ngành kỹ thuật nhằm sau này phục vụ cho giới trẻ như tinh thần của vị sáng lập dòng... Tình yêu với nghề vẫn còn, nhưng nay được gác lại để phục vụ cho một tình yêu lớn hơn nhiều - Tình yêu Giêsu.
Đang học năm thứ hai ĐH Sư phạm Kỹ thuật, cha được nhận vào nhà tập. Bởi khi đó cha đã lớn tuổi, nếu học xong sẽ quá tuổi giới hạn của nhà dòng. Trước hai con đường : ở lại tiếp tục học, hoặc theo ơn gọi khiến cha suy nghĩ rất nhiều. Sau cùng chàng trai FX. Nguyễn Đức Nhật quyết định tiếp tục theo đuổi ơn gọi vì lúc bấy giơ, “Tình yêu Giêsu” lớn hơn mọi thứ.
Đang học năm thứ hai ĐH Sư phạm Kỹ thuật, cha được nhận vào nhà tập. Bởi khi đó cha đã lớn tuổi, nếu học xong sẽ quá tuổi giới hạn của nhà dòng. Trước hai con đường : ở lại tiếp tục học, hoặc theo ơn gọi khiến cha suy nghĩ rất nhiều. Sau cùng chàng trai FX. Nguyễn Đức Nhật quyết định tiếp tục theo đuổi ơn gọi vì lúc bấy giơ, “Tình yêu Giêsu” lớn hơn mọi thứ.
Vốn là người thích dấn thân, có “máu” khám phá, chẳng ngại va chạm nên trong thời gian ở Nhà dòng, cha có dịp gặp gỡ và được một số cha bề trên nước ngoài chịu trách nhiệm về ơn gọi truyền giáo khích lệ đi phục vụ ở những quốc gia khác. Dòng Don Bosco vốn luôn chú trọng mảng này nên từ trước đó, khi còn tìm hiểu, từ trong suy nghĩ của chàng dự tu trẻ đã có ý hướng “đi ra”. Đến thời gian học Triết, một lần nữa được các bề trên mời gọi, thầy Nhật xác định: “Là ý muốn của Chúa thì bản thân không thể chối từ”. Tuy nhiên, sau đó, cha được dòng cử qua du học ở Phillippines. Trong thời gian 6 năm ở đây, cha mới viết thư cho cha Bề trên Cả và bày tỏ mong muốn của bản thân. Liền sau đó được ngài chấp nhận.
Khi về Việt Nam chịu chức linh mục năm 2008, cha được bài sai sang làm việc ở Phi châu. Sau khi sang Italia nhận Thánh giá Truyền giáo, cha phục vụ ở đất nước Sudan.
Những tháng ngày hạnh phúc
Trước khi lên đường sang châu Phi, dù đã đọc nhiều tài liệu nói về vùng đất còn rất nhiều khó khăn, bất ổn về chính trị nên đã chuẩn bị tâm lý vững vàng, nhưng khi vừa đặt chân đến Khartoum, thủ đô Sudan, cảm giác đầu tiên thoáng qua của vị linh mục trẻ là sợ hãi, xen với đó là sự ngột ngạt bởi khí hậu quá nóng, mọi thứ đều xa lạ. “Lúc mới làm việc với người da đen tôi rất sợ, vì tính tình người ở đây khá nóng nảy, rất dễ xảy ra xung đột. Trong khi bản thân thì chưa biết gì về ngôn ngữ và văn hóa của họ”, cha kể.
Những tháng ngày hạnh phúc
Trước khi lên đường sang châu Phi, dù đã đọc nhiều tài liệu nói về vùng đất còn rất nhiều khó khăn, bất ổn về chính trị nên đã chuẩn bị tâm lý vững vàng, nhưng khi vừa đặt chân đến Khartoum, thủ đô Sudan, cảm giác đầu tiên thoáng qua của vị linh mục trẻ là sợ hãi, xen với đó là sự ngột ngạt bởi khí hậu quá nóng, mọi thứ đều xa lạ. “Lúc mới làm việc với người da đen tôi rất sợ, vì tính tình người ở đây khá nóng nảy, rất dễ xảy ra xung đột. Trong khi bản thân thì chưa biết gì về ngôn ngữ và văn hóa của họ”, cha kể.
Tại đây, cha làm quản lý một trường kỹ thuật với khoảng 500 học sinh và toàn bộ giáo viên trong trường. Do trường nằm trong lãnh thổ của người Hồi giáo nên các hoạt động chỉ gói gọn trong trường học, không được làm mục vụ và giảng dạy niềm tin Công giáo. Vị linh mục dạn dày nắng gió nhớ lại: “Bản thân ra sức làm việc, luôn chu toàn ổn thỏa nhưng không khi nào nhận được một lời khích lệ hay động viên, do đó nhiều khi không tránh khỏi cảm giác buồn tủi. Những khi đó chỉ biết nhìn lên Thánh Giá Chúa chịu đóng đinh, lấy đó làm gương sáng và hạnh phúc nội tâm, cùng nguồn động lực để bản thân bước tiếp…”. Khó chồng thêm khó khi hầu như tháng nào cha cũng dính phải căn bệnh Malaria hoặc Typhoid (sốt rét và thương hàn), những loại bệnh phổ biến ở châu Phi, hơn nữa, đồ ăn khác nhiều so với Việt Nam, nhiều dầu mỡ và rất ít rau xanh. Bên cạnh đó còn là sự bất đồng về ngôn ngữ.
Khó khăn là vậy nhưng chưa bao giờ cha nghĩ mình sẽ trở về Việt Nam mà ngược lại, từ sâu thẳm bên trong, cha luôn tự nhủ phải có ý chí để tiếp tục công việc và con đường đã chọn. Rồi cha nghĩ, không thể làm chứng tá cho Chúa qua lời nói thì làm chứng qua cách sống bản thân. Khi không được nhìn nhận, cha lại ra sức làm việc nhiều hơn, yêu thương, tạo tất cả điều kiện cho học sinh và hết mình nâng đỡ các giáo viên trong mọi hoàn cảnh. Nhờ đó, tình cảm quý mến giữa người bản địa với ông thầy da vàng ngày một thêm bền chặt. Từ bị dè dặt, lâu dần cha đã có sự bao bọc của anh chị em và học sinh chung quanh. Chính họ là người tìm mọi cách cho cha gia hạn visa để tiếp tục ở lại làm việc. Những khi ai đó có những ý xấu, cũng lại họ là người báo tin và chở che giúp cha vượt qua sóng gió.
Khó khăn là vậy nhưng chưa bao giờ cha nghĩ mình sẽ trở về Việt Nam mà ngược lại, từ sâu thẳm bên trong, cha luôn tự nhủ phải có ý chí để tiếp tục công việc và con đường đã chọn. Rồi cha nghĩ, không thể làm chứng tá cho Chúa qua lời nói thì làm chứng qua cách sống bản thân. Khi không được nhìn nhận, cha lại ra sức làm việc nhiều hơn, yêu thương, tạo tất cả điều kiện cho học sinh và hết mình nâng đỡ các giáo viên trong mọi hoàn cảnh. Nhờ đó, tình cảm quý mến giữa người bản địa với ông thầy da vàng ngày một thêm bền chặt. Từ bị dè dặt, lâu dần cha đã có sự bao bọc của anh chị em và học sinh chung quanh. Chính họ là người tìm mọi cách cho cha gia hạn visa để tiếp tục ở lại làm việc. Những khi ai đó có những ý xấu, cũng lại họ là người báo tin và chở che giúp cha vượt qua sóng gió.
Sau sáu năm làm việc ở Sudan, do trục trặc về giấy tờ nên cha không được gia hạn visa nữa. Lúc bấy giờ, tình yêu với mảnh đất và con người nơi đây đã trở nên quá lớn nên cha xin Bề trên không về Việt Nam mà tiếp tục ở lại. Bề trên đã gởi cha sang một vùng quê nghèo ở đất nước Tanzania kế cận. Ở đây, cộng đoàn Don Bosco lo cho một trường cấp 2 với khoảng 1.200 em học sinh, trong đó có gần 800 em nội trú. Cha lãnh nhiệm vụ đào tạo cho các giáo viên và dạy các em môn Kinh Thánh cùng kỹ năng học tập. Trái với Sudan, Tanzania tình hình chính trị ổn định, môi trường làm việc đa số là giáo dân và học sinh là người Công giáo, nên cha có cơ hội để làm mục vụ.
Ngoài công việc tại trường, hằng ngày cha đều đi dâng lễ và ban các bí tích cho người dân địa phương ở các nhà nguyện trong vùng, cũng như thỉnh thoảng đến thăm gia đình họ. Để thuận tiện trong việc mục vụ cũng như hiểu rõ hơn về con người và mảnh đất nơi mình đang làm việc, sáng lên lớp, tối đến cha Nhật tự mày mò đèn sách học thêm ngôn ngữ địa phương. Cha xác định : “Muốn phục vụ họ cách chu toàn nhất, phải nắm bắt và am hiểu được văn hóa bản địa”.
Ngoài công việc tại trường, hằng ngày cha đều đi dâng lễ và ban các bí tích cho người dân địa phương ở các nhà nguyện trong vùng, cũng như thỉnh thoảng đến thăm gia đình họ. Để thuận tiện trong việc mục vụ cũng như hiểu rõ hơn về con người và mảnh đất nơi mình đang làm việc, sáng lên lớp, tối đến cha Nhật tự mày mò đèn sách học thêm ngôn ngữ địa phương. Cha xác định : “Muốn phục vụ họ cách chu toàn nhất, phải nắm bắt và am hiểu được văn hóa bản địa”.
Tám năm ở Phi châu, về Việt Nam mới chỉ ít lần, nhưng sau vài ba ngày thăm gia đình, thăm cộng đoàn, cha lại tất bật lên đường trở lại, vì ở đó còn bộn bề công việc và nhất là còn nhiều người đang cần đến sự hiện diện của cha, bởi với cha :“Bao lâu ở đây họ còn cần sự phục vụ của mình, và với ơn Chúa, nếu sức khỏe cho phép thì sẽ tiếp tục ở lại”.
Sưu Tầm
Sưu Tầm
ĐỨC ÁI CỦA LINH MỤC
Nguồn tin: Gpquinhon.org
Chúng ta đang cùng với Giáo phận sống chủ đề “Gia tăng Đức ái” của năm 2014 trong hành trình chuẩn bị mừng 400 trăm năm Tin Mừng được loan báo tại Giáo phận. Đây cũng là dịp quý báu để chúng ta cùng suy tư về Đức ái Linh mục.
1. Đức ái là cốt lõi của lề luật và của đời sống linh mục:
Ngày nay người ta thường nhìn các linh mục, để chê bai hoặc khen ngợi Giáo Hội, vì biết rằng linh mục chính là sợi dây liên kết chắc chắn giữa giáo dân và Giáo Hội, giữa con chiên và mục tử là Chúa Giê-su, và linh mục chính là người chuyển thông ơn Chúa cho giáo dân mỗi khi cử hành thánh lễ và các bí tích. Người ta cũng nhìn vào cách sống của linh mục để dự đoán tương lai của giáo xứ, bởi vì một cha sở nhiệt thành với giáo xứ của mình, biết sống chan hòa với giáo dân, thì chắc chắn giáo xứ ấy sẽ có sức sống và phát triển, bằng ngược lại, nếu giáo xứ nào có một cha sở chỉ biết làm lễ mà thôi, thì giáo xứ ấy sẽ không phát triển được vì cha sở chưa chu toàn trọn vẹn bổn phận của một cha sở. Dó đó, một linh mục tốt lành và được mọi người yêu mến, chính là một linh mục mà đức ái vượt qua cả chức thánh mà mình đã lãnh nhận. Đức Ái vượt qua chức thánh nghĩa là các ngài không coi chức thánh như bàn đạp để tiến thân, không coi chức thánh như một “bửu bối” để ăn trên ngồi trước, để làm “cha” thiên hạ, nhưng các ngài để Đức Ái của Chúa Giê-su chiếm hữu tâm hồn của mình, và tỏa lan đến với mọi người chung quanh qua cách sống, như Chúa Giê-su đã sống và đã chết vì Đức Ái đối với nhân loại tội lỗi vậy.
Nói một cách khác, Đức Ái đối với linh mục như con mắt với con ngươi, như cá với nước, nghĩa là nếu một linh mục không có đức ái thì mọi hoạt động của các ngài sẽ không sống động, sẽ không phát lửa yêu thương truyền sang cho người khác; nếu một linh mục không có Đức Ái thì ngài chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng, làm điếc tai nhức óc người khác mà thôi (1Cr 13, 1-8), và quan trọng hơn, chính các ngài sẽ trở thành những tảng đá lớn chặn đường không cho người ta đến với Chúa. Người ta khó mà thông cảm và bỏ qua những hành động thiếu đức ái của linh mục, vì đức ái là tâm điểm mọi bài giảng của linh mục, và là cốt lõi trong đời sống của người Ki-tô hữu.
Đức Ái của các linh mục được thể hiện qua cuộc sống của các ngài, mà giáo xứ là nơi mà các ngài biểu lộ đức ái cách rõ ràng nhất, vì trong ngày lãnh nhận chức thánh, các tiến chức được Đức giám mục xức dầu thánh trên hai bàn tay của mình, với ý nghĩa không những là để chúc lành và thi ân giáng phúc của Chúa cho mọi người, mà còn là đôi bàn tay để thực hiện Đức Ái đối với tha nhân nữa, đôi bàn tay của các ngài vươn ra để nắm lấy bàn tay của người tội lỗi mà an ủi và tha thứ, đôi bàn tay ngài vươn ra để ban phát của ăn cho họ, như Chúa Giê-su đã làm khi Ngài còn ở thế gian này.
“Bác ái là đồng phục của người Ki-tô hữu”, vì chính Đức Ái làm nổi bật hình ảnh của Chúa Giê-su nơi bản thân của người Ki-tô hữu. Và với các linh mục thì Đức Ái không những là đồng phục của các ngài, mà còn là áo giáp bảo vệ đức tin của người Ki-tô hữu khỏi những ích kỷ hưởng thụ của thế gian, và qua việc thực hành Đức Ái, các linh mục trở thành ngọn đèn sáng, dẫn đường cho giáo hữu đi trong một xã hội đầy những bóng đêm của ích kỷ và thù hận.
Linh mục không phải là một chức tước hay một nghề nghiệp, nên linh mục càng phải thoát ra khỏi vòng “kềm kẹp” của ích kỷ và hưởng thụ, càng phải thoát ra khỏi sự cuốn hút của đồng tiền dưới bất cứ hình thức nào, để thong dong thực hành Đức Ái của mình với tha nhân, và nhất là với những người mà Giáo Hội trao trọng trách cho mình trông nom linh hồn của họ.
Linh mục cũng không phải là một vị thánh tại thế, nên ngài không thể bàng quang trước những nỗi đau khổ và bất hạnh của tha nhân để lo việc nhà Chúa, càng không phải cứ ngồi suốt ngày trong nhà thờ nhà xứ để cầu nguyện hoặc để đợi chờ giáo dân đến, nhưng ngài là một con người học làm thánh và làm những việc của thánh nhân ở thế gian này, nên ngài biết rõ việc làm Đức Ái rất cần cho việc nên thánh của ngài. Thánh Vincent de Paul đã dạy các đệ tử của mình: khi chúng ta đang đọc kinh nguyện ngắm mà có người muốn đến gặp chúng ta, thì lập tức chúng ta phải bỏ đi gặp họ ngay, vì khi chúng ta đi gặp họ thì không phải là chúng ta bỏ Chúa, nhưng là đem Chúa đến cho họ bằng việc quan tâm đến họ, đó chính là thực hành Đức Ái, và là gặp được Chúa nơi họ vậy.
Đức Ái đối với linh mục như cái võng bao trùm toàn bộ con người và việc làm của các ngài, mà thật đúng như vậy, khi người ta gặp những điều bất hạnh thì họ sẽ thấy an ủi hơn khi tiếp xúc với linh mục, khi người ta cần sự bình an tâm hồn thì người ta tìm đến linh mục, và như thế, mọi công việc, mọi hoạt động của linh mục đều được bao trùm bởi Đức Ái của Chúa Giê-su, cũng như Chúa Giê-su đi đến đâu thì dân chúng vây quanh Ngài đến đấy để nghe Ngài giảng, để mong sờ vào gấu áo của Ngài cho được lành bệnh (Mt 9, 20-22), và nhất là để cảm nghiệm được Ngài chính là một lương y đầy lòng yêu thương và luôn chăm sóc đến họ.
Rất tiếc thời nay, có một số linh mục sống không có Đức Ái như lời ngài giảng, và nhất là cuộc sống của ngài đầy những hưởng thụ như một chủ nhân ông, hoặc như một tổng giám đốc trong giáo xứ của ngài. Do đó mà Đức Ái luôn luôn vừa là biểu hiện lòng yêu mến Thiên Chúa nơi các linh mục qua việc phục vụ tha nhân, vừa là niềm tự hào và an ủi của giáo dân khi họ thấy linh mục của mình sống tràn đầy Đức Ái với mọi người.
Đức Ái tự bản chất chính là “yêu người như chính mình”, và “anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6, 31). Linh mục là người được Thiên Chúa chọn để làm điều ấy, tức là để thực thi Đức Ái giữa một xã hội mà dối trá, bon chen, hưởng thụ của thế gian đang len lõi dần dần vào trong hàng ngũ những người có chức thánh. Chính Đức Ái làm cho linh mục trổi vượt giữa đời và giữa những giao tiếp với nhau trong từng thành phần của xã hội, bởi vì khi thực hiện Đức Ái cho một ai đó, vì mình là linh mục, thì chắc chắc phần thưởng sẽ to lớn trên trời đang dành cho các ngài, vì khi thực hiện Đức Ái nhân danh linh mục Chúa Giê-su thì hiệu quả của việc làm càng thêm giá trị. Tại sao vậy ? Tại vì một linh mục luôn sống Đức Ái và đem Đức Ái đặt lên hàng đầu trong cuộc sống của mình, thì giáo dân sẽ thấy Chúa Giê-su đang thực sự hiện diện trong các ngài, bởi vì như lời thánh Tô-ma A-qui-nô tiến sĩ đã nói: “Nếu không có đức ái thì không có bất kỳ đức hạnh nào, cũng giống như nếu không có mặt trời, thì cũng không có một tinh tú nào cả” (Thánh Tôma Aquinô, Các ngôn Thần học Tu đức, tập 1).
Linh mục đối với Đức Ái giống như con mắt với thân thể, mắt bị mù thì thân thể không có định hướng được cho mình, cũng vậy khi Đức Ái bị thui chột (vì hưởng thụ, vì tham lam...) thì linh mục gây nhiều gương mù gương xấu cho giáo dân và cho tha nhân. Khi Đức Ái không còn là tâm điểm của cuộc đời linh mục, thì giống như con lợn đã sút chuồng đi tìm thỏa mãn thân xác của mình, hưởng thụ vật chất thế gian giống như người thế gian, đó chính là điều làm cho khuôn mặt của Chúa Giê-su bị biến dạng trên mẫu người thứ hai của Ngài là các linh mục, Alter Christus.
Sách Gương Chúa Giê-su nói rằng: “Không có đức ái, thì công việc bên ngoài vô dụng. Vì đức ái mà làm việc, mặc dù rất nhỏ nhưng lợi ích rất lớn” (Lm. Giuse Maria Nhân Tài csjb dịch, Cách ngôn Thần học Tu đức, tập 1). Thật đúng như vậy, xây nhà thờ to lớn mà không có Đức Ái thì giống như xây nhà thờ trên nền cát, không làm cho lòng giáo dân thành một khối yêu thương; không có Đức Ái thì thành lập cho nhiều hội đoàn trong giáo xứ, các hội đoàn ấy sẽ trở thành từng phe nhóm chỉ trích nhau và cuối cùng sẽ chỉ trích cả cha sở của mình, cho nên thà như thánh Gioan Maria Vianney trước hết chuyên tâm cầu nguyện để hoán cải mình và hoán cải giáo dân, sau đó lấy đời sống Đức Ái của mình để xây dựng giáo xứ, bởi vì nếu không có Đức Ái thì tất cả những việc bên ngoài đều vô dụng, và trở thành cái phèng la chũm chọe như lời của thánh Phao-lô mô tả trong bài ca Đức Ái của ngài(1Cr 13, 1-8).
2. Đức Ái trong lời nói của Linh mục:
Đức Ái đối với mọi người và với giáo dân nơi giáo xứ mình phục vụ, không phải chỉ là đi quyên tiền xây dựng nhà thờ mà thôi, nhưng còn là đối xử cách trân trọng và lịch sự với giáo dân của mình nữa, đó mới chính là Đức Ái thật sự làm cho người khác nhìn thấy linh mục như là một mẫu gương đạo đức thánh thiện, một nhà mô phạm gương mẫu. Thánh Phao-lô tông đồ đã khuyên dạy ông Ti-mô-thê rằng: “Đừng nặng lời với cụ già, nhưng khi khuyên nhủ, hãy coi cụ như cha; hãy coi các thanh niên như anh em, các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng hoàn toàn trong sạch”(1 Tm 5, 1-2). Lời dạy của ngài đầy tràn Đức Ái mà tất cả mọi người Ki-tô hữu đều phải biết và thực hành, nhất là các linh mục, bởi vì quyền cai quản, giảng dạy và thánh hóa của Chúa Giê-su, đã được trao cho các linh mục, do đó, Đức Ái của các linh mục khi thi hành công việc mục vụ cần phải hài hòa, tôn trọng và lịch sự với mọi người trong giáo xứ của mình.
Có nhiều giáo dân than trách rằng, thời nay có một số linh mục trẻ sống thiếu nhân bản, bởi vì các ngài chỉ chú trọng đến việc xây dựng nhà thờ nhà xứ sao cho to lớn đẹp đẽ, hoành tráng, để thi đua với các linh mục bạn đang ở những giáo xứ lớn có đông giáo dân và nhà thờ đẹp, mà các ngài không chú trọng, hoặc chú trọng rất ít đến vấn đề nhân bản của các ngài khi tiếp xúc với giáo dân, mà nhân bản chính là Đức Ái trong giao tiếp vậy. Nếu một linh mục chính xứ chuyên tâm vào việc sống có Đức Ái với các giáo dân của mình, tức là các ngài sống có nhân bản Ki-tô giáo, thì giáo xứ của ngài chắc chắn sẽ là một giáo xứ phát triển, đoàn kết và yêu thương. Nhân bản phổ thông là người nhỏ lễ phép với người trên, nói năng vâng dạ, bởi vì mình nhỏ hơn người đối diện, nhưng nhân bản Ki-tô giáo không những thấy mình nhỏ hơn người đối diện để nói chuyện cho lễ phép, mà còn nhìn thấy Chúa Giê-su trong người đang nói chuyện với mình nữa, có như thế mới tôn trọng và yêu mến họ được.
Vì thế hơn ai hết, các linh mục của Chúa Giê-su càng phải coi trọng Đức Ái: chức linh mục là một phẩm hàm cao quý, không do người đời nhưng do tự Thiên Chúa, do đó các linh mục cần phải sống có Đức Ái và đặt Đức Ái trên tất cả mọi công việc của nhà xứ, và Đức Ái đòi hỏi các ngài phải hy sinh chính mình từ thời gian cho đến công việc, và vì Đức Ái mà các ngài phải quên đi ngay cả bản thân của mình.
Đức Ái không phải trợn mắt bặm môi, nhưng là hiền hòa giải thích, động viên khuyên bảo với tinh thần yêu thương của người cha trong gia đình, bởi vì một lời nói hiền hòa thì có sức mạnh hấp dẫn hơn cả một ngàn lời nói cộc lốc và nóng nảy.
Đức Ái trong lời nói không phải là nói năng dẻo kẹo để lấy lòng người khác, cũng không phải là nói những lời kể công kể trạng người này hay kết tội người kia, nhưng là biết kính trên nhường dưới, biết nhìn thấy cha mẹ mình nơi những cụ già để nói năng từ tốn với họ; biết nhìn thấy anh chị em của mình nơi các bạn trẻ thanh niên nam nữ, để chan hòa yêu thương và giúp đỡ; biết coi các em thiếu nhi như là những con cái mình, để yêu thương dạy dỗ bằng lời lẽ ôn tồn dịu dàng, có như thế, các linh mục mới đi sát với lời dạy của thánh Phao-lô tông đồ gởi cho ông Ti-mô-thê trên đây.
Đức Ái trong lời nói cũng là lời rao giảng của linh mục khi ngài đứng trên tòa giảng, lời giảng của ngài cần thể hiện Đức Ái rõ ràng nhất. Có một vài linh mục trẻ nói với nhau rằng: “Tớ giảng Lời Chúa, ai nghe không nghe mặc họ”. Vâng, các ngài đang giảng Lời Chúa, nhưng Lời Chúa chỉ trên mặt chữ thì không thể nào thấm sâu vào trong tâm hồn của người nghe; Lời Chúa chỉ trên môi miệng thì người ta sẽ nghe tai này lọt qua tai khác và bay mất tiêu, cũng như hạt giống gieo vào đất khô cằn không có nước, nếu không bị chim trời đến ăn, cũng sẽ bị côn trùng gậm nát. Đức Ái của linh mục nơi tòa giảng quan trọng chẳng khác gì khi linh mục mở kho tàng dự trử gạo, mì gói, tiền bạc của giáo xứ để cứu đói cho dân nghèo. Cho nên khi giảng Lời Chúa thì chắc chắn Đức Ái phải nổi bật trên tất cả những lời nói từ miệng ngài phát ra, đó là lời được ngài chiêm niệm và thực hành trong cuộc sống, đó là lời đã được ngài chắt lọc khi đối chiếu cuộc sống của mình với Lời Chúa, và giờ đây đang chia sẻ cho các giáo dân của mình.
3. Đức Ái trong hành vi và thái độ của Linh mục:
Không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giê-su đã dùng dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc 10, 29-37) để đề cao Đức Ái, bởi vì trong dụ ngôn này, có đến ba nhân vật của ba giai cấp của xã hội thời đó được nhắc đến, đó là thầy tư tế, thầy Lê vi và người Sa-ma-ri ngoại đạo nhưng tốt lành. Thầy tư tế vì quá coi trọng chức tư tế hơn cả Đức Ái, cho nên đã bỏ mặc người bị nạn bên đường, thản nhiên bước đi; thầy Lê vi cũng coi việc phục vụ bàn thờ là cao trọng hơn Đức Ái, nên cũng tránh qua người bị nạn mà đi; cuối cùng chỉ có người Sa-ma-ri ngoại đạo cũng đi ngang qua người bị nạn, nhưng không nhẫn tâm bỏ đi, mà cúi xuống băng bó vết thương, ân cần săn sóc người bị nạn.v.v... Nghĩa cử cúi xuống săn sóc người bị nạn, chính là hành vi của Đức Ái mà tất cả mọi người có lương tâm đều phải làm, thì huống gì là thầy tư tế, thầy lê vi là những người mô phạm của Đức Ái !
Đức Ái trong hành vi thái độ của linh mục rất quan trọng, vì có khi chỉ một cử chỉ vô tình của mình thôi, cũng làm cho giáo dân “phản cảm” và có ấn tượng không mấy tốt đẹp với mình. Do đó mà Thánh Phao-lô tông đồ đã dạy:
“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không nóng giận, không nuôi hận thù,
không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1Cr 13, 1-8).
Có mấy điểm sau đây các linh mục thường mắc phải khi tiếp xúc với giáo dân của mình, và làm trái ngược lại với những gì mà thánh Phao-lô đã dạy:
a) Thái độ giận dữ trái ngược với hiền hậu:
Nóng giận thì ai cũng có, nhưng tùy hoàn cảnh, tùy chức tước và bổn phận mà bày tỏ sự nóng giận của mình, nhưng nóng giận ở đây không có nghĩa là vì ích lợi của cá nhân mình, hoặc vì tự ái của mình bị đụng chạm, nhưng là vì lợi ích cho tha nhân và cho cộng đoàn, những nóng giận ấy không gây mất hòa khí giữa linh mục và giáo dân, hoặc giữa linh mục và những người khác. Nếu nóng giận để tự ái của mình được thỏa mãn thì sẽ không giải quyết được vấn đề gì, mà chỉ gây thêm nhiều chia rẻ và buồn phiền mà thôi.
Khi có giáo dân góp ý, thì có một vài linh mục nổi giận không bằng lòng, thế là lời qua tiếng lại, gặp giáo dân thẳng tính và nóng nảy thì chắc chắn giữa hai người sẽ có cuộc đụng độ, mà phần thắng bên ngoài thì luôn thuộc về linh mục, nhưng kết quả là giáo xứ mất đi một con chiên không đến nhà thờ, mà linh mục thì sẽ buồn phiền và hối hận vì thái độ nóng giận của mình. Đức Ái do đó trốn khỏi con người của linh mục, bởi vì vội giận thì mất khôn, mà Đức Ái thì không thể ở chung với sự nóng giận đầy tự ái.
Đức Ái thì nhẫn nhục và hiền hòa, mà cử chỉ đầy Đức Ái của một linh mục thì luôn làm cho người khác cảm thấy được an ủi, được khuyến khích và họ cảm thấy đời sống tâm linh của mình đầy tin tưởng vào Chúa Giê-su qua vị đại diện của Ngài là linh mục, là cha sở của họ.
Linh mục là người được chọn để diễn lại từng ngôn ngữ và hành động của Chúa Giê-su cho người khác thấy và nghe, cho nên không ngạc nhiên khi thấy có một vài giáo dân không hề có cảm tình hay kính trọng các linh mục, bởi vì các vị ấy có cuộc sống giống như họ chẳng khác chút nào: cũng bon chen đầu tư buôn bán, cũng nạt nộ giận dữ, cũng uống rượu hút thuốc, cũng hưởng thụ những tiện nghi vật chất sang trọng như các đại gia ngoài đời, và nguy hiểm hơn là các vị linh mục ấy coi chức thánh như là một chức vụ để được phục vụ, và do đó mà không lạ gì khi các ngài sống không có Đức Ái với tha nhân, nguyên nhân chính là những ai cứ lo nghĩ về bản thân mình, thì chắc chắn sẽ không nghĩ đến người khác và không quan tâm đến người khác, mà linh mục thì không phải như thế! Vì tha nhân mà sống hiền hòa chứ không phải vì mình để rồi giận dữ với tha nhân.
b) Thái độ kiêu ngạo vênh vang, tự đắc ngược với Đức Ái:
Thời nay, giáo dân thường ta thán về việc có một số linh mục sống hưởng thụ và thiếu nhân bản, do đó mà thường dẫn đến kiêu ngạo khi đối xử với giáo dân, sự kiêu ngạo này dẫn đến hành động thiếu Đức Ái nơi linh mục. Thánh Phao-lô khuyên không nên vênh vang tự đắc, bởi vì chức vụ linh mục không phải để ăn trên ngồi trước, cũng không phải để tiến thân ngoài xã hội, càng không phải để được người khác phục vụ, nhưng linh mục chính là một thiên chức được Chúa Giê-su lập ra, để vì phần rỗi của các linh hồn đã được Ngài đổ máu ra để cứu chuộc, cho nên linh mục là người được chọn để ban phát các ân sủng của Thiên Chúa cho nhân loại, chứ không phải được chọn để trở thành người ăn trên ngồi trước và là kẻ thống trị.
Giáo dân thời nay không còn thần thánh hóa linh mục nữa, nhưng không phải vì thế mà họ không tôn trọng linh mục, không còn thần thánh hóa linh mục là bởi vì họ được học hỏi nhiều về giáo lý, tri thức cũng đầy đủ, kiến thức thì có khi vượt hẳn linh mục và học vị thì cũng như thế, cho nên nếu một linh mục mà cứ coi giáo dân như là những thuộc hạ của mình, hoặc như những đầy tớ để mình sai vặt không công khi ở nhà thờ nhà xứ, thì chẳng khác gì các linh mục đang sống ở các thế kỷ trước đây. Nếu không vì đức tin, nếu không vì vâng phục lời giáo huấn của Giáo Hội, và nếu không vì lòng đạo đức thì không một giáo dân nào đi xem lễ của một linh mục mà ai cũng biết là kiêu ngạo hách dịch, và càng không ai muốn đến nhà thờ khi mà linh mục cư xử với ông bà bố mẹ của họ như hàng bề dưới, bởi vì thời nay giáo dân không còn nhìn vẻ uy nghi bệ vệ của linh mục để phán đoán linh mục thánh thiện hay đạo đức nữa, nhưng người ta sẽ nhìn vào cách sống có Đức Ái hay không của linh mục để đánh giá sự đạo đức của các ngài.
Cho nên, thái độ vênh vang tự đắc của linh mục là đi ngược lại với Tin Mừng của Chúa Giê-su, và đi ngược lại với lời dạy của thánh Phao-lô tông đồ, và nhất là chính những vênh vang tự đắc ấy làm cho hình ảnh của linh mục trở nên xa lạ với giáo dân, bởi vì Giáo Hội đã dạy cho giáo dân biết nhận ra những dấu chỉ nơi linh mục, để biết một linh mục chân chính của Chúa Giê-su, đó chính là Đức Ái và sự khiêm nhường của các ngài.
Đức Ái của linh mục phải vượt tất cả mọi sự, nhất là phải vượt qua những công lao mà mình đã làm cho giáo xứ, hoặc những nơi mà mình đang phục vụ với tất cả thành công của tài năng, bởi vì như lời thánh Phao-lô đã dạy, dù các ngài có đem tất cả tài sản (bao gồm vật chất, tài năng, sức khỏe, trí óc) để bố thí và cống hiến, mà nếu không có Đức Ái thì cũng chỉ là con số không mà thôi, chẳng có ích gì cả. Chẳng có ích là bởi vì người không có đức tin nhưng có nhiều tiền bạc thì cũng có thể làm được như thế, và có khi làm thành công hơn các linh mục nữa là khác. Đức Ái của linh mục phải vượt qua và lớn hơn tất cả những gì mình đã phục vụ cho giáo xứ hay cho bất cứ cộng đoàn nào.
Chúa Giê-su vì yêu mà xuống thế làm người, yêu khi chúng ta còn là tội nhân, đó chính là Đức Ái toàn hảo tuyệt vời của Ngài, là mẫu gương cho những “Ki-tô thứ hai” là các linh mục, vì các linh mục cũng là những tội nhân như những tội nhân khác luôn cần trông cậy vào tình yêu của Thiên Chúa, nên linh mục không thể nào dùng sự kiêu ngạo hợm mình để đối xử với giáo dân và tha nhân. Nhất là vì Chúa Giê-su muốn Đức Ái này phải được con người –đặc biệt những người Ki-tô hữu- thực hiện cách nổi bật nơi các anh chị em của mình, nơi người lân cận và ngay cả với người thù ghét mình nữa.
Lời kết:
Tóm lại, Đức Ái cần phải là kim chỉ nam cho cuộc đời của các linh mục. Nếu không có Đức Ái thì dù các linh mục có làm những chuyện rung chuyển thế giới, cũng chỉ như thanh la chũm chọe mà thôi, lại còn làm điếc tai người khác nữa. Nếu không có Đức Ái thì linh mục không thể cảm động trước nổi bất hạnh của người khác. Nếu không có Đức Ái thì linh mục cũng chỉ là một con người đầy tham sân si như những người khác, và có khi còn tệ hại hơn nữa, người đời nhìn vào linh mục như một đại gia có tiền, có danh vọng và có quyền, mà khi một linh mục trở thành đại gia –nghĩa là không có Đức Ái- thì dù ngài có dâng thánh lễ, dạy giáo lý, hoặc làm việc bố thí, tất cả những việc ấy sẽ không có giá trị là bao trước mặt Thiên Chúa Tình Yêu.
Như thế, Đức Ái chính là cốt lõi của lề luật và là trọng tâm của đời sống linh mục. Ngoài đời sống cầu nguyện, công việc truyền giáo và mục vụ của giáo xứ sẽ phát triển tốt đẹp hay không tùy vào các linh mục đã sống và thực hiện Đức Ái thế nào trong đời sống của mình. Đây chính là điều mà mỗi một linh mục chúng ta cần suy nghĩ và thức hiện trong “Năm Gia tăng Đức ái” này.
Lm. Phaolô Trịnh Duy Ri
Nguồn tin: Gpquinhon.org
Chúng ta đang cùng với Giáo phận sống chủ đề “Gia tăng Đức ái” của năm 2014 trong hành trình chuẩn bị mừng 400 trăm năm Tin Mừng được loan báo tại Giáo phận. Đây cũng là dịp quý báu để chúng ta cùng suy tư về Đức ái Linh mục.
1. Đức ái là cốt lõi của lề luật và của đời sống linh mục:
Ngày nay người ta thường nhìn các linh mục, để chê bai hoặc khen ngợi Giáo Hội, vì biết rằng linh mục chính là sợi dây liên kết chắc chắn giữa giáo dân và Giáo Hội, giữa con chiên và mục tử là Chúa Giê-su, và linh mục chính là người chuyển thông ơn Chúa cho giáo dân mỗi khi cử hành thánh lễ và các bí tích. Người ta cũng nhìn vào cách sống của linh mục để dự đoán tương lai của giáo xứ, bởi vì một cha sở nhiệt thành với giáo xứ của mình, biết sống chan hòa với giáo dân, thì chắc chắn giáo xứ ấy sẽ có sức sống và phát triển, bằng ngược lại, nếu giáo xứ nào có một cha sở chỉ biết làm lễ mà thôi, thì giáo xứ ấy sẽ không phát triển được vì cha sở chưa chu toàn trọn vẹn bổn phận của một cha sở. Dó đó, một linh mục tốt lành và được mọi người yêu mến, chính là một linh mục mà đức ái vượt qua cả chức thánh mà mình đã lãnh nhận. Đức Ái vượt qua chức thánh nghĩa là các ngài không coi chức thánh như bàn đạp để tiến thân, không coi chức thánh như một “bửu bối” để ăn trên ngồi trước, để làm “cha” thiên hạ, nhưng các ngài để Đức Ái của Chúa Giê-su chiếm hữu tâm hồn của mình, và tỏa lan đến với mọi người chung quanh qua cách sống, như Chúa Giê-su đã sống và đã chết vì Đức Ái đối với nhân loại tội lỗi vậy.
Nói một cách khác, Đức Ái đối với linh mục như con mắt với con ngươi, như cá với nước, nghĩa là nếu một linh mục không có đức ái thì mọi hoạt động của các ngài sẽ không sống động, sẽ không phát lửa yêu thương truyền sang cho người khác; nếu một linh mục không có Đức Ái thì ngài chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng, làm điếc tai nhức óc người khác mà thôi (1Cr 13, 1-8), và quan trọng hơn, chính các ngài sẽ trở thành những tảng đá lớn chặn đường không cho người ta đến với Chúa. Người ta khó mà thông cảm và bỏ qua những hành động thiếu đức ái của linh mục, vì đức ái là tâm điểm mọi bài giảng của linh mục, và là cốt lõi trong đời sống của người Ki-tô hữu.
Đức Ái của các linh mục được thể hiện qua cuộc sống của các ngài, mà giáo xứ là nơi mà các ngài biểu lộ đức ái cách rõ ràng nhất, vì trong ngày lãnh nhận chức thánh, các tiến chức được Đức giám mục xức dầu thánh trên hai bàn tay của mình, với ý nghĩa không những là để chúc lành và thi ân giáng phúc của Chúa cho mọi người, mà còn là đôi bàn tay để thực hiện Đức Ái đối với tha nhân nữa, đôi bàn tay của các ngài vươn ra để nắm lấy bàn tay của người tội lỗi mà an ủi và tha thứ, đôi bàn tay ngài vươn ra để ban phát của ăn cho họ, như Chúa Giê-su đã làm khi Ngài còn ở thế gian này.
“Bác ái là đồng phục của người Ki-tô hữu”, vì chính Đức Ái làm nổi bật hình ảnh của Chúa Giê-su nơi bản thân của người Ki-tô hữu. Và với các linh mục thì Đức Ái không những là đồng phục của các ngài, mà còn là áo giáp bảo vệ đức tin của người Ki-tô hữu khỏi những ích kỷ hưởng thụ của thế gian, và qua việc thực hành Đức Ái, các linh mục trở thành ngọn đèn sáng, dẫn đường cho giáo hữu đi trong một xã hội đầy những bóng đêm của ích kỷ và thù hận.
Linh mục không phải là một chức tước hay một nghề nghiệp, nên linh mục càng phải thoát ra khỏi vòng “kềm kẹp” của ích kỷ và hưởng thụ, càng phải thoát ra khỏi sự cuốn hút của đồng tiền dưới bất cứ hình thức nào, để thong dong thực hành Đức Ái của mình với tha nhân, và nhất là với những người mà Giáo Hội trao trọng trách cho mình trông nom linh hồn của họ.
Linh mục cũng không phải là một vị thánh tại thế, nên ngài không thể bàng quang trước những nỗi đau khổ và bất hạnh của tha nhân để lo việc nhà Chúa, càng không phải cứ ngồi suốt ngày trong nhà thờ nhà xứ để cầu nguyện hoặc để đợi chờ giáo dân đến, nhưng ngài là một con người học làm thánh và làm những việc của thánh nhân ở thế gian này, nên ngài biết rõ việc làm Đức Ái rất cần cho việc nên thánh của ngài. Thánh Vincent de Paul đã dạy các đệ tử của mình: khi chúng ta đang đọc kinh nguyện ngắm mà có người muốn đến gặp chúng ta, thì lập tức chúng ta phải bỏ đi gặp họ ngay, vì khi chúng ta đi gặp họ thì không phải là chúng ta bỏ Chúa, nhưng là đem Chúa đến cho họ bằng việc quan tâm đến họ, đó chính là thực hành Đức Ái, và là gặp được Chúa nơi họ vậy.
Đức Ái đối với linh mục như cái võng bao trùm toàn bộ con người và việc làm của các ngài, mà thật đúng như vậy, khi người ta gặp những điều bất hạnh thì họ sẽ thấy an ủi hơn khi tiếp xúc với linh mục, khi người ta cần sự bình an tâm hồn thì người ta tìm đến linh mục, và như thế, mọi công việc, mọi hoạt động của linh mục đều được bao trùm bởi Đức Ái của Chúa Giê-su, cũng như Chúa Giê-su đi đến đâu thì dân chúng vây quanh Ngài đến đấy để nghe Ngài giảng, để mong sờ vào gấu áo của Ngài cho được lành bệnh (Mt 9, 20-22), và nhất là để cảm nghiệm được Ngài chính là một lương y đầy lòng yêu thương và luôn chăm sóc đến họ.
Rất tiếc thời nay, có một số linh mục sống không có Đức Ái như lời ngài giảng, và nhất là cuộc sống của ngài đầy những hưởng thụ như một chủ nhân ông, hoặc như một tổng giám đốc trong giáo xứ của ngài. Do đó mà Đức Ái luôn luôn vừa là biểu hiện lòng yêu mến Thiên Chúa nơi các linh mục qua việc phục vụ tha nhân, vừa là niềm tự hào và an ủi của giáo dân khi họ thấy linh mục của mình sống tràn đầy Đức Ái với mọi người.
Đức Ái tự bản chất chính là “yêu người như chính mình”, và “anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6, 31). Linh mục là người được Thiên Chúa chọn để làm điều ấy, tức là để thực thi Đức Ái giữa một xã hội mà dối trá, bon chen, hưởng thụ của thế gian đang len lõi dần dần vào trong hàng ngũ những người có chức thánh. Chính Đức Ái làm cho linh mục trổi vượt giữa đời và giữa những giao tiếp với nhau trong từng thành phần của xã hội, bởi vì khi thực hiện Đức Ái cho một ai đó, vì mình là linh mục, thì chắc chắc phần thưởng sẽ to lớn trên trời đang dành cho các ngài, vì khi thực hiện Đức Ái nhân danh linh mục Chúa Giê-su thì hiệu quả của việc làm càng thêm giá trị. Tại sao vậy ? Tại vì một linh mục luôn sống Đức Ái và đem Đức Ái đặt lên hàng đầu trong cuộc sống của mình, thì giáo dân sẽ thấy Chúa Giê-su đang thực sự hiện diện trong các ngài, bởi vì như lời thánh Tô-ma A-qui-nô tiến sĩ đã nói: “Nếu không có đức ái thì không có bất kỳ đức hạnh nào, cũng giống như nếu không có mặt trời, thì cũng không có một tinh tú nào cả” (Thánh Tôma Aquinô, Các ngôn Thần học Tu đức, tập 1).
Linh mục đối với Đức Ái giống như con mắt với thân thể, mắt bị mù thì thân thể không có định hướng được cho mình, cũng vậy khi Đức Ái bị thui chột (vì hưởng thụ, vì tham lam...) thì linh mục gây nhiều gương mù gương xấu cho giáo dân và cho tha nhân. Khi Đức Ái không còn là tâm điểm của cuộc đời linh mục, thì giống như con lợn đã sút chuồng đi tìm thỏa mãn thân xác của mình, hưởng thụ vật chất thế gian giống như người thế gian, đó chính là điều làm cho khuôn mặt của Chúa Giê-su bị biến dạng trên mẫu người thứ hai của Ngài là các linh mục, Alter Christus.
Sách Gương Chúa Giê-su nói rằng: “Không có đức ái, thì công việc bên ngoài vô dụng. Vì đức ái mà làm việc, mặc dù rất nhỏ nhưng lợi ích rất lớn” (Lm. Giuse Maria Nhân Tài csjb dịch, Cách ngôn Thần học Tu đức, tập 1). Thật đúng như vậy, xây nhà thờ to lớn mà không có Đức Ái thì giống như xây nhà thờ trên nền cát, không làm cho lòng giáo dân thành một khối yêu thương; không có Đức Ái thì thành lập cho nhiều hội đoàn trong giáo xứ, các hội đoàn ấy sẽ trở thành từng phe nhóm chỉ trích nhau và cuối cùng sẽ chỉ trích cả cha sở của mình, cho nên thà như thánh Gioan Maria Vianney trước hết chuyên tâm cầu nguyện để hoán cải mình và hoán cải giáo dân, sau đó lấy đời sống Đức Ái của mình để xây dựng giáo xứ, bởi vì nếu không có Đức Ái thì tất cả những việc bên ngoài đều vô dụng, và trở thành cái phèng la chũm chọe như lời của thánh Phao-lô mô tả trong bài ca Đức Ái của ngài(1Cr 13, 1-8).
2. Đức Ái trong lời nói của Linh mục:
Đức Ái đối với mọi người và với giáo dân nơi giáo xứ mình phục vụ, không phải chỉ là đi quyên tiền xây dựng nhà thờ mà thôi, nhưng còn là đối xử cách trân trọng và lịch sự với giáo dân của mình nữa, đó mới chính là Đức Ái thật sự làm cho người khác nhìn thấy linh mục như là một mẫu gương đạo đức thánh thiện, một nhà mô phạm gương mẫu. Thánh Phao-lô tông đồ đã khuyên dạy ông Ti-mô-thê rằng: “Đừng nặng lời với cụ già, nhưng khi khuyên nhủ, hãy coi cụ như cha; hãy coi các thanh niên như anh em, các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng hoàn toàn trong sạch”(1 Tm 5, 1-2). Lời dạy của ngài đầy tràn Đức Ái mà tất cả mọi người Ki-tô hữu đều phải biết và thực hành, nhất là các linh mục, bởi vì quyền cai quản, giảng dạy và thánh hóa của Chúa Giê-su, đã được trao cho các linh mục, do đó, Đức Ái của các linh mục khi thi hành công việc mục vụ cần phải hài hòa, tôn trọng và lịch sự với mọi người trong giáo xứ của mình.
Có nhiều giáo dân than trách rằng, thời nay có một số linh mục trẻ sống thiếu nhân bản, bởi vì các ngài chỉ chú trọng đến việc xây dựng nhà thờ nhà xứ sao cho to lớn đẹp đẽ, hoành tráng, để thi đua với các linh mục bạn đang ở những giáo xứ lớn có đông giáo dân và nhà thờ đẹp, mà các ngài không chú trọng, hoặc chú trọng rất ít đến vấn đề nhân bản của các ngài khi tiếp xúc với giáo dân, mà nhân bản chính là Đức Ái trong giao tiếp vậy. Nếu một linh mục chính xứ chuyên tâm vào việc sống có Đức Ái với các giáo dân của mình, tức là các ngài sống có nhân bản Ki-tô giáo, thì giáo xứ của ngài chắc chắn sẽ là một giáo xứ phát triển, đoàn kết và yêu thương. Nhân bản phổ thông là người nhỏ lễ phép với người trên, nói năng vâng dạ, bởi vì mình nhỏ hơn người đối diện, nhưng nhân bản Ki-tô giáo không những thấy mình nhỏ hơn người đối diện để nói chuyện cho lễ phép, mà còn nhìn thấy Chúa Giê-su trong người đang nói chuyện với mình nữa, có như thế mới tôn trọng và yêu mến họ được.
Vì thế hơn ai hết, các linh mục của Chúa Giê-su càng phải coi trọng Đức Ái: chức linh mục là một phẩm hàm cao quý, không do người đời nhưng do tự Thiên Chúa, do đó các linh mục cần phải sống có Đức Ái và đặt Đức Ái trên tất cả mọi công việc của nhà xứ, và Đức Ái đòi hỏi các ngài phải hy sinh chính mình từ thời gian cho đến công việc, và vì Đức Ái mà các ngài phải quên đi ngay cả bản thân của mình.
Đức Ái không phải trợn mắt bặm môi, nhưng là hiền hòa giải thích, động viên khuyên bảo với tinh thần yêu thương của người cha trong gia đình, bởi vì một lời nói hiền hòa thì có sức mạnh hấp dẫn hơn cả một ngàn lời nói cộc lốc và nóng nảy.
Đức Ái trong lời nói không phải là nói năng dẻo kẹo để lấy lòng người khác, cũng không phải là nói những lời kể công kể trạng người này hay kết tội người kia, nhưng là biết kính trên nhường dưới, biết nhìn thấy cha mẹ mình nơi những cụ già để nói năng từ tốn với họ; biết nhìn thấy anh chị em của mình nơi các bạn trẻ thanh niên nam nữ, để chan hòa yêu thương và giúp đỡ; biết coi các em thiếu nhi như là những con cái mình, để yêu thương dạy dỗ bằng lời lẽ ôn tồn dịu dàng, có như thế, các linh mục mới đi sát với lời dạy của thánh Phao-lô tông đồ gởi cho ông Ti-mô-thê trên đây.
Đức Ái trong lời nói cũng là lời rao giảng của linh mục khi ngài đứng trên tòa giảng, lời giảng của ngài cần thể hiện Đức Ái rõ ràng nhất. Có một vài linh mục trẻ nói với nhau rằng: “Tớ giảng Lời Chúa, ai nghe không nghe mặc họ”. Vâng, các ngài đang giảng Lời Chúa, nhưng Lời Chúa chỉ trên mặt chữ thì không thể nào thấm sâu vào trong tâm hồn của người nghe; Lời Chúa chỉ trên môi miệng thì người ta sẽ nghe tai này lọt qua tai khác và bay mất tiêu, cũng như hạt giống gieo vào đất khô cằn không có nước, nếu không bị chim trời đến ăn, cũng sẽ bị côn trùng gậm nát. Đức Ái của linh mục nơi tòa giảng quan trọng chẳng khác gì khi linh mục mở kho tàng dự trử gạo, mì gói, tiền bạc của giáo xứ để cứu đói cho dân nghèo. Cho nên khi giảng Lời Chúa thì chắc chắn Đức Ái phải nổi bật trên tất cả những lời nói từ miệng ngài phát ra, đó là lời được ngài chiêm niệm và thực hành trong cuộc sống, đó là lời đã được ngài chắt lọc khi đối chiếu cuộc sống của mình với Lời Chúa, và giờ đây đang chia sẻ cho các giáo dân của mình.
3. Đức Ái trong hành vi và thái độ của Linh mục:
Không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giê-su đã dùng dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc 10, 29-37) để đề cao Đức Ái, bởi vì trong dụ ngôn này, có đến ba nhân vật của ba giai cấp của xã hội thời đó được nhắc đến, đó là thầy tư tế, thầy Lê vi và người Sa-ma-ri ngoại đạo nhưng tốt lành. Thầy tư tế vì quá coi trọng chức tư tế hơn cả Đức Ái, cho nên đã bỏ mặc người bị nạn bên đường, thản nhiên bước đi; thầy Lê vi cũng coi việc phục vụ bàn thờ là cao trọng hơn Đức Ái, nên cũng tránh qua người bị nạn mà đi; cuối cùng chỉ có người Sa-ma-ri ngoại đạo cũng đi ngang qua người bị nạn, nhưng không nhẫn tâm bỏ đi, mà cúi xuống băng bó vết thương, ân cần săn sóc người bị nạn.v.v... Nghĩa cử cúi xuống săn sóc người bị nạn, chính là hành vi của Đức Ái mà tất cả mọi người có lương tâm đều phải làm, thì huống gì là thầy tư tế, thầy lê vi là những người mô phạm của Đức Ái !
Đức Ái trong hành vi thái độ của linh mục rất quan trọng, vì có khi chỉ một cử chỉ vô tình của mình thôi, cũng làm cho giáo dân “phản cảm” và có ấn tượng không mấy tốt đẹp với mình. Do đó mà Thánh Phao-lô tông đồ đã dạy:
“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không nóng giận, không nuôi hận thù,
không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1Cr 13, 1-8).
Có mấy điểm sau đây các linh mục thường mắc phải khi tiếp xúc với giáo dân của mình, và làm trái ngược lại với những gì mà thánh Phao-lô đã dạy:
a) Thái độ giận dữ trái ngược với hiền hậu:
Nóng giận thì ai cũng có, nhưng tùy hoàn cảnh, tùy chức tước và bổn phận mà bày tỏ sự nóng giận của mình, nhưng nóng giận ở đây không có nghĩa là vì ích lợi của cá nhân mình, hoặc vì tự ái của mình bị đụng chạm, nhưng là vì lợi ích cho tha nhân và cho cộng đoàn, những nóng giận ấy không gây mất hòa khí giữa linh mục và giáo dân, hoặc giữa linh mục và những người khác. Nếu nóng giận để tự ái của mình được thỏa mãn thì sẽ không giải quyết được vấn đề gì, mà chỉ gây thêm nhiều chia rẻ và buồn phiền mà thôi.
Khi có giáo dân góp ý, thì có một vài linh mục nổi giận không bằng lòng, thế là lời qua tiếng lại, gặp giáo dân thẳng tính và nóng nảy thì chắc chắn giữa hai người sẽ có cuộc đụng độ, mà phần thắng bên ngoài thì luôn thuộc về linh mục, nhưng kết quả là giáo xứ mất đi một con chiên không đến nhà thờ, mà linh mục thì sẽ buồn phiền và hối hận vì thái độ nóng giận của mình. Đức Ái do đó trốn khỏi con người của linh mục, bởi vì vội giận thì mất khôn, mà Đức Ái thì không thể ở chung với sự nóng giận đầy tự ái.
Đức Ái thì nhẫn nhục và hiền hòa, mà cử chỉ đầy Đức Ái của một linh mục thì luôn làm cho người khác cảm thấy được an ủi, được khuyến khích và họ cảm thấy đời sống tâm linh của mình đầy tin tưởng vào Chúa Giê-su qua vị đại diện của Ngài là linh mục, là cha sở của họ.
Linh mục là người được chọn để diễn lại từng ngôn ngữ và hành động của Chúa Giê-su cho người khác thấy và nghe, cho nên không ngạc nhiên khi thấy có một vài giáo dân không hề có cảm tình hay kính trọng các linh mục, bởi vì các vị ấy có cuộc sống giống như họ chẳng khác chút nào: cũng bon chen đầu tư buôn bán, cũng nạt nộ giận dữ, cũng uống rượu hút thuốc, cũng hưởng thụ những tiện nghi vật chất sang trọng như các đại gia ngoài đời, và nguy hiểm hơn là các vị linh mục ấy coi chức thánh như là một chức vụ để được phục vụ, và do đó mà không lạ gì khi các ngài sống không có Đức Ái với tha nhân, nguyên nhân chính là những ai cứ lo nghĩ về bản thân mình, thì chắc chắn sẽ không nghĩ đến người khác và không quan tâm đến người khác, mà linh mục thì không phải như thế! Vì tha nhân mà sống hiền hòa chứ không phải vì mình để rồi giận dữ với tha nhân.
b) Thái độ kiêu ngạo vênh vang, tự đắc ngược với Đức Ái:
Thời nay, giáo dân thường ta thán về việc có một số linh mục sống hưởng thụ và thiếu nhân bản, do đó mà thường dẫn đến kiêu ngạo khi đối xử với giáo dân, sự kiêu ngạo này dẫn đến hành động thiếu Đức Ái nơi linh mục. Thánh Phao-lô khuyên không nên vênh vang tự đắc, bởi vì chức vụ linh mục không phải để ăn trên ngồi trước, cũng không phải để tiến thân ngoài xã hội, càng không phải để được người khác phục vụ, nhưng linh mục chính là một thiên chức được Chúa Giê-su lập ra, để vì phần rỗi của các linh hồn đã được Ngài đổ máu ra để cứu chuộc, cho nên linh mục là người được chọn để ban phát các ân sủng của Thiên Chúa cho nhân loại, chứ không phải được chọn để trở thành người ăn trên ngồi trước và là kẻ thống trị.
Giáo dân thời nay không còn thần thánh hóa linh mục nữa, nhưng không phải vì thế mà họ không tôn trọng linh mục, không còn thần thánh hóa linh mục là bởi vì họ được học hỏi nhiều về giáo lý, tri thức cũng đầy đủ, kiến thức thì có khi vượt hẳn linh mục và học vị thì cũng như thế, cho nên nếu một linh mục mà cứ coi giáo dân như là những thuộc hạ của mình, hoặc như những đầy tớ để mình sai vặt không công khi ở nhà thờ nhà xứ, thì chẳng khác gì các linh mục đang sống ở các thế kỷ trước đây. Nếu không vì đức tin, nếu không vì vâng phục lời giáo huấn của Giáo Hội, và nếu không vì lòng đạo đức thì không một giáo dân nào đi xem lễ của một linh mục mà ai cũng biết là kiêu ngạo hách dịch, và càng không ai muốn đến nhà thờ khi mà linh mục cư xử với ông bà bố mẹ của họ như hàng bề dưới, bởi vì thời nay giáo dân không còn nhìn vẻ uy nghi bệ vệ của linh mục để phán đoán linh mục thánh thiện hay đạo đức nữa, nhưng người ta sẽ nhìn vào cách sống có Đức Ái hay không của linh mục để đánh giá sự đạo đức của các ngài.
Cho nên, thái độ vênh vang tự đắc của linh mục là đi ngược lại với Tin Mừng của Chúa Giê-su, và đi ngược lại với lời dạy của thánh Phao-lô tông đồ, và nhất là chính những vênh vang tự đắc ấy làm cho hình ảnh của linh mục trở nên xa lạ với giáo dân, bởi vì Giáo Hội đã dạy cho giáo dân biết nhận ra những dấu chỉ nơi linh mục, để biết một linh mục chân chính của Chúa Giê-su, đó chính là Đức Ái và sự khiêm nhường của các ngài.
Đức Ái của linh mục phải vượt tất cả mọi sự, nhất là phải vượt qua những công lao mà mình đã làm cho giáo xứ, hoặc những nơi mà mình đang phục vụ với tất cả thành công của tài năng, bởi vì như lời thánh Phao-lô đã dạy, dù các ngài có đem tất cả tài sản (bao gồm vật chất, tài năng, sức khỏe, trí óc) để bố thí và cống hiến, mà nếu không có Đức Ái thì cũng chỉ là con số không mà thôi, chẳng có ích gì cả. Chẳng có ích là bởi vì người không có đức tin nhưng có nhiều tiền bạc thì cũng có thể làm được như thế, và có khi làm thành công hơn các linh mục nữa là khác. Đức Ái của linh mục phải vượt qua và lớn hơn tất cả những gì mình đã phục vụ cho giáo xứ hay cho bất cứ cộng đoàn nào.
Chúa Giê-su vì yêu mà xuống thế làm người, yêu khi chúng ta còn là tội nhân, đó chính là Đức Ái toàn hảo tuyệt vời của Ngài, là mẫu gương cho những “Ki-tô thứ hai” là các linh mục, vì các linh mục cũng là những tội nhân như những tội nhân khác luôn cần trông cậy vào tình yêu của Thiên Chúa, nên linh mục không thể nào dùng sự kiêu ngạo hợm mình để đối xử với giáo dân và tha nhân. Nhất là vì Chúa Giê-su muốn Đức Ái này phải được con người –đặc biệt những người Ki-tô hữu- thực hiện cách nổi bật nơi các anh chị em của mình, nơi người lân cận và ngay cả với người thù ghét mình nữa.
Lời kết:
Tóm lại, Đức Ái cần phải là kim chỉ nam cho cuộc đời của các linh mục. Nếu không có Đức Ái thì dù các linh mục có làm những chuyện rung chuyển thế giới, cũng chỉ như thanh la chũm chọe mà thôi, lại còn làm điếc tai người khác nữa. Nếu không có Đức Ái thì linh mục không thể cảm động trước nổi bất hạnh của người khác. Nếu không có Đức Ái thì linh mục cũng chỉ là một con người đầy tham sân si như những người khác, và có khi còn tệ hại hơn nữa, người đời nhìn vào linh mục như một đại gia có tiền, có danh vọng và có quyền, mà khi một linh mục trở thành đại gia –nghĩa là không có Đức Ái- thì dù ngài có dâng thánh lễ, dạy giáo lý, hoặc làm việc bố thí, tất cả những việc ấy sẽ không có giá trị là bao trước mặt Thiên Chúa Tình Yêu.
Như thế, Đức Ái chính là cốt lõi của lề luật và là trọng tâm của đời sống linh mục. Ngoài đời sống cầu nguyện, công việc truyền giáo và mục vụ của giáo xứ sẽ phát triển tốt đẹp hay không tùy vào các linh mục đã sống và thực hiện Đức Ái thế nào trong đời sống của mình. Đây chính là điều mà mỗi một linh mục chúng ta cần suy nghĩ và thức hiện trong “Năm Gia tăng Đức ái” này.
Lm. Phaolô Trịnh Duy Ri
Vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp thế nào?
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
21/03/2016
Anh chị em thân mến,
1.Từ năm ngoái 2015 đến nay, một vấn đề làm hoang mang nhiều người trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc, đó là việc vận động tuyên thánh Linh Mục Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Vì thế, tôi viết bài này giúp anh chị em hiểu rõ về sự việc, để khỏi bị lung lạc do nhiều nguồn tin khác nhau.
2.Việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp là do Đức Giám Mục đương nhiệm của Giáo Phận Cần Thơ, Stêphanô Tri Bửu Thiên, bắt đầu. Đức Cha Thiên đã gửi lá thư đề ngày 03/09/2013 để hỏi ý kiến Bộ Tuyên Thánh và đã được chấp thuận về việc thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh. Văn thư chấp thuận được gọi tóm tắt bằng tiếng La Tinh là “NIHIL OBSTAT” đề ngày 31/10/2014, dịch nghĩa là “KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ”. Khi có văn thư chấp thuận như thế, Cha Diệp được liệt vào bậc “Tôi Tớ Chúa” trong tiến trình vận động tuyên thánh.
3.Văn thư của Bộ Tuyên Thánh cho phép Đức Cha Thiên thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, nhưng văn thư không đòi buộc mọi người tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thi hành việc vận động tuyên thánh này. Mỗi người tín hữu Công Giáo đều có tự do của mình để chọn lựa việc làm. Do đó, Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không buộc phải theo văn thư NIHIL OBSTAT về việc vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
4.Sau khi Bộ Tuyên Thánh ra văn thư NIHIL OBSTAT, Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên thuộc Giáo Phận Saint Paul in Alberta, Canada đến Adelaide, Nam Úc và thành lập một hội có tên là Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp vào ngày 22/12/2014. Linh Mục Tuyên và ban điều hành của hội này không bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Họ tự ý thành lập hội này, mà ngay cả Đức Tổng Giám Mục Adelaide cũng không hề hay biết. Việc tự ý thành lập một hội đoàn có tầm ảnh hưởng lên đức tin, tình hiệp thông và sự ổn định của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, mà không thèm bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm địa phương là một hành động không thể chấp nhận được. Đây là một hành vi không công bình và không bác ái đối với người có trách nhiệm và có quyền điều hành Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc.
5.Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp bắt đầu hoạt động công khai với buổi ra mắt vào ngày 24/06/2015 tại hội trường Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu/Nam Úc. Chỉ hơn hai tháng sau, thì những chuyện rắc rối bắt đầu xảy ra, gây nên căng thẳng, hoang mang và chia rẽ trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Ngày 08/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm nhận được một lá thư mạo danh, chửi bới ngài cách nặng nề và đòi buộc ngài từ chức. Đó là những lời gian dối, hiểm độc và vô căn cứ. Sở dĩ gọi là mạo danh vì tác giả sử dụng tên của một người khác để viết thư. Mục đích của kẻ viết thư là để làm gì? Để gây hoang mang và chia rẽ? Để buộc Linh Mục Quản Nhiệm ra đi? Rồi làm gì? Một điều có thể xảy ra là, nếu Linh Mục Quản Nhiệm ra đi và một Linh Mục khác đến phục vụ, thì tác giả lá thư mạo danh và những người liên quan đến lá thư mạo danh đó sẽ khuynh đảo, lôi kéo Linh Mục mới làm theo ý đồ riêng tư của họ. Nếu chuyện đó xảy ra, thì Cộng Đồng sẽ lâm vào cảnh xáo trộn và chia rẽ trầm trọng như đã từng xảy ra nhiều năm trước đây.
6.Ngày 17/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm lại nhận được một điện thư do một kẻ lấy tên là Thi Hoài gửi đến. Nội dung của điện thư này vu cáo rằng Linh Mục Quản Nhiệm chống lại Cha Diệp, trong khi Linh Mục Quản Nhiệm không hề có một điều gì xúc phạm đến vị Linh Mục quá cố này. Lời lẽ trong thư cũng chửi bới và đe dọa tương tự như lá thư mạo danh xuất hiện trước đó hơn một tuần. Chúng ta tự hỏi: “Tác giả Thi Hoài có mối liên hệ mật thiết nào đối với Cha Diệp và những hiện tượng liên quan đến Cha Diệp? Tác giả Thi Hoài có liên quan mật thiết nào với kẻ viết thư mạo danh hơn một tuần trước đó? Kẻ viết thư mạo danh lại có mối liên hệ mật thiết nào với việc vận động tuyên thánh Cha Diệp? Trong khoảng thời gian kế tiếp cho đến bây giờ, cũng có một vài chuyện khác xảy ra nhằm triệt hạ uy tín của Linh Mục Quản Nhiệm và gây khó khăn cho những người cộng tác với ngài để phục vụ Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Những chuyện này cũng biểu lộ một số dấu hiệu có liên quan đến việc vận động tuyên thánh Cha Diệp và kẻ viết thư mạo danh cùng tác giả Thi Hoài được đề cập trên đây.
7.Cộng Đồng Công Công Giáo Việt Nam – Nam Úc sinh hoạt ổn định, an lành, vui vẻ và hiệp thông với nhau trong nhiều năm qua. Nhưng kể từ khi Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp do Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên lập ra, bắt đầu hoạt động công khai tại Adelaide vào ngày 24/6/2015, thì chỉ một thời gian ngắn sau đó là xáo trộn, hoang mang và chia rẽ xảy ra ngay trong Cộng Đồng này. Tại sao lại có sự xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như vậy? Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không gây ra tình trạng này. Chắc chắn Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp cũng không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ. Một phần là vì ngài đã qua đời, và người đã qua đời không làm ra những chuyện này. Phần khác là vì chúng ta tin rằng Cha Phanxicô Xaviê là một Linh Mục thánh thiện. Mà người thánh thiện chắc chắn không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ trong bất cứ cộng đoàn nào. Vậy ai đã gây ra những xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như thế? Câu trả lời là tùy từng cá nhân. Mỗi người hãy cầu nguyện, hãy xét mình, hãy đối diện với lương tâm, với Thiên Chúa, với Đức Mẹ cùng các thiên thần và các thánh, để tìm ra câu trả lời cho chính mình.
8.Việc vận động tuyên thánh Cha Diệp cần phải có văn thư của Đức Giám Mục đương nhiệm Giáo Phận Cần Thơ kêu gọi xin hỗ trợ mới được. Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên đã gửi một văn thư đề ngày 24/10/2012, ủy nhiệm cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo tại Hoa Kỳ để đại diện Giáo Phận Cần Thơ lo việc vận động tuyên thánh Cha Diệp tại Hoa Kỳ. Còn ở Úc thì không có văn thư nào tương tự như thế. Vì vậy, Linh Mục Quản Nhiệm CĐCGVNNU không thể đại diện Giáo Phận Cần Thơ để tự ý thực hiện việc vận động tuyên thánh này.
9.Một mặt, Đức Giám Mục Stêphanô Tri Bửu Thiên bổ nhiệm Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên làm Cáo Thỉnh Viên trong Bản Tuyên Bố ký ngày 20/08/2011, để lo việc vận động tuyên thánh. Mặt khác, Đức Cha Thiên lại ra ủy nhiệm thư ký ngày 24/10/2012 cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ lo việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp tại nơi đây. Nội dung ủy nhiệm thư quy định là tại Hoa Kỳ trách nhiệm và quyền vận động tuyên thánh cho Cha Diệp thuộc về giới lãnh đạo Công Giáo Việt Nam ở quốc gia này. Ủy nhiệm thư không đề cập đến Cha Tuyên. Do đó, chúng ta không biết rõ trách nhiệm và quyền hạn của Cha Tuyên bao quát đến mức độ nào? Trong tình trạng mù mờ như thế, điều khôn ngoan nhất là không nên hành động vội vã, kẻo gây hiểu lầm và tạo ra xáo trộn.
10.Giả sử Đức Cha Thiên có kêu gọi hỗ trợ việc vận động tuyên thánh đi nữa, thì công việc này cũng không nhất thiết đòi hỏi là phải thành lập hội đoàn. Bởi vì việc vận động tuyên thánh có nhiều cách để làm, tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm trong từng địa phương. Theo hoàn cảnh hiện nay, đối với Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, việc lập thêm hội đoàn là điều không cần thiết. Cộng Đồng đã có quá nhiều hội đoàn, mà thành viên của các hội đoàn hầu hết là những khuôn mặt quen thuộc. Những người tham gia hội đoàn này, cũng thường tham gia hội đoàn khác. Có người là thành viên của ba bốn hội đoàn. Vì vậy, khi chúng ta đi họp hội đoàn nào, chúng ta cũng thấy những khuôn mặt quen thuộc đó hiện diện. Cho nên, căn cứ theo hoàn cảnh hiện tại, Cộng Đồng không cần lập thêm hay công nhận thêm một hội đoàn nào khác nữa, ngoại trừ trường hợp rất cần thiết theo phán đoán mục vụ của Linh Mục Quản Nhiệm, thì ngài mới thành lập thêm hội đoàn. Trong mức độ liên quan đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, chúng ta phải coi hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp chỉ là một tổ chức của tư nhân ngoài Cộng Đồng mà thôi. Nói chung, việc thành lập hội đoàn thì mọi người đều có quyền thực hiện, miễn là hợp pháp. Tuy nhiên, khi một hội đoàn nào có liên quan đến đức tin và làm ảnh hưởng tiêu cực đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, thì trách nhiệm và lương tâm mục tử đòi buộc Linh Mục Quản Nhiệm phải có thái độ và hành động xứng hợp để bảo vệ đức tin của giáo dân mình coi sóc.
11.Việc tôn kính một cá nhân mà mình ngưỡng mộ là chuyện tự do của mỗi người. Ai muốn chọn người nào để tôn kính và cách thức nào để tôn kính vị đó thì tùy ý. Việc tôn kính này không buộc ai phải gia nhập hội đoàn hay lập thêm hội đoàn. Nếu ai muốn tôn kính người nào hay lập hội đoàn nào, thì tùy ý, nhưng đừng nên đòi hỏi người khác phải chấp nhận việc tôn kính như mình hay chấp nhận hội đoàn của mình. Mỗi một Linh Mục coi sóc giáo xứ hay điều hành cộng đoàn sắc tộc đều có trách nhiệm và có quyền điều hành giáo xứ hay cộng đoàn của họ. Trách nhiệm điều hành và quyền điều hành bao giờ cũng đi đôi với nhau. Theo lẽ thường, mọi người đều buộc phải tôn trọng trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các vị ấy. Do đó, khi một hay nhiều Linh Mục khách hoặc một nhóm người nào đó không tôn trọng phạm vi trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các Linh Mục coi xứ hoặc các Linh Mục coi sóc cộng đoàn sắc tộc, thì các vị ấy đã vi phạm đức công bình và đức bác ái.
12.Một tín hữu Công Giáo được vận động để tuyên thánh phải trải qua một tiến trình gồm bốn bậc: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (còn gọi là Á Thánh), và Hiển Thánh. Xét tận căn, bốn bậc này đều là Tôi Tớ Chúa cả, nhưng sự khác biệt giữa các bậc như sau: *Tôi Tớ Chúa (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), *Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính, *Tôi Tớ Chúa Chân Phước (còn gọi là Tôi Tớ Chúa Á Thánh), và *Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh. Nói vắn tắt, bốn bậc là: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (Á Thánh), và Hiển Thánh. Cha Diệp đang còn ở trong bậc Tôi Tớ Chúa, nghĩa là Tôi Tớ Chúa đơn giản mà thôi.
13.Trong Giáo Luật, điều 1187 qui định rõ ràng: “Chỉ được phép tôn kính công khai những Tôi Tớ của Thiên Chúa đã được giáo quyền liệt kê vào sổ bộ Chân Phước hay Hiển Thánh.” Điều luật này cho thấy chỉ có Tôi Tớ Chúa Chân Phước và Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh mới được phép tôn kính công khai mà thôi. Còn hai bậc khác là Tôi Tớ Chúa đơn giản và Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính thì chỉ được tôn kính riêng tư. Do đó, khi tôn kính một người nào đang còn ở trong giai đoạn “Tôi Tớ Chúa” (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), thì nguyên tắc căn bản là không nên thực hiện việc tôn kính thái quá khiến cho nhiều người lầm tưởng là vị ấy đã được Giáo Hội tuyên phong Chân Phước hay Hiển Thánh rồi. Ngay cả khi tôn kính Chân Phước hay Hiển Thánh, người tín hữu Công Giáo cũng không nên làm những hành vi sùng bái quá đáng, đến nỗi họ chỉ biết dâng hiến xác hồn cho cá nhân người được sùng kính, mà không còn thiết tha gì đến Thiên Chúa nữa. Một khi hiện tượng này xảy ra, thì việc tôn kính cá nhân đó trở thành một thứ tôn thờ ngẫu thần, tương tự như việc tôn thờ bò vàng của dân Do Thái trong sa mạc (Xuất Hành 32).
14.Khi thiên hạ nói rằng mình được ơn lạ từ vị này vị kia, thì điều đó chưa hẳn là ơn lạ hay phép lạ. Bởi vì chúng ta dựa vào chứng cớ nào để tin? Lời nói của một người hay nhiều người vẫn chưa đủ để chứng minh về ơn lạ hay phép lạ. Những cái gọi là ơn lạ hay phép lạ phải được xét nghiệm theo phương pháp khoa học và phải được Thẩm Quyền của Giáo Hội tuyên bố; bấy giờ người tín hữu Công Giáo mới nên tin là phép lạ.
15.Đức tin của Giáo Hội bắt nguồn từ thời các thánh Tông Đồ và tiếp diễn cho đến nay. Điều cốt yếu là chúng ta đón nhận và sống đức tin do Giáo Hội truyền dạy. Đức tin của chúng ta được nâng đỡ và khích lệ qua việc tôn kính các thánh. Việc tôn kính các thánh có hai mục đích, đó là học theo gương sáng của các ngài và xin các ngài cầu bầu cùng Chúa để Chúa ban ơn cho chúng ta (GLHTCG 828). Trong hai mục đích này, việc học hỏi gương sáng các thánh là điều chính yếu, bởi vì nó giúp chúng ta thăng tiến đời sống để nên thánh như ý Chúa muốn. Chúa Giêsu đã dạy rõ ràng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi tôn kính một vị thánh nào hay một tín hữu Công Giáo nào đang được vận động để được tuyên thánh, thì điểm chính yếu là chúng ta học theo gương sáng của họ. Gương sáng căn bản là: tôn trọng sự thật, công bình và bác ái, để kiến tạo hòa bình. Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô dạy trong bài Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9).
16.Như đã nói trên đây, chúng ta tin rằng Cha Phaxicô Xaviê Trương Bửu Diệp là một vị Linh Mục thánh thiện. Bộ Tuyên Thánh đã chấp thuận cho ngài được vận động để tuyên thánh, nên ngài được gọi là Tôi Tớ Chúa. Tuy nhiên, văn thư NIHIL OBSTAT (nghĩa là: không có gì ngăn trở) của Bộ Tuyên Thánh không đòi buộc mọi tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thực hiện cuộc vận động đó. Mỗi tín hữu đều có tự do của mình để chọn lựa. Nếu chọn lựa vận động tuyên thánh, thì có nhiều phương pháp để thực hiện tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm của từng nơi chốn. Phương pháp vận động tuyên thánh có xứng hợp hay không, thì tùy thuộc sự phán đoán của mỗi tín hữu. Có Chúa biết rõ lòng dạ chúng ta. Mỗi người trong anh chị em cần suy nghĩ để chọn lựa thái độ và lối sống đức tin cho mình. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa Thiên Chúa về mọi việc làm của mình ở trần gian này.
Thân mến chào anh chị em,
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
Quản Nhiệm CĐCGVNNU
20/03/2016
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
21/03/2016
Anh chị em thân mến,
1.Từ năm ngoái 2015 đến nay, một vấn đề làm hoang mang nhiều người trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc, đó là việc vận động tuyên thánh Linh Mục Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Vì thế, tôi viết bài này giúp anh chị em hiểu rõ về sự việc, để khỏi bị lung lạc do nhiều nguồn tin khác nhau.
2.Việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp là do Đức Giám Mục đương nhiệm của Giáo Phận Cần Thơ, Stêphanô Tri Bửu Thiên, bắt đầu. Đức Cha Thiên đã gửi lá thư đề ngày 03/09/2013 để hỏi ý kiến Bộ Tuyên Thánh và đã được chấp thuận về việc thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh. Văn thư chấp thuận được gọi tóm tắt bằng tiếng La Tinh là “NIHIL OBSTAT” đề ngày 31/10/2014, dịch nghĩa là “KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ”. Khi có văn thư chấp thuận như thế, Cha Diệp được liệt vào bậc “Tôi Tớ Chúa” trong tiến trình vận động tuyên thánh.
3.Văn thư của Bộ Tuyên Thánh cho phép Đức Cha Thiên thực hiện tiến trình vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, nhưng văn thư không đòi buộc mọi người tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thi hành việc vận động tuyên thánh này. Mỗi người tín hữu Công Giáo đều có tự do của mình để chọn lựa việc làm. Do đó, Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không buộc phải theo văn thư NIHIL OBSTAT về việc vận động tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp.
4.Sau khi Bộ Tuyên Thánh ra văn thư NIHIL OBSTAT, Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên thuộc Giáo Phận Saint Paul in Alberta, Canada đến Adelaide, Nam Úc và thành lập một hội có tên là Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp vào ngày 22/12/2014. Linh Mục Tuyên và ban điều hành của hội này không bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Họ tự ý thành lập hội này, mà ngay cả Đức Tổng Giám Mục Adelaide cũng không hề hay biết. Việc tự ý thành lập một hội đoàn có tầm ảnh hưởng lên đức tin, tình hiệp thông và sự ổn định của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, mà không thèm bàn thảo gì với Linh Mục Quản Nhiệm địa phương là một hành động không thể chấp nhận được. Đây là một hành vi không công bình và không bác ái đối với người có trách nhiệm và có quyền điều hành Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam - Nam Úc.
5.Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp bắt đầu hoạt động công khai với buổi ra mắt vào ngày 24/06/2015 tại hội trường Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu/Nam Úc. Chỉ hơn hai tháng sau, thì những chuyện rắc rối bắt đầu xảy ra, gây nên căng thẳng, hoang mang và chia rẽ trong Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Ngày 08/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm nhận được một lá thư mạo danh, chửi bới ngài cách nặng nề và đòi buộc ngài từ chức. Đó là những lời gian dối, hiểm độc và vô căn cứ. Sở dĩ gọi là mạo danh vì tác giả sử dụng tên của một người khác để viết thư. Mục đích của kẻ viết thư là để làm gì? Để gây hoang mang và chia rẽ? Để buộc Linh Mục Quản Nhiệm ra đi? Rồi làm gì? Một điều có thể xảy ra là, nếu Linh Mục Quản Nhiệm ra đi và một Linh Mục khác đến phục vụ, thì tác giả lá thư mạo danh và những người liên quan đến lá thư mạo danh đó sẽ khuynh đảo, lôi kéo Linh Mục mới làm theo ý đồ riêng tư của họ. Nếu chuyện đó xảy ra, thì Cộng Đồng sẽ lâm vào cảnh xáo trộn và chia rẽ trầm trọng như đã từng xảy ra nhiều năm trước đây.
6.Ngày 17/09/2015, Linh Mục Quản Nhiệm lại nhận được một điện thư do một kẻ lấy tên là Thi Hoài gửi đến. Nội dung của điện thư này vu cáo rằng Linh Mục Quản Nhiệm chống lại Cha Diệp, trong khi Linh Mục Quản Nhiệm không hề có một điều gì xúc phạm đến vị Linh Mục quá cố này. Lời lẽ trong thư cũng chửi bới và đe dọa tương tự như lá thư mạo danh xuất hiện trước đó hơn một tuần. Chúng ta tự hỏi: “Tác giả Thi Hoài có mối liên hệ mật thiết nào đối với Cha Diệp và những hiện tượng liên quan đến Cha Diệp? Tác giả Thi Hoài có liên quan mật thiết nào với kẻ viết thư mạo danh hơn một tuần trước đó? Kẻ viết thư mạo danh lại có mối liên hệ mật thiết nào với việc vận động tuyên thánh Cha Diệp? Trong khoảng thời gian kế tiếp cho đến bây giờ, cũng có một vài chuyện khác xảy ra nhằm triệt hạ uy tín của Linh Mục Quản Nhiệm và gây khó khăn cho những người cộng tác với ngài để phục vụ Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc. Những chuyện này cũng biểu lộ một số dấu hiệu có liên quan đến việc vận động tuyên thánh Cha Diệp và kẻ viết thư mạo danh cùng tác giả Thi Hoài được đề cập trên đây.
7.Cộng Đồng Công Công Giáo Việt Nam – Nam Úc sinh hoạt ổn định, an lành, vui vẻ và hiệp thông với nhau trong nhiều năm qua. Nhưng kể từ khi Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp do Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên lập ra, bắt đầu hoạt động công khai tại Adelaide vào ngày 24/6/2015, thì chỉ một thời gian ngắn sau đó là xáo trộn, hoang mang và chia rẽ xảy ra ngay trong Cộng Đồng này. Tại sao lại có sự xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như vậy? Linh Mục Quản Nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc không gây ra tình trạng này. Chắc chắn Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp cũng không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ. Một phần là vì ngài đã qua đời, và người đã qua đời không làm ra những chuyện này. Phần khác là vì chúng ta tin rằng Cha Phanxicô Xaviê là một Linh Mục thánh thiện. Mà người thánh thiện chắc chắn không gây ra xáo trộn, hoang mang và chia rẽ trong bất cứ cộng đoàn nào. Vậy ai đã gây ra những xáo trộn, hoang mang và chia rẽ như thế? Câu trả lời là tùy từng cá nhân. Mỗi người hãy cầu nguyện, hãy xét mình, hãy đối diện với lương tâm, với Thiên Chúa, với Đức Mẹ cùng các thiên thần và các thánh, để tìm ra câu trả lời cho chính mình.
8.Việc vận động tuyên thánh Cha Diệp cần phải có văn thư của Đức Giám Mục đương nhiệm Giáo Phận Cần Thơ kêu gọi xin hỗ trợ mới được. Đức Cha Stêphanô Tri Bửu Thiên đã gửi một văn thư đề ngày 24/10/2012, ủy nhiệm cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo tại Hoa Kỳ để đại diện Giáo Phận Cần Thơ lo việc vận động tuyên thánh Cha Diệp tại Hoa Kỳ. Còn ở Úc thì không có văn thư nào tương tự như thế. Vì vậy, Linh Mục Quản Nhiệm CĐCGVNNU không thể đại diện Giáo Phận Cần Thơ để tự ý thực hiện việc vận động tuyên thánh này.
9.Một mặt, Đức Giám Mục Stêphanô Tri Bửu Thiên bổ nhiệm Linh Mục Phêrô Trần Thế Tuyên làm Cáo Thỉnh Viên trong Bản Tuyên Bố ký ngày 20/08/2011, để lo việc vận động tuyên thánh. Mặt khác, Đức Cha Thiên lại ra ủy nhiệm thư ký ngày 24/10/2012 cho Ban Thường Vụ Hội Đồng Chỉ Đạo Trung Ương và Hội Đồng Lãnh Đạo Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ lo việc vận động tuyên thánh cho Cha Diệp tại nơi đây. Nội dung ủy nhiệm thư quy định là tại Hoa Kỳ trách nhiệm và quyền vận động tuyên thánh cho Cha Diệp thuộc về giới lãnh đạo Công Giáo Việt Nam ở quốc gia này. Ủy nhiệm thư không đề cập đến Cha Tuyên. Do đó, chúng ta không biết rõ trách nhiệm và quyền hạn của Cha Tuyên bao quát đến mức độ nào? Trong tình trạng mù mờ như thế, điều khôn ngoan nhất là không nên hành động vội vã, kẻo gây hiểu lầm và tạo ra xáo trộn.
10.Giả sử Đức Cha Thiên có kêu gọi hỗ trợ việc vận động tuyên thánh đi nữa, thì công việc này cũng không nhất thiết đòi hỏi là phải thành lập hội đoàn. Bởi vì việc vận động tuyên thánh có nhiều cách để làm, tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm trong từng địa phương. Theo hoàn cảnh hiện nay, đối với Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, việc lập thêm hội đoàn là điều không cần thiết. Cộng Đồng đã có quá nhiều hội đoàn, mà thành viên của các hội đoàn hầu hết là những khuôn mặt quen thuộc. Những người tham gia hội đoàn này, cũng thường tham gia hội đoàn khác. Có người là thành viên của ba bốn hội đoàn. Vì vậy, khi chúng ta đi họp hội đoàn nào, chúng ta cũng thấy những khuôn mặt quen thuộc đó hiện diện. Cho nên, căn cứ theo hoàn cảnh hiện tại, Cộng Đồng không cần lập thêm hay công nhận thêm một hội đoàn nào khác nữa, ngoại trừ trường hợp rất cần thiết theo phán đoán mục vụ của Linh Mục Quản Nhiệm, thì ngài mới thành lập thêm hội đoàn. Trong mức độ liên quan đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, chúng ta phải coi hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp chỉ là một tổ chức của tư nhân ngoài Cộng Đồng mà thôi. Nói chung, việc thành lập hội đoàn thì mọi người đều có quyền thực hiện, miễn là hợp pháp. Tuy nhiên, khi một hội đoàn nào có liên quan đến đức tin và làm ảnh hưởng tiêu cực đến Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam – Nam Úc, thì trách nhiệm và lương tâm mục tử đòi buộc Linh Mục Quản Nhiệm phải có thái độ và hành động xứng hợp để bảo vệ đức tin của giáo dân mình coi sóc.
11.Việc tôn kính một cá nhân mà mình ngưỡng mộ là chuyện tự do của mỗi người. Ai muốn chọn người nào để tôn kính và cách thức nào để tôn kính vị đó thì tùy ý. Việc tôn kính này không buộc ai phải gia nhập hội đoàn hay lập thêm hội đoàn. Nếu ai muốn tôn kính người nào hay lập hội đoàn nào, thì tùy ý, nhưng đừng nên đòi hỏi người khác phải chấp nhận việc tôn kính như mình hay chấp nhận hội đoàn của mình. Mỗi một Linh Mục coi sóc giáo xứ hay điều hành cộng đoàn sắc tộc đều có trách nhiệm và có quyền điều hành giáo xứ hay cộng đoàn của họ. Trách nhiệm điều hành và quyền điều hành bao giờ cũng đi đôi với nhau. Theo lẽ thường, mọi người đều buộc phải tôn trọng trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các vị ấy. Do đó, khi một hay nhiều Linh Mục khách hoặc một nhóm người nào đó không tôn trọng phạm vi trách nhiệm điều hành và quyền điều hành của các Linh Mục coi xứ hoặc các Linh Mục coi sóc cộng đoàn sắc tộc, thì các vị ấy đã vi phạm đức công bình và đức bác ái.
12.Một tín hữu Công Giáo được vận động để tuyên thánh phải trải qua một tiến trình gồm bốn bậc: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (còn gọi là Á Thánh), và Hiển Thánh. Xét tận căn, bốn bậc này đều là Tôi Tớ Chúa cả, nhưng sự khác biệt giữa các bậc như sau: *Tôi Tớ Chúa (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), *Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính, *Tôi Tớ Chúa Chân Phước (còn gọi là Tôi Tớ Chúa Á Thánh), và *Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh. Nói vắn tắt, bốn bậc là: Tôi Tớ Chúa, Đấng Đáng Kính, Chân Phước (Á Thánh), và Hiển Thánh. Cha Diệp đang còn ở trong bậc Tôi Tớ Chúa, nghĩa là Tôi Tớ Chúa đơn giản mà thôi.
13.Trong Giáo Luật, điều 1187 qui định rõ ràng: “Chỉ được phép tôn kính công khai những Tôi Tớ của Thiên Chúa đã được giáo quyền liệt kê vào sổ bộ Chân Phước hay Hiển Thánh.” Điều luật này cho thấy chỉ có Tôi Tớ Chúa Chân Phước và Tôi Tớ Chúa Hiển Thánh mới được phép tôn kính công khai mà thôi. Còn hai bậc khác là Tôi Tớ Chúa đơn giản và Tôi Tớ Chúa Đấng Đáng Kính thì chỉ được tôn kính riêng tư. Do đó, khi tôn kính một người nào đang còn ở trong giai đoạn “Tôi Tớ Chúa” (có thể gọi là Tôi Tớ Chúa đơn giản), thì nguyên tắc căn bản là không nên thực hiện việc tôn kính thái quá khiến cho nhiều người lầm tưởng là vị ấy đã được Giáo Hội tuyên phong Chân Phước hay Hiển Thánh rồi. Ngay cả khi tôn kính Chân Phước hay Hiển Thánh, người tín hữu Công Giáo cũng không nên làm những hành vi sùng bái quá đáng, đến nỗi họ chỉ biết dâng hiến xác hồn cho cá nhân người được sùng kính, mà không còn thiết tha gì đến Thiên Chúa nữa. Một khi hiện tượng này xảy ra, thì việc tôn kính cá nhân đó trở thành một thứ tôn thờ ngẫu thần, tương tự như việc tôn thờ bò vàng của dân Do Thái trong sa mạc (Xuất Hành 32).
14.Khi thiên hạ nói rằng mình được ơn lạ từ vị này vị kia, thì điều đó chưa hẳn là ơn lạ hay phép lạ. Bởi vì chúng ta dựa vào chứng cớ nào để tin? Lời nói của một người hay nhiều người vẫn chưa đủ để chứng minh về ơn lạ hay phép lạ. Những cái gọi là ơn lạ hay phép lạ phải được xét nghiệm theo phương pháp khoa học và phải được Thẩm Quyền của Giáo Hội tuyên bố; bấy giờ người tín hữu Công Giáo mới nên tin là phép lạ.
15.Đức tin của Giáo Hội bắt nguồn từ thời các thánh Tông Đồ và tiếp diễn cho đến nay. Điều cốt yếu là chúng ta đón nhận và sống đức tin do Giáo Hội truyền dạy. Đức tin của chúng ta được nâng đỡ và khích lệ qua việc tôn kính các thánh. Việc tôn kính các thánh có hai mục đích, đó là học theo gương sáng của các ngài và xin các ngài cầu bầu cùng Chúa để Chúa ban ơn cho chúng ta (GLHTCG 828). Trong hai mục đích này, việc học hỏi gương sáng các thánh là điều chính yếu, bởi vì nó giúp chúng ta thăng tiến đời sống để nên thánh như ý Chúa muốn. Chúa Giêsu đã dạy rõ ràng: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi tôn kính một vị thánh nào hay một tín hữu Công Giáo nào đang được vận động để được tuyên thánh, thì điểm chính yếu là chúng ta học theo gương sáng của họ. Gương sáng căn bản là: tôn trọng sự thật, công bình và bác ái, để kiến tạo hòa bình. Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô dạy trong bài Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9).
16.Như đã nói trên đây, chúng ta tin rằng Cha Phaxicô Xaviê Trương Bửu Diệp là một vị Linh Mục thánh thiện. Bộ Tuyên Thánh đã chấp thuận cho ngài được vận động để tuyên thánh, nên ngài được gọi là Tôi Tớ Chúa. Tuy nhiên, văn thư NIHIL OBSTAT (nghĩa là: không có gì ngăn trở) của Bộ Tuyên Thánh không đòi buộc mọi tín hữu Công Giáo trên hoàn cầu đều phải thực hiện cuộc vận động đó. Mỗi tín hữu đều có tự do của mình để chọn lựa. Nếu chọn lựa vận động tuyên thánh, thì có nhiều phương pháp để thực hiện tùy theo phán đoán và hoàn cảnh của những người có trách nhiệm của từng nơi chốn. Phương pháp vận động tuyên thánh có xứng hợp hay không, thì tùy thuộc sự phán đoán của mỗi tín hữu. Có Chúa biết rõ lòng dạ chúng ta. Mỗi người trong anh chị em cần suy nghĩ để chọn lựa thái độ và lối sống đức tin cho mình. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa Thiên Chúa về mọi việc làm của mình ở trần gian này.
Thân mến chào anh chị em,
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh-Tâm
Quản Nhiệm CĐCGVNNU
20/03/2016
ĐỐI LẬP
Cuộc đời có nhiều thứ đối lập, trái ngược, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Sáng – tối, trắng – đen, cao – thấp, đẹp – xấu, mập – gầy, tròn – vuông, hiền – dữ, tốt – xấu, giỏi – dốt, yêu – ghét,… Có những thứ khả dĩ chấp nhận nhau, nhưng có những thứ không thể chấp nhận nhau, nếu có cái này thì không thể có cái kia.
Trình thuật Lc 18:10-14 cho thấy một dạng đối lập “không thể chấp nhận nhau” đặc biệt: Công Chính và Tội Lỗi. Chúa Giêsu kể dụ ngôn này để “nhắc nhở” một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác.
Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Chúa Giêsu xác nhận: “Người này [người thu thuế], khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không [người Pha-ri-sêu]. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Có vẻ “xa lạ” với người Việt khi chúng ta cứ nói người Pha-ri-sêu và người thu thuế. Thiết tưởng cứ nói thẳng ra là “người đạo đức” và “người tội lỗi”. Và rồi một hôm đẹp trời, họ cùng vào nhà thờ để cầu nguyện…
Đúng như hai nhân vật điển hình được Chúa Giêsu đề cập, chúng ta vẫn “gặp” hai nhân vật này hằng ngày. Chẳng hạn: Có người ngồi trong nhà thờ, miệng vẫn đọc kinh hoặc đang cùng dâng lễ mà mắt cứ đảo qua đảo lại; có người rước lễ xuống mà mắt ngó tới ngó lui, nhất là những người có ngoại hình “coi được” một chút. Làm vậy để làm gì? Phải chăng vì muốn ngó chừng xem có ai “chú ý” mình hay không? Thế nhưng có người tỏ ra rất khép nép, có người chỉ dám đứng ở góc nhà thờ (trong hoặc ngoài) với dáng vẻ thành tâm lắm, có người chỉ lặng lẽ nghiêm quỳ với đôi mắt nhắm lại. Ở đây không có ý nói những người giữ “đạo gốc cây” hoặc “đạo qua loa” (ngồi ngoài nghe qua chiếc loa), mà chỉ muốn nói những con người cảm thấy mình “bé nhỏ” so với những người khác. Thấy cung cách của họ mà phải “giật mình” thật đấy!
Người đạo đức là ai? Đó là những người luôn hãnh diện vì mình hiền từ, nhân hậu, tốt lành, không bê tha, sống nghiêm túc, luôn đàng hoàng, rất đứng đắn trong mọi động thái. Đó là nói chung chung, mơ hồ, vòng vo quá! Rõ ràng là ai? Đó là những người ưa nổi bật, thích bề ngoài, muốn được người khác chú ý và khen ngợi khi họ tham gia sinh hoạt các hội đoàn (không chỉ một mà nhiều), hăng say giúp việc cho nhà thờ, đi làm từ thiện khắp nơi, khuyên người này, răn người nọ, phổ biến đủ loại tài liệu đạo đức,… Nói chung là vô số điều tốt việc lành, không thể kể hết.
Tất nhiên không ai dám chê trách những người thành tâm, cố gắng và hy sinh thời gian để tham gia các giờ kinh – nhất là vào những giờ “trái khoáy” như 4 giờ sáng, 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, hoặc 3 giờ chiều. Thật đáng khâm phục! Vấn đề đáng lưu ý và muốn đề cập ở đây là những người CHỈ LÀM VÌ GIẢ HÌNH, làm ra vẻ để người khác “nể mặt”, được nổi trội, sáng danh mình hơn sáng danh Chúa, tức là những người có “máu” Pha-ri-sêu. Dĩ nhiên chúng ta không nói ra, nhưng phong cách của chúng ta đã tố cáo điều “ấp ủ” trong lòng vậy!
Cả hai loại người như vậy có ở khắp nơi, đủ mọi tầng lớp, cả trong xã hội và Giáo hội.
Những ai tự nhận mình là người nhân đức, tốt lành, chí công và vô tư, hãy suy tư kỹ và nên thuộc lòng câu phân tích của Thánh Gia-cô-bê: “Ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành người có tội về hết mọi điểm. Thật vậy, Đấng đã phán: Ngươi không được ngoại tình, cũng đã phán: Ngươi không được giết người. Vậy nếu bạn không ngoại tình, nhưng lại giết người, thì bạn cũng thành kẻ vi phạm Lề Luật. Anh em hãy nói năng và hành động như những người sẽ bị xét xử theo luật tự do. Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn ai thương xót thì chẳng quan tâm đến việc xét xử” (Gc 2:10-13). Đọc mà thấy rất “đau cái điền” (điên cái đầu).
Còn người tội lỗi là ai? Đó là những người… tội lỗi. Chẳng nói ra thì ai cũng “rành sáu câu”, quá rõ rồi. Nhưng chính xác thực tế của thế kỷ 21 này như thế nào? Đó là những người “bất cần đời”, không sợ “xả láng sáng về sớm”, mê cờ bạc, say đề đóm, ghiền hút sách, ham cá độ, thích rượu chè, khoái chơi “hai ngón”, ưa “cầm nhầm”, sẵn sàng bóc lột, không ngại áp bức, di truyền máu trai gái, thoải mái xem hoặc đọc những thứ “đen đặc quánh”, khỏi cần tránh thứ gì mình muốn,… Ôi thôi, cơ man nào mà kể, nhất là ở cái thời @ này!
Gặp các loại “đại ca” đó, chúng ta cảm thấy “ngại” lắm (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Và rất có thể chúng ta dè bỉu, xì xầm, khinh miệt, vì chúng ta cảm thấy họ “bẩn” quá, còn mình thì “sạch” lắm. Nhưng có lẽ chúng ta lại quên cầu nguyện cho họ, vì thực tế là chúng ta chưa (hoặc không) đủ trình độ mà (dám hoặc có thể) khuyên họ “chuyển hướng” đâu!
Chúa Giêsu đã xác định: “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18). Vì thế mà chẳng ai dám cầm cục đá mà ném người phụ nữ ngoại tình (Ga 8:2-11). Lý do rất đơn giản là chẳng ai thấy mình công chính hoặc vô tội, mà ai cũng thấy mình xấu xa và tội lỗi ngập đầu, càng lớn càng nhiều tội!
Ước gì chúng ta nhận diện được chính mình để có thể nói như Giáo hoàng Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5:8). Và chúng ta dám thú nhận như người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18:13).
Chúa Giêsu xác định: “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Nhưng Ngài cũng bảo: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6:44). Quả là cả một mầu nhiêm mà chúng ta không thể hiểu nổi!
Chắc hẳn chúng ta chỉ còn biết cúi đầu trước Thiên Chúa mà thôi. Với lòng khiêm nhường và sám hối, chúng ta hãy noi gương Thánh Y-nhã (Ignacio de Loyola, 1491-1556, linh mục sáng lập Dòng Tên) mà cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí khôn và cả ý chí của con. Tất cả những gì con có và đang làm chủ, Chúa đã ban cho con, nay con xin dâng lại Chúa, vì tất cả là của Chúa. Xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Lạy Chúa, xin ban cho con tình yêu và ân sủng Chúa. Đối với con, thế là đủ. Amen”.
TRẦM THIÊN THU
Cuộc đời có nhiều thứ đối lập, trái ngược, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: Sáng – tối, trắng – đen, cao – thấp, đẹp – xấu, mập – gầy, tròn – vuông, hiền – dữ, tốt – xấu, giỏi – dốt, yêu – ghét,… Có những thứ khả dĩ chấp nhận nhau, nhưng có những thứ không thể chấp nhận nhau, nếu có cái này thì không thể có cái kia.
Trình thuật Lc 18:10-14 cho thấy một dạng đối lập “không thể chấp nhận nhau” đặc biệt: Công Chính và Tội Lỗi. Chúa Giêsu kể dụ ngôn này để “nhắc nhở” một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác.
Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Chúa Giêsu xác nhận: “Người này [người thu thuế], khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không [người Pha-ri-sêu]. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Có vẻ “xa lạ” với người Việt khi chúng ta cứ nói người Pha-ri-sêu và người thu thuế. Thiết tưởng cứ nói thẳng ra là “người đạo đức” và “người tội lỗi”. Và rồi một hôm đẹp trời, họ cùng vào nhà thờ để cầu nguyện…
Đúng như hai nhân vật điển hình được Chúa Giêsu đề cập, chúng ta vẫn “gặp” hai nhân vật này hằng ngày. Chẳng hạn: Có người ngồi trong nhà thờ, miệng vẫn đọc kinh hoặc đang cùng dâng lễ mà mắt cứ đảo qua đảo lại; có người rước lễ xuống mà mắt ngó tới ngó lui, nhất là những người có ngoại hình “coi được” một chút. Làm vậy để làm gì? Phải chăng vì muốn ngó chừng xem có ai “chú ý” mình hay không? Thế nhưng có người tỏ ra rất khép nép, có người chỉ dám đứng ở góc nhà thờ (trong hoặc ngoài) với dáng vẻ thành tâm lắm, có người chỉ lặng lẽ nghiêm quỳ với đôi mắt nhắm lại. Ở đây không có ý nói những người giữ “đạo gốc cây” hoặc “đạo qua loa” (ngồi ngoài nghe qua chiếc loa), mà chỉ muốn nói những con người cảm thấy mình “bé nhỏ” so với những người khác. Thấy cung cách của họ mà phải “giật mình” thật đấy!
Người đạo đức là ai? Đó là những người luôn hãnh diện vì mình hiền từ, nhân hậu, tốt lành, không bê tha, sống nghiêm túc, luôn đàng hoàng, rất đứng đắn trong mọi động thái. Đó là nói chung chung, mơ hồ, vòng vo quá! Rõ ràng là ai? Đó là những người ưa nổi bật, thích bề ngoài, muốn được người khác chú ý và khen ngợi khi họ tham gia sinh hoạt các hội đoàn (không chỉ một mà nhiều), hăng say giúp việc cho nhà thờ, đi làm từ thiện khắp nơi, khuyên người này, răn người nọ, phổ biến đủ loại tài liệu đạo đức,… Nói chung là vô số điều tốt việc lành, không thể kể hết.
Tất nhiên không ai dám chê trách những người thành tâm, cố gắng và hy sinh thời gian để tham gia các giờ kinh – nhất là vào những giờ “trái khoáy” như 4 giờ sáng, 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, hoặc 3 giờ chiều. Thật đáng khâm phục! Vấn đề đáng lưu ý và muốn đề cập ở đây là những người CHỈ LÀM VÌ GIẢ HÌNH, làm ra vẻ để người khác “nể mặt”, được nổi trội, sáng danh mình hơn sáng danh Chúa, tức là những người có “máu” Pha-ri-sêu. Dĩ nhiên chúng ta không nói ra, nhưng phong cách của chúng ta đã tố cáo điều “ấp ủ” trong lòng vậy!
Cả hai loại người như vậy có ở khắp nơi, đủ mọi tầng lớp, cả trong xã hội và Giáo hội.
Những ai tự nhận mình là người nhân đức, tốt lành, chí công và vô tư, hãy suy tư kỹ và nên thuộc lòng câu phân tích của Thánh Gia-cô-bê: “Ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành người có tội về hết mọi điểm. Thật vậy, Đấng đã phán: Ngươi không được ngoại tình, cũng đã phán: Ngươi không được giết người. Vậy nếu bạn không ngoại tình, nhưng lại giết người, thì bạn cũng thành kẻ vi phạm Lề Luật. Anh em hãy nói năng và hành động như những người sẽ bị xét xử theo luật tự do. Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn ai thương xót thì chẳng quan tâm đến việc xét xử” (Gc 2:10-13). Đọc mà thấy rất “đau cái điền” (điên cái đầu).
Còn người tội lỗi là ai? Đó là những người… tội lỗi. Chẳng nói ra thì ai cũng “rành sáu câu”, quá rõ rồi. Nhưng chính xác thực tế của thế kỷ 21 này như thế nào? Đó là những người “bất cần đời”, không sợ “xả láng sáng về sớm”, mê cờ bạc, say đề đóm, ghiền hút sách, ham cá độ, thích rượu chè, khoái chơi “hai ngón”, ưa “cầm nhầm”, sẵn sàng bóc lột, không ngại áp bức, di truyền máu trai gái, thoải mái xem hoặc đọc những thứ “đen đặc quánh”, khỏi cần tránh thứ gì mình muốn,… Ôi thôi, cơ man nào mà kể, nhất là ở cái thời @ này!
Gặp các loại “đại ca” đó, chúng ta cảm thấy “ngại” lắm (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Và rất có thể chúng ta dè bỉu, xì xầm, khinh miệt, vì chúng ta cảm thấy họ “bẩn” quá, còn mình thì “sạch” lắm. Nhưng có lẽ chúng ta lại quên cầu nguyện cho họ, vì thực tế là chúng ta chưa (hoặc không) đủ trình độ mà (dám hoặc có thể) khuyên họ “chuyển hướng” đâu!
Chúa Giêsu đã xác định: “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18). Vì thế mà chẳng ai dám cầm cục đá mà ném người phụ nữ ngoại tình (Ga 8:2-11). Lý do rất đơn giản là chẳng ai thấy mình công chính hoặc vô tội, mà ai cũng thấy mình xấu xa và tội lỗi ngập đầu, càng lớn càng nhiều tội!
Ước gì chúng ta nhận diện được chính mình để có thể nói như Giáo hoàng Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5:8). Và chúng ta dám thú nhận như người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18:13).
Chúa Giêsu xác định: “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Nhưng Ngài cũng bảo: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6:44). Quả là cả một mầu nhiêm mà chúng ta không thể hiểu nổi!
Chắc hẳn chúng ta chỉ còn biết cúi đầu trước Thiên Chúa mà thôi. Với lòng khiêm nhường và sám hối, chúng ta hãy noi gương Thánh Y-nhã (Ignacio de Loyola, 1491-1556, linh mục sáng lập Dòng Tên) mà cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí khôn và cả ý chí của con. Tất cả những gì con có và đang làm chủ, Chúa đã ban cho con, nay con xin dâng lại Chúa, vì tất cả là của Chúa. Xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Lạy Chúa, xin ban cho con tình yêu và ân sủng Chúa. Đối với con, thế là đủ. Amen”.
TRẦM THIÊN THU
Linh Mục Cao Ngạo !
http://www.dongcong.org/phpBB/viewtopic.php?t=1492&sid=d4ae003f2b772f70fc34b5f7e372a4cb
Anh chi THDC nghĩ thế nào về bài báo này ?
đọc xong bài này,nhớ cầu cho các LM của Chúa một kinh, vì LM cũng là con người, yếu đuối và mỏng giòn ...
Xin thưa:
Rằng hay thì thật là hay
Không hay sao lại đắng cay cõi lòng ?
nguồn: thơ lục bát và bài sưu tầm này của LM Philip
(Tâm thư gửi một linh mục chưa quen)
Thưa Cha,
Tôi là người ngoại đạo, nhưng người bạn thân nhất của tôi lại là một người Công giáo, rất ngoan đạo. Chúng tôi chơi thân với nhau từ hồi còn cởi truồng tắm sông, nên bảy phép bí tích trong đạo, không có bí tích nào anh bạn không rủ tôi đi... xem. Thân tới độ chúng tôi đem chuyện đạo ra bàn không kiêng cữ chi hết, từ chuyện linh mục độc thân tới chuyện không được phép dùng áo mưa trong việc chăn gối và việc cấm phụ nữ làm linh mục. Các cuộc tranh luận đôi khi tới cãi nhau nảy lửa. Riêng vụ áo mưa thì tôi biết anh ta vẫn dùng; sau đó có đi xưng tội hay không, tôi không biết; tôi vừa tội nghiệp vừa nể anh. Cái duyên khiến tôi viết thư này là một hôm tôi tình cờ gặp anh bạn ở phi trường Charles de Gaule đi với một người thanh niên. Anh bạn già và tôi tay bắt mặt mừng nói chuyện khá lâu. Trước khi chia tay tôi hỏi toa-lét đâu. Tôi hỏi để lấy cớ nói chuyện riêng với bạn. Sao hôm nay mày giả khùng điên vậy? bạn tôi hỏi khi đưa tôi tới tận cửa WC. Thay vì trả lời, tôi hỏi, thằng nào đi với mày thế? Tôi 75 tuổi, quen gọi thân mật con cháu là mày, bạn tri âm là mày. Tôi thấy chàng thanh niên lứa tuổi 25-30 đi chung với anh bạn, tôi xếp vào hàng con cháu nên gọi lén là “thằng”, không có ý xấc láo. Bạn tôi giật mình, Lạy Chúa tôi, sao mày dám gọi ông cha bằng thằng? Tôi cũng giật mình, không phải vì dám kêu cha bằng thằng, mà vì sao có người bất lịch sự như thế mà làm linh mục được. Bạn tôi không đọc được bụng tôi, kéo tôi lại, bắt nói cho ra lẽ tại sao tôi mới gặp đã bất mãn với ông linh mục trẻ? Tôi nói người Việt có giáo dục gặp người lớn tuổi phải chào, nhất là chạm mặt nhau giữa nơi xa lạ. Đằng này tôi đã nghiêng đầu và nhìn ông ta trước, chờ đợi ông ta nhìn lại là tôi toét miệng cười và chào hỏi. Tôi mến tuổi trẻ, nên thích làm quen trò truyện, chứ nếu biết đó là một linh mục thì tôi đã kính nhi viễn chi. Quả nhiên ông này coi mình là cái rốn vũ trụ. Tôi đã thử cười cầu tài hai lần mà ông ta cứ vênh mặt lên. Bạn tôi bào chữa tính cha vậy, mày đừng chấp. Tôi trả lời nếu thiếu giáo dục thì có thể giáo dục, còn bản tính như thế không nên làm linh mục... Bạn tôi thấy tôi nói nặng, im lặng buồn bã. Anh bỏ đi, đầu gật gù. Tôi cũng buồn bã.
Trở về Canada, chúng tôi trao đổi bằng điện thoại, i-meo và bạn tôi nhờ tôi viết lại những điều chúng tôi trao đổi, kinh nghiệm, gọi là đóng góp cho tôn giáo bạn (đọc là “tôn giáo của bạn tôi”). Chúng tôi đồng lòng cho rằng giáo hội Việt Nam thiếu những linh mục khiêm tốn.
Thưa Cha,
Tôi có đọc đâu đó một bài về các đức tính căn bản của linh mục thời đại, trong đó có đức khiêm tốn. Nhưng khi đọc vào nội dung thì tác giả nói chuyện khiêm tốn khác – “khiêm tốn với đấng bề trên”! Khiêm tốn với bề trên thì hình như không cần dạy nhiều, nó nằm trong máu người Việt. Cái khiêm tốn với người ngang hàng và người thấp kém, với với giáo dân, với người xung quanh mới là đức. Tiếc thay, hủ tục và quan niệm sai lầm về vai trò linh mục hằng trăm năm nay tiếp tục khuyến khích những linh mục cao ngạo.
Trước hết là quan niệm làm linh mục là làm quan. Ai cũng biết như thế là sai lầm. Linh mục càng biết hơn. Nhưng ai cũng hành xử như linh mục là quan, và linh mục cũng tự coi mình là quan. Trong cách xưng hô, anh của linh mục được gọi là “quan bác”, em trai linh mục là “quan chú”, em dâu linh mục gọi là “quan thím”, bố mẹ linh mục gọi là “ông bà cố” (chữ này ngày xưa dùng để gọi tâng cha mẹ quan)... Đại đa số người được tâng bốc đều vui vẻ chấp nhận. Rất hiếm người biết ngượng mồm và nhất là ngượng tai. Càng ít người thấy đó là tàn dư của thời thực dân phong kiến, mà đạo Công giáo nên cương quyết lánh xa.
Hệ quả tai hại khôn lường của “quan” niệm ấy là những ơn gọi giả. Thay vì đi theo tiếng gọi tận hiến hy sinh, một số thiếu niên thích đi tu làm linh mục để hưởng vinh quang, để làm le (mặc dù môi miệng nói thuộc lòng bốn chữ “hy sinh tận hiến”). Các em này vô tội, các em chỉ bị cám dỗ vào một con đường danh giá mà các em không có khả năng đạt được ở những nghề khó nhai khác như bác sĩ, luật sư. Có em chọn con đường làm linh mục vì nghĩ linh mục ngon hơn bác sĩ, luật sư; ai chả sợ cha! Nhưng giáo hội gánh hậu quả. Lỡ ra em bé hám danh ấy “đỗ cụ”, sẽ coi tác phong quan liêu như đương nhiên, không thắc mắc. Vì em đã “được nâng lên hàng thượng phẩm”! Vết nhơ trong quá khứ và hiện tại mà các linh mục hống hách, quan liêu để lại, không thể bào chữa bằng ý Chúa được, mà vì giáo hội và giáo xứ không tích cực đả phá các tác phong sai lầm. Phải phá bỏ đi, bắt đầu từ ngôn ngữ, rồi may ra cải thiện được não trạng. Linh mục là người nên bắt đầu biết ngượng về những xưng hô lố bịch, thì giáo dân mới dám sửa đổi, xưng hô chính danh.
Ngôn bất thuận vì danh bất chính. Chung qui, không biết thân phận là cội rễ của kiêu ngạo. Tôi đoán chủng viện có dạy về đức khiêm nhường, như một môn tu đức học, ít thực tập, nên nhiều linh mục thiếu đức “khiêm nhường thật trong lòng” đối với mọi người. Tôi nghe một thánh nhân Công giáo nói khiêm nhường là ở đúng vị trí mình. Chắc Cha nhớ ai nói? Tôi thấy đúng quá, và tình cờ đúng với quan điểm Đông phương về chính danh định phận. Phận linh mục là gì nếu không phải như mọi người khác là phận dòn mỏng yếu đuối, nhưng được chọn để “làm tôi tớ mọi người”? Linh mục cao ngạo là thiếu thâm tín về bản chất sứ mạng của linh mục là trở thành “kẻ sau rốt”.
Tu sĩ Phật giáo tự xưng mình là “bần tăng” (kẻ đi tu nghèo hèn), trong khi linh mục Công giáo tự xưng “cha”. Linh mục có thể tự xưng cha với nghĩa binh, học sinh (Công giáo) mà thôi; không nên tự xưng cha với ông già bà cả bằng tuổi ông bà nội ngoại của mình; càng khiếm nhã hơn khi xưng cha giữa một đám đông mà hầu hết không phải là con chiên của mình. Một linh mục Việt Nam tại Paris giải quyết cái phức tạp của danh xưng tiếng Việt bằng “moa” và “Vous” tuốt luốt. Tôi nghĩ thà lai căng như thế mà êm tai vui lòng hơn là cha cha con con bừa bãi.
Chỉ cần đọc cách viết hoa trong một bản văn “nhà đạo” cũng đủ thấy sự kiêu căng/tâng bốc làm hỏng văn phạm. Tật viết hoa theo hệ cấp không phải chỉ phổ biến trong Công giáo, mà (may mắn hay rủi ro!) khá phổ biến trong nhiều tôn giáo khác nữa.
Tuy nhiên, hiếm nhưng không phải không có linh mục khiêm tốn trong xưng hô. Tôi biết một linh mục luôn tự xưng “con” với người lớn tuổi và với linh mục khác. Ông làm giám đốc đại chủng viện, nhưng tự xưng “con” với các sơ và linh mục mới thụ phong (từ “phong” này mà chả “quan” à? Nhưng chịu vậy, trót rồi). Khi gần gũi ông, tôi thấy đó là một con người uyên thâm nhiều mặt, có lẽ vì tài đức thật mà ông khiêm tốn trong lòng chăng.
Tôi biết trong chương trình đào tạo linh mục có phần về triết học Đông phương, trong đó có nghiên cứu chữ Lễ của Khổng giáo. Nhưng tôi nghi ngờ rằng cái học đó chỉ để trau dồi kiến thức, không phải để áp dụng trong đời sống. Lễ hay phép xã giao có thể (tôi viết “có thể”) bị coi là “thói đời” bôi bác. Nhưng thực ra nó là cái áo (như áo lễ, phẩm phục) gói ghém lòng yêu thương, bác ái, tôn trọng từng con người và nhân phẩm nói chung. Linh mục thiếu lễ giáo không thể giảng về Thiên Chúa là cha được. Cũng không có thẩm quyền nói về “yêu người bên cạnh”. Linh mục kiêu căng giống một thầy pháp múa may trên đài, hô phong hoán vũ.
Chủng viện khác trường đào tạo quan lại. Tương tự một gia đình nền nếp, chủng viện nên dạy chủng sinh thưa gửi, chào hỏi, ưu ái, quan tâm mọi người, hòa nhan ái ngữ, kính trên nhường dưới, giữ vệ sinh công cộng, cách tiếp khách, cách chia vui sẻ buồn với giáo dân và không phải giáo dân, cách giao tiếp với nữ giới, trẻ em, người già, tu sĩ khác tôn giáo, trọng của công v.v.
Kỳ thị nữ giới là một trong những biểu hiện thấp kém nơi một số linh mục. Từ thâm căn, có thể nó bắt nguồn từ mặc cảm Eva. Tất cả sự kính trọng tôn sùng người nữ được dồn vào Đức Trinh nữ Maria và “bà cố”; còn những người nữ khác trên thế gian là yêu ma cám dỗ. Có vị coi thường phụ nữ để chứng tỏ ta đắc đạo. Nhưng phần nhiều vì chưa tiếp cận với văn minh dân chủ – nữ giới có mọi giá trị ngang hàng với nam giới.
Khó coi nhất là linh mục coi thường “ma sơ”. Cha nghĩ tôi nói có phiến diện lắm không? Cùng là người tận hiến cho Chúa và Giáo hội, nhưng người nam được trọng vọng và tự tôn. Ngược lại, không hiểu vì bị “áp bức” lâu ngày thành quen hay vì học được lòng khiêm tốn thực sự từ Đức Maria, các nữ tu phần lớn biết cư xử khiêm nhường, hơn nam tu sĩ và linh mục. Cha biết không, tôi có thiện cảm với đạo Công giáo, thực sự, nhờ chiêm ngưỡng những nữ tu khiêm tốn và tận tụy. Nhưng thái độ quá khúm núm trước các linh mục, nhất là linh mục trẻ, là làm hại cả hai bên. Tôi đã chứng kiến một bà sơ già tới chúc mừng học trò của mình vừa thụ phong linh mục “Con chào cha!” sơ nói. Vị tân linh mục ngồi rung đùi không trả lời một tiếng, chỉ gật đầu cười. Thật tình lúc đó tôi chả biết ông cười cái gì. Khoái chí vì nghĩ lại buổi lễ thụ phong hoành tráng hay cảm giác được “nâng lên khỏi muôn dân”?
Linh mục nên đối xử bình đẳng với mọi người. Không thân người giầu, xa người nghèo. Tuyệt đối không phù thịnh. Vì nhu cầu mục vụ và điều hành, linh mục cần sự giúp đỡ của một số trí thức, những người biết vi tính, sửa ống nước, kẻ biểu ngữ. Nhưng không nên dựa vào họ, mà nên dựa vào người nghèo, lắng nghe người đàn bà ít học vì các bà sở hữu những chân lý vô giá về cuộc đời (có thể các bà dùng một ngôn ngữ khác). Cúi xuống là một cử chỉ cao quí.
Thưa Cha,
Tôi sẵn sàng tin linh mục mang thánh chức, nhưng không tin linh mục thảy đều là thánh nhân. Nếu sa ngã, một linh mục khiêm tốn sẽ dễ được Chúa và giáo dân tha thứ. Người đứng thấp, ngã đỡ đau và dễ chỗi dậy. Tôi cũng nghĩ một linh mục khiêm tốn sẽ là một lời mời gọi thiết tha nhất đến những mầm mống tốt muốn tìm đường tận hiến thật. Đối với người ngoại đạo như tôi, một linh mục khiêm tốn, hòa nhã có sức thuyết phục hơn ngàn bài giảng siêu hình.
Thô thiển mấy lời, xin Cha tha thứ sự mạo muội.
Kính chúc Cha vạn an trong Chúa Giêsu Hiền Từ và Khiêm Tốn.
Vĩnh Nhi
http://www.dongcong.org/phpBB/viewtopic.php?t=1492&sid=d4ae003f2b772f70fc34b5f7e372a4cb
Anh chi THDC nghĩ thế nào về bài báo này ?
đọc xong bài này,nhớ cầu cho các LM của Chúa một kinh, vì LM cũng là con người, yếu đuối và mỏng giòn ...
Xin thưa:
Rằng hay thì thật là hay
Không hay sao lại đắng cay cõi lòng ?
nguồn: thơ lục bát và bài sưu tầm này của LM Philip
(Tâm thư gửi một linh mục chưa quen)
Thưa Cha,
Tôi là người ngoại đạo, nhưng người bạn thân nhất của tôi lại là một người Công giáo, rất ngoan đạo. Chúng tôi chơi thân với nhau từ hồi còn cởi truồng tắm sông, nên bảy phép bí tích trong đạo, không có bí tích nào anh bạn không rủ tôi đi... xem. Thân tới độ chúng tôi đem chuyện đạo ra bàn không kiêng cữ chi hết, từ chuyện linh mục độc thân tới chuyện không được phép dùng áo mưa trong việc chăn gối và việc cấm phụ nữ làm linh mục. Các cuộc tranh luận đôi khi tới cãi nhau nảy lửa. Riêng vụ áo mưa thì tôi biết anh ta vẫn dùng; sau đó có đi xưng tội hay không, tôi không biết; tôi vừa tội nghiệp vừa nể anh. Cái duyên khiến tôi viết thư này là một hôm tôi tình cờ gặp anh bạn ở phi trường Charles de Gaule đi với một người thanh niên. Anh bạn già và tôi tay bắt mặt mừng nói chuyện khá lâu. Trước khi chia tay tôi hỏi toa-lét đâu. Tôi hỏi để lấy cớ nói chuyện riêng với bạn. Sao hôm nay mày giả khùng điên vậy? bạn tôi hỏi khi đưa tôi tới tận cửa WC. Thay vì trả lời, tôi hỏi, thằng nào đi với mày thế? Tôi 75 tuổi, quen gọi thân mật con cháu là mày, bạn tri âm là mày. Tôi thấy chàng thanh niên lứa tuổi 25-30 đi chung với anh bạn, tôi xếp vào hàng con cháu nên gọi lén là “thằng”, không có ý xấc láo. Bạn tôi giật mình, Lạy Chúa tôi, sao mày dám gọi ông cha bằng thằng? Tôi cũng giật mình, không phải vì dám kêu cha bằng thằng, mà vì sao có người bất lịch sự như thế mà làm linh mục được. Bạn tôi không đọc được bụng tôi, kéo tôi lại, bắt nói cho ra lẽ tại sao tôi mới gặp đã bất mãn với ông linh mục trẻ? Tôi nói người Việt có giáo dục gặp người lớn tuổi phải chào, nhất là chạm mặt nhau giữa nơi xa lạ. Đằng này tôi đã nghiêng đầu và nhìn ông ta trước, chờ đợi ông ta nhìn lại là tôi toét miệng cười và chào hỏi. Tôi mến tuổi trẻ, nên thích làm quen trò truyện, chứ nếu biết đó là một linh mục thì tôi đã kính nhi viễn chi. Quả nhiên ông này coi mình là cái rốn vũ trụ. Tôi đã thử cười cầu tài hai lần mà ông ta cứ vênh mặt lên. Bạn tôi bào chữa tính cha vậy, mày đừng chấp. Tôi trả lời nếu thiếu giáo dục thì có thể giáo dục, còn bản tính như thế không nên làm linh mục... Bạn tôi thấy tôi nói nặng, im lặng buồn bã. Anh bỏ đi, đầu gật gù. Tôi cũng buồn bã.
Trở về Canada, chúng tôi trao đổi bằng điện thoại, i-meo và bạn tôi nhờ tôi viết lại những điều chúng tôi trao đổi, kinh nghiệm, gọi là đóng góp cho tôn giáo bạn (đọc là “tôn giáo của bạn tôi”). Chúng tôi đồng lòng cho rằng giáo hội Việt Nam thiếu những linh mục khiêm tốn.
Thưa Cha,
Tôi có đọc đâu đó một bài về các đức tính căn bản của linh mục thời đại, trong đó có đức khiêm tốn. Nhưng khi đọc vào nội dung thì tác giả nói chuyện khiêm tốn khác – “khiêm tốn với đấng bề trên”! Khiêm tốn với bề trên thì hình như không cần dạy nhiều, nó nằm trong máu người Việt. Cái khiêm tốn với người ngang hàng và người thấp kém, với với giáo dân, với người xung quanh mới là đức. Tiếc thay, hủ tục và quan niệm sai lầm về vai trò linh mục hằng trăm năm nay tiếp tục khuyến khích những linh mục cao ngạo.
Trước hết là quan niệm làm linh mục là làm quan. Ai cũng biết như thế là sai lầm. Linh mục càng biết hơn. Nhưng ai cũng hành xử như linh mục là quan, và linh mục cũng tự coi mình là quan. Trong cách xưng hô, anh của linh mục được gọi là “quan bác”, em trai linh mục là “quan chú”, em dâu linh mục gọi là “quan thím”, bố mẹ linh mục gọi là “ông bà cố” (chữ này ngày xưa dùng để gọi tâng cha mẹ quan)... Đại đa số người được tâng bốc đều vui vẻ chấp nhận. Rất hiếm người biết ngượng mồm và nhất là ngượng tai. Càng ít người thấy đó là tàn dư của thời thực dân phong kiến, mà đạo Công giáo nên cương quyết lánh xa.
Hệ quả tai hại khôn lường của “quan” niệm ấy là những ơn gọi giả. Thay vì đi theo tiếng gọi tận hiến hy sinh, một số thiếu niên thích đi tu làm linh mục để hưởng vinh quang, để làm le (mặc dù môi miệng nói thuộc lòng bốn chữ “hy sinh tận hiến”). Các em này vô tội, các em chỉ bị cám dỗ vào một con đường danh giá mà các em không có khả năng đạt được ở những nghề khó nhai khác như bác sĩ, luật sư. Có em chọn con đường làm linh mục vì nghĩ linh mục ngon hơn bác sĩ, luật sư; ai chả sợ cha! Nhưng giáo hội gánh hậu quả. Lỡ ra em bé hám danh ấy “đỗ cụ”, sẽ coi tác phong quan liêu như đương nhiên, không thắc mắc. Vì em đã “được nâng lên hàng thượng phẩm”! Vết nhơ trong quá khứ và hiện tại mà các linh mục hống hách, quan liêu để lại, không thể bào chữa bằng ý Chúa được, mà vì giáo hội và giáo xứ không tích cực đả phá các tác phong sai lầm. Phải phá bỏ đi, bắt đầu từ ngôn ngữ, rồi may ra cải thiện được não trạng. Linh mục là người nên bắt đầu biết ngượng về những xưng hô lố bịch, thì giáo dân mới dám sửa đổi, xưng hô chính danh.
Ngôn bất thuận vì danh bất chính. Chung qui, không biết thân phận là cội rễ của kiêu ngạo. Tôi đoán chủng viện có dạy về đức khiêm nhường, như một môn tu đức học, ít thực tập, nên nhiều linh mục thiếu đức “khiêm nhường thật trong lòng” đối với mọi người. Tôi nghe một thánh nhân Công giáo nói khiêm nhường là ở đúng vị trí mình. Chắc Cha nhớ ai nói? Tôi thấy đúng quá, và tình cờ đúng với quan điểm Đông phương về chính danh định phận. Phận linh mục là gì nếu không phải như mọi người khác là phận dòn mỏng yếu đuối, nhưng được chọn để “làm tôi tớ mọi người”? Linh mục cao ngạo là thiếu thâm tín về bản chất sứ mạng của linh mục là trở thành “kẻ sau rốt”.
Tu sĩ Phật giáo tự xưng mình là “bần tăng” (kẻ đi tu nghèo hèn), trong khi linh mục Công giáo tự xưng “cha”. Linh mục có thể tự xưng cha với nghĩa binh, học sinh (Công giáo) mà thôi; không nên tự xưng cha với ông già bà cả bằng tuổi ông bà nội ngoại của mình; càng khiếm nhã hơn khi xưng cha giữa một đám đông mà hầu hết không phải là con chiên của mình. Một linh mục Việt Nam tại Paris giải quyết cái phức tạp của danh xưng tiếng Việt bằng “moa” và “Vous” tuốt luốt. Tôi nghĩ thà lai căng như thế mà êm tai vui lòng hơn là cha cha con con bừa bãi.
Chỉ cần đọc cách viết hoa trong một bản văn “nhà đạo” cũng đủ thấy sự kiêu căng/tâng bốc làm hỏng văn phạm. Tật viết hoa theo hệ cấp không phải chỉ phổ biến trong Công giáo, mà (may mắn hay rủi ro!) khá phổ biến trong nhiều tôn giáo khác nữa.
Tuy nhiên, hiếm nhưng không phải không có linh mục khiêm tốn trong xưng hô. Tôi biết một linh mục luôn tự xưng “con” với người lớn tuổi và với linh mục khác. Ông làm giám đốc đại chủng viện, nhưng tự xưng “con” với các sơ và linh mục mới thụ phong (từ “phong” này mà chả “quan” à? Nhưng chịu vậy, trót rồi). Khi gần gũi ông, tôi thấy đó là một con người uyên thâm nhiều mặt, có lẽ vì tài đức thật mà ông khiêm tốn trong lòng chăng.
Tôi biết trong chương trình đào tạo linh mục có phần về triết học Đông phương, trong đó có nghiên cứu chữ Lễ của Khổng giáo. Nhưng tôi nghi ngờ rằng cái học đó chỉ để trau dồi kiến thức, không phải để áp dụng trong đời sống. Lễ hay phép xã giao có thể (tôi viết “có thể”) bị coi là “thói đời” bôi bác. Nhưng thực ra nó là cái áo (như áo lễ, phẩm phục) gói ghém lòng yêu thương, bác ái, tôn trọng từng con người và nhân phẩm nói chung. Linh mục thiếu lễ giáo không thể giảng về Thiên Chúa là cha được. Cũng không có thẩm quyền nói về “yêu người bên cạnh”. Linh mục kiêu căng giống một thầy pháp múa may trên đài, hô phong hoán vũ.
Chủng viện khác trường đào tạo quan lại. Tương tự một gia đình nền nếp, chủng viện nên dạy chủng sinh thưa gửi, chào hỏi, ưu ái, quan tâm mọi người, hòa nhan ái ngữ, kính trên nhường dưới, giữ vệ sinh công cộng, cách tiếp khách, cách chia vui sẻ buồn với giáo dân và không phải giáo dân, cách giao tiếp với nữ giới, trẻ em, người già, tu sĩ khác tôn giáo, trọng của công v.v.
Kỳ thị nữ giới là một trong những biểu hiện thấp kém nơi một số linh mục. Từ thâm căn, có thể nó bắt nguồn từ mặc cảm Eva. Tất cả sự kính trọng tôn sùng người nữ được dồn vào Đức Trinh nữ Maria và “bà cố”; còn những người nữ khác trên thế gian là yêu ma cám dỗ. Có vị coi thường phụ nữ để chứng tỏ ta đắc đạo. Nhưng phần nhiều vì chưa tiếp cận với văn minh dân chủ – nữ giới có mọi giá trị ngang hàng với nam giới.
Khó coi nhất là linh mục coi thường “ma sơ”. Cha nghĩ tôi nói có phiến diện lắm không? Cùng là người tận hiến cho Chúa và Giáo hội, nhưng người nam được trọng vọng và tự tôn. Ngược lại, không hiểu vì bị “áp bức” lâu ngày thành quen hay vì học được lòng khiêm tốn thực sự từ Đức Maria, các nữ tu phần lớn biết cư xử khiêm nhường, hơn nam tu sĩ và linh mục. Cha biết không, tôi có thiện cảm với đạo Công giáo, thực sự, nhờ chiêm ngưỡng những nữ tu khiêm tốn và tận tụy. Nhưng thái độ quá khúm núm trước các linh mục, nhất là linh mục trẻ, là làm hại cả hai bên. Tôi đã chứng kiến một bà sơ già tới chúc mừng học trò của mình vừa thụ phong linh mục “Con chào cha!” sơ nói. Vị tân linh mục ngồi rung đùi không trả lời một tiếng, chỉ gật đầu cười. Thật tình lúc đó tôi chả biết ông cười cái gì. Khoái chí vì nghĩ lại buổi lễ thụ phong hoành tráng hay cảm giác được “nâng lên khỏi muôn dân”?
Linh mục nên đối xử bình đẳng với mọi người. Không thân người giầu, xa người nghèo. Tuyệt đối không phù thịnh. Vì nhu cầu mục vụ và điều hành, linh mục cần sự giúp đỡ của một số trí thức, những người biết vi tính, sửa ống nước, kẻ biểu ngữ. Nhưng không nên dựa vào họ, mà nên dựa vào người nghèo, lắng nghe người đàn bà ít học vì các bà sở hữu những chân lý vô giá về cuộc đời (có thể các bà dùng một ngôn ngữ khác). Cúi xuống là một cử chỉ cao quí.
Thưa Cha,
Tôi sẵn sàng tin linh mục mang thánh chức, nhưng không tin linh mục thảy đều là thánh nhân. Nếu sa ngã, một linh mục khiêm tốn sẽ dễ được Chúa và giáo dân tha thứ. Người đứng thấp, ngã đỡ đau và dễ chỗi dậy. Tôi cũng nghĩ một linh mục khiêm tốn sẽ là một lời mời gọi thiết tha nhất đến những mầm mống tốt muốn tìm đường tận hiến thật. Đối với người ngoại đạo như tôi, một linh mục khiêm tốn, hòa nhã có sức thuyết phục hơn ngàn bài giảng siêu hình.
Thô thiển mấy lời, xin Cha tha thứ sự mạo muội.
Kính chúc Cha vạn an trong Chúa Giêsu Hiền Từ và Khiêm Tốn.
Vĩnh Nhi
Văn phòng Cáo Thỉnh tổ chức lễ giỗ thứ 70 của LM Trương Bửu Diệp
Saturday, February 27, 2016
Ngọc Lan/Người Việt
WESTMINSTER, Calif. (NV) – Vào ngày 12 Tháng Ba, 2016, lễ giỗ lần thứ 70 của Linh Mục Phanxico Trương Bửu Diệp sẽ được tổ chức tại nhà thờ Blessed Sacrament (nhiều người quen gọi là 'nhà thờ Westminster') ở 14072 S. Olive St., Westminster, CA 92683, với sự chủ tế của Đức Cha Mai Thanh Lương cùng một số linh mục khác đồng tế.
“Điều đặc biệt, đây là lần thứ hai Văn phòng Cáo Thỉnh Án Tuyên Thánh Linh Mục Phanxico Trương Bửu Diệp chính thức đứng ra tổ chức lễ giỗ cho Ngài ở miền Nam California,” Linh Mục Trần Thế Tuyên, cáo thỉnh viên Án Tuyên Thánh cha Diệp, cho biết.
Saturday, February 27, 2016
Ngọc Lan/Người Việt
WESTMINSTER, Calif. (NV) – Vào ngày 12 Tháng Ba, 2016, lễ giỗ lần thứ 70 của Linh Mục Phanxico Trương Bửu Diệp sẽ được tổ chức tại nhà thờ Blessed Sacrament (nhiều người quen gọi là 'nhà thờ Westminster') ở 14072 S. Olive St., Westminster, CA 92683, với sự chủ tế của Đức Cha Mai Thanh Lương cùng một số linh mục khác đồng tế.
“Điều đặc biệt, đây là lần thứ hai Văn phòng Cáo Thỉnh Án Tuyên Thánh Linh Mục Phanxico Trương Bửu Diệp chính thức đứng ra tổ chức lễ giỗ cho Ngài ở miền Nam California,” Linh Mục Trần Thế Tuyên, cáo thỉnh viên Án Tuyên Thánh cha Diệp, cho biết.
Theo Linh Mục Tuyên, “Ngày 12 Tháng Ba là ngày Cha Diệp bị thọ hình cách đây 70 năm nên Văn Phòng Cáo Thỉnh có lập ban tổ chức để tổ chức lễ giỗ lần thứ 70 cho Ngài.”
Lễ giỗ bao gồm hai phần, “Phần một là Thánh lễ lúc 11 giờ sáng do Đức cha Mai Thanh Lương làm chủ tế và có mời một số cha khác đến đồng tế tại nhà thờ Blessed Sacrament. Phần hai là tiệc giỗ lúc 1 giờ trưa tại nhà hàng SeaFood Palace, địa chỉ 6731 Westminster Ave, Westminster, CA 92683.”
“Những lễ giỗ Cha Diệp trước đây là do các tổ chức tư nhân như Trương Bửu Diệp Foundation hay một tổ chức nào đó đứng ra tổ chức. Nhưng đây là lần thứ hai (lần đầu là năm 2015) Văn phòng Cáo Thỉnh Án Tuyên Thánh Cha Phanxico Trương Bửu Diệp chính thức tổ chức lễ giỗ cho Cha Diệp ở Nam Cali,” Cáo thỉnh viên Trần Thế Tuyên nói thêm.
Linh Mục Trần Thế Tuyên, gốc Giáo Phận Cần Thơ, hiện đang làm công việc mục vụ và làm trưởng ấn cho một giáo phận Công Giáo ở Canada.
Ông được Ðức Cha đương quyền của Giáo Phận Cần Thơ là Trí Bửu Thiên chấp thuận và ra sắc chỉ bổ nhiệm ông làm cáo thỉnh viên cho án tuyên thánh của Cha Trương Bửu Diệp vào Tháng Tám, 2011.
Theo Linh Mục Tuyên giải thích: “Cáo thỉnh viên tức là người đứng ra để cáo lên vụ án tuyên thánh và yêu cầu giáo quyền phải thực hiện.”
Linh Mục Tuyên khẳng định, “Như vậy lễ giỗ này có tiếng nói chính thức của nó, bởi do Văn phòng Cáo Thỉnh thực hiện chứ không phải của một tổ chức tư nhân nào hết.”
Văn phòng Cáo Thỉnh tại quận Cam
Mục đích Văn phòng Cáo Thỉnh trực tiếp tổ chức lễ giỗ lần này, ngoài việc tưởng nhớ về Cha Diệp, người nổi tiếng với câu nói, “Tôi sống giữa đàn chiên và nếu có chết cũng chết giữa đàn chiên, không đi đâu cả,” còn là để gây quỹ nhằm “thiết lập một Văn phòng Cáo Thỉnh chính thức ở Nam California.”
Chia sẻ thêm về tâm tình của một cáo thỉnh viên trong quá trình thực hiện Án Tuyên Thánh LM Trương Bửu Diệp, LM Trần Thế Tuyên cho biết, “Từ trước tới nay, bà con cũng có đóng góp nhưng thực sự chúng tôi không có sự phát động gì mạnh mẽ để mà kêu gọi đóng góp cho chuyện gì hết. Nhưng kỳ này, ban tổ chức, dưới sự chỉ đạo của Văn phòng Cáo Thỉnh, muốn bà con đi tham dự thánh lễ cũng như tham dự tiệc giỗ, tùy vào lòng hảo tâm mà có thể đóng góp nhằm thiết lập một Văn Phòng Cáo Thỉnh chính thức ở Nam Cali.”
Giải thích lý do vì sao cần phải có Văn Phòng Cáo Thỉnh, LM Tuyên nói, “Tức là trong khi những tổ chức tư nhân có văn phòng, có nơi để kính viếng Cha Trương Bửu Diệp, thì Văn Phòng Cáo Thỉnh, mặc dù là danh xưng chính thức, nhưng lại không có văn phòng, không có chỗ nào để cho bà con đến thăm viếng. Cho nên kỳ này nếu lễ giỗ thành công, được nhiều người ủng hộ thì sẽ dành lợi nhuận đó cho việc thiết lập văn phòng, dự trù thành lập vào Tháng Năm, 2016."
Trả lời cho những thắc mắc về một số tổ chức mang tên LM Trương Bửu Diệp xuất hiện lâu nay, Cáo thỉnh viên Trần Thế Tuyên cho rằng, “Tất cả đều là của tư nhân và không có giúp được gì cho Văn Phòng Cáo Thỉnh cũng như không giúp được gì cho Án Tuyên Thánh, tức họ ở ngoài hệ thống Giáo hội Công giáo.”
“Hy vọng rằng bà con hiểu rõ điều này để cái gì chính thức ra chính thức, chứ nhiều người nói họ quý mến hay thọ ơn Cha Diệp nên chỗ nào có thờ Cha Diệp thì họ tới nhưng họ không biết số tiền dâng cúng nơi đó được mang đi đâu,” ông nói.
Cũng theo LM Tuyên, “Trước giờ ngoài những cá nhân có sự đóng góp, giúp đỡ trực tiếp cho Văn phòng Cáo Thỉnh Viên, còn lại chúng tôi không nhận được gì gọi là giúp đỡ tài chánh từ những tổ chức nhân danh cha Trương Bửu Diệp cũng như họ không đóng góp gì án tuyên thánh của Cha Diệp hết.”
“Mong quý bà con hiểu chúng tôi là những người chính thức của Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức lễ giỗ không nhằm lấy tiền làm chuyện gì khác ngoài mục đích gây quỹ để thiết lập một văn phòng chính thức, có nơi đặt tượng cha Trương Bửu Diệp, có phòng cầu nguyện để mọi người đến tỏ lòng biết ơn cha Diệp. Đó cũng là nơi người ta có thể tìm hiểu về Án Tuyên Thánh của cha, đóng góp cho việc thực hiện án tuyên thánh đó, nên rất mong muốn bà con giúp cho chuyện này,” Linh Mục Trần Thế Tuyên kêu gọi.
Mọi chi tiết xin liên lạc với trưởng ban tổ chức, ông Nguyễn Văn Hưởng (cố Hưởng), điện thoại (714) 260-3507
************************
GX Đức Mẹ Lavang tại Houston TX
https://docs.google.com/viewerng/viewer?url=http://www.lavangchurch.org/btmv/BTMV28-02-16.pdf
THƯ MỜI THAM DỰ LỄ GIỖ CHA TRƯƠNG BỬU DIỆP
Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam một
vị mục tử đáng kính là cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, ngài đã can đảm
hy sinh trong khi nỗ lực cứu lấy những người trong giáo xứ của Ngài. Từ
nhiều năm qua đồng hương Houston vẫn tổ chức lễ giỗ cho cha Trương
Bửu Diệp. Năm nay với sự chấp thuận của cha xứ Nguyễn Đức Vượng, lễ
giỗ cha Trương Bửu Diệp sẽ được tổ chức vào sáng Thứ Bảy ngày 12 tháng
3, năm 2016 tại nhà thờ Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang. Địa chỉ 12320 Old
Foltin Rd., Houston, TX 77086
Chương trình như sau:
10:00 am : Thánh Lễ trong thánh đường GX Đức Mẹ Lavang
Sau thánh lễ sẽ có phần ăn giỗ với những thức ăn thuần túy quê hương và
sinh hoạt văn nghệ đặc sắc dưới hội trường.
****************************
Ai tham dự ăn giỗ thì chắc chắn phải có phong bì. Không thể nào mang cái mặt dầy đưa cái miệng ra ăn rồi đi ra về không. Vậy số tiền này sẽ được gửi đi đâu?
Bởi vì theo LM Tuyên “Trước giờ ngoài những cá nhân có sự đóng góp, giúp đỡ trực tiếp cho Văn phòng Cáo Thỉnh Viên, còn lại chúng tôi không nhận được gì gọi là giúp đỡ tài chánh từ những tổ chức nhân danh cha Trương Bửu Diệp cũng như họ không đóng góp gì án tuyên thánh của Cha Diệp hết.” "theo bài viết ở trên"
Mùa Chay là mùa xám hối, vậy mà ăn giỗ còn có văn nghệ đặc sắc nữa, không biết mấy ông Linh Mục này đang sống trong mùa gì đây?
Lễ giỗ bao gồm hai phần, “Phần một là Thánh lễ lúc 11 giờ sáng do Đức cha Mai Thanh Lương làm chủ tế và có mời một số cha khác đến đồng tế tại nhà thờ Blessed Sacrament. Phần hai là tiệc giỗ lúc 1 giờ trưa tại nhà hàng SeaFood Palace, địa chỉ 6731 Westminster Ave, Westminster, CA 92683.”
“Những lễ giỗ Cha Diệp trước đây là do các tổ chức tư nhân như Trương Bửu Diệp Foundation hay một tổ chức nào đó đứng ra tổ chức. Nhưng đây là lần thứ hai (lần đầu là năm 2015) Văn phòng Cáo Thỉnh Án Tuyên Thánh Cha Phanxico Trương Bửu Diệp chính thức tổ chức lễ giỗ cho Cha Diệp ở Nam Cali,” Cáo thỉnh viên Trần Thế Tuyên nói thêm.
Linh Mục Trần Thế Tuyên, gốc Giáo Phận Cần Thơ, hiện đang làm công việc mục vụ và làm trưởng ấn cho một giáo phận Công Giáo ở Canada.
Ông được Ðức Cha đương quyền của Giáo Phận Cần Thơ là Trí Bửu Thiên chấp thuận và ra sắc chỉ bổ nhiệm ông làm cáo thỉnh viên cho án tuyên thánh của Cha Trương Bửu Diệp vào Tháng Tám, 2011.
Theo Linh Mục Tuyên giải thích: “Cáo thỉnh viên tức là người đứng ra để cáo lên vụ án tuyên thánh và yêu cầu giáo quyền phải thực hiện.”
Linh Mục Tuyên khẳng định, “Như vậy lễ giỗ này có tiếng nói chính thức của nó, bởi do Văn phòng Cáo Thỉnh thực hiện chứ không phải của một tổ chức tư nhân nào hết.”
Văn phòng Cáo Thỉnh tại quận Cam
Mục đích Văn phòng Cáo Thỉnh trực tiếp tổ chức lễ giỗ lần này, ngoài việc tưởng nhớ về Cha Diệp, người nổi tiếng với câu nói, “Tôi sống giữa đàn chiên và nếu có chết cũng chết giữa đàn chiên, không đi đâu cả,” còn là để gây quỹ nhằm “thiết lập một Văn phòng Cáo Thỉnh chính thức ở Nam California.”
Chia sẻ thêm về tâm tình của một cáo thỉnh viên trong quá trình thực hiện Án Tuyên Thánh LM Trương Bửu Diệp, LM Trần Thế Tuyên cho biết, “Từ trước tới nay, bà con cũng có đóng góp nhưng thực sự chúng tôi không có sự phát động gì mạnh mẽ để mà kêu gọi đóng góp cho chuyện gì hết. Nhưng kỳ này, ban tổ chức, dưới sự chỉ đạo của Văn phòng Cáo Thỉnh, muốn bà con đi tham dự thánh lễ cũng như tham dự tiệc giỗ, tùy vào lòng hảo tâm mà có thể đóng góp nhằm thiết lập một Văn Phòng Cáo Thỉnh chính thức ở Nam Cali.”
Giải thích lý do vì sao cần phải có Văn Phòng Cáo Thỉnh, LM Tuyên nói, “Tức là trong khi những tổ chức tư nhân có văn phòng, có nơi để kính viếng Cha Trương Bửu Diệp, thì Văn Phòng Cáo Thỉnh, mặc dù là danh xưng chính thức, nhưng lại không có văn phòng, không có chỗ nào để cho bà con đến thăm viếng. Cho nên kỳ này nếu lễ giỗ thành công, được nhiều người ủng hộ thì sẽ dành lợi nhuận đó cho việc thiết lập văn phòng, dự trù thành lập vào Tháng Năm, 2016."
Trả lời cho những thắc mắc về một số tổ chức mang tên LM Trương Bửu Diệp xuất hiện lâu nay, Cáo thỉnh viên Trần Thế Tuyên cho rằng, “Tất cả đều là của tư nhân và không có giúp được gì cho Văn Phòng Cáo Thỉnh cũng như không giúp được gì cho Án Tuyên Thánh, tức họ ở ngoài hệ thống Giáo hội Công giáo.”
“Hy vọng rằng bà con hiểu rõ điều này để cái gì chính thức ra chính thức, chứ nhiều người nói họ quý mến hay thọ ơn Cha Diệp nên chỗ nào có thờ Cha Diệp thì họ tới nhưng họ không biết số tiền dâng cúng nơi đó được mang đi đâu,” ông nói.
Cũng theo LM Tuyên, “Trước giờ ngoài những cá nhân có sự đóng góp, giúp đỡ trực tiếp cho Văn phòng Cáo Thỉnh Viên, còn lại chúng tôi không nhận được gì gọi là giúp đỡ tài chánh từ những tổ chức nhân danh cha Trương Bửu Diệp cũng như họ không đóng góp gì án tuyên thánh của Cha Diệp hết.”
“Mong quý bà con hiểu chúng tôi là những người chính thức của Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức lễ giỗ không nhằm lấy tiền làm chuyện gì khác ngoài mục đích gây quỹ để thiết lập một văn phòng chính thức, có nơi đặt tượng cha Trương Bửu Diệp, có phòng cầu nguyện để mọi người đến tỏ lòng biết ơn cha Diệp. Đó cũng là nơi người ta có thể tìm hiểu về Án Tuyên Thánh của cha, đóng góp cho việc thực hiện án tuyên thánh đó, nên rất mong muốn bà con giúp cho chuyện này,” Linh Mục Trần Thế Tuyên kêu gọi.
Mọi chi tiết xin liên lạc với trưởng ban tổ chức, ông Nguyễn Văn Hưởng (cố Hưởng), điện thoại (714) 260-3507
************************
GX Đức Mẹ Lavang tại Houston TX
https://docs.google.com/viewerng/viewer?url=http://www.lavangchurch.org/btmv/BTMV28-02-16.pdf
THƯ MỜI THAM DỰ LỄ GIỖ CHA TRƯƠNG BỬU DIỆP
Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam một
vị mục tử đáng kính là cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, ngài đã can đảm
hy sinh trong khi nỗ lực cứu lấy những người trong giáo xứ của Ngài. Từ
nhiều năm qua đồng hương Houston vẫn tổ chức lễ giỗ cho cha Trương
Bửu Diệp. Năm nay với sự chấp thuận của cha xứ Nguyễn Đức Vượng, lễ
giỗ cha Trương Bửu Diệp sẽ được tổ chức vào sáng Thứ Bảy ngày 12 tháng
3, năm 2016 tại nhà thờ Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang. Địa chỉ 12320 Old
Foltin Rd., Houston, TX 77086
Chương trình như sau:
10:00 am : Thánh Lễ trong thánh đường GX Đức Mẹ Lavang
Sau thánh lễ sẽ có phần ăn giỗ với những thức ăn thuần túy quê hương và
sinh hoạt văn nghệ đặc sắc dưới hội trường.
****************************
Ai tham dự ăn giỗ thì chắc chắn phải có phong bì. Không thể nào mang cái mặt dầy đưa cái miệng ra ăn rồi đi ra về không. Vậy số tiền này sẽ được gửi đi đâu?
Bởi vì theo LM Tuyên “Trước giờ ngoài những cá nhân có sự đóng góp, giúp đỡ trực tiếp cho Văn phòng Cáo Thỉnh Viên, còn lại chúng tôi không nhận được gì gọi là giúp đỡ tài chánh từ những tổ chức nhân danh cha Trương Bửu Diệp cũng như họ không đóng góp gì án tuyên thánh của Cha Diệp hết.” "theo bài viết ở trên"
Mùa Chay là mùa xám hối, vậy mà ăn giỗ còn có văn nghệ đặc sắc nữa, không biết mấy ông Linh Mục này đang sống trong mùa gì đây?
Cùng nhau xây dựng nhà thờ chúng ta
Lời Chúa trong sách Sử Biên Niên quyển 1.(17, 1 – 13)
...... Ta sẽ cho dân Ta là Ítraen một chỗ ở; Ta sẽ định cư chúng và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ và quân gian ác cũng không còn tiếp tục quấy phá chúng như thuở ban đầu, từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ítraen, Ta sẽ bắt mọi thù địch hàng phục ngươi. Ta báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA sẽ xây cho ngươi một ngôi nhà. Khi ngươi được mãn phần mà về với tổ tiên, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi tức là một trong số các con ngươi, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây nhà cho Ta, còn Ta sẽ làm cho ngai báu của nó vững bền mãi mãi.
Câu chuyện trong sách Sử biên niên này làm cho chúng ta phải suy nghĩ khi muốn xây dựng nhà Thiên Chúa :
- Việc xây dựng nhà thờ chỉ đầy đủ ý nghĩa khi chúng ta gìn giữ và củng cố mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa.
- Chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho chúng ta chứ không phải tự nỗ lực của chúng ta mà thôi.
- Cùng với việc xây dựng nhà thờ là việc xây dựng cộng đoàn thờ phượng Chúa và lưu truyền việc thờ phượng này qua các thế hệ.
Đức tin.
Nhà thờ là hình ảnh của Hội Thánh, nhà thờ là Hội Thánh bằng gạch bằng đá, Hội Thánh là nhà thờ được xây dựng bằng những tâm hồn “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Ðền Thờ thiêng liêng” (1 P 2, 5.). Đức tin làm cho chúng ta trở nên viên đá sống động trong lòng Hội Thánh, Đức tin làm cho chúng ta liên kết với nhau trong một gia đình Hội Thánh.
Đức tin là ân huệ của Thiên Chúa ban, đón nhận Đức tin làm cho chúng ta trở nên Kitô hữu, Đức tin làm cho chúng ta có sự sống, cử hành Đức tin là hiện tại hóa ân huệ Chúa ban, tuyên xưng Đức tin làm cho ta tham dự sống động vào mầu nhiệm cứu chuộc, chia sẻ Đức tin làm cho chúng ta được lớn lên trong Thánh Thần.
Nhà thờ là một công trình kiến trúc, nhưng cũng là biểu tượng của Đức tin, hình ảnh ngôi nhà thờ cũng mang các chức năng như con người của Đức tin. Là một ân huệ của Thiên Chúa, nhà thờ tiếp diễn sự sống thiêng liêng, nhà thờ cử hành mầu nhiệm Đức tin, tuyên xưng Đức tin và luôn chia sẻ Đức tin cho mọi người.
Một khi chúng ta ý thức sứ mạng của con người mang Đức tin, nhà thờ cũng cần được xây dựng trong ý thức đó.
Mục vụ:
Giáo luật điều 1215 triệt 1 và 2 “Không nhà thờ nào được xây dựng, nếu không có ý minh nhiên bằng giấy tờ của Giám mục Giáo phận ...sau khi đã hỏi ý Hội đồng Linh mục và quản đốc các nhà thờ lân cận” .
Hiến Chế Phụng Vụ Thánh số 126. Ủy Ban giáo phận đặc trách Nghệ Thuật Thánh. Trong việc thẩm xét những tác phẩm nghệ thuật, các Ðấng Bản Quyền địa phương hãy lắng nghe ý kiến của Ủy Ban giáo phận đặc trách Nghệ Thuật Thánh, và trường hợp nào cần thiết, nên nghe những người rất thành thạo khác cũng như những Ủy Ban đã nói trong các khoản 44, 45, 46
Đặc biệt Đức Giám mục quyết định để ngài kiểm soát được việc mục vụ của các giáo sĩ sở tại, không để cho việc xây dựng gây gánh nặng quá lớn cho các giáo sĩ đến nỗi bỏ quên mục vụ thường xuyên. Ngài kiểm soát được qui mô công trình để phòng tránh sự phô trương quá đáng, sự mất quân bình giữa các giáo xứ với nhau và dễ dàng thuyên chuyển giáo sĩ trong tương lai không phải vướng nợ nần.
Ban Nghệ Thuật Thánh của Giáo phận nên quy tụ những linh mục, tu sĩ và các chuyên viên giáo dân hiểu biết về các lãnh vực có liên quan (Nghệ thuật, kiến trúc, phụng vụ, văn hóa, ...), cùng nhau nghiên cứu và cung cấp cho vị Giám mục cũng như Giáo xứ những trợ giúp cần thiết (những suy tư, những cảnh báo, những đề nghị, giới thiệu các : văn phòng Kiến trúc sư uy tín, nhà thầu xây dựng uy tín, nghệ nhân, ...), giám sát và giúp giải quyết những phát sinh trong quá trình xây dựng, ...
Giáo xứ
Cha xứ cùng với Hội đồng Mục vụ Giáo xứ cầu nguyện, suy nghĩ và bàn hỏi trước khi đưa ra quyết định xin xây dựng hay sửa chữa nhà thờ.
Cùng với việc xây dựng nhà thờ bằng gạch đá, đây là cơ hội để Giáo xứ xây dựng nhà thờ tâm hồn là chính cộng đoàn Giáo xứ, cần xây dựng một chương trình cầu nguyện và học tập đặc biệt trong dịp này. Đặc biệt các văn kiện của Hội Thánh như : Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, Hiến Chế Giáo Hội trong thế giới ngày nay, Sắc lệnh Ad Gentes và Thông diệp Sứ vụ Đấng Cứu Chuộc (Gioan Phaolo II, 1990), ...
Việc xây dựng nhà thờ Giáo xứ là việc của Giáo xứ, dưới sự hướng dẫn mục vụ của Cha xứ, Giáo xứ đảm nhận chính công việc của mình, cùng nhau bàn thảo, phân công và tích cực thực hiện.
Lắng nghe tiếng nói của các chuyên viên trong các lãnh vực của họ, đặc biệt về lãnh vực kiến trúc, tôn trọng và tích cực cộng tác. Sau khi đệ trình dự án, lắng nghe và vâng lời quyết định của Đấng bản quyền.Vâng lời vì ngài là Đấng Bản quyền, chủ thể chính thức của mọi nhà thờ trong Giáo phận, ngài có trách nhiệm và có cái nhìn chung của toàn Giáo phận, ngài suy xét trên các lãnh vực (mục vụ, dân số, phát triển, số lượng và sự điều chuyển giáo sĩ, tài chánh, tương quan với các giáo xứ chung quanh thuộc vùng, ..), ngài đã bàn hỏi cùng Hội đồng Linh mục và các quản đốc các nhà thờ lân cận, ngài đã có sự cố vấn của Ban Nghệ Thuật Thánh giúp việc cho ngài.
Những lưu ý kỹ thuật :
Tôn trọng các ý kiến chuyên môn của các chuyên gia trong các lãnh vực của họ (kiến trúc, kết cấu, mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật, vật liệu, môi trường, ...), nên có một hôi đồng nghệ thuật để tham vấn trong quá trình xây dựng dự án và thi công.
Lập quy hoach tổng mặt bằng trước khi tiến hành xây dựng các công trình trong toàn khu đất, tránh việc xây dựng tự phát bừa bãi, không khai thác được cách tốt nhất quỹ đất, làm hao phí tài lực.
Chú ý đến cây xanh, rất cần tránh việc tận dụng diện tích cho bê tông biến không gian tâm linh trở thành khô cứng, đối chọi với thiên nhiên. Tôn trọng qui định % khoảng xanh, % khoảng mở của công trình trong luật xây dựng. Cần phần sân rộng phía trước nhà thờ để giải tỏa tâm lý trước khi tiến vào việc thờ phượng, không gian thoáng mát rộng rãi tạo cảm giác thoải mái khi đến nhà Thiên Chúa ...
Chú ý đến thực trạng của cộng đoàn, xây dựng sao cho việc thờ phượng thường xuyên được ấm cúng (nhà thờ vừa đủ cho cộng đoàn cầu nguyện mỗi ngày, không quá rộng làm cộng đoàn nhỏ lạc lõng), vừa đủ cho việc cử hành vào các ngày Chúa nhật (mở rộng diện tích sử dụng ra bên ngoài khi đông người, sử dụng giải pháp hành lang, cửa mở rộng, ...), tiền sảnh nhà thờ trở thành lễ đài cho những ngày đại lễ (lễ Giáng Sinh, lễ Lá, ...cần khoảng sân rộng phía trước là nơi tụ họp giáo dân).
Tính kế thừa và kế thừa có chọn lọc. Cuộc sống, văn hóa, nghệ thuật là một dòng chảy, tính kế thừa là tất yếu của cuộc sống, “phi cổ bất thành kim”, trong dòng lịch sử của Giáo Hội, Giáo Hội luôn biết kế thừa cuộc sống, “rửa tội” và làm cho di sản nhân loại thêm phong phú nhờ tìm thấy và đóng góp khơi dậy những hoạt động của Chúa Thánh Thần từ trước trong các di sản đó. Thí dụ điển hình nhất là lễ Giáng Sinh vào ngày 25 tháng 12, ngày Đông chí, ngày bắt đầu dài ra, đêm bắt đầu ngắn lại, ngày mặt trời khởi sự chiến thắng, trong quá khứ là ngày lễ của thần mặt trời, thần Jupiter (thần Zeus). Khi thế giới Hy – La được “rửa tội”, Giáo Hội “rửa tội” cả ngày lễ này vì nhận ra Chúa Giêsu là mặt trời công chính mới, là ánh sáng tiêu diệt bóng đêm. Một thí dụ khác ở ViệtNam, Giáo Hội sử dụng nhang trầm để thờ phượng Chúa, nhang trầm là một hình thức thờ phượng trong truyền thống dân tộc.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý đến sự kế thừa có chọn lọc, không thể sử dụng cho nhà thờ một số họa tiết trong xây dựng thuộc văn hóa phồn thực phổ biến trong dân gian. Cũng như tôn trọng tính chính xác của di sản, thí dụ chiều xoay chuyển của trống đồng theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, vì nó mang tính triết lý vũ trụ quan, nhân sinh quan của hệ thống tư tưởng việt (Đông Sơn, Ngọc Lũ, Sông Đà,....http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki, Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ [ Việt Nam Văn Minh Sử - Lê Văn Siêu ] ) . Không nên giữ thành kiến, vội vàng lên án (như quá khứ đã ứng xử với sự thờ cúng ông bà tổ tiên) hoặc tệ hơn đoạn tuyệt với di sản dân tộc.
Tuân thủ hướng dẫn của Giáo Hội về hình ảnh của Giáo Hội trong thế giới ngày nay, tránh phô trương hào nhoáng, chạy theo thị hiếu hưởng thụ sa hoa; tránh cô lập không thân thiện với con người (tường cao cổng kín), tránh cách ly với thiên nhiên (bê tông hóa toàn cảnh); tránh sử dụng các vật liệu các họa tiết trang trí phàm tục gây hiểu lầm (các họa tiết trong văn hóa phồn thực, các vật liệu mang tính ước lệ về sự đồi trụy, ...).
Hội nhập văn hóa.
Ngày nay người ta rất chú ý đến vấn đề hội nhập văn hóa, Công Đồng Vatican II gây một chuyển biến lớn trong Giáo Hội, chúng ta đã được thờ phượng Thiên Chúa bằng chính ngôn ngữ bản xứ của chúng ta, nhiều công trình nghệ thuật (Thánh nhạc, điêu khắc, kiến trúc, phụng vụ, ...) đã mang lại những thành quả tốt đẹp.
Hội nhập văn hóa không có nghĩa là hoài cổ nệ cổ, cần phải tìm kiếm ra bản chất của văn hóa việt trong kiến trúc để rút tỉa ứng dụng, thiết tưởng cần lưu ý các yếu tố sau:
- Tính cộng đồng : Người Việt mang tính cộng đồng rất mạnh, mọi sinh hoạt dựa vào đời sống cộng đồng, ngôi nhà sinh hoạt của gia đình hoặc của làng xóm đều chú ý đến tính cộng đồng. Có thể chúng ta không duy trì sự phân biệt ngôi thứ của cơ cấu xã hội nhưng chúng ta phải tạo được không gián khả dĩ đón tiếp mọi thành phần dân Chúa không phân biệt, không ngăn cách.
- Tính nhân ái: Đặc tính rất cụ thể của văn hóa việt là tính nhân ái, trọng già yêu trẻ, lá lành đùm lá rách, nâng đỡ cô nhi quả phụ, quan tâm đến những người khuyết tật ...Không gian thờ phượng cần phải thiết kế sao cho những người già, người khuyết tật, người bất hạnh, người nghèo vẫn thấy được đó là ngôi nhà của họ, dành cho họ. Đặc biệt người ở các tôn giáo khác khi đến nhà thờ họ cảm thấy gần gũi, không xa lạ, không cảm giác sợ hãi. Trẻ em được tham dự và thờ phượng Chúa theo ngôn ngữ của các em.
Chúng ta nhận thấy trong Kinh Tín Kính (đọc trong Thánh lễ), Giáo Hội ngày nay đã dịch ra tiếng việt “ ....Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, ...”. “chúng ta” thay vì trong nguyên gốc là “chúng tôi” vì ngày xưa các anh chị em dự tòng ra về sau phần phụng vụ lời Chúa, chỉ còn các tín hữu ở lại tuyên xưng đức tin, ngày nay không chỉ là người dự tòng nhưng còn có cả các người khác tôn giáo nữa. Thiên Chúa khôn chỉ cứu rồi “chúng tôi” mà còn cứu rỗi “chúng ta” nữa. Tính nhân ái của dân tộc việt rất gần với Tin Mừng.
- Tính thiên nhiên : Người việt sống hài hòa và yêu mến thiên nhiên môt cách tự nhiên, cái đẹp của các công trình kiến trúc Huế là cái đẹp của công trình hòa quyện trong thiên nhiên. Nhà vườn là một không gian sống được người việt ưa thích, các quán cà phê sân vườn ở các thành phố luôn là những địa chỉ hấp dẫn nhiều người. Sứ điệp ngày hòa bình thế giới 2010 “Nếu bạn muốn hòa bình, hãy bảo tồn thiên nhiên” (Benedicto 16). Ngày nay chúng ta càng cần lưu ý yếu tố này hơn nữa khi Đức Thánh Cha mang tông hiệu là Phanxico, ngài đã chọn tông hiệu này vì ba yếu tố, trong đó có yếu tố môi trường (bài nói chuyện với giới truyền thông sau ngày đắc cử).
Một ngôi nhà thờ có thể tồn tại 100 năm, vì thế việc xây dựng nhà thờ là một việc tối quan trọng.
“Ví như Chúa chẳng xây nhà,Thợ nề vất vả cũng là uổng công” (TV 126)
Nhà thờ là nhà của Chúa, nhà của Hội Thánh, chúng ta chỉ hoàn thành thật sự khi chúng ta làm trong Chúa và trong lòng Hội Thánh.
Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.
Lời Chúa trong sách Sử Biên Niên quyển 1.(17, 1 – 13)
...... Ta sẽ cho dân Ta là Ítraen một chỗ ở; Ta sẽ định cư chúng và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ và quân gian ác cũng không còn tiếp tục quấy phá chúng như thuở ban đầu, từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ítraen, Ta sẽ bắt mọi thù địch hàng phục ngươi. Ta báo cho ngươi biết là ĐỨC CHÚA sẽ xây cho ngươi một ngôi nhà. Khi ngươi được mãn phần mà về với tổ tiên, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi tức là một trong số các con ngươi, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây nhà cho Ta, còn Ta sẽ làm cho ngai báu của nó vững bền mãi mãi.
Câu chuyện trong sách Sử biên niên này làm cho chúng ta phải suy nghĩ khi muốn xây dựng nhà Thiên Chúa :
- Việc xây dựng nhà thờ chỉ đầy đủ ý nghĩa khi chúng ta gìn giữ và củng cố mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa.
- Chính Thiên Chúa sẽ xây nhà cho chúng ta chứ không phải tự nỗ lực của chúng ta mà thôi.
- Cùng với việc xây dựng nhà thờ là việc xây dựng cộng đoàn thờ phượng Chúa và lưu truyền việc thờ phượng này qua các thế hệ.
Đức tin.
Nhà thờ là hình ảnh của Hội Thánh, nhà thờ là Hội Thánh bằng gạch bằng đá, Hội Thánh là nhà thờ được xây dựng bằng những tâm hồn “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Ðền Thờ thiêng liêng” (1 P 2, 5.). Đức tin làm cho chúng ta trở nên viên đá sống động trong lòng Hội Thánh, Đức tin làm cho chúng ta liên kết với nhau trong một gia đình Hội Thánh.
Đức tin là ân huệ của Thiên Chúa ban, đón nhận Đức tin làm cho chúng ta trở nên Kitô hữu, Đức tin làm cho chúng ta có sự sống, cử hành Đức tin là hiện tại hóa ân huệ Chúa ban, tuyên xưng Đức tin làm cho ta tham dự sống động vào mầu nhiệm cứu chuộc, chia sẻ Đức tin làm cho chúng ta được lớn lên trong Thánh Thần.
Nhà thờ là một công trình kiến trúc, nhưng cũng là biểu tượng của Đức tin, hình ảnh ngôi nhà thờ cũng mang các chức năng như con người của Đức tin. Là một ân huệ của Thiên Chúa, nhà thờ tiếp diễn sự sống thiêng liêng, nhà thờ cử hành mầu nhiệm Đức tin, tuyên xưng Đức tin và luôn chia sẻ Đức tin cho mọi người.
Một khi chúng ta ý thức sứ mạng của con người mang Đức tin, nhà thờ cũng cần được xây dựng trong ý thức đó.
Mục vụ:
Giáo luật điều 1215 triệt 1 và 2 “Không nhà thờ nào được xây dựng, nếu không có ý minh nhiên bằng giấy tờ của Giám mục Giáo phận ...sau khi đã hỏi ý Hội đồng Linh mục và quản đốc các nhà thờ lân cận” .
Hiến Chế Phụng Vụ Thánh số 126. Ủy Ban giáo phận đặc trách Nghệ Thuật Thánh. Trong việc thẩm xét những tác phẩm nghệ thuật, các Ðấng Bản Quyền địa phương hãy lắng nghe ý kiến của Ủy Ban giáo phận đặc trách Nghệ Thuật Thánh, và trường hợp nào cần thiết, nên nghe những người rất thành thạo khác cũng như những Ủy Ban đã nói trong các khoản 44, 45, 46
Đặc biệt Đức Giám mục quyết định để ngài kiểm soát được việc mục vụ của các giáo sĩ sở tại, không để cho việc xây dựng gây gánh nặng quá lớn cho các giáo sĩ đến nỗi bỏ quên mục vụ thường xuyên. Ngài kiểm soát được qui mô công trình để phòng tránh sự phô trương quá đáng, sự mất quân bình giữa các giáo xứ với nhau và dễ dàng thuyên chuyển giáo sĩ trong tương lai không phải vướng nợ nần.
Ban Nghệ Thuật Thánh của Giáo phận nên quy tụ những linh mục, tu sĩ và các chuyên viên giáo dân hiểu biết về các lãnh vực có liên quan (Nghệ thuật, kiến trúc, phụng vụ, văn hóa, ...), cùng nhau nghiên cứu và cung cấp cho vị Giám mục cũng như Giáo xứ những trợ giúp cần thiết (những suy tư, những cảnh báo, những đề nghị, giới thiệu các : văn phòng Kiến trúc sư uy tín, nhà thầu xây dựng uy tín, nghệ nhân, ...), giám sát và giúp giải quyết những phát sinh trong quá trình xây dựng, ...
Giáo xứ
Cha xứ cùng với Hội đồng Mục vụ Giáo xứ cầu nguyện, suy nghĩ và bàn hỏi trước khi đưa ra quyết định xin xây dựng hay sửa chữa nhà thờ.
Cùng với việc xây dựng nhà thờ bằng gạch đá, đây là cơ hội để Giáo xứ xây dựng nhà thờ tâm hồn là chính cộng đoàn Giáo xứ, cần xây dựng một chương trình cầu nguyện và học tập đặc biệt trong dịp này. Đặc biệt các văn kiện của Hội Thánh như : Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, Hiến Chế Giáo Hội trong thế giới ngày nay, Sắc lệnh Ad Gentes và Thông diệp Sứ vụ Đấng Cứu Chuộc (Gioan Phaolo II, 1990), ...
Việc xây dựng nhà thờ Giáo xứ là việc của Giáo xứ, dưới sự hướng dẫn mục vụ của Cha xứ, Giáo xứ đảm nhận chính công việc của mình, cùng nhau bàn thảo, phân công và tích cực thực hiện.
Lắng nghe tiếng nói của các chuyên viên trong các lãnh vực của họ, đặc biệt về lãnh vực kiến trúc, tôn trọng và tích cực cộng tác. Sau khi đệ trình dự án, lắng nghe và vâng lời quyết định của Đấng bản quyền.Vâng lời vì ngài là Đấng Bản quyền, chủ thể chính thức của mọi nhà thờ trong Giáo phận, ngài có trách nhiệm và có cái nhìn chung của toàn Giáo phận, ngài suy xét trên các lãnh vực (mục vụ, dân số, phát triển, số lượng và sự điều chuyển giáo sĩ, tài chánh, tương quan với các giáo xứ chung quanh thuộc vùng, ..), ngài đã bàn hỏi cùng Hội đồng Linh mục và các quản đốc các nhà thờ lân cận, ngài đã có sự cố vấn của Ban Nghệ Thuật Thánh giúp việc cho ngài.
Những lưu ý kỹ thuật :
Tôn trọng các ý kiến chuyên môn của các chuyên gia trong các lãnh vực của họ (kiến trúc, kết cấu, mầu sắc, âm thanh, ánh sáng, mỹ thuật, vật liệu, môi trường, ...), nên có một hôi đồng nghệ thuật để tham vấn trong quá trình xây dựng dự án và thi công.
Lập quy hoach tổng mặt bằng trước khi tiến hành xây dựng các công trình trong toàn khu đất, tránh việc xây dựng tự phát bừa bãi, không khai thác được cách tốt nhất quỹ đất, làm hao phí tài lực.
Chú ý đến cây xanh, rất cần tránh việc tận dụng diện tích cho bê tông biến không gian tâm linh trở thành khô cứng, đối chọi với thiên nhiên. Tôn trọng qui định % khoảng xanh, % khoảng mở của công trình trong luật xây dựng. Cần phần sân rộng phía trước nhà thờ để giải tỏa tâm lý trước khi tiến vào việc thờ phượng, không gian thoáng mát rộng rãi tạo cảm giác thoải mái khi đến nhà Thiên Chúa ...
Chú ý đến thực trạng của cộng đoàn, xây dựng sao cho việc thờ phượng thường xuyên được ấm cúng (nhà thờ vừa đủ cho cộng đoàn cầu nguyện mỗi ngày, không quá rộng làm cộng đoàn nhỏ lạc lõng), vừa đủ cho việc cử hành vào các ngày Chúa nhật (mở rộng diện tích sử dụng ra bên ngoài khi đông người, sử dụng giải pháp hành lang, cửa mở rộng, ...), tiền sảnh nhà thờ trở thành lễ đài cho những ngày đại lễ (lễ Giáng Sinh, lễ Lá, ...cần khoảng sân rộng phía trước là nơi tụ họp giáo dân).
Tính kế thừa và kế thừa có chọn lọc. Cuộc sống, văn hóa, nghệ thuật là một dòng chảy, tính kế thừa là tất yếu của cuộc sống, “phi cổ bất thành kim”, trong dòng lịch sử của Giáo Hội, Giáo Hội luôn biết kế thừa cuộc sống, “rửa tội” và làm cho di sản nhân loại thêm phong phú nhờ tìm thấy và đóng góp khơi dậy những hoạt động của Chúa Thánh Thần từ trước trong các di sản đó. Thí dụ điển hình nhất là lễ Giáng Sinh vào ngày 25 tháng 12, ngày Đông chí, ngày bắt đầu dài ra, đêm bắt đầu ngắn lại, ngày mặt trời khởi sự chiến thắng, trong quá khứ là ngày lễ của thần mặt trời, thần Jupiter (thần Zeus). Khi thế giới Hy – La được “rửa tội”, Giáo Hội “rửa tội” cả ngày lễ này vì nhận ra Chúa Giêsu là mặt trời công chính mới, là ánh sáng tiêu diệt bóng đêm. Một thí dụ khác ở ViệtNam, Giáo Hội sử dụng nhang trầm để thờ phượng Chúa, nhang trầm là một hình thức thờ phượng trong truyền thống dân tộc.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý đến sự kế thừa có chọn lọc, không thể sử dụng cho nhà thờ một số họa tiết trong xây dựng thuộc văn hóa phồn thực phổ biến trong dân gian. Cũng như tôn trọng tính chính xác của di sản, thí dụ chiều xoay chuyển của trống đồng theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, vì nó mang tính triết lý vũ trụ quan, nhân sinh quan của hệ thống tư tưởng việt (Đông Sơn, Ngọc Lũ, Sông Đà,....http://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki, Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ [ Việt Nam Văn Minh Sử - Lê Văn Siêu ] ) . Không nên giữ thành kiến, vội vàng lên án (như quá khứ đã ứng xử với sự thờ cúng ông bà tổ tiên) hoặc tệ hơn đoạn tuyệt với di sản dân tộc.
Tuân thủ hướng dẫn của Giáo Hội về hình ảnh của Giáo Hội trong thế giới ngày nay, tránh phô trương hào nhoáng, chạy theo thị hiếu hưởng thụ sa hoa; tránh cô lập không thân thiện với con người (tường cao cổng kín), tránh cách ly với thiên nhiên (bê tông hóa toàn cảnh); tránh sử dụng các vật liệu các họa tiết trang trí phàm tục gây hiểu lầm (các họa tiết trong văn hóa phồn thực, các vật liệu mang tính ước lệ về sự đồi trụy, ...).
Hội nhập văn hóa.
Ngày nay người ta rất chú ý đến vấn đề hội nhập văn hóa, Công Đồng Vatican II gây một chuyển biến lớn trong Giáo Hội, chúng ta đã được thờ phượng Thiên Chúa bằng chính ngôn ngữ bản xứ của chúng ta, nhiều công trình nghệ thuật (Thánh nhạc, điêu khắc, kiến trúc, phụng vụ, ...) đã mang lại những thành quả tốt đẹp.
Hội nhập văn hóa không có nghĩa là hoài cổ nệ cổ, cần phải tìm kiếm ra bản chất của văn hóa việt trong kiến trúc để rút tỉa ứng dụng, thiết tưởng cần lưu ý các yếu tố sau:
- Tính cộng đồng : Người Việt mang tính cộng đồng rất mạnh, mọi sinh hoạt dựa vào đời sống cộng đồng, ngôi nhà sinh hoạt của gia đình hoặc của làng xóm đều chú ý đến tính cộng đồng. Có thể chúng ta không duy trì sự phân biệt ngôi thứ của cơ cấu xã hội nhưng chúng ta phải tạo được không gián khả dĩ đón tiếp mọi thành phần dân Chúa không phân biệt, không ngăn cách.
- Tính nhân ái: Đặc tính rất cụ thể của văn hóa việt là tính nhân ái, trọng già yêu trẻ, lá lành đùm lá rách, nâng đỡ cô nhi quả phụ, quan tâm đến những người khuyết tật ...Không gian thờ phượng cần phải thiết kế sao cho những người già, người khuyết tật, người bất hạnh, người nghèo vẫn thấy được đó là ngôi nhà của họ, dành cho họ. Đặc biệt người ở các tôn giáo khác khi đến nhà thờ họ cảm thấy gần gũi, không xa lạ, không cảm giác sợ hãi. Trẻ em được tham dự và thờ phượng Chúa theo ngôn ngữ của các em.
Chúng ta nhận thấy trong Kinh Tín Kính (đọc trong Thánh lễ), Giáo Hội ngày nay đã dịch ra tiếng việt “ ....Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, ...”. “chúng ta” thay vì trong nguyên gốc là “chúng tôi” vì ngày xưa các anh chị em dự tòng ra về sau phần phụng vụ lời Chúa, chỉ còn các tín hữu ở lại tuyên xưng đức tin, ngày nay không chỉ là người dự tòng nhưng còn có cả các người khác tôn giáo nữa. Thiên Chúa khôn chỉ cứu rồi “chúng tôi” mà còn cứu rỗi “chúng ta” nữa. Tính nhân ái của dân tộc việt rất gần với Tin Mừng.
- Tính thiên nhiên : Người việt sống hài hòa và yêu mến thiên nhiên môt cách tự nhiên, cái đẹp của các công trình kiến trúc Huế là cái đẹp của công trình hòa quyện trong thiên nhiên. Nhà vườn là một không gian sống được người việt ưa thích, các quán cà phê sân vườn ở các thành phố luôn là những địa chỉ hấp dẫn nhiều người. Sứ điệp ngày hòa bình thế giới 2010 “Nếu bạn muốn hòa bình, hãy bảo tồn thiên nhiên” (Benedicto 16). Ngày nay chúng ta càng cần lưu ý yếu tố này hơn nữa khi Đức Thánh Cha mang tông hiệu là Phanxico, ngài đã chọn tông hiệu này vì ba yếu tố, trong đó có yếu tố môi trường (bài nói chuyện với giới truyền thông sau ngày đắc cử).
Một ngôi nhà thờ có thể tồn tại 100 năm, vì thế việc xây dựng nhà thờ là một việc tối quan trọng.
“Ví như Chúa chẳng xây nhà,Thợ nề vất vả cũng là uổng công” (TV 126)
Nhà thờ là nhà của Chúa, nhà của Hội Thánh, chúng ta chỉ hoàn thành thật sự khi chúng ta làm trong Chúa và trong lòng Hội Thánh.
Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Những Làn Khói
Một trong những lời căn dặn của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trước khi chết là: Tiếng chuông và những làn khói.
Họ đến Roma để chứng kiến giây phút lịch sử. Chờ công bố Giáo Hoàng mới.
Nếu không vỗ tay khi làn khói bay lên, lỡ là khói trắng, họ mất cơ hội là những người đầu tiên reo mừng vì chứng kiến làn khói lịch sử.
Nếu vỗ tay mừng mà là khói đen thì giây phút lịch sử ấy lầm lỡ quá.
Media, truyền thông khắp thế giới quay ống kính vào làn khói. Không biết bao nhiêu nghìn phóng viên quốc tế chỉ chờ giây phút lịch sử ấy để mình là người đầu tiên loan tin về một làn khói. Không biết mấy trăm triệu người theo dõi truyền hình về một làn khói.
Người ta bực mình về một làn khói. Không đen, không trắng.
Thế kỷ này, người ta chứng kiến, người ta sống một trời lịch sử về những làn khói.
Con người hôm nay đang khủng hoảng về những giá trị không rõ trắng, rõ đen.
Trước khi vĩnh biệt trần gian, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để lại tiếng chuông trước những làn khói.
* * *
Khói ở công trường Roma không nhiều, hai mươi sáu năm nay mới lại xảy ra. Khói ở cuối sân nhà thờ thì nhiều.
- Nhóm quyên tiền giúp người nghèo.
- Nhóm quyên tiền bảo trì đền thờ.
- Giáo dân tổ chức raising fund.
- Linh mục tổ chức raising fund.
Nhóm nào cũng muốn khói mình bay cao, bay xa. Nhóm nào cũng muốn mọi người chú ý đến ống khói của mình.
Lúc này cuối sân đền thờ rất nhiều thứ khói.
- Có khi giáo dân trách linh mục về raising fund. Cuộc đời họ là chạy theo nhu cầu để raising fund rồi, ít được học về Chúa, khi đến nhà thờ, họ xin các ngài hãy nói cho họ về Chúa.
- Có khi giáo dân lại xin các ngài raising fund. Họ rủ các ngài vào nhóm raising fund. Họ tập cho các ngài raising fund. Họ dựa vào các ngài mà raising fund.
- Có khi linh mục muốn raising fund nhiều hơn giáo dân.
Cuối sân giáo đường hôm nay, khói bay muôn hướng.
Rồi từ những làn khói bay. Có người cay mắt. Có tiếng kêu. Có người mắt cay mà không kêu. Có người kêu mà khói vẫn bay. Từ những làn khói, có người bỏ cuối nhà thờ đi chỗ khác. Thì cũng từ những làn khói, có những người bỏ nhà thờ từ lâu, nay lại tìm đến. Ðó là kỳ diệu của những làn khói. Có làn khói làm người đi xa. Có làn khói đem kẻ khác lại gần.
Lời Kinh Và Những Làn
Cha Nguyễn Văn Quang, một linh mục người Việt Nam, coi một họ đạo lớn người Mỹ ở Greeley, gần Denver, Colorado. Một ngày chúng tôi lên núi Rocky Mountains. Trong câu chuyện đời sống linh mục. Chúng tôi nói chuyện với nhau.
- Mình là linh mục mà 60 phần trăm thời gian phải lo administration mất rồi. Có cuối tuần mất hàng tiếng đồng hồ chỉ ký checks cho nhân viên. Thế này thì hỏng, phải xét lại.
Linh mục được huấn luyện để nói về Chúa. Vai trò quan trọng của linh mục là sứ ngôn. Công bố Lời Chúa. Chúng tôi không được huấn luyện để raising fund. Nếu có linh mục kém raising fund, xin giáo dân đừng trách, đừng đòi buộc và so sánh. Khi có những linh mục raising fund giỏi, giáo dân ca tụng. Họ nhờ, họ xin các linh mục đó raising fund. Ca tụng linh mục này raising fund giỏi, chê linh mục kia kém, từ đó, giáo dân đưa dần làn khói, rất tiếc, không đen, không trắng vào cuối giáo đường, và có thể làm cay mắt nhiều tâm hồn.
Linh mục mà phải lo administration, phải lo đối phó với nhóm này, nhóm kia, phải raising fund, phải lo trả lời phỏng vấn, phải lo nhiều thứ quá, làm sao có thời giờ soạn bài giảng, làm sao có thời giờ đọc văn kiện Giáo Hội, làm sao có thời giờ nhận định xem khói đang bay về đâu, khói luân lý, khói đức tin, khói văn hóa, khói xu hướng, khói trong Giáo Hội, khói ngoài cuộc đời.
Trong những cuộc raising fund, làm cách nào để tránh được khói cạnh tranh?
Khi linh mục có mặt trong các chương trình này, dù tốt đến đâu, nếu có sự cạnh tranh, sẽ có "triệu người vui, và triệu người buồn." Khói sẽ làm kẻ này đến nhà thờ, khói cũng làm kẻ khác bỏ đi. Nếu một việc mà như thế, một mục tử có nên làm không? Hay là trở về với bục giảng, để an ủi kẻ này bị khói làm cay mắt đừng bỏ nhà thờ đi, và cảnh tỉnh kẻ kia đừng lấy khói làm ai cay mắt.
Ðức tin không có lòng xót thương, nó không có địa chỉ để về.
Lòng xót thương dễ ngộp thở trong một thế giới cạnh tranh.
Muốn giết lòng xót thương, có lẽ không khó. Cứ khen cha kia tổ chức giỏi, chê cha này giảng dài. Khen ông chủ tịch cũ, nhờ ông mà cộng đoàn mua được miếng đất. Hỏi ông chủ tịch mới, khi nào hội đồng mục vụ mới xây tượng đài? Nói Rollo hay thế sao kỳ này họ không mời? Cứ so sánh, khen và chê, sẽ thấy sinh họat xứ đạo ngộp thở, nhiều tâm hồn khốn khổ và lòng xót thương có thể sẽ chết tự bao giờ.
Khi một đoàn thể Công giáo tiến hành mà chỉ mong đoàn thể mình thành công hơn đoàn thể kia, thì đâu là Công Giáo tiến hành? Khi một dòng tu mà chỉ muốn dòng mình phát triển. Thành công của Phúc Âm là gì? Ðối với việc tông đồ, làm sao có thể cổ võ kẻ khác bỏ tiền vào quỹ người nghèo do mình lập nên, đừng bỏ tiền vào quỹ kia? Nếu thế, đâu là lý chứng biện minh cho lòng bác ái và hành động như vậy? Nếu không, cứ khuyến khích người ta bỏ tiền vào quỹ kẻ khác, thì đâu là quỹ do mình lập nên? Ðó là thách thức của lời kinh và những làn khói.
Học Thuyết Phaolô: Ðược Làm Khác Với Nên Làm
Trong cộng đoàn Côrintô đã xẩy ra những chuyện được làm nhưng không nên làm. Phaolô viết:
"Ðược phép làm mọi sự" nhưng không phải mọi sự đều có ích. "Ðược phép làm mọi sự" nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng. Ðừng ai tìm lợi ích riêng nhưng hãy tìm lợi ích chung. Tất cả những gì bán ngoài chợ anh em cứ việc ăn... Nhưng nếu có người bảo: "Ðây là của cúng" thì đừng ăn. Tôi không có ý nói lương tâm anh em, nhưng vì lương tâm người khác. (1 Cor. 10:23-33 - Xem chú thích câu 29, bản dịch Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ).
Phaolô cẩn thận cắt nghĩa là ăn của cúng không sao, nhưng nếu vì gương xấu cho người khác thì đừng ăn. Phaolô viết:
"Không phải của ăn làm chúng ta gần Thiên Chúa. Không ăn những thứ đó, chúng ta chẳng thiệt, mà có ăn cũng chẳng lợi gì. Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho người yếu đuối sa ngã." (1 Cor.10:8-9).
Trường hợp cụ thể xẩy ra ở cộng đoàn Côrintô là vấn đề ăn thịt cúng. Nếu dựa vào hiểu biết của mình, cứ làm, không cần biết gương mù có thể gây ra, nghĩa là biết ăn của cúng không có tội, cứ ăn, còn ai nghĩ thế nào kệ họ, Phaolô viết rất rõ về thái độ đó như sau:
"Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Ðức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc. Như vậy, phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Ðức Kitô. Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã (1 Cor. 11-13).
Không phải chỉ gởi cho cộng đoàn Corintô. Trong thơ gởi cộng đoàn Rôma, chúng ta cũng gặp những căn dặn tương tự:
"Nếu vì bạn ăn một thức ăn, mà bạn làm phiền lòng người anh em, thì bạn không còn sống theo đức ái nữa. Ðừng vì chuyện ăn uống mà làm cho người anh em của bạn phải hư mất, vì Ðức Ki-tô đã chết cho người ấy.
Vậy đừng để cho thiên hạ chê bai điều mà anh em cho là tốt. Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Ai phục vụ Ðức Ki-tô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng. Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau. Ðừng vì một thức ăn mà phá huỷ công trình Thiên Chúa. Ðã hẳn, mọi thức ăn đều thanh sạch; nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu" (Rom. 14:15-20).
Trong hoàn cảnh xã hội hôm nay. Các vấn đề raising fund cần thận trọng. Nhưng tìm đâu tiêu chuẩn thận trọng? Có nên tìm hiểu thêm trong học thuyết này của Phaolô như một tiếng chuông không?
Những Nguy Cơ
Trong hoàn cảnh đặc biệt của người Công Giáo Việt Nam hải ngoại, raising fund là chuyện rất thường. Có khi cần. Nhiều người muốn đóng góp để xây dựng. Vấn đề là để được tốt, phải nói đến những nguy cơ để bảo vệ điều tốt kia.
1. Nguy cơ thứ nhất: Power.
Ðằng sau công việc từ thiện. Tiền bạc ngấm ngầm cho người ta power. Power ở đây mang nhiều mầu sắc:
- Power thứ nhất là chứng tỏ tài năng. Ai raising fund được nhiều, càng chứng tỏ nhiều power. Nhóm nào raising fund được nhiều càng chứng tỏ uy tín. Vì xã hội khen như thế. Ðây là tiêu chuẩn xã hội, chứ chưa hẳn là đúng vì có những giá trị thành hình là do sự lầm lẫn của kẻ khác. Có người thành công trong raising fund, rồi cho là mình có tài năng. Có kẻ thấy người khác raising fund giỏi rồi cho rằng người đó có uy tín. Có nhiều cách raising fund. Nếu khen nhóm này đóng tiền nhiều để khích cái tự ái của nhóm kia thì đấy có là do tài năng và uy tín không? Nếu vì sự dễ tin của những tâm hồn chân thành mà dẫn họ vào những con đường vòng quanh mập mờ thì đấy có là nhân đức không? Giáo Hội đã có từng thời kỳ nhân danh ân xá để kiếm tiền, và đấy là một trong những nguyên nhân lớn trong cuộc ly giáo do Luther khởi xướng. Có đường lối thật, có đường lối sai. Phúc Âm gọi những tài năng giả, đường lối sai đó là những ngôi mộ tô vôi.
- Power thứ hai là được có quyền chi tiền cho ai. Thứ power này êm dịu, kín đáo vô cùng. Nó kín đáo lẻn vào lòng người, nhưng nó lại tỏ lộ trong thái độ sống. Người ta kín đáo che đậy, nhưng nó lại êm dịu như ánh trăng chiếu ra, không giấu được.
- Power thứ ba là được người chịu ơn ca tụng. Ai cũng bảo mình không muốn kẻ khác cám ơn. Nhưng ít người chỉ raising fund mà lại không muốn "đích thân" mình về Việt Nam trao tiền thì mới chắc chắn. Có hai thứ "đích thân". Một là đến từ lòng nhiệt thành. Hai là kín đáo đến từ thứ power này.
Những power này, nó thầm kín, nhưng người ta dễ nhận ra. Những thứ Power trên đây không loại bỏ ai, giáo dân cũng như tu sĩ.
Khi không ai cắt cử mình vào công việc raising fund mà cứ có động lực thúc đẩy, thì cần cẩn thận vì có thể đàng sau động lực bác ái, đang bị những power trên đây thúc đẩy.Và đối với người dâng cúng tiền bạc cũng nên khôn ngoan nhận định những động lực này.
Tiêu chuẩn để canh chừng chính hồn mình, hoặc để khám phá ra các thứ power trên đây, thánh Phaolô đã viết cho cộng đoàn Galát:
"Hoa trái của Chúa Thánh Thần là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (Galát 5:22-23). Như thế, khi công việc dẫn tới những gì ngược với hoa trái trên đây, đấy là dấu chỉ cần thức tỉnh về những làn khói.
2. Nguy cơ thứ hai: Power.
Ðằng sau công việc từ thiện. Tiền ngấm ngầm lấy mất power của người ta. Nguy cơ thứ nhất, tiền cho người ta power có chất độc, nguy cơ thứ hai, trong power nó cho, nó lấy mất power nhân đức mình có. Power bị mất ở đây cũng mang nhiều mầu sắc.
- Power bị mất là không còn thời giờ cho đời thong thả, vì quá khắc khoải làm sao công trình của mình thành công. Với linh mục, thêm những mất mát khác, thiếu thời giờ thăm bệnh nhân, soạn bài giảng, học hỏi thêm. Và làm mình "chia trí". Tại sao Ðức Kitô quả quyết tiền bạc ở đâu thì lòng dạ ở đó. Nếu linh mục rơi vào tình trạng này thì lời giảng của linh mục mất nhiều power. Ðây là mất mát rất lớn.
- Power bị mất là có thể mất lương tâm trong sáng. Tiền dễ đi tới gian lận. Lỗi đức công bình. Cắt nghĩa quá rộng cho lương tâm của mình vào vấn đề xử dụng quỹ bác ái. Ngày còn là các chú tiểu chủng viện Têrêsa, Long Xuyên. Cha giáo Vũ Sửu, bây giờ ngài vẫn còn sống, nhưng cha già yếu rồi, ngày đó, hơn ba mươi năm về trước, miền Tây thường lụt lội, ngài nhờ chúng tôi đi ủy lạo người nghèo bị lũ lụt. Tôi nhìn những thùng xà bông. Nhiều như thế kia, nghĩ làm công tác xong, thế nào cha chẳng cho mỗi đứa một bánh xà bông. Vậy mà ngài không cho một bánh nào. Lúc đó, đứa nào mà không buồn. Nhưng ngài dạy chúng tôi, dù một bánh xà bông, phải giữ tấm lòng trong sạch. Tôi vô vàn biết ơn những linh mục rất nhân đức trong đời tôi.
- Power bị mất là không còn trái tim bao dung. Họ sẽ cạnh tranh với kẻ khác, gây gương mù. Có thể đi đến phá đám nhau. Gây chia rẽ cộng đoàn vì cần các đoàn thể khác ủng hộ mình. Người ta có thể gây chia rẽ và kiếm được trăm ngàn dễ dàng. Nhưng không dễ dàng dù chi trăm ngàn để chữa được vết thương đã chia rẽ. Trái tim bao dung và sự hiệp nhất có là tiêu chuẩn thành công theo cách thế của Nước Trời không? Việc làm của họ không còn siêu thoát. Giáo dân cũng vậy, tu sĩ cũng thế. Không nói đến tiền bạc, cách đây hơn hai mươi năm, vào năm 1984 cha Julian Elizalde, người Tây Ban Nha, hiện nay còn sống, đang làm việc ở Roma, một mình lái xe khắp các tiểu bang nước Mỹ lo tĩnh tâm cho giới trẻ Việt Nam. Tôi còn làm thày, xin theo ngài để học hỏi. Một chuyến hai cha con lái xe xuyên bang, ngài tâm sự:
- Có cha Việt Nam bảo giới trẻ nằm trong tay ông cha người Tây! Họ sợ tôi ảnh hưởng. Là pastor tốt thì phải lo cho giáo dân, đáng lẽ họ nên nhờ tôi đến giúp họ, họ lại cho rằng cho tôi đến giảng là một ân huệ.
Tôi còn nhớ mãi lời này. Xã hội này phải cạnh tranh mới sinh tồn. Cạnh tranh lẻn chui vào cả vấn đề thánh thiện của tôn giáo. Có những cộng đoàn giáo dân thiệt thòi chỉ vì pastor của họ như thế.
Những Làn Khói Hoang Mang
Khi giáo dân hoang mang về những làn khói, không biết đen hay trắng, giáo đường sẽ là nơi rất buồn. Thánh Phaolô bảo ăn của cúng không sao. Nhưng nếu gây gương mù thì đừng ăn. Nhiều giáo dân thắc mắc, tại sao linh mục cứ phải bỏ thời giờ vào những việc mà giáo dân làm được, hay vì họ thiếu khả năng? Mỗi người tự chọn cho mình một chọn lựa. Nhưng đây là nguyên tắc không thể thay thế: Dù tu sĩ hay giáo dân khi tham dự vào các raising fund thì công việc này phải là những làn khói trắng vô cùng rõ ràng, không thể xám.
Ơn gọi của người hướng dẫn tâm linh là phân biệt cho người ta khỏi lầm lẫn về những làn khói. Phân biệt cho người khác không lầm lẫn những làn khói đã khó. Chính mình làm làn khói thì phải rất trắng để người khác không thể lầm lẫn.
Mê ngủ nơi thiền sinh thì khác nơi thiền sư.
Tín đồ lầm lẫn, họ mong các vị linh hướng giúp họ phân biệt khói trắng hay đen. Khi người hướng dẫn tâm linh lầm lẫn, mong ai phân biệt dùm mình.
Ðức Giáo Hoàng Gioan - Phaolô II trước khi chết, Ngài thay đổi một nghi thức rất lạ. Ðể báo Tin Mừng cho thế giới là có Giáo Hoàng mới, đền thánh Roma không được để khói bay mà thôi. Trải qua nghìn năm lịch sử, thế mà bây giờ Ngài thêm vào: Khói trắng cũng phải có tiếng chuông kèm theo.
Công việc raising fund nhiều khi không rõ đen mà cũng không rõ trắng.
Khói bay ở sân nhà thờ hôm nay nhiều khi không rõ trắng, không rõ đen.
Ðức Hồng Y Thuận đã phân biệt Chúa và Công việc của chúa.
Ðể tránh lầm lẫn, mong ai phân biệt dùm mình?
- Phải có tiếng chuông!
Ðối với giáo dân, làm sao linh mục giúp họ nhận ra tiếng chuông?
Ðối với linh mục, đâu là tiếng chuông cho chính mình?
- Phải có tiếng chuông!
Ðó là lời căn dặn của một con người đã làm xoay chiều lịch sử hôm nay.
Xin Ðức Thánh Cha cầu bầu cho chúng con. Vì cuối sân giáo đường hôm nay có nhiều làn khói khác nhau.
Phụ Chú
Cần một tiếng chuông. Chính đời Ðức Giáo Hoàng là một tiếng chuông rồi.
Có một phụ chú. Có thể chỉ là trùng hợp thôi, nhưng là trùng hợp rất đáng suy nghĩ. Ngôn ngữ Phúc Âm Gioan ở đây là tiếng chuông rất lạ, cho thấy kẻ đánh mất lý tưởng, phản bội Chúa và anh em mình là kẻ giữ túi tiền, chi tiền, quản lý tiền, là kẻ quan tâm đến người nghèo.
"Môt trong các môn đệ của Ðức Giêsu là Giuđa Ítcariốt, kẻ sẽ nộp Người liền nói: "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo." Y nói thế không phải vì y lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung." (Gioan 12: 4-6).
Power nào đã lẻn vào con người Giuđa?
Power nào Giuđa đã đánh mất?
Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J.
5/2005
Một trong những lời căn dặn của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trước khi chết là: Tiếng chuông và những làn khói.
Họ đến Roma để chứng kiến giây phút lịch sử. Chờ công bố Giáo Hoàng mới.
Nếu không vỗ tay khi làn khói bay lên, lỡ là khói trắng, họ mất cơ hội là những người đầu tiên reo mừng vì chứng kiến làn khói lịch sử.
Nếu vỗ tay mừng mà là khói đen thì giây phút lịch sử ấy lầm lỡ quá.
Media, truyền thông khắp thế giới quay ống kính vào làn khói. Không biết bao nhiêu nghìn phóng viên quốc tế chỉ chờ giây phút lịch sử ấy để mình là người đầu tiên loan tin về một làn khói. Không biết mấy trăm triệu người theo dõi truyền hình về một làn khói.
Người ta bực mình về một làn khói. Không đen, không trắng.
Thế kỷ này, người ta chứng kiến, người ta sống một trời lịch sử về những làn khói.
Con người hôm nay đang khủng hoảng về những giá trị không rõ trắng, rõ đen.
Trước khi vĩnh biệt trần gian, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để lại tiếng chuông trước những làn khói.
* * *
Khói ở công trường Roma không nhiều, hai mươi sáu năm nay mới lại xảy ra. Khói ở cuối sân nhà thờ thì nhiều.
- Nhóm quyên tiền giúp người nghèo.
- Nhóm quyên tiền bảo trì đền thờ.
- Giáo dân tổ chức raising fund.
- Linh mục tổ chức raising fund.
Nhóm nào cũng muốn khói mình bay cao, bay xa. Nhóm nào cũng muốn mọi người chú ý đến ống khói của mình.
Lúc này cuối sân đền thờ rất nhiều thứ khói.
- Có khi giáo dân trách linh mục về raising fund. Cuộc đời họ là chạy theo nhu cầu để raising fund rồi, ít được học về Chúa, khi đến nhà thờ, họ xin các ngài hãy nói cho họ về Chúa.
- Có khi giáo dân lại xin các ngài raising fund. Họ rủ các ngài vào nhóm raising fund. Họ tập cho các ngài raising fund. Họ dựa vào các ngài mà raising fund.
- Có khi linh mục muốn raising fund nhiều hơn giáo dân.
Cuối sân giáo đường hôm nay, khói bay muôn hướng.
Rồi từ những làn khói bay. Có người cay mắt. Có tiếng kêu. Có người mắt cay mà không kêu. Có người kêu mà khói vẫn bay. Từ những làn khói, có người bỏ cuối nhà thờ đi chỗ khác. Thì cũng từ những làn khói, có những người bỏ nhà thờ từ lâu, nay lại tìm đến. Ðó là kỳ diệu của những làn khói. Có làn khói làm người đi xa. Có làn khói đem kẻ khác lại gần.
Lời Kinh Và Những Làn
Cha Nguyễn Văn Quang, một linh mục người Việt Nam, coi một họ đạo lớn người Mỹ ở Greeley, gần Denver, Colorado. Một ngày chúng tôi lên núi Rocky Mountains. Trong câu chuyện đời sống linh mục. Chúng tôi nói chuyện với nhau.
- Mình là linh mục mà 60 phần trăm thời gian phải lo administration mất rồi. Có cuối tuần mất hàng tiếng đồng hồ chỉ ký checks cho nhân viên. Thế này thì hỏng, phải xét lại.
Linh mục được huấn luyện để nói về Chúa. Vai trò quan trọng của linh mục là sứ ngôn. Công bố Lời Chúa. Chúng tôi không được huấn luyện để raising fund. Nếu có linh mục kém raising fund, xin giáo dân đừng trách, đừng đòi buộc và so sánh. Khi có những linh mục raising fund giỏi, giáo dân ca tụng. Họ nhờ, họ xin các linh mục đó raising fund. Ca tụng linh mục này raising fund giỏi, chê linh mục kia kém, từ đó, giáo dân đưa dần làn khói, rất tiếc, không đen, không trắng vào cuối giáo đường, và có thể làm cay mắt nhiều tâm hồn.
Linh mục mà phải lo administration, phải lo đối phó với nhóm này, nhóm kia, phải raising fund, phải lo trả lời phỏng vấn, phải lo nhiều thứ quá, làm sao có thời giờ soạn bài giảng, làm sao có thời giờ đọc văn kiện Giáo Hội, làm sao có thời giờ nhận định xem khói đang bay về đâu, khói luân lý, khói đức tin, khói văn hóa, khói xu hướng, khói trong Giáo Hội, khói ngoài cuộc đời.
Trong những cuộc raising fund, làm cách nào để tránh được khói cạnh tranh?
Khi linh mục có mặt trong các chương trình này, dù tốt đến đâu, nếu có sự cạnh tranh, sẽ có "triệu người vui, và triệu người buồn." Khói sẽ làm kẻ này đến nhà thờ, khói cũng làm kẻ khác bỏ đi. Nếu một việc mà như thế, một mục tử có nên làm không? Hay là trở về với bục giảng, để an ủi kẻ này bị khói làm cay mắt đừng bỏ nhà thờ đi, và cảnh tỉnh kẻ kia đừng lấy khói làm ai cay mắt.
Ðức tin không có lòng xót thương, nó không có địa chỉ để về.
Lòng xót thương dễ ngộp thở trong một thế giới cạnh tranh.
Muốn giết lòng xót thương, có lẽ không khó. Cứ khen cha kia tổ chức giỏi, chê cha này giảng dài. Khen ông chủ tịch cũ, nhờ ông mà cộng đoàn mua được miếng đất. Hỏi ông chủ tịch mới, khi nào hội đồng mục vụ mới xây tượng đài? Nói Rollo hay thế sao kỳ này họ không mời? Cứ so sánh, khen và chê, sẽ thấy sinh họat xứ đạo ngộp thở, nhiều tâm hồn khốn khổ và lòng xót thương có thể sẽ chết tự bao giờ.
Khi một đoàn thể Công giáo tiến hành mà chỉ mong đoàn thể mình thành công hơn đoàn thể kia, thì đâu là Công Giáo tiến hành? Khi một dòng tu mà chỉ muốn dòng mình phát triển. Thành công của Phúc Âm là gì? Ðối với việc tông đồ, làm sao có thể cổ võ kẻ khác bỏ tiền vào quỹ người nghèo do mình lập nên, đừng bỏ tiền vào quỹ kia? Nếu thế, đâu là lý chứng biện minh cho lòng bác ái và hành động như vậy? Nếu không, cứ khuyến khích người ta bỏ tiền vào quỹ kẻ khác, thì đâu là quỹ do mình lập nên? Ðó là thách thức của lời kinh và những làn khói.
Học Thuyết Phaolô: Ðược Làm Khác Với Nên Làm
Trong cộng đoàn Côrintô đã xẩy ra những chuyện được làm nhưng không nên làm. Phaolô viết:
"Ðược phép làm mọi sự" nhưng không phải mọi sự đều có ích. "Ðược phép làm mọi sự" nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng. Ðừng ai tìm lợi ích riêng nhưng hãy tìm lợi ích chung. Tất cả những gì bán ngoài chợ anh em cứ việc ăn... Nhưng nếu có người bảo: "Ðây là của cúng" thì đừng ăn. Tôi không có ý nói lương tâm anh em, nhưng vì lương tâm người khác. (1 Cor. 10:23-33 - Xem chú thích câu 29, bản dịch Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ).
Phaolô cẩn thận cắt nghĩa là ăn của cúng không sao, nhưng nếu vì gương xấu cho người khác thì đừng ăn. Phaolô viết:
"Không phải của ăn làm chúng ta gần Thiên Chúa. Không ăn những thứ đó, chúng ta chẳng thiệt, mà có ăn cũng chẳng lợi gì. Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho người yếu đuối sa ngã." (1 Cor.10:8-9).
Trường hợp cụ thể xẩy ra ở cộng đoàn Côrintô là vấn đề ăn thịt cúng. Nếu dựa vào hiểu biết của mình, cứ làm, không cần biết gương mù có thể gây ra, nghĩa là biết ăn của cúng không có tội, cứ ăn, còn ai nghĩ thế nào kệ họ, Phaolô viết rất rõ về thái độ đó như sau:
"Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Ðức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc. Như vậy, phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Ðức Kitô. Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã (1 Cor. 11-13).
Không phải chỉ gởi cho cộng đoàn Corintô. Trong thơ gởi cộng đoàn Rôma, chúng ta cũng gặp những căn dặn tương tự:
"Nếu vì bạn ăn một thức ăn, mà bạn làm phiền lòng người anh em, thì bạn không còn sống theo đức ái nữa. Ðừng vì chuyện ăn uống mà làm cho người anh em của bạn phải hư mất, vì Ðức Ki-tô đã chết cho người ấy.
Vậy đừng để cho thiên hạ chê bai điều mà anh em cho là tốt. Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Ai phục vụ Ðức Ki-tô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng. Vậy chúng ta hãy theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau. Ðừng vì một thức ăn mà phá huỷ công trình Thiên Chúa. Ðã hẳn, mọi thức ăn đều thanh sạch; nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu" (Rom. 14:15-20).
Trong hoàn cảnh xã hội hôm nay. Các vấn đề raising fund cần thận trọng. Nhưng tìm đâu tiêu chuẩn thận trọng? Có nên tìm hiểu thêm trong học thuyết này của Phaolô như một tiếng chuông không?
Những Nguy Cơ
Trong hoàn cảnh đặc biệt của người Công Giáo Việt Nam hải ngoại, raising fund là chuyện rất thường. Có khi cần. Nhiều người muốn đóng góp để xây dựng. Vấn đề là để được tốt, phải nói đến những nguy cơ để bảo vệ điều tốt kia.
1. Nguy cơ thứ nhất: Power.
Ðằng sau công việc từ thiện. Tiền bạc ngấm ngầm cho người ta power. Power ở đây mang nhiều mầu sắc:
- Power thứ nhất là chứng tỏ tài năng. Ai raising fund được nhiều, càng chứng tỏ nhiều power. Nhóm nào raising fund được nhiều càng chứng tỏ uy tín. Vì xã hội khen như thế. Ðây là tiêu chuẩn xã hội, chứ chưa hẳn là đúng vì có những giá trị thành hình là do sự lầm lẫn của kẻ khác. Có người thành công trong raising fund, rồi cho là mình có tài năng. Có kẻ thấy người khác raising fund giỏi rồi cho rằng người đó có uy tín. Có nhiều cách raising fund. Nếu khen nhóm này đóng tiền nhiều để khích cái tự ái của nhóm kia thì đấy có là do tài năng và uy tín không? Nếu vì sự dễ tin của những tâm hồn chân thành mà dẫn họ vào những con đường vòng quanh mập mờ thì đấy có là nhân đức không? Giáo Hội đã có từng thời kỳ nhân danh ân xá để kiếm tiền, và đấy là một trong những nguyên nhân lớn trong cuộc ly giáo do Luther khởi xướng. Có đường lối thật, có đường lối sai. Phúc Âm gọi những tài năng giả, đường lối sai đó là những ngôi mộ tô vôi.
- Power thứ hai là được có quyền chi tiền cho ai. Thứ power này êm dịu, kín đáo vô cùng. Nó kín đáo lẻn vào lòng người, nhưng nó lại tỏ lộ trong thái độ sống. Người ta kín đáo che đậy, nhưng nó lại êm dịu như ánh trăng chiếu ra, không giấu được.
- Power thứ ba là được người chịu ơn ca tụng. Ai cũng bảo mình không muốn kẻ khác cám ơn. Nhưng ít người chỉ raising fund mà lại không muốn "đích thân" mình về Việt Nam trao tiền thì mới chắc chắn. Có hai thứ "đích thân". Một là đến từ lòng nhiệt thành. Hai là kín đáo đến từ thứ power này.
Những power này, nó thầm kín, nhưng người ta dễ nhận ra. Những thứ Power trên đây không loại bỏ ai, giáo dân cũng như tu sĩ.
Khi không ai cắt cử mình vào công việc raising fund mà cứ có động lực thúc đẩy, thì cần cẩn thận vì có thể đàng sau động lực bác ái, đang bị những power trên đây thúc đẩy.Và đối với người dâng cúng tiền bạc cũng nên khôn ngoan nhận định những động lực này.
Tiêu chuẩn để canh chừng chính hồn mình, hoặc để khám phá ra các thứ power trên đây, thánh Phaolô đã viết cho cộng đoàn Galát:
"Hoa trái của Chúa Thánh Thần là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (Galát 5:22-23). Như thế, khi công việc dẫn tới những gì ngược với hoa trái trên đây, đấy là dấu chỉ cần thức tỉnh về những làn khói.
2. Nguy cơ thứ hai: Power.
Ðằng sau công việc từ thiện. Tiền ngấm ngầm lấy mất power của người ta. Nguy cơ thứ nhất, tiền cho người ta power có chất độc, nguy cơ thứ hai, trong power nó cho, nó lấy mất power nhân đức mình có. Power bị mất ở đây cũng mang nhiều mầu sắc.
- Power bị mất là không còn thời giờ cho đời thong thả, vì quá khắc khoải làm sao công trình của mình thành công. Với linh mục, thêm những mất mát khác, thiếu thời giờ thăm bệnh nhân, soạn bài giảng, học hỏi thêm. Và làm mình "chia trí". Tại sao Ðức Kitô quả quyết tiền bạc ở đâu thì lòng dạ ở đó. Nếu linh mục rơi vào tình trạng này thì lời giảng của linh mục mất nhiều power. Ðây là mất mát rất lớn.
- Power bị mất là có thể mất lương tâm trong sáng. Tiền dễ đi tới gian lận. Lỗi đức công bình. Cắt nghĩa quá rộng cho lương tâm của mình vào vấn đề xử dụng quỹ bác ái. Ngày còn là các chú tiểu chủng viện Têrêsa, Long Xuyên. Cha giáo Vũ Sửu, bây giờ ngài vẫn còn sống, nhưng cha già yếu rồi, ngày đó, hơn ba mươi năm về trước, miền Tây thường lụt lội, ngài nhờ chúng tôi đi ủy lạo người nghèo bị lũ lụt. Tôi nhìn những thùng xà bông. Nhiều như thế kia, nghĩ làm công tác xong, thế nào cha chẳng cho mỗi đứa một bánh xà bông. Vậy mà ngài không cho một bánh nào. Lúc đó, đứa nào mà không buồn. Nhưng ngài dạy chúng tôi, dù một bánh xà bông, phải giữ tấm lòng trong sạch. Tôi vô vàn biết ơn những linh mục rất nhân đức trong đời tôi.
- Power bị mất là không còn trái tim bao dung. Họ sẽ cạnh tranh với kẻ khác, gây gương mù. Có thể đi đến phá đám nhau. Gây chia rẽ cộng đoàn vì cần các đoàn thể khác ủng hộ mình. Người ta có thể gây chia rẽ và kiếm được trăm ngàn dễ dàng. Nhưng không dễ dàng dù chi trăm ngàn để chữa được vết thương đã chia rẽ. Trái tim bao dung và sự hiệp nhất có là tiêu chuẩn thành công theo cách thế của Nước Trời không? Việc làm của họ không còn siêu thoát. Giáo dân cũng vậy, tu sĩ cũng thế. Không nói đến tiền bạc, cách đây hơn hai mươi năm, vào năm 1984 cha Julian Elizalde, người Tây Ban Nha, hiện nay còn sống, đang làm việc ở Roma, một mình lái xe khắp các tiểu bang nước Mỹ lo tĩnh tâm cho giới trẻ Việt Nam. Tôi còn làm thày, xin theo ngài để học hỏi. Một chuyến hai cha con lái xe xuyên bang, ngài tâm sự:
- Có cha Việt Nam bảo giới trẻ nằm trong tay ông cha người Tây! Họ sợ tôi ảnh hưởng. Là pastor tốt thì phải lo cho giáo dân, đáng lẽ họ nên nhờ tôi đến giúp họ, họ lại cho rằng cho tôi đến giảng là một ân huệ.
Tôi còn nhớ mãi lời này. Xã hội này phải cạnh tranh mới sinh tồn. Cạnh tranh lẻn chui vào cả vấn đề thánh thiện của tôn giáo. Có những cộng đoàn giáo dân thiệt thòi chỉ vì pastor của họ như thế.
Những Làn Khói Hoang Mang
Khi giáo dân hoang mang về những làn khói, không biết đen hay trắng, giáo đường sẽ là nơi rất buồn. Thánh Phaolô bảo ăn của cúng không sao. Nhưng nếu gây gương mù thì đừng ăn. Nhiều giáo dân thắc mắc, tại sao linh mục cứ phải bỏ thời giờ vào những việc mà giáo dân làm được, hay vì họ thiếu khả năng? Mỗi người tự chọn cho mình một chọn lựa. Nhưng đây là nguyên tắc không thể thay thế: Dù tu sĩ hay giáo dân khi tham dự vào các raising fund thì công việc này phải là những làn khói trắng vô cùng rõ ràng, không thể xám.
Ơn gọi của người hướng dẫn tâm linh là phân biệt cho người ta khỏi lầm lẫn về những làn khói. Phân biệt cho người khác không lầm lẫn những làn khói đã khó. Chính mình làm làn khói thì phải rất trắng để người khác không thể lầm lẫn.
Mê ngủ nơi thiền sinh thì khác nơi thiền sư.
Tín đồ lầm lẫn, họ mong các vị linh hướng giúp họ phân biệt khói trắng hay đen. Khi người hướng dẫn tâm linh lầm lẫn, mong ai phân biệt dùm mình.
Ðức Giáo Hoàng Gioan - Phaolô II trước khi chết, Ngài thay đổi một nghi thức rất lạ. Ðể báo Tin Mừng cho thế giới là có Giáo Hoàng mới, đền thánh Roma không được để khói bay mà thôi. Trải qua nghìn năm lịch sử, thế mà bây giờ Ngài thêm vào: Khói trắng cũng phải có tiếng chuông kèm theo.
Công việc raising fund nhiều khi không rõ đen mà cũng không rõ trắng.
Khói bay ở sân nhà thờ hôm nay nhiều khi không rõ trắng, không rõ đen.
Ðức Hồng Y Thuận đã phân biệt Chúa và Công việc của chúa.
Ðể tránh lầm lẫn, mong ai phân biệt dùm mình?
- Phải có tiếng chuông!
Ðối với giáo dân, làm sao linh mục giúp họ nhận ra tiếng chuông?
Ðối với linh mục, đâu là tiếng chuông cho chính mình?
- Phải có tiếng chuông!
Ðó là lời căn dặn của một con người đã làm xoay chiều lịch sử hôm nay.
Xin Ðức Thánh Cha cầu bầu cho chúng con. Vì cuối sân giáo đường hôm nay có nhiều làn khói khác nhau.
Phụ Chú
Cần một tiếng chuông. Chính đời Ðức Giáo Hoàng là một tiếng chuông rồi.
Có một phụ chú. Có thể chỉ là trùng hợp thôi, nhưng là trùng hợp rất đáng suy nghĩ. Ngôn ngữ Phúc Âm Gioan ở đây là tiếng chuông rất lạ, cho thấy kẻ đánh mất lý tưởng, phản bội Chúa và anh em mình là kẻ giữ túi tiền, chi tiền, quản lý tiền, là kẻ quan tâm đến người nghèo.
"Môt trong các môn đệ của Ðức Giêsu là Giuđa Ítcariốt, kẻ sẽ nộp Người liền nói: "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo." Y nói thế không phải vì y lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung." (Gioan 12: 4-6).
Power nào đã lẻn vào con người Giuđa?
Power nào Giuđa đã đánh mất?
Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J.
5/2005
ĐÀO TẠO TÔNG ĐỒ
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai: cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa. Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai: cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa. Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
- Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
- Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
- Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
"Xây Cất" Nhà Thờ
Linh mục chánh xứ tháp tùng Đức Giám Mục đi tham quan ngôi nhà thờ vừa mới xây cất xong. Thấy kiến trúc mới lạ, Đức Giám Mục đưa tay sờ vào viên đá, không ngờ phẩm chất xây quá kém viên đá rơi ra và rớt xuống đất. Cha xứ đỏ mặt nói với ông trùm:
- Với kinh phí xây cất kỷ lục 40 tỷ đồng, sao lại có chuyện này xảy ra hở ông trùm?
Ông trùm ngập ngừng run rẩy đáp:
- Thưa cha, xin cha tha lỗi vì con phải nói thật. Thời buổi bây giờ từ trên xuống dưới vừa "xây" vừa "cất" (vào túi) nên đã xảy ra như thế.
Cha xứ: !!!???...
Linh mục chánh xứ tháp tùng Đức Giám Mục đi tham quan ngôi nhà thờ vừa mới xây cất xong. Thấy kiến trúc mới lạ, Đức Giám Mục đưa tay sờ vào viên đá, không ngờ phẩm chất xây quá kém viên đá rơi ra và rớt xuống đất. Cha xứ đỏ mặt nói với ông trùm:
- Với kinh phí xây cất kỷ lục 40 tỷ đồng, sao lại có chuyện này xảy ra hở ông trùm?
Ông trùm ngập ngừng run rẩy đáp:
- Thưa cha, xin cha tha lỗi vì con phải nói thật. Thời buổi bây giờ từ trên xuống dưới vừa "xây" vừa "cất" (vào túi) nên đã xảy ra như thế.
Cha xứ: !!!???...
CÁI ĐÁNG SỢ NHẤT TRÊN ĐỜI NÀY LÀ GÌ?
Có một người hỏi vị thiền sư: “Thưa thầy, trên đời cái đáng sợ nhất là gì ạ?”. Thiền sư nói: “Dục vọng”. Người kia vẻ mặt vẫn tràn đầy nghi hoặc, thiền sư nói: “Hãy nghe ta kể mấy câu chuyện sau nhé!”.
Câu chuyện thứ nhất: Vàng thật là đáng sợ.
Có một vị tăng nhân hoảng hốt sợ hãi chạy từ trong rừng cây ra, vừa đúng lúc gặp hai người bạn tốt đang đi tản bộ bên bìa rừng. Họ hỏi vị tăng nhân:
“Ông hoảng hốt như thế là vì cái gì vậy?”.
Vị tăng nhân nói: “Thật là đáng sợ quá, tôi đã đào thấy một đống vàng ở trong rừng”.
Hai người trong tâm không nhịn được liền nói: “Ông thật là một tên đại ngốc! Đào thấy vàng, một việc tốt như thế mà ông lại nói thật đáng sợ, thật sự tôi không thể hiểu nổi ông nữa!”.
Thế là họ lại hỏi vị tăng nhân kia: “Ông đào thấy vàng ở chỗ nào? Hãy nói cho chúng tôi biết đi!”
Vị tăng nhân nói: “Thứ lợi hại như thế, các ông không sợ sao? Nó sẽ ăn thịt người đấy!”
Hai người kia không cho rằng lời vị tăng nhân nói là đúng, liền đáp trả: “Chúng tôi không sợ! Ông hãy nói cho chúng tôi chỗ tìm ra nó đi!”.
Vị tăng nhân nói: “Bên dưới gốc cây đầu tiên ở phía tây của cánh rừng này”.
Hai người bạn lập tức đi tìm địa điểm đó, quả nhiên phát hiện ra đống vàng kia, một người nói với người còn lại: “Vị tăng nhân này thật là quá ngu xuẩn! Vàng là thứ mọi người đều khao khát vậy mà trong mắt ông ta nó lại trở thành thứ ăn thịt người”
Người kia cũng gật đầu đồng ý. Thế là hai người họ thảo luận cách để đem số vàng này về, một người trong đó nói: “Ban ngày mà mang về thì rất không an toàn, hay là để ban đêm mang về sẽ đỡ nguy hiểm hơn một chút. Tôi sẽ ở đây trông chừng, anh đi lấy một chút đồ ăn đến đây, chúng ta sẽ ăn cơm tại đây, sau đó đợi đến lúc trời tối chúng ta sẽ mang vàng về”.
Người đàn ông kia bèn làm theo cách đó, người ở lại trông vàng nghĩ: “Giá như tất cả số vàng này đều là của mình thì tốt biết bao! Đợi khi anh ta quay lại, mình sẽ dùng gậy gỗ đánh chết anh ta, thì tất cả số vàng này là của mình rồi!”.
Người đàn ông về nhà lấy cơm cũng nghĩ: “Mình trở về sẽ ăn no trước, sau đó sẽ cho một ít độc dược vào phần cơm của anh ta, anh ta chết rồi thì tất cả số vàng đó sẽ là của mình!”
Kết quả đến lúc anh ta mang cơm trở lại rừng cây, người đàn ông kia từ phía sau tiến đến cầm cây gậy đánh chết anh ta và nói: “Bạn thân yêu của tôi, là vàng đã bức bách tôi làm thế”.
Sau đó, anh ta lấy phần cơm và bắt đầu ăn. Cũng chỉ một lát sau, anh ta cảm thấy rất khó chịu, trong bụng giống như có lửa đốt vậy, lúc đó anh ta mới biết mình bị trúng độc, lúc sắp chết anh ta đã thốt lên: “Lời tăng nhân nói quả là rất đúng!”
Điều này thực sự ứng với câu ngạn ngữ: “Nhân vi tài tử, điểu vi thực vong!” (Người chết vì tiền, chim chết vì mồi!) đều là vì lòng tham gây họa, vì dục vọng mà đem bạn bè thân nhất của mình trở thành kẻ thù không đội trời chung.
Câu chuyện thứ hai: Người nông dân mua đất.
Có một người nông dân muốn mua một miếng đất, nghe nói ở một địa phương nọ có người muốn bán đất, anh ta liền quyết định đến đó hỏi thăm một chút. Kết quả là người có miếng đất kia bảo với anh ta rằng: “Anh chỉ cần đưa trước cho tôi một nghìn lượng bạc, tôi cho anh thời gian là một ngày, từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, anh có thể bước chân vòng quanh được bao nhiêu mét đất, thì số đất ấy sẽ là của anh, thế nhưng nếu như anh không thể kịp quay trở lại nơi xuất phát ban đầu, thì một tấc đất anh cũng không có”.
Người nông dân kia thầm nghĩ: “Nếu như hôm nay mình vất vả một chút, bước đi nhiều một chút, chẳng phải là đi một vòng rất lớn thì số đất giành được cũng rất lớn sao? Vụ mua bán này xem ra thật là quá có lợi rồi!”
Thế là anh ta ký kết hợp đồng với người sở hữu mảnh đất đó. Ngay khi mặt trời vừa mới ló ra từ chân trời xa, anh ta đã mau chóng bước đi thật nhanh về phía trước, đến trưa rồi mà bước chân của anh ta vẫn không chịu dừng lại chút nào, cứ một mực bước về phía trước, trong lòng nghĩ: “Cố gắng nhẫn chịu một ngày, sau này sẽ được hưởng thụ những hồi báo mà sự vất vả của ngày hôm nay đem lại”.
Anh ta lại hướng về phía trước bước trên con đường đã rất xa rồi, khi mắt đã nhìn thấy mặt trời sắp xuống núi rồi mới bắt đầu quay trở lại, trong lòng vô cùng lo lắng, bởi vì nếu như không kịp quay trở về chỗ ban đầu mà nói, thì một tấc đất cũng không có được, thế là anh ta đi tắt về điểm xuất phát. Thế nhưng mà mặt trời đã như sắp hạ xuống rồi, anh ta đành phải liều mạng mà chạy thật nhanh, cuối cùng, chỉ còn hai bước nữa là về đến điểm xuất phát, nhưng anh ta đã kiệt sức mà gục ngã xuống chỗ đó.
Dục vọng của con người nằm giữa một cái hào rộng lớn, vĩnh viễn không cách nào vượt qua, bởi vì người tham lam vĩnh viễn không có chừng mực, không có bờ bến để dừng lại, vĩnh viễn cũng sẽ không thấy thỏa mãn, đây là chỗ thiếu sót đáng tiếc nhất trong tính cách của con người.
Câu chuyện thứ ba: Phật và ma quỷ.
Có một họa sĩ rất nổi tiếng, ông ta muốn vẽ tranh Phật và ma quỷ, nhưng mà ông ta không tìm thấy trong thực tế hình mẫu của hai nhân vật này. Trong đầu ông ta nghĩ thế nào cũng không thể tưởng tượng ra hình dạng của Phật và ma quỷ, cho nên rất sốt ruột lo lắng.
Thế rồi có một cơ hội rất vô tình, anh ta đã đi chùa bái lễ, trong lúc đó đã vô tình phát hiện ra một vị hòa thượng, các loại khí chất trên thân thể vị hòa thượng kia đã hấp dẫn vị họa sĩ một cách sâu sắc, thế là anh ta liền đi tìm vị hòa thượng đó, nguyện ý trả cho vị hòa thượng này một số tiền lớn, với điều kiện là vị hòa thượng sẽ dành một ngày làm mẫu để họa sĩ kia vẽ. Sau này, tác phẩm của vị họa sĩ hoàn thành đã gây ra chấn động rất lớn tại địa phương. Họa sĩ nói: “Đó là bức tranh mà tôi hài lòng nhất, bởi vì vị hòa thượng làm mẫu cho tôi vẽ kia khiến tôi nghĩ rằng nhất định ông chính là một vị phật, những khí chất thanh tịnh và thư thái ông mang trên mình có thể gây cảm động đến mỗi người”.
Vị họa sĩ cuối cùng đã thực hiện lời hứa của mình, trả cho vị hòa thượng kia rất nhiều tiền. Cũng bởi vì bức tranh này, mọi người đã không gọi ông ta là họa sĩ nữa mà gọi là “Họa Thánh”. Một thời gian ngắn sau, họa sĩ chuẩn bị bắt tay vào vẽ ma quỷ, nhưng điều này lại trở thành một vấn đề khó khăn cho ông, đi đâu mà tìm được hình dáng của ma quỷ đây? Ông ta tìm hỏi qua rất nhiều địa phương, tìm rất nhiều người hung ác bên ngoài, nhưng không có ai thỏa mãn cả. Cuối cùng, ông ta tìm đến một nhà tù, vị họa sĩ cực kỳ vui mừng, bởi vì thực sự tìm một người giống ma quỷ quả là quá khó khăn. Thời điểm mà ông họa sĩ đối mặt với tên phạm nhân kia, tên phạm nhân đã ở ngay trước mặt ông ta mà khóc rống lên. Vị họa sĩ thấy vô cùng kỳ lạ, bèn hỏi tên phạm nhân kia có chuyện quan trọng gì vậy? Tên phạm nhân kia nói: “Tại sao ông lần trước vẽ Phật cũng tìm tôi mà lần này vẽ ma quỷ cũng lại tìm tôi?”.
Vị họa sĩ bị chấn động, ông nhìn tên phạm nhân một cách cẩn thận rồi nói: “Tại sao lại có thể thế được? Lúc tôi vẽ Phật tôi tìm người kia có khí chất phi phàm, còn ngươi thoạt nhìn đã thấy ngay là hình tượng ma quỷ rồi, tại sao lại là cùng một người được? Thật là quá kỳ lạ! Quả thực là khiến cho không ai có thể lý giải nổi”.
Tên phạm nhân kia đau buồn nói: “Chính là ông đã biến tôi từ Phật thành ma quỷ”. Vị họa sĩ nói: “Ngươi tại sao lại nói như thế? Ta không có làm gì ngươi cả”.
Tên phạm nhân nói: “Từ sau khi ông trả cho tôi tiền, tôi đã ăn tiêu đàng điếm, đi tìm mua vui, mặc sức tiêu xài. Sau này khi đã tiêu hết tiền, mà tôi lại quen với cuộc sống như vậy rồi, dục vọng đã khởi lên mà không thể vãn hồi được, thế là tôi đi cướp đoạt tiền của người khác, còn cả giết người nữa, chỉ cần có thể kiếm được tiền, việc xấu thế nào tôi cũng có thể làm, kết quả là trở thành như bộ dạng của ngày hôm nay”.
Vị họa sĩ nghe tên phạm nhân kia nói xong, vô cùng bùi ngùi, ông cảm thấy sợ hãi khi mà nhân tính chỉ vì dục vọng lại có thể chuyển biến nhanh đến như vậy, con người là yếu ớt như thế. Thế là ông đau đớn mà đem bút vẽ quẳng đi, từ đó về sau không bao giờ vẽ tranh nữa.
Con người một khi rơi vào cái bẫy “truy trục vật dục” (theo đuổi ham muốn hưởng thụ vật chất), cũng rất dễ dàng đánh mất phương hướng bản thân mình, muốn bứt phá ra là một việc vô cùng khó khăn, cho nên nhân tính là không thể ở cùng với tham niệm.
Vị thiền sư kể xong mấy câu chuyện, liền nhắm mắt lại không nói gì, nhưng người hỏi kia đã từ mấy câu chuyện mà có được giải đáp. Hóa ra cái đáng sợ nhất trên đời này chính là dục vọng của con người, dục vọng của con người càng nhiều, thì càng thấy chưa đủ, sẽ càng thấy không sung sướng vui vẻ và sẽ càng thấy phiền não. Cho nên vị thiền sư nói cho chúng ta biết:
Tiền như gông xiềng, tham lam là phần mộ, truy danh trục lợi cuối cùng cũng chỉ là công dã tràng, chỉ có tẩy tịnh đi đủ loại dục vọng trong lòng, buông bỏ lòng tham, quay trở về với bản tính thật thà lương thiện, mới có thể khám phá ra rằng: “mọi vinh hoa phú quý trong thế gian này chỉ như mây khói thoảng qua, suy cho cùng chúng đều là những thứ vô thường” vậy.
Nguồn: Đại Kỷ Nguyên
Có một người hỏi vị thiền sư: “Thưa thầy, trên đời cái đáng sợ nhất là gì ạ?”. Thiền sư nói: “Dục vọng”. Người kia vẻ mặt vẫn tràn đầy nghi hoặc, thiền sư nói: “Hãy nghe ta kể mấy câu chuyện sau nhé!”.
Câu chuyện thứ nhất: Vàng thật là đáng sợ.
Có một vị tăng nhân hoảng hốt sợ hãi chạy từ trong rừng cây ra, vừa đúng lúc gặp hai người bạn tốt đang đi tản bộ bên bìa rừng. Họ hỏi vị tăng nhân:
“Ông hoảng hốt như thế là vì cái gì vậy?”.
Vị tăng nhân nói: “Thật là đáng sợ quá, tôi đã đào thấy một đống vàng ở trong rừng”.
Hai người trong tâm không nhịn được liền nói: “Ông thật là một tên đại ngốc! Đào thấy vàng, một việc tốt như thế mà ông lại nói thật đáng sợ, thật sự tôi không thể hiểu nổi ông nữa!”.
Thế là họ lại hỏi vị tăng nhân kia: “Ông đào thấy vàng ở chỗ nào? Hãy nói cho chúng tôi biết đi!”
Vị tăng nhân nói: “Thứ lợi hại như thế, các ông không sợ sao? Nó sẽ ăn thịt người đấy!”
Hai người kia không cho rằng lời vị tăng nhân nói là đúng, liền đáp trả: “Chúng tôi không sợ! Ông hãy nói cho chúng tôi chỗ tìm ra nó đi!”.
Vị tăng nhân nói: “Bên dưới gốc cây đầu tiên ở phía tây của cánh rừng này”.
Hai người bạn lập tức đi tìm địa điểm đó, quả nhiên phát hiện ra đống vàng kia, một người nói với người còn lại: “Vị tăng nhân này thật là quá ngu xuẩn! Vàng là thứ mọi người đều khao khát vậy mà trong mắt ông ta nó lại trở thành thứ ăn thịt người”
Người kia cũng gật đầu đồng ý. Thế là hai người họ thảo luận cách để đem số vàng này về, một người trong đó nói: “Ban ngày mà mang về thì rất không an toàn, hay là để ban đêm mang về sẽ đỡ nguy hiểm hơn một chút. Tôi sẽ ở đây trông chừng, anh đi lấy một chút đồ ăn đến đây, chúng ta sẽ ăn cơm tại đây, sau đó đợi đến lúc trời tối chúng ta sẽ mang vàng về”.
Người đàn ông kia bèn làm theo cách đó, người ở lại trông vàng nghĩ: “Giá như tất cả số vàng này đều là của mình thì tốt biết bao! Đợi khi anh ta quay lại, mình sẽ dùng gậy gỗ đánh chết anh ta, thì tất cả số vàng này là của mình rồi!”.
Người đàn ông về nhà lấy cơm cũng nghĩ: “Mình trở về sẽ ăn no trước, sau đó sẽ cho một ít độc dược vào phần cơm của anh ta, anh ta chết rồi thì tất cả số vàng đó sẽ là của mình!”
Kết quả đến lúc anh ta mang cơm trở lại rừng cây, người đàn ông kia từ phía sau tiến đến cầm cây gậy đánh chết anh ta và nói: “Bạn thân yêu của tôi, là vàng đã bức bách tôi làm thế”.
Sau đó, anh ta lấy phần cơm và bắt đầu ăn. Cũng chỉ một lát sau, anh ta cảm thấy rất khó chịu, trong bụng giống như có lửa đốt vậy, lúc đó anh ta mới biết mình bị trúng độc, lúc sắp chết anh ta đã thốt lên: “Lời tăng nhân nói quả là rất đúng!”
Điều này thực sự ứng với câu ngạn ngữ: “Nhân vi tài tử, điểu vi thực vong!” (Người chết vì tiền, chim chết vì mồi!) đều là vì lòng tham gây họa, vì dục vọng mà đem bạn bè thân nhất của mình trở thành kẻ thù không đội trời chung.
Câu chuyện thứ hai: Người nông dân mua đất.
Có một người nông dân muốn mua một miếng đất, nghe nói ở một địa phương nọ có người muốn bán đất, anh ta liền quyết định đến đó hỏi thăm một chút. Kết quả là người có miếng đất kia bảo với anh ta rằng: “Anh chỉ cần đưa trước cho tôi một nghìn lượng bạc, tôi cho anh thời gian là một ngày, từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, anh có thể bước chân vòng quanh được bao nhiêu mét đất, thì số đất ấy sẽ là của anh, thế nhưng nếu như anh không thể kịp quay trở lại nơi xuất phát ban đầu, thì một tấc đất anh cũng không có”.
Người nông dân kia thầm nghĩ: “Nếu như hôm nay mình vất vả một chút, bước đi nhiều một chút, chẳng phải là đi một vòng rất lớn thì số đất giành được cũng rất lớn sao? Vụ mua bán này xem ra thật là quá có lợi rồi!”
Thế là anh ta ký kết hợp đồng với người sở hữu mảnh đất đó. Ngay khi mặt trời vừa mới ló ra từ chân trời xa, anh ta đã mau chóng bước đi thật nhanh về phía trước, đến trưa rồi mà bước chân của anh ta vẫn không chịu dừng lại chút nào, cứ một mực bước về phía trước, trong lòng nghĩ: “Cố gắng nhẫn chịu một ngày, sau này sẽ được hưởng thụ những hồi báo mà sự vất vả của ngày hôm nay đem lại”.
Anh ta lại hướng về phía trước bước trên con đường đã rất xa rồi, khi mắt đã nhìn thấy mặt trời sắp xuống núi rồi mới bắt đầu quay trở lại, trong lòng vô cùng lo lắng, bởi vì nếu như không kịp quay trở về chỗ ban đầu mà nói, thì một tấc đất cũng không có được, thế là anh ta đi tắt về điểm xuất phát. Thế nhưng mà mặt trời đã như sắp hạ xuống rồi, anh ta đành phải liều mạng mà chạy thật nhanh, cuối cùng, chỉ còn hai bước nữa là về đến điểm xuất phát, nhưng anh ta đã kiệt sức mà gục ngã xuống chỗ đó.
Dục vọng của con người nằm giữa một cái hào rộng lớn, vĩnh viễn không cách nào vượt qua, bởi vì người tham lam vĩnh viễn không có chừng mực, không có bờ bến để dừng lại, vĩnh viễn cũng sẽ không thấy thỏa mãn, đây là chỗ thiếu sót đáng tiếc nhất trong tính cách của con người.
Câu chuyện thứ ba: Phật và ma quỷ.
Có một họa sĩ rất nổi tiếng, ông ta muốn vẽ tranh Phật và ma quỷ, nhưng mà ông ta không tìm thấy trong thực tế hình mẫu của hai nhân vật này. Trong đầu ông ta nghĩ thế nào cũng không thể tưởng tượng ra hình dạng của Phật và ma quỷ, cho nên rất sốt ruột lo lắng.
Thế rồi có một cơ hội rất vô tình, anh ta đã đi chùa bái lễ, trong lúc đó đã vô tình phát hiện ra một vị hòa thượng, các loại khí chất trên thân thể vị hòa thượng kia đã hấp dẫn vị họa sĩ một cách sâu sắc, thế là anh ta liền đi tìm vị hòa thượng đó, nguyện ý trả cho vị hòa thượng này một số tiền lớn, với điều kiện là vị hòa thượng sẽ dành một ngày làm mẫu để họa sĩ kia vẽ. Sau này, tác phẩm của vị họa sĩ hoàn thành đã gây ra chấn động rất lớn tại địa phương. Họa sĩ nói: “Đó là bức tranh mà tôi hài lòng nhất, bởi vì vị hòa thượng làm mẫu cho tôi vẽ kia khiến tôi nghĩ rằng nhất định ông chính là một vị phật, những khí chất thanh tịnh và thư thái ông mang trên mình có thể gây cảm động đến mỗi người”.
Vị họa sĩ cuối cùng đã thực hiện lời hứa của mình, trả cho vị hòa thượng kia rất nhiều tiền. Cũng bởi vì bức tranh này, mọi người đã không gọi ông ta là họa sĩ nữa mà gọi là “Họa Thánh”. Một thời gian ngắn sau, họa sĩ chuẩn bị bắt tay vào vẽ ma quỷ, nhưng điều này lại trở thành một vấn đề khó khăn cho ông, đi đâu mà tìm được hình dáng của ma quỷ đây? Ông ta tìm hỏi qua rất nhiều địa phương, tìm rất nhiều người hung ác bên ngoài, nhưng không có ai thỏa mãn cả. Cuối cùng, ông ta tìm đến một nhà tù, vị họa sĩ cực kỳ vui mừng, bởi vì thực sự tìm một người giống ma quỷ quả là quá khó khăn. Thời điểm mà ông họa sĩ đối mặt với tên phạm nhân kia, tên phạm nhân đã ở ngay trước mặt ông ta mà khóc rống lên. Vị họa sĩ thấy vô cùng kỳ lạ, bèn hỏi tên phạm nhân kia có chuyện quan trọng gì vậy? Tên phạm nhân kia nói: “Tại sao ông lần trước vẽ Phật cũng tìm tôi mà lần này vẽ ma quỷ cũng lại tìm tôi?”.
Vị họa sĩ bị chấn động, ông nhìn tên phạm nhân một cách cẩn thận rồi nói: “Tại sao lại có thể thế được? Lúc tôi vẽ Phật tôi tìm người kia có khí chất phi phàm, còn ngươi thoạt nhìn đã thấy ngay là hình tượng ma quỷ rồi, tại sao lại là cùng một người được? Thật là quá kỳ lạ! Quả thực là khiến cho không ai có thể lý giải nổi”.
Tên phạm nhân kia đau buồn nói: “Chính là ông đã biến tôi từ Phật thành ma quỷ”. Vị họa sĩ nói: “Ngươi tại sao lại nói như thế? Ta không có làm gì ngươi cả”.
Tên phạm nhân nói: “Từ sau khi ông trả cho tôi tiền, tôi đã ăn tiêu đàng điếm, đi tìm mua vui, mặc sức tiêu xài. Sau này khi đã tiêu hết tiền, mà tôi lại quen với cuộc sống như vậy rồi, dục vọng đã khởi lên mà không thể vãn hồi được, thế là tôi đi cướp đoạt tiền của người khác, còn cả giết người nữa, chỉ cần có thể kiếm được tiền, việc xấu thế nào tôi cũng có thể làm, kết quả là trở thành như bộ dạng của ngày hôm nay”.
Vị họa sĩ nghe tên phạm nhân kia nói xong, vô cùng bùi ngùi, ông cảm thấy sợ hãi khi mà nhân tính chỉ vì dục vọng lại có thể chuyển biến nhanh đến như vậy, con người là yếu ớt như thế. Thế là ông đau đớn mà đem bút vẽ quẳng đi, từ đó về sau không bao giờ vẽ tranh nữa.
Con người một khi rơi vào cái bẫy “truy trục vật dục” (theo đuổi ham muốn hưởng thụ vật chất), cũng rất dễ dàng đánh mất phương hướng bản thân mình, muốn bứt phá ra là một việc vô cùng khó khăn, cho nên nhân tính là không thể ở cùng với tham niệm.
Vị thiền sư kể xong mấy câu chuyện, liền nhắm mắt lại không nói gì, nhưng người hỏi kia đã từ mấy câu chuyện mà có được giải đáp. Hóa ra cái đáng sợ nhất trên đời này chính là dục vọng của con người, dục vọng của con người càng nhiều, thì càng thấy chưa đủ, sẽ càng thấy không sung sướng vui vẻ và sẽ càng thấy phiền não. Cho nên vị thiền sư nói cho chúng ta biết:
Tiền như gông xiềng, tham lam là phần mộ, truy danh trục lợi cuối cùng cũng chỉ là công dã tràng, chỉ có tẩy tịnh đi đủ loại dục vọng trong lòng, buông bỏ lòng tham, quay trở về với bản tính thật thà lương thiện, mới có thể khám phá ra rằng: “mọi vinh hoa phú quý trong thế gian này chỉ như mây khói thoảng qua, suy cho cùng chúng đều là những thứ vô thường” vậy.
Nguồn: Đại Kỷ Nguyên
HIỂU ĐỜI
Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh, nhưng chỉ có hiểu cuộc đời thì mới sống thanh thản, sống thoải mái.
Qua một ngày, mất một ngày .Qua một ngày, vui một ngày. Vui một ngày lãi một ngày…
Hanh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc và vui sướng là cảm giác và cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.
Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng có coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng ai mang nó đến, khi chết chẳng ai mang nó theo. Nếu có người cần bạn giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khoẻ và niềm vui thì tại sao không bỏ tiền ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ! Người khôn biết kiếm tiền, biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đùng làm tôi tớ cho nó.
“Quãng đời còn lại càng ngắn ngủi thì càng phải làm cho nó phong phú”. Người già phải thay đổi cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh” hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao phẩm chất cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của TUỔI GIÀ.
Tiền bạc nếu có sẽ là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khoẻ là của mình.
Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn. Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một cái, hỏi vài câu là thấy đủ rồi. Con tiêu tiền của cha mẹ thoải mái; cha mẹ tiêu tiền của con chẳng dễ chút nào. Nhà cha mẹ là nhà của con; nhà của con không phải là nhà cha mẹ. Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.
Ốm đau trông cậy vào ai ? Trông cậy con ư ? Nếu ốm dai dẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu “cứu bệnh sàng tiền vô hiếu tử”. Trông vào bạn đời ư ? Người ta cũng yếu, có khi lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi. Trông cậy vào đồng tiền ư ? chỉ còn cách ấy.
Cái được người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm. Thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong đời tuỳ thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao.Người ta hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì cho mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn.
Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình “Tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư”, biết đủ thì lúc nào cũng vui “tri túc thường lạc”.
Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt mỏi, tự tìm niềm vui. Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui.
Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được. Huống hồ người ta cũng nghĩ cả rồi, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra nghề cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao.
Quá nửa đời dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc gì muốn làm thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình.
Sống trên đời không thể vạn sự như ý, có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.
Tuổi già tâm không già, thế là già mà không già; tuổi không già tâm già, thế là không già lại thành già. Nhưng giải quyết một vấn đề thì nên nghe già.
Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá thanh đạm thì khôhg đủ chất bổ, quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu… mọi thứ đều nên “VỪA PHẢI”.
Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn, tham uống..) Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh….). Người khôn phòng bệnh, chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống. Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới chữa bệnh….ĐỀU LÀ MUỘN.
Phẩm chất sống người già cao hay thấp chủ yếu tuỳ thuộc vào cách suy tưởng: Suy tưởng hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng suy tưởng hướng lợi để xây dựng cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và tự tin, cuộc sống có hương, có vị. Suy tưởng hướng hại là suy tưởng tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết
“Chơi ” là một trong những nhu cầu căn bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm cho mình một trò chơi yêu thích nhất, trong khi chơi hãy thử nghiệm niềm vui chiến thắng, thua không cay, chơi là đùa. Về tâm lý và sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh.
“Hoàn toàn khoẻ mạnh” đó là nói thân thể khoẻ mạnh, tâm lý khoẻ mạnh và đạo đức khoẻ mạnh.. Tâm lý khoẻ mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao tiếp; Đạo đức khoẻ mạnh là có tình yêu thương, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu…
Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong xã hội, thể hiện giá trị của mình đó là cách sống lành mạnh.
“Cuộc sống tuổi già nên có nhiều bạn gìà trong nhiều thành phần,nhiều mẫu người với nhiều màu sắc khác nhau trong xã hội. Có một hai bạn tốt thì chưa đủ, nên có cả một nhóm bạn già, tình đẹp làm thêm cuộc sống tuổi già, làm cho cuộc sống của bạn nhiều hương vị, nhiều màu sắc.
Con người ta chịu đựng, hoà giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình.Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất, quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống như thế nào.
Tại sao khi về già người ta hay hoài cổ “hay nhớ lại chuyện xưa?” Đến những năm cuối đời, người ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói xa vời, đã đứng ở sân ga cuối. Tâm linh cần trong phòng, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tìm lại những tình cảm chân thành. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thủa nhỏ, cùng bạn sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thanh là một niềm vui lớn của tuổi già.
Nếu bạn đã cố hết sức, mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó. Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả ngắt vội không bao giờ ngọt.
“SINH – LÃO – BỆNH – TỬ” là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình dấu chấm hết thật TRÒN.
Tác giả: Chu Dung Cơ – Thanh Dũng dịch
Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh, nhưng chỉ có hiểu cuộc đời thì mới sống thanh thản, sống thoải mái.
Qua một ngày, mất một ngày .Qua một ngày, vui một ngày. Vui một ngày lãi một ngày…
Hanh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc và vui sướng là cảm giác và cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.
Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng có coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng ai mang nó đến, khi chết chẳng ai mang nó theo. Nếu có người cần bạn giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khoẻ và niềm vui thì tại sao không bỏ tiền ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ! Người khôn biết kiếm tiền, biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đùng làm tôi tớ cho nó.
“Quãng đời còn lại càng ngắn ngủi thì càng phải làm cho nó phong phú”. Người già phải thay đổi cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh” hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao phẩm chất cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của TUỔI GIÀ.
Tiền bạc nếu có sẽ là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, sức khoẻ là của mình.
Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn. Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một cái, hỏi vài câu là thấy đủ rồi. Con tiêu tiền của cha mẹ thoải mái; cha mẹ tiêu tiền của con chẳng dễ chút nào. Nhà cha mẹ là nhà của con; nhà của con không phải là nhà cha mẹ. Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp. Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.
Ốm đau trông cậy vào ai ? Trông cậy con ư ? Nếu ốm dai dẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu “cứu bệnh sàng tiền vô hiếu tử”. Trông vào bạn đời ư ? Người ta cũng yếu, có khi lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi. Trông cậy vào đồng tiền ư ? chỉ còn cách ấy.
Cái được người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm. Thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong đời tuỳ thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao.Người ta hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì cho mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn.
Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình “Tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư”, biết đủ thì lúc nào cũng vui “tri túc thường lạc”.
Tập cho mình nhiều đam mê, vui với chúng không biết mệt mỏi, tự tìm niềm vui. Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui.
Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được. Huống hồ người ta cũng nghĩ cả rồi, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra nghề cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao.
Quá nửa đời dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho vui thì sống, việc gì muốn làm thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình.
Sống trên đời không thể vạn sự như ý, có khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đời, nếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.
Tuổi già tâm không già, thế là già mà không già; tuổi không già tâm già, thế là không già lại thành già. Nhưng giải quyết một vấn đề thì nên nghe già.
Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá thanh đạm thì khôhg đủ chất bổ, quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu… mọi thứ đều nên “VỪA PHẢI”.
Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn, tham uống..) Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh….). Người khôn phòng bệnh, chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống. Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới chữa bệnh….ĐỀU LÀ MUỘN.
Phẩm chất sống người già cao hay thấp chủ yếu tuỳ thuộc vào cách suy tưởng: Suy tưởng hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng suy tưởng hướng lợi để xây dựng cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và tự tin, cuộc sống có hương, có vị. Suy tưởng hướng hại là suy tưởng tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết
“Chơi ” là một trong những nhu cầu căn bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm cho mình một trò chơi yêu thích nhất, trong khi chơi hãy thử nghiệm niềm vui chiến thắng, thua không cay, chơi là đùa. Về tâm lý và sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh.
“Hoàn toàn khoẻ mạnh” đó là nói thân thể khoẻ mạnh, tâm lý khoẻ mạnh và đạo đức khoẻ mạnh.. Tâm lý khoẻ mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao tiếp; Đạo đức khoẻ mạnh là có tình yêu thương, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu…
Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong xã hội, thể hiện giá trị của mình đó là cách sống lành mạnh.
“Cuộc sống tuổi già nên có nhiều bạn gìà trong nhiều thành phần,nhiều mẫu người với nhiều màu sắc khác nhau trong xã hội. Có một hai bạn tốt thì chưa đủ, nên có cả một nhóm bạn già, tình đẹp làm thêm cuộc sống tuổi già, làm cho cuộc sống của bạn nhiều hương vị, nhiều màu sắc.
Con người ta chịu đựng, hoà giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình.Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất, quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống như thế nào.
Tại sao khi về già người ta hay hoài cổ “hay nhớ lại chuyện xưa?” Đến những năm cuối đời, người ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói xa vời, đã đứng ở sân ga cuối. Tâm linh cần trong phòng, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tìm lại những tình cảm chân thành. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thủa nhỏ, cùng bạn sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thanh là một niềm vui lớn của tuổi già.
Nếu bạn đã cố hết sức, mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó. Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả ngắt vội không bao giờ ngọt.
“SINH – LÃO – BỆNH – TỬ” là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình dấu chấm hết thật TRÒN.
Tác giả: Chu Dung Cơ – Thanh Dũng dịch
Đạo vào Đời
Cha Gioan Tauler, một vị linh mục đạo đức vẫn luôn cầu xin để được gặp một người chỉ dẫn cho ngài thiên đàng ở đâu. Một ngày kia, có tiếng lương tâm giục ngài ra trước cửa nhà thờ để gặp vị quân sư đó. Nhìn trước nhìn sau, cha chẳng thấy ai, ngoại trừ một người ăn mày, quần áo rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, hôi thối. Cha đến gần chào người hành khất:
– Chào ông, chúc ông may mắn.
Người ăn mày thản nhiên trả lời:
– Chào cha, tôi có bị rủi ro bao giờ đâu.
– Vậy thì xin Thiên Chúa ban cho ông mọi điều sung sướng.
– Ồ, thưa cha, đời tôi chưa bao giờ thấy khổ cả.
Cha Tauler rất ngạc nhiên về cách nói năng của người này. Cha hỏi tiếp:
– Nếu Chúa bắt ông xuống hỏa ngục, ông có buồn khổ không?
Người hành khất trả lời không cần suy nghĩ:
– Nếu Chúa làm như vậy thì tôi sẽ ôm ghì lấy Chúa và đưa Chúa xuống hỏa ngục luôn. Tôi thà ở hỏa ngục với Chúa còn hơn ở Thiên Đàng mà không có Ngài.
Vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha hạch hỏi:
– Này ông, ông có thể cho tôi biết ông từ đâu tới đây?
– Thưa Cha, tôi từ Thiên Chúa mà đến.
– Nhưng ông tìm thấy Thiên Chúa ở đâu?
– Ở ngay khúc quẹo, chỗ mà tôi từ bỏ mọi của cải vật chất trên đời này.
Tới đây, Cha Tauler không thể chờ đợi thêm được nữa. Ngài hỏi nhanh:
– Thế thì, ông là ai?
Người ăn mày nói một cách trịnh trọng:
– Tôi là Vua.
Cha Tauler quỳ xuống trước mặt người ăn mày:
– Tâu Đức Vua, Ngài có thể cho con biết vương quốc ngài ở đâu không?
– Vương quốc của Ta ở ngay trong tâm hồn Ta.
Bạn thân mến,
Nhiều lúc trên đời, chúng ta đã mất thời giờ viển vông đi tìm bình an, hạnh phúc ở những nơi không bao giờ có.
Hàng ngày chúng ta lái xe đi làm trên cùng một con đường, vào cùng một giờ khắc trong ngày, vậy mà sao có hôm một chiếc xe chớp đèn xin đi trước thì ta mỉm cười, giảm tốc độ lại và còn đưa tay lên mời họ qua. Trái lại, có ngày gặp trường hợp tương tự, ta lại cáu kỉnh chửi thề mà không cho xe nào qua mặt? Tại sao con cái ta nô đùa trong nhà mà có lúc chúng ta cảm thấy êm đềm, hạnh phúc; nhưng có lúc ta lại cảm thấy ồn ào, khó chịu, nên la rầy và bắt chúng phải ở yên?
Khi mà con người biết quên mình hy sinh cho hạnh phúc người khác, chia sẻ với người khác”. Thì ra sự bình an, vui vẻ, hạnh phúc không phải do ngoại cảnh tạo ra, mà lại ở ngay trong chính TÂM ta. Khi lòng ta an vui thì ngoại cảnh cũng đẹp đẽ. Khi lòng ta bất ổn thì ngoại cảnh chỉ tạo nên sầu muộn.
Cảnh giới Thiên Đàng hay Địa ngục từ trong TÂM ta vậy !
Cha Gioan Tauler, một vị linh mục đạo đức vẫn luôn cầu xin để được gặp một người chỉ dẫn cho ngài thiên đàng ở đâu. Một ngày kia, có tiếng lương tâm giục ngài ra trước cửa nhà thờ để gặp vị quân sư đó. Nhìn trước nhìn sau, cha chẳng thấy ai, ngoại trừ một người ăn mày, quần áo rách rưới, mặt mũi bẩn thỉu, hôi thối. Cha đến gần chào người hành khất:
– Chào ông, chúc ông may mắn.
Người ăn mày thản nhiên trả lời:
– Chào cha, tôi có bị rủi ro bao giờ đâu.
– Vậy thì xin Thiên Chúa ban cho ông mọi điều sung sướng.
– Ồ, thưa cha, đời tôi chưa bao giờ thấy khổ cả.
Cha Tauler rất ngạc nhiên về cách nói năng của người này. Cha hỏi tiếp:
– Nếu Chúa bắt ông xuống hỏa ngục, ông có buồn khổ không?
Người hành khất trả lời không cần suy nghĩ:
– Nếu Chúa làm như vậy thì tôi sẽ ôm ghì lấy Chúa và đưa Chúa xuống hỏa ngục luôn. Tôi thà ở hỏa ngục với Chúa còn hơn ở Thiên Đàng mà không có Ngài.
Vị linh mục càng ngạc nhiên hơn nữa. Cha hạch hỏi:
– Này ông, ông có thể cho tôi biết ông từ đâu tới đây?
– Thưa Cha, tôi từ Thiên Chúa mà đến.
– Nhưng ông tìm thấy Thiên Chúa ở đâu?
– Ở ngay khúc quẹo, chỗ mà tôi từ bỏ mọi của cải vật chất trên đời này.
Tới đây, Cha Tauler không thể chờ đợi thêm được nữa. Ngài hỏi nhanh:
– Thế thì, ông là ai?
Người ăn mày nói một cách trịnh trọng:
– Tôi là Vua.
Cha Tauler quỳ xuống trước mặt người ăn mày:
– Tâu Đức Vua, Ngài có thể cho con biết vương quốc ngài ở đâu không?
– Vương quốc của Ta ở ngay trong tâm hồn Ta.
Bạn thân mến,
Nhiều lúc trên đời, chúng ta đã mất thời giờ viển vông đi tìm bình an, hạnh phúc ở những nơi không bao giờ có.
Hàng ngày chúng ta lái xe đi làm trên cùng một con đường, vào cùng một giờ khắc trong ngày, vậy mà sao có hôm một chiếc xe chớp đèn xin đi trước thì ta mỉm cười, giảm tốc độ lại và còn đưa tay lên mời họ qua. Trái lại, có ngày gặp trường hợp tương tự, ta lại cáu kỉnh chửi thề mà không cho xe nào qua mặt? Tại sao con cái ta nô đùa trong nhà mà có lúc chúng ta cảm thấy êm đềm, hạnh phúc; nhưng có lúc ta lại cảm thấy ồn ào, khó chịu, nên la rầy và bắt chúng phải ở yên?
Khi mà con người biết quên mình hy sinh cho hạnh phúc người khác, chia sẻ với người khác”. Thì ra sự bình an, vui vẻ, hạnh phúc không phải do ngoại cảnh tạo ra, mà lại ở ngay trong chính TÂM ta. Khi lòng ta an vui thì ngoại cảnh cũng đẹp đẽ. Khi lòng ta bất ổn thì ngoại cảnh chỉ tạo nên sầu muộn.
Cảnh giới Thiên Đàng hay Địa ngục từ trong TÂM ta vậy !
LẬN ĐẬN
Nhìn những dòng người tấp nập đến và đi trên con đường, tôi nghĩ về những cuộc đời lận đận, lao đao. Bao giờ mới thực sự hết lận đận lao đao và tôi nghĩ về cuộc đời.
Tôi nhớ về lời của bài hát “tiến thoái lưỡng nan” của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Tiến thoái lưỡng nan đi về lận đận. Ngày xưa lận đận không biết về đâu.” Có những cuộc đời đến lúc ra đi vẫn còn lận đận, vẫn hoài lao đao. Tôi nghĩ đến những phận người khốn khổ, không phải khốn khổ vì người khác mang đến mà tự thân mình mang vào những khốn khổ. Khốn khổ lao đao khi không biết rằng mỗi người đều có một thời, không đón nhận thay đổi của thời gian. Cái lận đận của một tuổi già, sức kém mà vẫn hoài mong một thời chiến tích lập lại, cái lận đận của những mưu tính ôm giữ địa vị, vị thế dù biết mình không thể. Lận đận vì những lo sợ hão huyền, không còn người biết đến, không còn gì để nắm giữ… Tôi nghĩ đến những lận đận, cái lận đận của những con người chỉ thích tiếng khen, lời dịu ngọt tâng bốc, những lời giả dối mà không sẵn sàng đón nhận thực tế, những lời chân thành. Không biết về đâu nên đâu cũng là con đường giống nhau, không dẫn tới đích. Con người lận đận, loanh quanh không lối thoát trong khổ đau của hành trình. Những lận đận của những con người quên mất mình có một thời: “Về thu xếp lại, ngày trong nếp ngày” (lời “Chiếc lá thu phai” của Trịnh Công Sơn). Một thời của tuổi già tìm về yên tĩnh, rũ bỏ những âu lo, tìm về tháng ngày bình yên, đó chẳng là con đường tìm về, thu xếp lại những ngổn ngang cuộc đời trước khi về bên kia thế giới.
Tôi nghĩ đến bao tâm hồn hạnh phúc trước khi ra đi.
“Tôi đã được phép giã từ. Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em! Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường. Này đây chìa khoá tôi gài lên cửa, và cả căn nhà cũng trao trọn anh em. Chỉ xin anh em lời tạ từ lần cuối thắm đượm tình thân. Từ lâu rồi, sống bên nhau, chúng mình là láng giềng lối xóm; nhưng anh em đã cho tôi nhiều hơn tôi cho lại anh em. Bây giờ ngày đã rạng, đèn trong xó tối nhà tôi đã tắt. Lệnh triệu ban rồi, tôi đi đây” (93, Lời dâng, R. Tagore).
“Này đây chìa khoá tôi gài lên cửa.” Hay quá, con người cao thượng quá, trao lại cho người sau tất cả những gì cuộc đời mình đã gầy dựng được, chỉ xin giữ tình thân. Cuộc đời không giữ gì cho mình lại là cuộc đời đầy tràn tất cả. Cuộc đời nhìn nhận mình đón nhận tất cả hơn những gì mình kiến tạo, sao hạnh phúc quá. Tôi ước mơ tôi cũng hành động như thế trong mọi lúc trước khi ra đi, tôi ước mơ cái hạnh phúc thật đơn giản, thật sự quên mình trong thế giới bao la của tình người.
Con người rồi sẽ ra đi, rồi sẽ để lại tất cả những gì mình có, để lại ngôi nhà, của cải, vật chất mình đang nắm giữ… Lận đận khi mình cố níu giữ, bám chặt dù không còn sức, lận đận khi vẫn còn tham vọng, đầy mưu tính. Tôi ước mơ những cuộc đời lận đận, đừng làm khổ đời mình nữa, tôi ước mơ, con người sống đừng giả dối nhau, đưa nhau lên đài danh vọng rồi chôn vùi đời nhau trong lao đao. Lận đận chạy chọt, tạo liên minh, gây chia rẽ, tìm chỗ bám víu, làm chi vậy, chỉ thêm khổ, mất thêm nhiều tình nghĩa, và lẻ loi trong hoạt động của phe nhóm. Hãy nói cho nhau về sự thật cuộc đời, hãy để cho Lời Chúa được thực hiện trong cuộc sống: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20). Tại sao lại bám víu để rồi lận đận.
Thanh thản, an nhiên ra đi như một người vừa làm xong công việc của mình, khiêm nhường đón nhận: “Tôi chỉ là đầy tớ vô duyên, tôi chỉ làm việc bổn phận của tôi” (Lc 17,10). Diễm phúc cho mỗi cuộc đời khi nhận ra mình là tôi bộc cho hạnh phúc nhân loại, và sẵn sàng như một người đã hoàn thành sứ mạng của mình: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4,7)
Rũ bỏ lận đận để khỏi lao đao. Tôi ước mong như bao tâm hồn mong ước: Ra đi trong niềm hân hoan vì cuộc đời này tôi đã sống qua bao hạnh phúc, qua bao đau thương vẫn thấy hạnh phúc. Hạnh phúc của một con người vì thấy mình được yêu thương, hạnh phúc vì thấy mình đã nỗ lực dâng hiến cho con người được hạnh phúc.
LM Giuse Hoàng Kim Toan
Nhìn những dòng người tấp nập đến và đi trên con đường, tôi nghĩ về những cuộc đời lận đận, lao đao. Bao giờ mới thực sự hết lận đận lao đao và tôi nghĩ về cuộc đời.
Tôi nhớ về lời của bài hát “tiến thoái lưỡng nan” của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Tiến thoái lưỡng nan đi về lận đận. Ngày xưa lận đận không biết về đâu.” Có những cuộc đời đến lúc ra đi vẫn còn lận đận, vẫn hoài lao đao. Tôi nghĩ đến những phận người khốn khổ, không phải khốn khổ vì người khác mang đến mà tự thân mình mang vào những khốn khổ. Khốn khổ lao đao khi không biết rằng mỗi người đều có một thời, không đón nhận thay đổi của thời gian. Cái lận đận của một tuổi già, sức kém mà vẫn hoài mong một thời chiến tích lập lại, cái lận đận của những mưu tính ôm giữ địa vị, vị thế dù biết mình không thể. Lận đận vì những lo sợ hão huyền, không còn người biết đến, không còn gì để nắm giữ… Tôi nghĩ đến những lận đận, cái lận đận của những con người chỉ thích tiếng khen, lời dịu ngọt tâng bốc, những lời giả dối mà không sẵn sàng đón nhận thực tế, những lời chân thành. Không biết về đâu nên đâu cũng là con đường giống nhau, không dẫn tới đích. Con người lận đận, loanh quanh không lối thoát trong khổ đau của hành trình. Những lận đận của những con người quên mất mình có một thời: “Về thu xếp lại, ngày trong nếp ngày” (lời “Chiếc lá thu phai” của Trịnh Công Sơn). Một thời của tuổi già tìm về yên tĩnh, rũ bỏ những âu lo, tìm về tháng ngày bình yên, đó chẳng là con đường tìm về, thu xếp lại những ngổn ngang cuộc đời trước khi về bên kia thế giới.
Tôi nghĩ đến bao tâm hồn hạnh phúc trước khi ra đi.
“Tôi đã được phép giã từ. Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em! Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường. Này đây chìa khoá tôi gài lên cửa, và cả căn nhà cũng trao trọn anh em. Chỉ xin anh em lời tạ từ lần cuối thắm đượm tình thân. Từ lâu rồi, sống bên nhau, chúng mình là láng giềng lối xóm; nhưng anh em đã cho tôi nhiều hơn tôi cho lại anh em. Bây giờ ngày đã rạng, đèn trong xó tối nhà tôi đã tắt. Lệnh triệu ban rồi, tôi đi đây” (93, Lời dâng, R. Tagore).
“Này đây chìa khoá tôi gài lên cửa.” Hay quá, con người cao thượng quá, trao lại cho người sau tất cả những gì cuộc đời mình đã gầy dựng được, chỉ xin giữ tình thân. Cuộc đời không giữ gì cho mình lại là cuộc đời đầy tràn tất cả. Cuộc đời nhìn nhận mình đón nhận tất cả hơn những gì mình kiến tạo, sao hạnh phúc quá. Tôi ước mơ tôi cũng hành động như thế trong mọi lúc trước khi ra đi, tôi ước mơ cái hạnh phúc thật đơn giản, thật sự quên mình trong thế giới bao la của tình người.
Con người rồi sẽ ra đi, rồi sẽ để lại tất cả những gì mình có, để lại ngôi nhà, của cải, vật chất mình đang nắm giữ… Lận đận khi mình cố níu giữ, bám chặt dù không còn sức, lận đận khi vẫn còn tham vọng, đầy mưu tính. Tôi ước mơ những cuộc đời lận đận, đừng làm khổ đời mình nữa, tôi ước mơ, con người sống đừng giả dối nhau, đưa nhau lên đài danh vọng rồi chôn vùi đời nhau trong lao đao. Lận đận chạy chọt, tạo liên minh, gây chia rẽ, tìm chỗ bám víu, làm chi vậy, chỉ thêm khổ, mất thêm nhiều tình nghĩa, và lẻ loi trong hoạt động của phe nhóm. Hãy nói cho nhau về sự thật cuộc đời, hãy để cho Lời Chúa được thực hiện trong cuộc sống: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20). Tại sao lại bám víu để rồi lận đận.
Thanh thản, an nhiên ra đi như một người vừa làm xong công việc của mình, khiêm nhường đón nhận: “Tôi chỉ là đầy tớ vô duyên, tôi chỉ làm việc bổn phận của tôi” (Lc 17,10). Diễm phúc cho mỗi cuộc đời khi nhận ra mình là tôi bộc cho hạnh phúc nhân loại, và sẵn sàng như một người đã hoàn thành sứ mạng của mình: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4,7)
Rũ bỏ lận đận để khỏi lao đao. Tôi ước mong như bao tâm hồn mong ước: Ra đi trong niềm hân hoan vì cuộc đời này tôi đã sống qua bao hạnh phúc, qua bao đau thương vẫn thấy hạnh phúc. Hạnh phúc của một con người vì thấy mình được yêu thương, hạnh phúc vì thấy mình đã nỗ lực dâng hiến cho con người được hạnh phúc.
LM Giuse Hoàng Kim Toan
Lầm Tưởng
Lm Vũđình Tường 12/24/2015
Lầm tưởng xảy ra khi người này cho là người kia biết trong khi người kia lại tưởng là người này biết. Kết quả là cả hai đều biết nhưng biết sai, tưởng sai. Lầm tưởng thường xảy ra trong cuộc sống và trong gia đình, ngay cả gia đình thánh cũng không tránh khỏi. Lầm tưởng xảy ra khi thiếu đối thoại rõ ràng, hoặc thiếu chú tâm khi nghe đối thoại dẫn đến việc nghe lầm giữa các thành viên với nhau. Việc thiếu cẩn trọng này gây nên hậu quả khó lường.
Một số người cố gắng định nghĩa gia đình theo kiểu mới, thích hợp với hoàn cảnh của họ. Gia đình theo định nghĩa truyền thống, và tôi vẫn thích và tin là định nghĩa này đúng nhất. Gia đình gồm cha mẹ và con cái, hay mẹ nuôi con hoặc cha nuôi con hoặc chỉ có cha mẹ già. Gia đình bình thường trở thành gia đình thánh không phải do cách sống, đời sống đạo mà chính là có Đấng Thánh ở cùng. Đấng Thánh hướng dẫn gia đình đó sống theo tinh thần Tin Mừng và thực hiện tinh thần Tin Mừng trong cuộc sống. Gia đình Thánh Gia gọi là gia đình thánh vì có Đấng Thánh ở cùng đó là Đức Jêsu Kitô. Gia đình Thánh Gia còn có một đặc điểm khác nữa là tất cả mọi thành viên trong gia đình đều sống thánh thiện và thánh hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Dù thánh hiến cuộc đời cho Thiên Chúa nhưng thành viên trong gia đình đó luôn đặt í Thiên Chúa lên trên tất cả mọi sự, ngay cả trên dự tính cá nhân. Mọi sự đều cho Thiên Chúa và do Thánh Thần Chúa hướng dẫn.
Gia đình thánh cha mẹ làm tròn nhiệm vụ và con cái vâng phục cha mẹ. Mọi thành viên trong gia đình đặt í Chúa trên hết mọi sự để nhận mọi hướng dẫn và bảo vệ đời sống gia đình. Thiên Chúa là trung tâm điểm của gia đình và mọi liên hệ cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội đều hướng dẫn bởi tình yêu Chúa. Các thành viên vâng phục í Chúa. Họ nhận biết thân phận yếu đuối, nhỏ bé của mình để sống khiêm nhường, nhận tha thứ và học tha thứ. Học biết tình yêu Chúa qua cầu nguyện trong gia đình và cầu nguyện nơi cộng đoàn dân Chúa.
Gia đình thánh sống giữa trần gian, cũng trải qua vui buồn, hạnh phúc, sầu khổ mà hầu như mọi gia đình đều ít nhiều trải qua. Khi khó khăn xảy đến gia đình thánh không tự sức riêng mình gánh vác, chống đỡ nhưng cậy trông, phó thác vào tình yêu Chúa nhiều hơn là chính sức mạnh riêng. Sai trái gây bất hoà là sai trái xấu, sai trái giúp trưởng thành, vươn lên là sai trái tốt. Gia đình thánh không dùng sai lầm như nguyên cớ gây nên bất hoà hay dùng chúng để kết án, sát phạt nhau trái lại học hỏi từ sai trái để trưởng thành, làm giầu kinh nghiệm sống. Qua sai lầm mà gia đình thánh gia nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Cởi mở trong đối thoại sẽ triệt tiêu mọi lầm tưởng, giảm bớt sung khắc trên đời. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết học hỏi từ sai trái để tiến đến gần Chúa hơn và sống cởi mở, thân thiện với tha nhân hơn. Đừng sợ lỗi lầm nhưng hãy sợ lỗi lầm không giúp trưởng thành hơn; chúng đến rồi qua đi rồi lại đến. Phạm lại chính lỗi cũ vì không học được gì.
Lm Vũđình Tường 12/24/2015
Lầm tưởng xảy ra khi người này cho là người kia biết trong khi người kia lại tưởng là người này biết. Kết quả là cả hai đều biết nhưng biết sai, tưởng sai. Lầm tưởng thường xảy ra trong cuộc sống và trong gia đình, ngay cả gia đình thánh cũng không tránh khỏi. Lầm tưởng xảy ra khi thiếu đối thoại rõ ràng, hoặc thiếu chú tâm khi nghe đối thoại dẫn đến việc nghe lầm giữa các thành viên với nhau. Việc thiếu cẩn trọng này gây nên hậu quả khó lường.
Một số người cố gắng định nghĩa gia đình theo kiểu mới, thích hợp với hoàn cảnh của họ. Gia đình theo định nghĩa truyền thống, và tôi vẫn thích và tin là định nghĩa này đúng nhất. Gia đình gồm cha mẹ và con cái, hay mẹ nuôi con hoặc cha nuôi con hoặc chỉ có cha mẹ già. Gia đình bình thường trở thành gia đình thánh không phải do cách sống, đời sống đạo mà chính là có Đấng Thánh ở cùng. Đấng Thánh hướng dẫn gia đình đó sống theo tinh thần Tin Mừng và thực hiện tinh thần Tin Mừng trong cuộc sống. Gia đình Thánh Gia gọi là gia đình thánh vì có Đấng Thánh ở cùng đó là Đức Jêsu Kitô. Gia đình Thánh Gia còn có một đặc điểm khác nữa là tất cả mọi thành viên trong gia đình đều sống thánh thiện và thánh hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Dù thánh hiến cuộc đời cho Thiên Chúa nhưng thành viên trong gia đình đó luôn đặt í Thiên Chúa lên trên tất cả mọi sự, ngay cả trên dự tính cá nhân. Mọi sự đều cho Thiên Chúa và do Thánh Thần Chúa hướng dẫn.
Gia đình thánh cha mẹ làm tròn nhiệm vụ và con cái vâng phục cha mẹ. Mọi thành viên trong gia đình đặt í Chúa trên hết mọi sự để nhận mọi hướng dẫn và bảo vệ đời sống gia đình. Thiên Chúa là trung tâm điểm của gia đình và mọi liên hệ cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội đều hướng dẫn bởi tình yêu Chúa. Các thành viên vâng phục í Chúa. Họ nhận biết thân phận yếu đuối, nhỏ bé của mình để sống khiêm nhường, nhận tha thứ và học tha thứ. Học biết tình yêu Chúa qua cầu nguyện trong gia đình và cầu nguyện nơi cộng đoàn dân Chúa.
Gia đình thánh sống giữa trần gian, cũng trải qua vui buồn, hạnh phúc, sầu khổ mà hầu như mọi gia đình đều ít nhiều trải qua. Khi khó khăn xảy đến gia đình thánh không tự sức riêng mình gánh vác, chống đỡ nhưng cậy trông, phó thác vào tình yêu Chúa nhiều hơn là chính sức mạnh riêng. Sai trái gây bất hoà là sai trái xấu, sai trái giúp trưởng thành, vươn lên là sai trái tốt. Gia đình thánh không dùng sai lầm như nguyên cớ gây nên bất hoà hay dùng chúng để kết án, sát phạt nhau trái lại học hỏi từ sai trái để trưởng thành, làm giầu kinh nghiệm sống. Qua sai lầm mà gia đình thánh gia nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Cởi mở trong đối thoại sẽ triệt tiêu mọi lầm tưởng, giảm bớt sung khắc trên đời. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết học hỏi từ sai trái để tiến đến gần Chúa hơn và sống cởi mở, thân thiện với tha nhân hơn. Đừng sợ lỗi lầm nhưng hãy sợ lỗi lầm không giúp trưởng thành hơn; chúng đến rồi qua đi rồi lại đến. Phạm lại chính lỗi cũ vì không học được gì.
THÁI-QUÁ VÀ BẤT-CẬP
Trong một bài viết của linh-mục Đỗ Xuân Quế thuộc dòng Đa-minh tại Việt-Nam với nhan đề “Sơ thảo đôi nét về hiện tình Hội Thánh tại Việt-Nam” trước đây đã làm nhiều đấng bậc phiền lòng. Nội-dung bài viết tuy đúng như tựa đề là chỉ có đôi nét sơ-thảo nhưng cũng đủ là một bản tường-trình, hay nói cho đúng là lời kinh cáo mình, để mọi người, nhất là các bậc thức-giả Công-giáo cũng như các giới chức trong đạo phải đối-diện với một sự thật về nhiều “tệ nạn” cần được chấn-chỉnh hoặc loại trừ ra khỏi cuộc sinh-hoạt thường nhật trong Giáo-hội Công-giáo Việt-Nam mà theo như linh-mục Đỗ Xuân Quế nhận xét và kết-luận thì đó là “một số biểu hiện nguy hại có thể làm xói mòn sinh lực của Hội thánh chúng ta. Đó là:
· thích phô trương, chuộng hình thức
· tính cả nể và óc phong kiến
· khuynh hướng háo thắng
· tính ù lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi, rắc rối
· Thiếu nhân bản trong cách giao tế
Một linh-mục mục cao niên, đã từng là “cha giáo” của rất nhiều linh-mục khác, không tả-khuynh và cũng không cấp-tiến mà đã phải mạnh dạn nói lên như vậy thì chắc chắn không phải là luận điệu chống cha, chống Chúa, chống Giáo-hội hay rối đạo rồi; song phải hiểu đây là những điều “đau lòng” mà chẳng đặng đừng mới phải viết ra.
Rồi tiếp đến trên nguyệt-san Diễn Đàn Giáo Dân, có tác-giả Mặc Giao với bài “Vài cảm nghĩ sau Đại-hội Giới Chức Công Giáo” đã ghi nhận “Nhưng qua những lời phát biểu, người ta thấy giáo dân có khuynh- hướng than phiền về thái độ và việc làm của một số linh mục, đòi hỏi sự tôn trọng chỗ đứng và trách-nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, cụ thể là được góp phần vào những quyết định từ cấp điạ phương tới những cấp cao hơn. Có một hai giáo dân phát biểu quá hăng say với lời lẽ thiếu tế nhị, gây phản ứng nơi một số linh mục hiện diện, khiến một vị đã lên máy vi âm trưng dẫn Giáo Luật để chứng minh con chiên phải phục tùng chủ chiên...Một nhận xét khác là sự hiểu biết của nhiều giáo dân về sự tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân còn quá nông cạn...Người bênh hay người chống chỉ hành động vì cảm tính, không biết tới lý và tình, không biết luật lệ và đường lối của Giáo Hội thì chưa thể coi là giáo dân trưởng thành...”
Và bài viết này là sự suy nghĩ tiếp nối dựa trên những phân-tích và cảm-nghĩ vừa trích-dẫn từ hai bài của linh-mục Đỗ Xuân Quế và tác-giả Mặc Giao, rồi đối-chiếu với nhiều kinh-nghiệm thực-tế hơn như một sự đóng góp thêm về cái thực-trạng đáng buồn đã, đang và sẽ còn như đám mây đen u-ám làm lu mờ khuất lấp hơi nhiều luồng ánh sáng của Đức Ki-tô mà đúng lẽ ra cần phải được phong-quang chiếu rọi. Đó là sự nghịch biến nguy-hiểm giữa những cái thái quá của đa-số giáo-sĩ, linh-mục và tu-sĩ đã lạm-dụng cơ-chế để hành xử sai lạc quyền hạn của mình trong các nhiệm-vụ giáo-huấn, quản-trị và thánh-hoá như một số điểm trong bài của linh-mục Đỗ xuân Quế cùng những cái bất-cập của tuyệt-đại đa số giáo dân hiện nay trong hiện tình Giáo-hội Việt-Nam như vài cảm nghĩ của tác-giả Mặc Giao đã ghi nhận.
Trước hết là sự thái quá. Xưa nay không phải chỉ có phía đa-số giáo dân mê muội nghĩ rằng các vị có chức thánh là thánh, là sáng-láng, tốt lành và thông suốt mọi sự mà ngay chính trong não-trạng của phần lớn những người mang chức thánh cũng tự cho mình là như vậy. Điều này rất dễ kiểm-chứng từ những đơn-vị nhỏ nhất nhưng là nền tảng nhất của Giáo-hội là những giáo-xứ, hoặc những nơi mà giáo dân quy-tụ lại dưới danh nghĩa cộng-đoàn Công-giáo hay trung-tâm Công-giáo. Các “cha xứ” cũng như các “tuyên-úy” thường tự lạm quyền cũng như đuợc nhiều giáo dân cho là những nhân-sự bất-khả-ngộ và bất-khả-xâm-phạm theo kiểu những ông quan địa-phương thời phong-kiến để giữ quyền quyết-định mọi điều và nắm giữ mọi sự trong sinh-hoạt của tập-thể tín-hữu. Hội-đồng giáo-xứ hay mục-vụ có đuợc đặt ra thì cũng chỉ là những nhân-sự để “chạy việc” cho cha xứ hay cha tuyên-úy mà không phải là những người tự-do điều-hành các sinh-hoạt dưới sự hướng dẫn hoặc cố-vấn về tâm-linh và đạo-đức của linh-mục chánh xứ hoặc tuyên-úy. Chính các linh-mục trong trách-vụ đã quên mất nhiệm-vụ chính của mình là các sinh-hoạt về phụng-vụ thánh, mục-vụ và truyền-giáo liên-đới với ba nhiệm-vụ thánh-hoá, quản-trị và giáo-huấn. Thực-tế, ba nhiệm-vụ thiêng-liêng này đã không những không được hành xử đúng mức mà còn bị lơ-là, lạm-dụng và tục-hoá.
Trước hết là nhiệm-vụ thánh-hoá. Linh-mục là cộng-sự-viên của giám-mục (Episcopi cooperatores) để thông chia nhiệm-vụ này với giám-mục trong việc “quản-lý ơn sủng của chức tư-tế tối-cao” (oeconomus gratiae supremi sacerdotii). Như Công-đồng Vatican II qui-định “Trong khi hoàn thành công việc thánh hoá, các linh-mục chính xứ hãy lo lắng để việc cử-hành Hy-tế Thánh-thể phải là trọng-tâm và tuyệt-đỉnh của toàn-thể đời sống cộng đoàn Ki-tô giáo, phải nỗ-lực để tín-hữu đuợc lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng nhờ sốt sắng siêng năng lãnh nhận các Bí-tích.” (In perficiendo opere sanctificationis curent parochi ut celebratio Eucharistici Sacrificii centrum sit et culmen totius vitae communitatis christianae; itemque adlaborent ut fideles spirituali pabulo pascantur per devotam et frequentem Sacramentorum receptionem). Thực-tế, Thánh-lễ đã bị một số linh-mục biến thành món “quà tặng” vô-tổ-chức tuỳ vào sự thân-thiết với những người các ông quý mến hay cần kết thân và cũng là chiêu-bài để đe-doạ hay trừng phạt những gia-đình hay giáo dân nào “không thuận ta”. Đã có nhiều trường-hợp khi giáo dân lên tiếng góp ý, can ngăn hay phê-bình về hành-vi chẳng nên làm của cha xứ hay cha tuyên-úy thì liền bị các ông công-khai nói trên toà là những giáo dân đó sẽ không đuợc ban các bí-tích khi cần thiết hoặc khi chết không đuợc đưa vào nhà thờ hay về trung-tâm cử-hành lễ an-táng.
Tiếp đến là nhiệm-vụ quản-trị hay cai quản. Đây là trách-vụ mà linh-mục hành-xử quyền-bính một thừa-tác-viên của Hội-thánh để xây dựng cộng-đoàn tín-hữu trong chân-lý và thánh-thiện cũng như hướng-dẫn cộng-đoàn, gây niềm hy-vọng cho các tín-hữu và khuyến-khích các tín-hữu làm việc tông-đồ và truyền giáo. Trong Sắc-lệnh về chức vụ và đời sống các linh-mục (Presbyterorum Ordinis) có nói thừa-tác-vụ này đòi hỏi linh-mục “thực-hành việc khổ chế riêng biệt của vị chăn dắt các linh-hồn, từ bỏ những tiện-nghi riêng, không tìm kiếm tư lợi nhưng tìm lợi ích cho nhiều người để họ được cứu rỗi” (communtatis rectores ascesim pastoris animarum propriam colunt, propriis commodis renuntiantes, non quod sibi utile est quaerentes sed quod multis, ut salvi fiant). Với tinh-thần này, chữ cai quản chính là coi sóc hay chăn dắt chứ không đồng nghĩa với cai-trị hay ôm-đồm hết mọi sư, nhất là của cải vật-chất, vào trong một tay che trời của linh-mục chính xứ hay tuyên-úy. Càng ngày người ta càng đếm đuợc rất ít con số các thừa-tác-viên (ministri) của Đức Ki-tô đúng với nghĩa như Sắc-lệnh của Giáo-hội nêu ra mà chỉ là những cha xứ mang cốt cách của các công hầu thời phong-kiến quan-liêu đuợc cắt đất phong vương. Còn ở hải-ngoại thì nhiệm-vụ tuyên-uý - chữ dùng đúng nghĩa nhất cho linh-mục tại những đơn-vị không phải là giáo-xứ - đã được mang thêm một tính-từ nữa bên cạnh là “quản-nhiệm” để thành linh-mục tuyên-úy quản-nhiệm rồi dần dần bỏ rơi bớt đi chữ tuyên-úy là nghĩa chính để chỉ còn là linh-mục quản-nhiệm mà thôi.
Cuối cùng là nhiệm-vụ giáo-huấn. Đây là nhiệm-vụ trổi vượt trong các nhiệm-vụ chính yếu của hàng gíám-mục và các linh-mục tu-sĩ để chân-lý về Đức Ki-tô đuợc rao truyền. Tin Mừng Cứu-độ và các huấn-thị, quy-luật của Hội-thánh được dẫn giải và thông-truyền cho muôn dân qua nhiệm-vụ quan-trọng này chứ không phải ý riêng đem ra dạy tín-hữu phải theo hay uốn nắn họ thành những kẻ vâng lời tối mặt. Thực-tế, giáo dân Việt-Nam đã nhận đuợc những gì thuộc trách-nhiệm này nơi Giáo-hội? Số lượng linh-mục thì nhiều vô kể, song có bao nhiêu linh-mục sau khi thụ-phong vẫn còn vừa lo mục-vụ vừa chuyên-tâm nghiên-cứu học hỏi thêm và nhất là con số các linh-mục viết sách nghiên-cứu hay nghị-luận về giáo-lý, thần-học, về tu-đức hay đời sống nội-tâm trong đức tin chẳng hạn thì lại càng khiêm-tốn. Chính vì vậy mà lâu dần phần đông đã biến thành tính ù-lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi, rắc rối. Thậm chí những lời giảng trong Thánh-lễ Chủ-nhật là điều buộc mà cũng rất nhiều người không nghiêm-túc chuẩn-bị trước, rồi khi bước lên bục giảng thì chỉ giải-thích thêm đôi chút về bài Tin Mừng vừa đọc. Tuy nhiên, như vậy cũng còn đỡ hơn là có ông đem chuyện phim hay chuyện tình ra kể và tệ hơn nữa là dùng “toà giảng” để nói chuyện quyên góp tiền bạc, để nói xiên nói xéo những cá nhân nào đó làm ông mất vui hoặc chống đối các việc chẳng nên mà ông đã làm.
Trong những phân-tích của linh-muc Đỗ Xuân Quế có hai điểm cũng cần minh chứng thêm là thích phô trương, chuộng hình thức và thiếu nhân bản trong cách giao tế.
Có lẽ tính thích phô-trương và chuộng hình-thức là một trong những thói tục đáng phàn-nàn nơi phần lớn các giáo-sĩ, linh-mục, tu-sĩ. Trước hết, nếu như ngoài xã-hội Việt-Nam hiện nay người ta vọng ngoại như thế nào thì não-trạng này cũng nặng nề trong Giáo-hội không kém. Cũng có thái-độ ngó nhau về việc người này, người kia “được” đi nước ngoài hoặc phân biệt giữa việc được chịu chức tại nước ngoài hay tại Việt-Nam làm chuẩn mức cho tài đức của một linh-mục hay giám-mục. Các dòng tu – phần nhiều là dòng nữ – đang có tệ-nạn đua nhau gửi người đi mở thêm nhà tại hải-ngoại và hãnh-diện cho đó là dấu chỉ của sự phát-triển mà không xét xem là đang phát-triển ra sao, Đức Ki-tô có được sự gì như ý Người mong đợi hay chỉ là cung cách của người kinh-doanh đi tìm thị-trường có nhiều lợi-nhuận theo thói “ruộng gần cỏ mọc không cày, chợ xa quà rẻ mấy ngày cũng đi”? Bởi vì, chỉ một cánh đồng lúa chín với 80 triệu dân mà đã mấy thế-kỷ qua đi rồi con số phần trăm người tin vẫn còn ở mức quá khiêm-tốn thì sứ-mạng đã xong làm tròn đuợc bao nhiêu đâu, hà cớ phải vói tay mãi đâu đâu. Chẳng lẽ lại mang tham-vọng trở ngược hướng truyền-giáo với quá-khứ vì đã đến thời đến buổi giáo-sĩ và tu-sĩ Việt-Nam trở sang truyền-giáo cho hải-ngoại, cho Tây-phương hoặc chạy theo chăm sóc cho thiểu số người Công-giáo Việt-Nam tại hải-ngoại? Có người sau khi đi ngoại-quốc về liền bắt chước một vài điều đem thực-hiện trong xứ mình mà không cần suy xét xem có cận nhân-tình hay không. Đấy là trường-hợp một linh-mục coi xứ trên miền xa đã ra lệnh trong xứ khi gia-đình nào có tang thì không đuợc may tang-phục theo phong-tục cổ-truyền bằng vải xô gai mà tất cả phải mặc Âu-phục đen như các nước Tây-phương. Rồi dòng này “lên mặt” hoặc mặc cảm với dòng kia khi có nhiều hay ít người đi học ở nước ngoài. Một linh-mục dòng đã nhập tu ở ngoại-quốc, có dịp về thăm nhà dòng ở Việt-Nam bị bề trên cũ trách “tôi thật là thất vọng về cha quá” ví lý-do ông không vận-động cách nào cho anh em trong nhà sang ngoại-quốc tu-học. Ông còn cho biết thêm là ông đuợc mời giảng về đức khó nghèo trong dịp lễ “mở tay” của một anh em trong dòng. Ông say sưa giảng như được ơn thần-hứng nhưng khi Thánh-lễ vừa xong thì ông hoa mắt với bữa tiệc thật xa-xỉ diễn ra ngay tại nhà dòng với mấy trăm thực khách khiến ông phải -theo lời ông kể - tránh đi cho khỏi xấu hổ. Rồi những tiệc-tùng rộn ràng mừng hết lễ vàng, lễ bạc đến sinh-nhật, quan thầy bổn mạng đã là hình ảnh méo mó quá quen thuộc và quá cách-biệt với bình dân bá tính về đức khó nghèo. Nếp sống xa-hoa, lễ-nghi phong-kiến hợp với quyền-bính cha chú đuợc diễn ý sai lạc đã dẫn đến tác-phong thiếu nhân bản trong cách giao tế là việc tất nhiên phải đến. Đức Ki-tô vì con người mà phải làm người ở trần thế ba muơi ba năm để rồi ngày nay một môn sinh của Người phải viết lên câu này thì đúng là tấm lòng can-đảm của ông đã đấm ngực thay cho cả tập-thể huynh-đệ trong Đức Ki-tô.
Khi dựa trênTin Mừng của Đức Ki-tô và giáo-lý của Hội-thánh Chúa làm định mức để thấy Giáo-hội Công-giáo Việt-Nam có những biểu-hiện thái-quá như trên thì cũng từ nguồn chân-lý này mà nhìn ra đuợc những điều bất cập trong cộng-đoàn tín-hữu. Nếu thái quá là vuợt quá mức thường, là quá trớn quá đà dễ gây nhiều sai lạc trong đời sống đức tin bao nhiêu thì bất cập là không kịp, không bằng, không tới mức cũng nguy hại bấy nhiêu. Bằng chứng là như Mặc Giao ghi nhận là mức hiểu biết của nhiều giáo dân về sự tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân còn quá nông cạn... Người bênh hay người chống chỉ hành động vì cảm tính, không biết tới lý và tình, không biết luật lệ và đường lối của Giáo Hội thì chưa thể coi là giáo dân trưởng thành...”. Đây chính là sự bất cập của giáo dân.
Thực-tế, không phải chỉ có sự hiểu biết của nhiều giáo dân về sự tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân còn quá nông cạn mà là sự hiểu biết về mọi lý lẽ trong tinh-thần Phúc-âm, nguyên-tắc và lề luật của Giáo-hội để từ đấy dung-hoà được nếp sống đạo cũng nông cạn. Rất nhiều giáo dân theo đạo như thói quen, cũng mang tính ù lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi, rắc rối; thậm chí không cần nhìn lên cao hơn khỏi nóc nhà thờ và không cần nghe lời ai ngoài cha xứ. Chúa ở trên trời cao và ngay cả Toà Giám-mục điạ-phận cũng xa hơn nhà xứ thì nói gì đến những huấn-thị, giáo-lý và giáo-luật loan đi từ Vatican. Họ vẫn nói cha thay mặt Chúa, lời cha là lời Chúa cho nên cha đã thay mặt Chúa còn được huống gì là thay cho cả Hội-thánh với Hội-đồng Giám-mục thế-giới cho nên tất cả mọi sự đã nằm trong chức thánh của cha rồi, bây giờ cứ để cha phán dạy đời này, còn chuyện đời sau thì đã có những lễ đuợc “xin” bằng giá cao. Phần lớn giáo dân Việt-Nam sống trong hồng-ân cứu-độ của Chúa cách đơn giản như vậy đó. Đọc kinh nhiều, lai vãng quà cáp “dâng” các cha thường xuyên là thánh-thiện, gương mẫu rồi.
Tuy nhiên, không hẳn là họ đã yên bề như vậy. Họ cũng biết phân biệt thị-phi, phân biệt đen trắng song vì quen bị “cai-trị , cai quản” như vậy cho nên lại thêm mặc cảm có tội nếu đụng chạm đến các vị mang chức thánh, sợ lúc chết không đuợc ban các phép chẳng hạn nên không bao giờ dám đối-thoại thẳng với linh-mục tu-sĩ mà là đi rỉ tai, xì xèo to nhỏ với nhau. Chung cuộc thì tiếng lành đồn xa mà tiếng dữ càng đồn xa hơn cho đến khi có dịp thì bung ra kiểu “tức nước vỡ bờ”, bất phân lý lẽ như có một hai giáo dân phát biểu quá hăng say với lời lẽ thiếu tế nhị, gây phản ứng nơi một số linh mục hiện diện, khiến một vị đã lên máy vi âm trưng dẫn Giáo Luật để chứng minh con chiên phải phục tùng chủ chiên..
Tác-giả Mặc Giao góp ý là vấn-đề giáo-dục giáo dân cần phải được đặt ra một cách nghiêm-chỉnh. Nhưng ai giáo-dục ai đây khi mà những người mang trách-nhiệm giáo-huấn thực sự lại đang cố-thủ óc phong kiến, tính ù lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi, rắc rối; nhất là khi giảng dạy cặn kẽ về lẽ đạo theo tinh-thần của Công-đồng Vatican II cùng những tài-liệu tiếp theo của Giáo-hội thì có khác gì đem quay ngược mũi giáo về mình? Bởi vì khi giáo dân họ trưởng thành thì “cha” cũng phải bắt tay từ đầu tu-luyện lại chứ đâu còn được thong-dong tự-tại trên sự mê-tín của tín-hữu nữa. Thêm vào đó Giáo-lý của Chúa; Giáo-luật, giáo-huấn của Hội-thánh không phải chỉ để cho giáo-sĩ, linh-mục và tu-sĩ độc quyền nắm trong tay như những sợi dây trói buộc giáo dân theo ý suy-diễn riêng từng cá-nhân hoặc là cây roi của người chăn dùng lùa đàn thú. Tất cả chính là đèn soi, là chân-lý hướng dẫn cho cả mọi người mang danh hiệu Ki-tô hữu, bao gồm cả Ki-tô hữu mang chức thánh và Ki-tô hữu giáo dân. Tại sao giáo dân không chịu đọc Kinh Thánh nhiều hơn một chút, không tự tìm cho bản thân và gia-đình một cuốn tài-liệu Công-đồng và một cuốn giáo-luật để thấy rõ sự phân-nhiệm cho từng thành-phần, từng chức-vụ rồi cứ thế mà đối-thoại thì đâu đến nỗi phải đòi hỏi sự tôn trọng chỗ đứng và trách-nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, cụ thể là được góp phần vào những quyết định từ cấp điạ phương tới những cấp cao hơn? Không những thế, việc học hỏi để truy tìm chân-lý còn là bổn-phận của mỗi người tin Chúa nữa chứ không phải cứ lúp xúp như bầy cừu câm nín trong từng lúc, rồi đến lúc lại than phiền về thái độ và việc làm của một số linh mục cách ồn ào và quá trớn, không đúng tinh-thần và luật-lệ để bị bắt lỗi chỉ khiến cho số đông giáo dân vốn đã ù-lì câm nín càng tin rằng thái độ buông xuôi mọi sự để chỉ theo lời các cha dạy là đúng trong khi cả cái “thái quá của cha” lẫn cái “bất cập của con” đều đóng đinh Đức Ki-tô thêm lần nữa giữa thiên-niên kỷ thứ ba này.
Chẳng hạn khi những giáo dân của xứ đạo miền quê kia thay vì chỉ biết đi than thở về lệnh của cha xứ cấm không cho mặc tang-phục cổ-truyền mà phải mặc Âu-phục mầu đen trong tang lễ thì tại sao không trực tiếp đặt vấn-đề với ông rằng đấy là phong-tục cổ-truyền thuộc lãnh-vực văn-hoá chứ không thuộc phụng-vụ và bí-tích cho nên không thể dùng chức linh-mục để cấm hay bãi bỏ mà chỉ nên có những đề nghị tế-nhị phù-hợp với hoàn-cảnh xã-hội.
Tóm lại, nếu hai thành-phần căn-bản của giáo-hội mà cứ ở hai cực thái quá và bất cập như vậy thì làm gì có tương-quan, làm gì có hiệp-nhất và làm gì có đồng-hành, đồng-tiến. Và con đuờng tương-lai đang hướng về đâu, quê trời hay chỉ là đi loanh-quanh đầy mỏi mệt?
Tác giả: Phạm Minh-Tâm
Trong một bài viết của linh-mục Đỗ Xuân Quế thuộc dòng Đa-minh tại Việt-Nam với nhan đề “Sơ thảo đôi nét về hiện tình Hội Thánh tại Việt-Nam” trước đây đã làm nhiều đấng bậc phiền lòng. Nội-dung bài viết tuy đúng như tựa đề là chỉ có đôi nét sơ-thảo nhưng cũng đủ là một bản tường-trình, hay nói cho đúng là lời kinh cáo mình, để mọi người, nhất là các bậc thức-giả Công-giáo cũng như các giới chức trong đạo phải đối-diện với một sự thật về nhiều “tệ nạn” cần được chấn-chỉnh hoặc loại trừ ra khỏi cuộc sinh-hoạt thường nhật trong Giáo-hội Công-giáo Việt-Nam mà theo như linh-mục Đỗ Xuân Quế nhận xét và kết-luận thì đó là “một số biểu hiện nguy hại có thể làm xói mòn sinh lực của Hội thánh chúng ta. Đó là:
· thích phô trương, chuộng hình thức
· tính cả nể và óc phong kiến
· khuynh hướng háo thắng
· tính ù lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi, rắc rối
· Thiếu nhân bản trong cách giao tế
Một linh-mục mục cao niên, đã từng là “cha giáo” của rất nhiều linh-mục khác, không tả-khuynh và cũng không cấp-tiến mà đã phải mạnh dạn nói lên như vậy thì chắc chắn không phải là luận điệu chống cha, chống Chúa, chống Giáo-hội hay rối đạo rồi; song phải hiểu đây là những điều “đau lòng” mà chẳng đặng đừng mới phải viết ra.
Rồi tiếp đến trên nguyệt-san Diễn Đàn Giáo Dân, có tác-giả Mặc Giao với bài “Vài cảm nghĩ sau Đại-hội Giới Chức Công Giáo” đã ghi nhận “Nhưng qua những lời phát biểu, người ta thấy giáo dân có khuynh- hướng than phiền về thái độ và việc làm của một số linh mục, đòi hỏi sự tôn trọng chỗ đứng và trách-nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, cụ thể là được góp phần vào những quyết định từ cấp điạ phương tới những cấp cao hơn. Có một hai giáo dân phát biểu quá hăng say với lời lẽ thiếu tế nhị, gây phản ứng nơi một số linh mục hiện diện, khiến một vị đã lên máy vi âm trưng dẫn Giáo Luật để chứng minh con chiên phải phục tùng chủ chiên...Một nhận xét khác là sự hiểu biết của nhiều giáo dân về sự tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân còn quá nông cạn...Người bênh hay người chống chỉ hành động vì cảm tính, không biết tới lý và tình, không biết luật lệ và đường lối của Giáo Hội thì chưa thể coi là giáo dân trưởng thành...”
Và bài viết này là sự suy nghĩ tiếp nối dựa trên những phân-tích và cảm-nghĩ vừa trích-dẫn từ hai bài của linh-mục Đỗ Xuân Quế và tác-giả Mặc Giao, rồi đối-chiếu với nhiều kinh-nghiệm thực-tế hơn như một sự đóng góp thêm về cái thực-trạng đáng buồn đã, đang và sẽ còn như đám mây đen u-ám làm lu mờ khuất lấp hơi nhiều luồng ánh sáng của Đức Ki-tô mà đúng lẽ ra cần phải được phong-quang chiếu rọi. Đó là sự nghịch biến nguy-hiểm giữa những cái thái quá của đa-số giáo-sĩ, linh-mục và tu-sĩ đã lạm-dụng cơ-chế để hành xử sai lạc quyền hạn của mình trong các nhiệm-vụ giáo-huấn, quản-trị và thánh-hoá như một số điểm trong bài của linh-mục Đỗ xuân Quế cùng những cái bất-cập của tuyệt-đại đa số giáo dân hiện nay trong hiện tình Giáo-hội Việt-Nam như vài cảm nghĩ của tác-giả Mặc Giao đã ghi nhận.
Trước hết là sự thái quá. Xưa nay không phải chỉ có phía đa-số giáo dân mê muội nghĩ rằng các vị có chức thánh là thánh, là sáng-láng, tốt lành và thông suốt mọi sự mà ngay chính trong não-trạng của phần lớn những người mang chức thánh cũng tự cho mình là như vậy. Điều này rất dễ kiểm-chứng từ những đơn-vị nhỏ nhất nhưng là nền tảng nhất của Giáo-hội là những giáo-xứ, hoặc những nơi mà giáo dân quy-tụ lại dưới danh nghĩa cộng-đoàn Công-giáo hay trung-tâm Công-giáo. Các “cha xứ” cũng như các “tuyên-úy” thường tự lạm quyền cũng như đuợc nhiều giáo dân cho là những nhân-sự bất-khả-ngộ và bất-khả-xâm-phạm theo kiểu những ông quan địa-phương thời phong-kiến để giữ quyền quyết-định mọi điều và nắm giữ mọi sự trong sinh-hoạt của tập-thể tín-hữu. Hội-đồng giáo-xứ hay mục-vụ có đuợc đặt ra thì cũng chỉ là những nhân-sự để “chạy việc” cho cha xứ hay cha tuyên-úy mà không phải là những người tự-do điều-hành các sinh-hoạt dưới sự hướng dẫn hoặc cố-vấn về tâm-linh và đạo-đức của linh-mục chánh xứ hoặc tuyên-úy. Chính các linh-mục trong trách-vụ đã quên mất nhiệm-vụ chính của mình là các sinh-hoạt về phụng-vụ thánh, mục-vụ và truyền-giáo liên-đới với ba nhiệm-vụ thánh-hoá, quản-trị và giáo-huấn. Thực-tế, ba nhiệm-vụ thiêng-liêng này đã không những không được hành xử đúng mức mà còn bị lơ-là, lạm-dụng và tục-hoá.
Trước hết là nhiệm-vụ thánh-hoá. Linh-mục là cộng-sự-viên của giám-mục (Episcopi cooperatores) để thông chia nhiệm-vụ này với giám-mục trong việc “quản-lý ơn sủng của chức tư-tế tối-cao” (oeconomus gratiae supremi sacerdotii). Như Công-đồng Vatican II qui-định “Trong khi hoàn thành công việc thánh hoá, các linh-mục chính xứ hãy lo lắng để việc cử-hành Hy-tế Thánh-thể phải là trọng-tâm và tuyệt-đỉnh của toàn-thể đời sống cộng đoàn Ki-tô giáo, phải nỗ-lực để tín-hữu đuợc lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng nhờ sốt sắng siêng năng lãnh nhận các Bí-tích.” (In perficiendo opere sanctificationis curent parochi ut celebratio Eucharistici Sacrificii centrum sit et culmen totius vitae communitatis christianae; itemque adlaborent ut fideles spirituali pabulo pascantur per devotam et frequentem Sacramentorum receptionem). Thực-tế, Thánh-lễ đã bị một số linh-mục biến thành món “quà tặng” vô-tổ-chức tuỳ vào sự thân-thiết với những người các ông quý mến hay cần kết thân và cũng là chiêu-bài để đe-doạ hay trừng phạt những gia-đình hay giáo dân nào “không thuận ta”. Đã có nhiều trường-hợp khi giáo dân lên tiếng góp ý, can ngăn hay phê-bình về hành-vi chẳng nên làm của cha xứ hay cha tuyên-úy thì liền bị các ông công-khai nói trên toà là những giáo dân đó sẽ không đuợc ban các bí-tích khi cần thiết hoặc khi chết không đuợc đưa vào nhà thờ hay về trung-tâm cử-hành lễ an-táng.
Tiếp đến là nhiệm-vụ quản-trị hay cai quản. Đây là trách-vụ mà linh-mục hành-xử quyền-bính một thừa-tác-viên của Hội-thánh để xây dựng cộng-đoàn tín-hữu trong chân-lý và thánh-thiện cũng như hướng-dẫn cộng-đoàn, gây niềm hy-vọng cho các tín-hữu và khuyến-khích các tín-hữu làm việc tông-đồ và truyền giáo. Trong Sắc-lệnh về chức vụ và đời sống các linh-mục (Presbyterorum Ordinis) có nói thừa-tác-vụ này đòi hỏi linh-mục “thực-hành việc khổ chế riêng biệt của vị chăn dắt các linh-hồn, từ bỏ những tiện-nghi riêng, không tìm kiếm tư lợi nhưng tìm lợi ích cho nhiều người để họ được cứu rỗi” (communtatis rectores ascesim pastoris animarum propriam colunt, propriis commodis renuntiantes, non quod sibi utile est quaerentes sed quod multis, ut salvi fiant). Với tinh-thần này, chữ cai quản chính là coi sóc hay chăn dắt chứ không đồng nghĩa với cai-trị hay ôm-đồm hết mọi sư, nhất là của cải vật-chất, vào trong một tay che trời của linh-mục chính xứ hay tuyên-úy. Càng ngày người ta càng đếm đuợc rất ít con số các thừa-tác-viên (ministri) của Đức Ki-tô đúng với nghĩa như Sắc-lệnh của Giáo-hội nêu ra mà chỉ là những cha xứ mang cốt cách của các công hầu thời phong-kiến quan-liêu đuợc cắt đất phong vương. Còn ở hải-ngoại thì nhiệm-vụ tuyên-uý - chữ dùng đúng nghĩa nhất cho linh-mục tại những đơn-vị không phải là giáo-xứ - đã được mang thêm một tính-từ nữa bên cạnh là “quản-nhiệm” để thành linh-mục tuyên-úy quản-nhiệm rồi dần dần bỏ rơi bớt đi chữ tuyên-úy là nghĩa chính để chỉ còn là linh-mục quản-nhiệm mà thôi.
Cuối cùng là nhiệm-vụ giáo-huấn. Đây là nhiệm-vụ trổi vượt trong các nhiệm-vụ chính yếu của hàng gíám-mục và các linh-mục tu-sĩ để chân-lý về Đức Ki-tô đuợc rao truyền. Tin Mừng Cứu-độ và các huấn-thị, quy-luật của Hội-thánh được dẫn giải và thông-truyền cho muôn dân qua nhiệm-vụ quan-trọng này chứ không phải ý riêng đem ra dạy tín-hữu phải theo hay uốn nắn họ thành những kẻ vâng lời tối mặt. Thực-tế, giáo dân Việt-Nam đã nhận đuợc những gì thuộc trách-nhiệm này nơi Giáo-hội? Số lượng linh-mục thì nhiều vô kể, song có bao nhiêu linh-mục sau khi thụ-phong vẫn còn vừa lo mục-vụ vừa chuyên-tâm nghiên-cứu học hỏi thêm và nhất là con số các linh-mục viết sách nghiên-cứu hay nghị-luận về giáo-lý, thần-học, về tu-đức hay đời sống nội-tâm trong đức tin chẳng hạn thì lại càng khiêm-tốn. Chính vì vậy mà lâu dần phần đông đã biến thành tính ù-lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi, rắc rối. Thậm chí những lời giảng trong Thánh-lễ Chủ-nhật là điều buộc mà cũng rất nhiều người không nghiêm-túc chuẩn-bị trước, rồi khi bước lên bục giảng thì chỉ giải-thích thêm đôi chút về bài Tin Mừng vừa đọc. Tuy nhiên, như vậy cũng còn đỡ hơn là có ông đem chuyện phim hay chuyện tình ra kể và tệ hơn nữa là dùng “toà giảng” để nói chuyện quyên góp tiền bạc, để nói xiên nói xéo những cá nhân nào đó làm ông mất vui hoặc chống đối các việc chẳng nên mà ông đã làm.
Trong những phân-tích của linh-muc Đỗ Xuân Quế có hai điểm cũng cần minh chứng thêm là thích phô trương, chuộng hình thức và thiếu nhân bản trong cách giao tế.
Có lẽ tính thích phô-trương và chuộng hình-thức là một trong những thói tục đáng phàn-nàn nơi phần lớn các giáo-sĩ, linh-mục, tu-sĩ. Trước hết, nếu như ngoài xã-hội Việt-Nam hiện nay người ta vọng ngoại như thế nào thì não-trạng này cũng nặng nề trong Giáo-hội không kém. Cũng có thái-độ ngó nhau về việc người này, người kia “được” đi nước ngoài hoặc phân biệt giữa việc được chịu chức tại nước ngoài hay tại Việt-Nam làm chuẩn mức cho tài đức của một linh-mục hay giám-mục. Các dòng tu – phần nhiều là dòng nữ – đang có tệ-nạn đua nhau gửi người đi mở thêm nhà tại hải-ngoại và hãnh-diện cho đó là dấu chỉ của sự phát-triển mà không xét xem là đang phát-triển ra sao, Đức Ki-tô có được sự gì như ý Người mong đợi hay chỉ là cung cách của người kinh-doanh đi tìm thị-trường có nhiều lợi-nhuận theo thói “ruộng gần cỏ mọc không cày, chợ xa quà rẻ mấy ngày cũng đi”? Bởi vì, chỉ một cánh đồng lúa chín với 80 triệu dân mà đã mấy thế-kỷ qua đi rồi con số phần trăm người tin vẫn còn ở mức quá khiêm-tốn thì sứ-mạng đã xong làm tròn đuợc bao nhiêu đâu, hà cớ phải vói tay mãi đâu đâu. Chẳng lẽ lại mang tham-vọng trở ngược hướng truyền-giáo với quá-khứ vì đã đến thời đến buổi giáo-sĩ và tu-sĩ Việt-Nam trở sang truyền-giáo cho hải-ngoại, cho Tây-phương hoặc chạy theo chăm sóc cho thiểu số người Công-giáo Việt-Nam tại hải-ngoại? Có người sau khi đi ngoại-quốc về liền bắt chước một vài điều đem thực-hiện trong xứ mình mà không cần suy xét xem có cận nhân-tình hay không. Đấy là trường-hợp một linh-mục coi xứ trên miền xa đã ra lệnh trong xứ khi gia-đình nào có tang thì không đuợc may tang-phục theo phong-tục cổ-truyền bằng vải xô gai mà tất cả phải mặc Âu-phục đen như các nước Tây-phương. Rồi dòng này “lên mặt” hoặc mặc cảm với dòng kia khi có nhiều hay ít người đi học ở nước ngoài. Một linh-mục dòng đã nhập tu ở ngoại-quốc, có dịp về thăm nhà dòng ở Việt-Nam bị bề trên cũ trách “tôi thật là thất vọng về cha quá” ví lý-do ông không vận-động cách nào cho anh em trong nhà sang ngoại-quốc tu-học. Ông còn cho biết thêm là ông đuợc mời giảng về đức khó nghèo trong dịp lễ “mở tay” của một anh em trong dòng. Ông say sưa giảng như được ơn thần-hứng nhưng khi Thánh-lễ vừa xong thì ông hoa mắt với bữa tiệc thật xa-xỉ diễn ra ngay tại nhà dòng với mấy trăm thực khách khiến ông phải -theo lời ông kể - tránh đi cho khỏi xấu hổ. Rồi những tiệc-tùng rộn ràng mừng hết lễ vàng, lễ bạc đến sinh-nhật, quan thầy bổn mạng đã là hình ảnh méo mó quá quen thuộc và quá cách-biệt với bình dân bá tính về đức khó nghèo. Nếp sống xa-hoa, lễ-nghi phong-kiến hợp với quyền-bính cha chú đuợc diễn ý sai lạc đã dẫn đến tác-phong thiếu nhân bản trong cách giao tế là việc tất nhiên phải đến. Đức Ki-tô vì con người mà phải làm người ở trần thế ba muơi ba năm để rồi ngày nay một môn sinh của Người phải viết lên câu này thì đúng là tấm lòng can-đảm của ông đã đấm ngực thay cho cả tập-thể huynh-đệ trong Đức Ki-tô.
Khi dựa trênTin Mừng của Đức Ki-tô và giáo-lý của Hội-thánh Chúa làm định mức để thấy Giáo-hội Công-giáo Việt-Nam có những biểu-hiện thái-quá như trên thì cũng từ nguồn chân-lý này mà nhìn ra đuợc những điều bất cập trong cộng-đoàn tín-hữu. Nếu thái quá là vuợt quá mức thường, là quá trớn quá đà dễ gây nhiều sai lạc trong đời sống đức tin bao nhiêu thì bất cập là không kịp, không bằng, không tới mức cũng nguy hại bấy nhiêu. Bằng chứng là như Mặc Giao ghi nhận là mức hiểu biết của nhiều giáo dân về sự tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân còn quá nông cạn... Người bênh hay người chống chỉ hành động vì cảm tính, không biết tới lý và tình, không biết luật lệ và đường lối của Giáo Hội thì chưa thể coi là giáo dân trưởng thành...”. Đây chính là sự bất cập của giáo dân.
Thực-tế, không phải chỉ có sự hiểu biết của nhiều giáo dân về sự tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân còn quá nông cạn mà là sự hiểu biết về mọi lý lẽ trong tinh-thần Phúc-âm, nguyên-tắc và lề luật của Giáo-hội để từ đấy dung-hoà được nếp sống đạo cũng nông cạn. Rất nhiều giáo dân theo đạo như thói quen, cũng mang tính ù lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi, rắc rối; thậm chí không cần nhìn lên cao hơn khỏi nóc nhà thờ và không cần nghe lời ai ngoài cha xứ. Chúa ở trên trời cao và ngay cả Toà Giám-mục điạ-phận cũng xa hơn nhà xứ thì nói gì đến những huấn-thị, giáo-lý và giáo-luật loan đi từ Vatican. Họ vẫn nói cha thay mặt Chúa, lời cha là lời Chúa cho nên cha đã thay mặt Chúa còn được huống gì là thay cho cả Hội-thánh với Hội-đồng Giám-mục thế-giới cho nên tất cả mọi sự đã nằm trong chức thánh của cha rồi, bây giờ cứ để cha phán dạy đời này, còn chuyện đời sau thì đã có những lễ đuợc “xin” bằng giá cao. Phần lớn giáo dân Việt-Nam sống trong hồng-ân cứu-độ của Chúa cách đơn giản như vậy đó. Đọc kinh nhiều, lai vãng quà cáp “dâng” các cha thường xuyên là thánh-thiện, gương mẫu rồi.
Tuy nhiên, không hẳn là họ đã yên bề như vậy. Họ cũng biết phân biệt thị-phi, phân biệt đen trắng song vì quen bị “cai-trị , cai quản” như vậy cho nên lại thêm mặc cảm có tội nếu đụng chạm đến các vị mang chức thánh, sợ lúc chết không đuợc ban các phép chẳng hạn nên không bao giờ dám đối-thoại thẳng với linh-mục tu-sĩ mà là đi rỉ tai, xì xèo to nhỏ với nhau. Chung cuộc thì tiếng lành đồn xa mà tiếng dữ càng đồn xa hơn cho đến khi có dịp thì bung ra kiểu “tức nước vỡ bờ”, bất phân lý lẽ như có một hai giáo dân phát biểu quá hăng say với lời lẽ thiếu tế nhị, gây phản ứng nơi một số linh mục hiện diện, khiến một vị đã lên máy vi âm trưng dẫn Giáo Luật để chứng minh con chiên phải phục tùng chủ chiên..
Tác-giả Mặc Giao góp ý là vấn-đề giáo-dục giáo dân cần phải được đặt ra một cách nghiêm-chỉnh. Nhưng ai giáo-dục ai đây khi mà những người mang trách-nhiệm giáo-huấn thực sự lại đang cố-thủ óc phong kiến, tính ù lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi, rắc rối; nhất là khi giảng dạy cặn kẽ về lẽ đạo theo tinh-thần của Công-đồng Vatican II cùng những tài-liệu tiếp theo của Giáo-hội thì có khác gì đem quay ngược mũi giáo về mình? Bởi vì khi giáo dân họ trưởng thành thì “cha” cũng phải bắt tay từ đầu tu-luyện lại chứ đâu còn được thong-dong tự-tại trên sự mê-tín của tín-hữu nữa. Thêm vào đó Giáo-lý của Chúa; Giáo-luật, giáo-huấn của Hội-thánh không phải chỉ để cho giáo-sĩ, linh-mục và tu-sĩ độc quyền nắm trong tay như những sợi dây trói buộc giáo dân theo ý suy-diễn riêng từng cá-nhân hoặc là cây roi của người chăn dùng lùa đàn thú. Tất cả chính là đèn soi, là chân-lý hướng dẫn cho cả mọi người mang danh hiệu Ki-tô hữu, bao gồm cả Ki-tô hữu mang chức thánh và Ki-tô hữu giáo dân. Tại sao giáo dân không chịu đọc Kinh Thánh nhiều hơn một chút, không tự tìm cho bản thân và gia-đình một cuốn tài-liệu Công-đồng và một cuốn giáo-luật để thấy rõ sự phân-nhiệm cho từng thành-phần, từng chức-vụ rồi cứ thế mà đối-thoại thì đâu đến nỗi phải đòi hỏi sự tôn trọng chỗ đứng và trách-nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, cụ thể là được góp phần vào những quyết định từ cấp điạ phương tới những cấp cao hơn? Không những thế, việc học hỏi để truy tìm chân-lý còn là bổn-phận của mỗi người tin Chúa nữa chứ không phải cứ lúp xúp như bầy cừu câm nín trong từng lúc, rồi đến lúc lại than phiền về thái độ và việc làm của một số linh mục cách ồn ào và quá trớn, không đúng tinh-thần và luật-lệ để bị bắt lỗi chỉ khiến cho số đông giáo dân vốn đã ù-lì câm nín càng tin rằng thái độ buông xuôi mọi sự để chỉ theo lời các cha dạy là đúng trong khi cả cái “thái quá của cha” lẫn cái “bất cập của con” đều đóng đinh Đức Ki-tô thêm lần nữa giữa thiên-niên kỷ thứ ba này.
Chẳng hạn khi những giáo dân của xứ đạo miền quê kia thay vì chỉ biết đi than thở về lệnh của cha xứ cấm không cho mặc tang-phục cổ-truyền mà phải mặc Âu-phục mầu đen trong tang lễ thì tại sao không trực tiếp đặt vấn-đề với ông rằng đấy là phong-tục cổ-truyền thuộc lãnh-vực văn-hoá chứ không thuộc phụng-vụ và bí-tích cho nên không thể dùng chức linh-mục để cấm hay bãi bỏ mà chỉ nên có những đề nghị tế-nhị phù-hợp với hoàn-cảnh xã-hội.
Tóm lại, nếu hai thành-phần căn-bản của giáo-hội mà cứ ở hai cực thái quá và bất cập như vậy thì làm gì có tương-quan, làm gì có hiệp-nhất và làm gì có đồng-hành, đồng-tiến. Và con đuờng tương-lai đang hướng về đâu, quê trời hay chỉ là đi loanh-quanh đầy mỏi mệt?
Tác giả: Phạm Minh-Tâm
Linh mục và điệu nhảy mục vụ
Đời sống bao tháng ngày còn lại,
e ngại những cơn mưa đời sẽ làm lòng con úa phai (sẽ làm lòng con úa phai).
Lời Chúa là ánh sáng soi trên đường dài, là gió thổi dẫn đưa con thuyền đến nơi, trót đời con đây nhỏ bé, trót đời xin dâng tiến Ngài.
(Con chỉ là tạo vật - Phanxicô)
Đời sống tận hiến theo ơn gọi của các linh mục không lẽ dễ dàng phai nhạt với những năm tháng mà các ngài làm ngôn sứ hay phục vụ cho cộng đoàn dân Chúa? Hay sự nhạt phai đó chính là mọi chước cám dỗ của Satan mà điển hình là tiền bạc và dục vọng?!!
Tôi không nghiêm khắc nhằm so sánh đời sống của linh mục làm việc mục vụ với các linh mục khổ tu hay ẩn tu. Nhưng ít ra các linh mục phải biết vai trò mình đang làm gì: mục vụ, ẩn tu hay khổ tu mà trung thành với xứ vụ này và trung thành với lời khấn của họ. Đặc biệt hơn nữa là các “ngài” đừng quá “tham, sân, si” để làm trò hề cho mọi người xem, và làm xấu đi hình ảnh “Chúa Giêsu linh mục”.
Chúa Giêsu ngày xưa cũng không tránh khỏi mọi sự ghen ghét, dèm pha, và mưu hại thì các linh mục ngày nay cũng vậy, dễ dàng bị soi mói, để nhằm bôi xấu và đánh phá Giáo Hội của Chúa từ mọi phía. Sự tục hóa của các linh mục sau những “Thánh lễ mở tay”, “Thánh lễ bổn mạng”, “Thánh lễ ngân khánh” hay “Thánh lễ kim khánh” …v.v.. ngoài tổ chức rình rang ở giáo xứ, cộng đoàn, các vị còn bồi thêm là tổ chức kéo nhau ra nhà hàng với mấy chục bàn với đủ các món ăn, thức uống; cả băng nhạc, ca sĩ để mà chúc mừng, rồi “cha, cha, cha…”, rồi “con, con, con…” rồi phong thư trao tay xem như mình xứng đáng được hưởng lợi vì ơn gọi làm linh mục.
Không lẽ các linh mục lại tự tục hóa lấy mình vì tiền hay mua đòi danh lợi “hư không” mà đánh mất bản chất thiêng liêng mà Chúa đã gọi họ giữa bao nhiêu người? Hay các linh mục cảm thấy mình thật sự xứng đáng trong vai trò “ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” (Mc 10,43) nên tự cao, tự đại mà lãnh nhận sự chúc tụng đó? Hay các linh mục lại trơ trẽn đổ thừa là để làm vui lòng các tín hữu, hay hòa hợp với anh em Kitô hữu muốn kỷ niệm cho các linh mục và chấp nhận tổ chức rình rang như thế cho tăng thêm công lao của mình!
Ngay từ những năm đầu học tập ở Tiểu Chủng Viện (bây giờ nhiều nơi không còn nữa) hay trong Đại Chủng Viện cũng vậy, đời sống linh mục luôn được cảnh báo về sự giới hạn so với những nhu cầu của con người, cộng đoàn như dòng thác lũ về đời sống tâm linh. Việc mục vụ luôn là hố sâu không đáy và mỗi ngày vị linh mục luôn phải đối mặt với sự chọn lựa để quyết định những nhu cầu nào ngài có thể đáp ứng và những nhu cầu nào phải chối từ vì đời sống tu trì không cho phép.
Thẳng thắn mà nói rằng, một số linh mục đã không có những quyết định đúng đắn và cũng có nhiều vị lại khuếch trương một cách quá độ. Không lẽ vì mục đích chia sẻ niềm vui “ơn gọi linh mục”, “Năm Thánh”, hay “Năm Linh Mục” và để cổ võ “Ơn Gọi” đó trong cánh đồng truyền giáo mà những linh mục là người hướng dẫn thiêng liêng của mọi người trong cộng đoàn, bây giờ lại lăn xả hết mình “show up” lời ca, tiếng hát, và tài năng đóng kịch, hài hước và nhảy nhót lung tung như các nghệ sĩ chuyên nghiệp hết mình vì nghệ thuật hầu góp thêm vào khoảng “văn hóa” trống vắng chưa bao giờ có các bậc tu sĩ nam nữ nào dám làm và dám tham gia cho nghệ thuật vốn đã quá bát nháu này. Việc mặc áo giáo sĩ là một dấu chỉ rõ ràng là họ mang lấy trên mình cái khác biệt của sự hy sinh, của ngôn sứ Đức Chúa Trời. Ngoài ra các linh mục còn phải chấp nhận sự cô đơn mang tính độc đáo đáng kính như Đấng tốt lành Giêsu chí ái.
Đây là một vấn đề mà mọi linh mục phải đối diện và vì thế chính các linh mục cần xác định những giới hạn hợp lý của mình khi mình làm công tác tông đồ mục vụ. Một số người nêu lên ý kiến cho rằng độc thân chỉ phù hợp với đời sống thánh hiến, bởi vì những người sống trong đời sống thánh hiến được nâng đỡ một cách đặc biệt trong các cộng đoàn mình sống, trong khi đó một linh mục trong đời mục vụ sống trong nhà xứ không có được sự nâng đỡ này. Thêm nữa, các ngài phải sống giữa những người không cùng cách sống với mình, không hiểu mình và lại không ủng hộ mình nữa. Điều này đặc biệt làm cho vị linh mục cảm thấy cô đơn và bị thách đố liên tục. Nhưng tu hành vẫn là tu hành, đời sống tận hiến vẫn là đời sống tận hiến…không thể vì buồn chán hãy quá rỗi việc Chúa mà các linh mục có thể có thể dễ dàng chấp nhận đồng hành với thế tục, với danh vọng, với đồng tiền.
Xem qua “Linh Ca I, II & III”, các bạn cũng như tôi đều giật thót mình khi nhìn thấy chức năng ngôn sứ của linh mục gần thế tục cho tới nổi các ngài tự biến mình thành những anh hề hay những anh cao bồi quần áo lố lăng nhảy nhót, ca hát, hài hước dỡ ẹt nhưng lại bốc phét là “Linh Ca được Chúa chúc phúc và mang lại nhiều lợi ích tâm linh cho nhiều tâm hồn và đánh động được tấm lòng quảng đại dấn thân của giới trẻ cho Giáo Hội hôm naỵ.” Thật là nực cười cho sự ngây dại và không trưởng thành của các vị linh mục này khi xem sứ mạng rao giảng nước trời chỉ là thứ có thể mua vui và giải trí rẻ tiền “$10 đồng” một đĩa DVD.
Bất cứ ai quen thuộc với đời sống của một đan sĩ Xitô hay một ẩn sĩ dòng thánh Brunô hẳn biết rằng các vị này cam kết sống một đời sống từ bỏ và đền tội mà tu luật của họ đề ra. Họ thật sự tách hẳn khỏi thế tục, không màng đến chuyện thế gian để sống tu hành và “chiêm niệm” lời Chúa.
Vậy còn các linh mục sống đời sống mục vụ?
Một cha xứ hay một cha tuyên uý chẳng hạn?
Khi nhìn thoáng qua, dường như đời sống của một linh mục đang làm việc mục vụ có vẻ dễ dàng hơn; vì có tiền trong túi (có thể là không nhiều) lại sống gần với thế tục. Xem ra các linh mục này cũng tự do, và đời sống của họ coi như chẳng phải quá khắc khổ hay quá khắc nghiệt. Một cha xứ hay một cha tuyên uý gần như luôn sống trong tình trạng sẵn sàng và khẩn cấp ngày cũng như đêm. Người ta sẽ thật sự cần đến họ bất cứ khi nào. Người cha hay người mẹ có đứa con vừa qua đời sẽ cần ngay đến vị linh mục. Những đứa con trong bệnh viện đang đau buồn nhìn cha mẹ của mình quằn quại trên giường bệnh hay Chúa gọi ra đi cũng sẽ chạy ngay đến vị linh mục và mong chờ được ngài tới viếng thăm. Những người cô đơn trong tù ngục hay những ai gặp rắc rối sẽ tìm đến họ để mong được sự thông cảm và an ủi. Các hội đoàn đoàn thể cũng cần đến họ linh đạo, hướng dẫn…v.v..
Chúng ta cũng cảm thông cho các linh mục vì tất cả những nhu cầu như thế này không bao giờ chỉ đơn giản gói gọn trong một thời khoá biểu cố định từ 8 giờ sáng tới 5 giờ chiều. Rất nhiều khi các Cha xứ này rơi vào cảm giác là “họ không có một cuộc sống riêng của chính mình” ngay cả một vị ẩn tu, người cam kết sống một cuộc sống yên ổn trong đan viện cũng mất đi quyền kiểm soát chính thời gian và không gian của mình. Như thế, các linh mục này mới biểu hiện hết năng lực tận tụy phục vụ và không có nhiều thời gian và không gian cho họ nữa. Điều này là rất thật, vì từ bỏ việc làm chủ thời gian của chính mình là một điều hy sinh hết sức lớn lao vì “nước trời”.
Linh mục sống giữa mọi người như thế càng làm rõ ràng thêm chứng từ của họ cam kết với Thiên Chúa. Đặc biệt trong thời đại bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn hóa tôn thờ dục vọng, vật chất, và bản thân; linh mục phải là chứng tá của đời sống quên mình, hoàn toàn dấn thân lại càng cần thiết hơn nữa. Linh mục sống đời độc thân là chứng cớ sống động cho sự hiện diện của Thiên Chúa ngay tại trần gian này và là nguồn ân sủng dồi dào cho cả cộng đoàn cũng như chính vị linh mục. Tuy nhiên, đây là một đời sống khó khăn và hy sinh. Linh mục dưới con mắt mẹ tôi là thánh thiện, là thiên liêng và tuyệt đối đúng đắn (vì là người được Chúa tuyển chọn,) là quan tòa của sự “Thiện-Ác”, là bất khả xâm phạm…v.v.. như bà và các tín hữu từ rất xa xưa đã vô hình trung nâng họ lên quá cao để họ thêm tội kiêu ngạo.
Linh mục thiếu trưởng thành mà giáo dân lại quá thần thánh họ nên khiến phần đông linh mục tự nghĩ họ có power và có quyền sinh sát trong tay nên làm muốn làm gì thì làm. Họ có biết đâu theo tinh thần của Đức Kitô thì “Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20, 27-28).
-adgs BV-
Đời sống bao tháng ngày còn lại,
e ngại những cơn mưa đời sẽ làm lòng con úa phai (sẽ làm lòng con úa phai).
Lời Chúa là ánh sáng soi trên đường dài, là gió thổi dẫn đưa con thuyền đến nơi, trót đời con đây nhỏ bé, trót đời xin dâng tiến Ngài.
(Con chỉ là tạo vật - Phanxicô)
Đời sống tận hiến theo ơn gọi của các linh mục không lẽ dễ dàng phai nhạt với những năm tháng mà các ngài làm ngôn sứ hay phục vụ cho cộng đoàn dân Chúa? Hay sự nhạt phai đó chính là mọi chước cám dỗ của Satan mà điển hình là tiền bạc và dục vọng?!!
Tôi không nghiêm khắc nhằm so sánh đời sống của linh mục làm việc mục vụ với các linh mục khổ tu hay ẩn tu. Nhưng ít ra các linh mục phải biết vai trò mình đang làm gì: mục vụ, ẩn tu hay khổ tu mà trung thành với xứ vụ này và trung thành với lời khấn của họ. Đặc biệt hơn nữa là các “ngài” đừng quá “tham, sân, si” để làm trò hề cho mọi người xem, và làm xấu đi hình ảnh “Chúa Giêsu linh mục”.
Chúa Giêsu ngày xưa cũng không tránh khỏi mọi sự ghen ghét, dèm pha, và mưu hại thì các linh mục ngày nay cũng vậy, dễ dàng bị soi mói, để nhằm bôi xấu và đánh phá Giáo Hội của Chúa từ mọi phía. Sự tục hóa của các linh mục sau những “Thánh lễ mở tay”, “Thánh lễ bổn mạng”, “Thánh lễ ngân khánh” hay “Thánh lễ kim khánh” …v.v.. ngoài tổ chức rình rang ở giáo xứ, cộng đoàn, các vị còn bồi thêm là tổ chức kéo nhau ra nhà hàng với mấy chục bàn với đủ các món ăn, thức uống; cả băng nhạc, ca sĩ để mà chúc mừng, rồi “cha, cha, cha…”, rồi “con, con, con…” rồi phong thư trao tay xem như mình xứng đáng được hưởng lợi vì ơn gọi làm linh mục.
Không lẽ các linh mục lại tự tục hóa lấy mình vì tiền hay mua đòi danh lợi “hư không” mà đánh mất bản chất thiêng liêng mà Chúa đã gọi họ giữa bao nhiêu người? Hay các linh mục cảm thấy mình thật sự xứng đáng trong vai trò “ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” (Mc 10,43) nên tự cao, tự đại mà lãnh nhận sự chúc tụng đó? Hay các linh mục lại trơ trẽn đổ thừa là để làm vui lòng các tín hữu, hay hòa hợp với anh em Kitô hữu muốn kỷ niệm cho các linh mục và chấp nhận tổ chức rình rang như thế cho tăng thêm công lao của mình!
Ngay từ những năm đầu học tập ở Tiểu Chủng Viện (bây giờ nhiều nơi không còn nữa) hay trong Đại Chủng Viện cũng vậy, đời sống linh mục luôn được cảnh báo về sự giới hạn so với những nhu cầu của con người, cộng đoàn như dòng thác lũ về đời sống tâm linh. Việc mục vụ luôn là hố sâu không đáy và mỗi ngày vị linh mục luôn phải đối mặt với sự chọn lựa để quyết định những nhu cầu nào ngài có thể đáp ứng và những nhu cầu nào phải chối từ vì đời sống tu trì không cho phép.
Thẳng thắn mà nói rằng, một số linh mục đã không có những quyết định đúng đắn và cũng có nhiều vị lại khuếch trương một cách quá độ. Không lẽ vì mục đích chia sẻ niềm vui “ơn gọi linh mục”, “Năm Thánh”, hay “Năm Linh Mục” và để cổ võ “Ơn Gọi” đó trong cánh đồng truyền giáo mà những linh mục là người hướng dẫn thiêng liêng của mọi người trong cộng đoàn, bây giờ lại lăn xả hết mình “show up” lời ca, tiếng hát, và tài năng đóng kịch, hài hước và nhảy nhót lung tung như các nghệ sĩ chuyên nghiệp hết mình vì nghệ thuật hầu góp thêm vào khoảng “văn hóa” trống vắng chưa bao giờ có các bậc tu sĩ nam nữ nào dám làm và dám tham gia cho nghệ thuật vốn đã quá bát nháu này. Việc mặc áo giáo sĩ là một dấu chỉ rõ ràng là họ mang lấy trên mình cái khác biệt của sự hy sinh, của ngôn sứ Đức Chúa Trời. Ngoài ra các linh mục còn phải chấp nhận sự cô đơn mang tính độc đáo đáng kính như Đấng tốt lành Giêsu chí ái.
Đây là một vấn đề mà mọi linh mục phải đối diện và vì thế chính các linh mục cần xác định những giới hạn hợp lý của mình khi mình làm công tác tông đồ mục vụ. Một số người nêu lên ý kiến cho rằng độc thân chỉ phù hợp với đời sống thánh hiến, bởi vì những người sống trong đời sống thánh hiến được nâng đỡ một cách đặc biệt trong các cộng đoàn mình sống, trong khi đó một linh mục trong đời mục vụ sống trong nhà xứ không có được sự nâng đỡ này. Thêm nữa, các ngài phải sống giữa những người không cùng cách sống với mình, không hiểu mình và lại không ủng hộ mình nữa. Điều này đặc biệt làm cho vị linh mục cảm thấy cô đơn và bị thách đố liên tục. Nhưng tu hành vẫn là tu hành, đời sống tận hiến vẫn là đời sống tận hiến…không thể vì buồn chán hãy quá rỗi việc Chúa mà các linh mục có thể có thể dễ dàng chấp nhận đồng hành với thế tục, với danh vọng, với đồng tiền.
Xem qua “Linh Ca I, II & III”, các bạn cũng như tôi đều giật thót mình khi nhìn thấy chức năng ngôn sứ của linh mục gần thế tục cho tới nổi các ngài tự biến mình thành những anh hề hay những anh cao bồi quần áo lố lăng nhảy nhót, ca hát, hài hước dỡ ẹt nhưng lại bốc phét là “Linh Ca được Chúa chúc phúc và mang lại nhiều lợi ích tâm linh cho nhiều tâm hồn và đánh động được tấm lòng quảng đại dấn thân của giới trẻ cho Giáo Hội hôm naỵ.” Thật là nực cười cho sự ngây dại và không trưởng thành của các vị linh mục này khi xem sứ mạng rao giảng nước trời chỉ là thứ có thể mua vui và giải trí rẻ tiền “$10 đồng” một đĩa DVD.
Bất cứ ai quen thuộc với đời sống của một đan sĩ Xitô hay một ẩn sĩ dòng thánh Brunô hẳn biết rằng các vị này cam kết sống một đời sống từ bỏ và đền tội mà tu luật của họ đề ra. Họ thật sự tách hẳn khỏi thế tục, không màng đến chuyện thế gian để sống tu hành và “chiêm niệm” lời Chúa.
Vậy còn các linh mục sống đời sống mục vụ?
Một cha xứ hay một cha tuyên uý chẳng hạn?
Khi nhìn thoáng qua, dường như đời sống của một linh mục đang làm việc mục vụ có vẻ dễ dàng hơn; vì có tiền trong túi (có thể là không nhiều) lại sống gần với thế tục. Xem ra các linh mục này cũng tự do, và đời sống của họ coi như chẳng phải quá khắc khổ hay quá khắc nghiệt. Một cha xứ hay một cha tuyên uý gần như luôn sống trong tình trạng sẵn sàng và khẩn cấp ngày cũng như đêm. Người ta sẽ thật sự cần đến họ bất cứ khi nào. Người cha hay người mẹ có đứa con vừa qua đời sẽ cần ngay đến vị linh mục. Những đứa con trong bệnh viện đang đau buồn nhìn cha mẹ của mình quằn quại trên giường bệnh hay Chúa gọi ra đi cũng sẽ chạy ngay đến vị linh mục và mong chờ được ngài tới viếng thăm. Những người cô đơn trong tù ngục hay những ai gặp rắc rối sẽ tìm đến họ để mong được sự thông cảm và an ủi. Các hội đoàn đoàn thể cũng cần đến họ linh đạo, hướng dẫn…v.v..
Chúng ta cũng cảm thông cho các linh mục vì tất cả những nhu cầu như thế này không bao giờ chỉ đơn giản gói gọn trong một thời khoá biểu cố định từ 8 giờ sáng tới 5 giờ chiều. Rất nhiều khi các Cha xứ này rơi vào cảm giác là “họ không có một cuộc sống riêng của chính mình” ngay cả một vị ẩn tu, người cam kết sống một cuộc sống yên ổn trong đan viện cũng mất đi quyền kiểm soát chính thời gian và không gian của mình. Như thế, các linh mục này mới biểu hiện hết năng lực tận tụy phục vụ và không có nhiều thời gian và không gian cho họ nữa. Điều này là rất thật, vì từ bỏ việc làm chủ thời gian của chính mình là một điều hy sinh hết sức lớn lao vì “nước trời”.
Linh mục sống giữa mọi người như thế càng làm rõ ràng thêm chứng từ của họ cam kết với Thiên Chúa. Đặc biệt trong thời đại bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn hóa tôn thờ dục vọng, vật chất, và bản thân; linh mục phải là chứng tá của đời sống quên mình, hoàn toàn dấn thân lại càng cần thiết hơn nữa. Linh mục sống đời độc thân là chứng cớ sống động cho sự hiện diện của Thiên Chúa ngay tại trần gian này và là nguồn ân sủng dồi dào cho cả cộng đoàn cũng như chính vị linh mục. Tuy nhiên, đây là một đời sống khó khăn và hy sinh. Linh mục dưới con mắt mẹ tôi là thánh thiện, là thiên liêng và tuyệt đối đúng đắn (vì là người được Chúa tuyển chọn,) là quan tòa của sự “Thiện-Ác”, là bất khả xâm phạm…v.v.. như bà và các tín hữu từ rất xa xưa đã vô hình trung nâng họ lên quá cao để họ thêm tội kiêu ngạo.
Linh mục thiếu trưởng thành mà giáo dân lại quá thần thánh họ nên khiến phần đông linh mục tự nghĩ họ có power và có quyền sinh sát trong tay nên làm muốn làm gì thì làm. Họ có biết đâu theo tinh thần của Đức Kitô thì “Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20, 27-28).
-adgs BV-
LÀ LINH MỤC HAY LÀM LINH MỤC
Cha Gioan Nguyễn Vũ Việt, một tân linh mục Việt Nam ở hải ngoại trong thánh lễ tạ ơn ngày 19-5-2013 đã minh nhiên với cộng đoàn rằng “tôi muốn là linh mục hơn là làm linh mục”. Chắc hẳn ngài muốn sống căn tính linh mục chứ không phải làm những việc của linh mục như một công chức thi hành bổn phận. Tuy nhiên hạn từ “làm” trong tiếng Việt lại mang nhiều nghĩa ở nhiều ngữ cảnh khác nhau, chẳng hạn như hạn từ “làm người” thì phong phú hơn rất nhiều.
Nhân dịp khai giảng năm học mới, cùng với một số thầy cô trong Ban Giáo Dục Kitô giáo của giáo phận đi thăm vài cơ sở giáo dục như là nhà trẻ, nhà lưu trú…có vị nữ tu bề trên một cộng đoàn kể với tôi một chuyện “thật như bịa” như sau: Vừa qua con đi dự Thánh Lễ tạ ơn một cha mới thuộc Hội Dòng Gioan Boscô ở Pleiku. Cha giảng Lễ là nghĩa phụ của tân linh mục đã nói với người con thiêng liêng rằng: “Hôm nay xin được có đôi lời với tân chức trong tình thân “cha-con”, vì mai này hai chúng ta dần dà thành anh em trong tình huynh đệ linh mục thì có cái gì đó ngần ngại khi muốn tỏ bày “kiểu thằng ruột ngựa”. Hôm nay cha đã là linh mục thì xin cha lưu ý kẽo bị cám dỗ làm ba điều này:
1. Làm tiền: Dâng Lễ, cử hành các bí tích…vì tiền. Vì nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất hay tổ chức các sinh hoạt…nên lao mình vào việc kiếm tiền.
2. Làm biếng: Làm linh mục rồi nên không thèm dạy giáo lý nữa, chưa kể dần dà sinh ra làm biếng ngồi tòa giải tội theo lịch kỳ. Nếu không được hàng ngày thì phải hàng tuần chứ. Một tuần phải có một buổi nào đó được ấn định để bà con đến lãnh nhận ơn hòa giải. Xin đừng đợi đến dịp Lễ trọng như Chầu lượt, Giáng Sinh hay Phục Sinh mới mời anh em linh mục chung quanh đến “oánh trận” một buổi rồi sau đó hỉ hả cụng ly mừng chiến công. Bàn phím, màn hình vi tính…rất dễ cám dỗ chúng ta có cớ để mà làm biếng thăm viếng giáo dân, chăm nom người già, kẻ liệt…
3. Làm tàng: Đã làm linh mục rồi thì rất dễ bị cám dỗ “làm cha” thiên hạ. Linh mục, tuổi đời chưa đến bốn hay năm mươi mà lại nạt nộ quát tháo trẻ em lẫn người cao tuổi, la mắng to tiếng với giáo lý viên lẫn cả với quý vị hội đồng giáo xứ…không là chuyện thi thoảng hay là họa hiếm mà như ngược lại. Chắc chắn điểm thi môn “đạo đức nhân bản” của các ngài không một ai dưới trung bình mà rất có thể thảy đều đạt điềm gần tuyệt đối, thế nhưng điểm thực hành ở mức nào thì cần khiêm tốn lắng nghe nhận định của bà con giáo dân và của các tu sĩ nam nữ đã từng cộng tác.
Sau khi kể chuyện xong vị bề trên ấy hỏi tôi rằng cha có làm ba cái điều kia không. Tôi thành thực trả lời là “khi ít khi nhiều, khi nào cũng có” và không làm cái này cũng có làm cái kia. Thế là bà sơ cười hể hả.
Thiết tưởng rằng đã dùng lời “để lật, để nhổ, để hủy để phá” cần phải dùng cả lời “để xây và để trồng” thì sẽ sinh hiệu quả hơn như lời đã phán với ngôn sứ Giêrêmia (x.Gr 1,10). Mạo muội xin góp thêm ba “cái làm” theo chiều kích trồng và xây như sau:
1. Làm chứng(x.Mc 1,22): Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Gioan- Phaolô II thường nhấn mạnh rằng ngày nay người ta thích nghe theo (nghe và sống theo) các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Nếu sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì trước hết họ đã là những chứng nhân (đã sống điều mình rao giảng). Trước khi được truyền chức linh mục, các tiến chức được Hội Thánh căn dặn: “Khi suy gẫm luật Chúa, các con hãy chú tâm tin điều các con đọc, dạy điều các con tin và thi hành điều các con dạy”(x.Nghi thức phong chức linh mục). Chắc hẳn không một linh mục nào muốn hứng lấy lời của Chúa Kitô khi Người nói về một số lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ: “Các kinh sư và các người Pharisiêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gành nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.”(Mt 23,2-4).
2. Làm gương (x.Ga13,1-15): Dĩ nhiên gương ở đây phải là gương sáng chứ không phải là gương mù gương tối. Nói đến gương sáng thì chúng ta dễ liên tưởng đến hành vi yêu thương phục vụ trong khiểm hạ và tự hủy của Chúa Giêsu đêm tiệc ly khi cúi xuống rửa chân cho các môn đồ. Xin đừng quên việc rửa chân là việc của các người hầu, người nô lệ gần tương tự như các cung nữ các công công phục dịch đức vua, hoàng hậu… trong các cung đình. Nếu lỡ hầu hạ, phục dịch chủ mình không cẩn thận, có chút gì sơ suất thì phải nhanh chóng tự vả mặt thú lỗi: “nô tài đáng chết, nô tài đáng chết”. Gương muốn được sạch và sáng thì phải được rửa, được lau chùi liên tục.
3. Làm liên lĩ (x.Ga 5,1-47): Hai từ liên lĩ không chỉ có nội hàm là sự chuyên chăm mà còn bao hàm cả cái tâm, cái lòng của người thi hành công việc. Tuy nhiên hàng linh mục cần phải làm liên lĩ việc gì? “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”(Lc 22,19). Ở đây không muốn nói đến việc dâng Thánh Lễ theo kiểu “làm Lễ”, nhưng muốn nhấn mạnh đến việc sống Bí Tích Thánh Thể. Rất có thể có đó và còn đó chuyện “làm tiền” cả khi “làm Lễ”, nhưng đã sống bí tích Thánh Thể thì không thể có chuyện đó được. Hãy làm liên lĩ việc này là dùng chính con người, xác thân của mình để sống tình liên đới với tha nhân, sẵn sàng gánh lấy trách nhiệm của đồng loại, nhất là trong những yếu đuối, tội lỗi của họ. Tự nguyện “bị nộp” vì nhau là nghĩa cử yêu thương tỏ tình liên đới sâu xa. Hãy dùng chính máu thịt của mình để giúp nhau được thanh sạch và được sống và sống dồi dào. Trong Thánh Lễ thì các tư tế đọc bằng lời, nhưng mong sao trong cuộc sống các ngài có thể nói bằng hành động: “Này là Mình Ta… Này là Máu Ta…”
Trong chuyện trồng trọt thì việc cuốc đất, lật cỏ là việc phải làm nhưng nếu chỉ chăm chăm làm cỏ mà quên trồng cây thì rồi cỏ lại mọc um tùm. Hy vọng rằng nếu nỗ lực làm ba “cái làm” theo chiều kích tích cực thì khi cây đã vươn cành, lá đã xum xuê thì cỏ dại sẽ vì thiếu ánh sáng mà héo úa dần đi.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Cha Gioan Nguyễn Vũ Việt, một tân linh mục Việt Nam ở hải ngoại trong thánh lễ tạ ơn ngày 19-5-2013 đã minh nhiên với cộng đoàn rằng “tôi muốn là linh mục hơn là làm linh mục”. Chắc hẳn ngài muốn sống căn tính linh mục chứ không phải làm những việc của linh mục như một công chức thi hành bổn phận. Tuy nhiên hạn từ “làm” trong tiếng Việt lại mang nhiều nghĩa ở nhiều ngữ cảnh khác nhau, chẳng hạn như hạn từ “làm người” thì phong phú hơn rất nhiều.
Nhân dịp khai giảng năm học mới, cùng với một số thầy cô trong Ban Giáo Dục Kitô giáo của giáo phận đi thăm vài cơ sở giáo dục như là nhà trẻ, nhà lưu trú…có vị nữ tu bề trên một cộng đoàn kể với tôi một chuyện “thật như bịa” như sau: Vừa qua con đi dự Thánh Lễ tạ ơn một cha mới thuộc Hội Dòng Gioan Boscô ở Pleiku. Cha giảng Lễ là nghĩa phụ của tân linh mục đã nói với người con thiêng liêng rằng: “Hôm nay xin được có đôi lời với tân chức trong tình thân “cha-con”, vì mai này hai chúng ta dần dà thành anh em trong tình huynh đệ linh mục thì có cái gì đó ngần ngại khi muốn tỏ bày “kiểu thằng ruột ngựa”. Hôm nay cha đã là linh mục thì xin cha lưu ý kẽo bị cám dỗ làm ba điều này:
1. Làm tiền: Dâng Lễ, cử hành các bí tích…vì tiền. Vì nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất hay tổ chức các sinh hoạt…nên lao mình vào việc kiếm tiền.
2. Làm biếng: Làm linh mục rồi nên không thèm dạy giáo lý nữa, chưa kể dần dà sinh ra làm biếng ngồi tòa giải tội theo lịch kỳ. Nếu không được hàng ngày thì phải hàng tuần chứ. Một tuần phải có một buổi nào đó được ấn định để bà con đến lãnh nhận ơn hòa giải. Xin đừng đợi đến dịp Lễ trọng như Chầu lượt, Giáng Sinh hay Phục Sinh mới mời anh em linh mục chung quanh đến “oánh trận” một buổi rồi sau đó hỉ hả cụng ly mừng chiến công. Bàn phím, màn hình vi tính…rất dễ cám dỗ chúng ta có cớ để mà làm biếng thăm viếng giáo dân, chăm nom người già, kẻ liệt…
3. Làm tàng: Đã làm linh mục rồi thì rất dễ bị cám dỗ “làm cha” thiên hạ. Linh mục, tuổi đời chưa đến bốn hay năm mươi mà lại nạt nộ quát tháo trẻ em lẫn người cao tuổi, la mắng to tiếng với giáo lý viên lẫn cả với quý vị hội đồng giáo xứ…không là chuyện thi thoảng hay là họa hiếm mà như ngược lại. Chắc chắn điểm thi môn “đạo đức nhân bản” của các ngài không một ai dưới trung bình mà rất có thể thảy đều đạt điềm gần tuyệt đối, thế nhưng điểm thực hành ở mức nào thì cần khiêm tốn lắng nghe nhận định của bà con giáo dân và của các tu sĩ nam nữ đã từng cộng tác.
Sau khi kể chuyện xong vị bề trên ấy hỏi tôi rằng cha có làm ba cái điều kia không. Tôi thành thực trả lời là “khi ít khi nhiều, khi nào cũng có” và không làm cái này cũng có làm cái kia. Thế là bà sơ cười hể hả.
Thiết tưởng rằng đã dùng lời “để lật, để nhổ, để hủy để phá” cần phải dùng cả lời “để xây và để trồng” thì sẽ sinh hiệu quả hơn như lời đã phán với ngôn sứ Giêrêmia (x.Gr 1,10). Mạo muội xin góp thêm ba “cái làm” theo chiều kích trồng và xây như sau:
1. Làm chứng(x.Mc 1,22): Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Gioan- Phaolô II thường nhấn mạnh rằng ngày nay người ta thích nghe theo (nghe và sống theo) các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Nếu sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì trước hết họ đã là những chứng nhân (đã sống điều mình rao giảng). Trước khi được truyền chức linh mục, các tiến chức được Hội Thánh căn dặn: “Khi suy gẫm luật Chúa, các con hãy chú tâm tin điều các con đọc, dạy điều các con tin và thi hành điều các con dạy”(x.Nghi thức phong chức linh mục). Chắc hẳn không một linh mục nào muốn hứng lấy lời của Chúa Kitô khi Người nói về một số lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ: “Các kinh sư và các người Pharisiêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gành nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.”(Mt 23,2-4).
2. Làm gương (x.Ga13,1-15): Dĩ nhiên gương ở đây phải là gương sáng chứ không phải là gương mù gương tối. Nói đến gương sáng thì chúng ta dễ liên tưởng đến hành vi yêu thương phục vụ trong khiểm hạ và tự hủy của Chúa Giêsu đêm tiệc ly khi cúi xuống rửa chân cho các môn đồ. Xin đừng quên việc rửa chân là việc của các người hầu, người nô lệ gần tương tự như các cung nữ các công công phục dịch đức vua, hoàng hậu… trong các cung đình. Nếu lỡ hầu hạ, phục dịch chủ mình không cẩn thận, có chút gì sơ suất thì phải nhanh chóng tự vả mặt thú lỗi: “nô tài đáng chết, nô tài đáng chết”. Gương muốn được sạch và sáng thì phải được rửa, được lau chùi liên tục.
3. Làm liên lĩ (x.Ga 5,1-47): Hai từ liên lĩ không chỉ có nội hàm là sự chuyên chăm mà còn bao hàm cả cái tâm, cái lòng của người thi hành công việc. Tuy nhiên hàng linh mục cần phải làm liên lĩ việc gì? “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”(Lc 22,19). Ở đây không muốn nói đến việc dâng Thánh Lễ theo kiểu “làm Lễ”, nhưng muốn nhấn mạnh đến việc sống Bí Tích Thánh Thể. Rất có thể có đó và còn đó chuyện “làm tiền” cả khi “làm Lễ”, nhưng đã sống bí tích Thánh Thể thì không thể có chuyện đó được. Hãy làm liên lĩ việc này là dùng chính con người, xác thân của mình để sống tình liên đới với tha nhân, sẵn sàng gánh lấy trách nhiệm của đồng loại, nhất là trong những yếu đuối, tội lỗi của họ. Tự nguyện “bị nộp” vì nhau là nghĩa cử yêu thương tỏ tình liên đới sâu xa. Hãy dùng chính máu thịt của mình để giúp nhau được thanh sạch và được sống và sống dồi dào. Trong Thánh Lễ thì các tư tế đọc bằng lời, nhưng mong sao trong cuộc sống các ngài có thể nói bằng hành động: “Này là Mình Ta… Này là Máu Ta…”
Trong chuyện trồng trọt thì việc cuốc đất, lật cỏ là việc phải làm nhưng nếu chỉ chăm chăm làm cỏ mà quên trồng cây thì rồi cỏ lại mọc um tùm. Hy vọng rằng nếu nỗ lực làm ba “cái làm” theo chiều kích tích cực thì khi cây đã vươn cành, lá đã xum xuê thì cỏ dại sẽ vì thiếu ánh sáng mà héo úa dần đi.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
CẮT THỊT TẶNG VỢ.
Hoàng đế hạ lệnh đem thịt tặng thưởng cho các đại thần, đã muộn rồi mà viên quan quản lý không đến phân chia, Đông Phương Sóc bèn lấy kiếm cắt thịt và nói với các đồng liêu:
- “Mùa oi bức nên về sớm một chút”, nói xong bèn bưng thịt trở về nhà.
Ngày hôm sau, có người đem chuyện này nói với hoàng đế, hoàng đế liền triệu Đông Phương Sóc lại tra hỏi, Đông Phương Sóc lột mũ quỳ xuống tạ tội, hoàng thượng nói
- “Ông đứng dậy và nên tự mình trách mình”.
Đông Phương Sóc lại quỳ xuống lạy, nói:
- “Đông Phương Sóc hỡi, Đông Phương Sóc hỡi, vì đón nhận phần thưởng gấp gáp không thể chờ được, nên vô lễ biết bao à ! Lấy kiếm cắt thịt, anh dũng biết bao à ! Cắt thịt không nhiều, liêm khiết biết bao à ! Về nhà tặng vợ, nhân ái biết bao à !”
Hoàng đế cười lớn:
- “Ta kêu ông tự mình trách mình, nhưng ông lại nói để khen ngợi mình !”
Rồi lại tặng thưởng cho Đông Phương Sóc một trăm vò rượu và một trăm cân thịt, để ông ta đem về tặng vợ.
(Hán thư)
Suy tư 31
Đông Phương Sóc không biện tội cho mình, cũng không xin tha tội, ông chỉ thành thật nói lên tâm trạng của mình mà thôi, thế là ông ta không bị phạt, không bị cách chức, trái lại còn được vua thưởng rượu và thịt đem về.
Thành thật là một đức tính tốt, không những trong cuộc sống thường ngày, mà còn ngay cả trong đời sống linh đạo tu đức nữa, thành thật làm cho tâm hồn ta được thoải mái, bình an và vui sướng.
Người đời cần sống thành thật với nhau, các tu sĩ nam nữ cần phải sống thành thật hơn người đời gấp bội, vì bản tính của các tu sĩ là thành thật, không những thành thật với mọi người, mà cần phải thành thật ngay cả với chính bản thân của mình nữa.
Linh mục tu sĩ không cắt thịt tặng vợ như Đông Phương Sóc, nhưng cũng có lúc “cắt” tiền thau trong nhà thờ, cắt tiền quyên góp xây dựng nhà thờ để mua nhà riêng, sắm của riêng cho mình và cho bà con anh chị em của mình. Tại sao vậy ?
Thưa, bởi vì khi đã không thành thật với bản thân mình thì sinh ra kiêu ngạo, nói dối và gian trá, không những trong các việc nhỏ mà ngay cả trong các việc lớn nữa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
Hoàng đế hạ lệnh đem thịt tặng thưởng cho các đại thần, đã muộn rồi mà viên quan quản lý không đến phân chia, Đông Phương Sóc bèn lấy kiếm cắt thịt và nói với các đồng liêu:
- “Mùa oi bức nên về sớm một chút”, nói xong bèn bưng thịt trở về nhà.
Ngày hôm sau, có người đem chuyện này nói với hoàng đế, hoàng đế liền triệu Đông Phương Sóc lại tra hỏi, Đông Phương Sóc lột mũ quỳ xuống tạ tội, hoàng thượng nói
- “Ông đứng dậy và nên tự mình trách mình”.
Đông Phương Sóc lại quỳ xuống lạy, nói:
- “Đông Phương Sóc hỡi, Đông Phương Sóc hỡi, vì đón nhận phần thưởng gấp gáp không thể chờ được, nên vô lễ biết bao à ! Lấy kiếm cắt thịt, anh dũng biết bao à ! Cắt thịt không nhiều, liêm khiết biết bao à ! Về nhà tặng vợ, nhân ái biết bao à !”
Hoàng đế cười lớn:
- “Ta kêu ông tự mình trách mình, nhưng ông lại nói để khen ngợi mình !”
Rồi lại tặng thưởng cho Đông Phương Sóc một trăm vò rượu và một trăm cân thịt, để ông ta đem về tặng vợ.
(Hán thư)
Suy tư 31
Đông Phương Sóc không biện tội cho mình, cũng không xin tha tội, ông chỉ thành thật nói lên tâm trạng của mình mà thôi, thế là ông ta không bị phạt, không bị cách chức, trái lại còn được vua thưởng rượu và thịt đem về.
Thành thật là một đức tính tốt, không những trong cuộc sống thường ngày, mà còn ngay cả trong đời sống linh đạo tu đức nữa, thành thật làm cho tâm hồn ta được thoải mái, bình an và vui sướng.
Người đời cần sống thành thật với nhau, các tu sĩ nam nữ cần phải sống thành thật hơn người đời gấp bội, vì bản tính của các tu sĩ là thành thật, không những thành thật với mọi người, mà cần phải thành thật ngay cả với chính bản thân của mình nữa.
Linh mục tu sĩ không cắt thịt tặng vợ như Đông Phương Sóc, nhưng cũng có lúc “cắt” tiền thau trong nhà thờ, cắt tiền quyên góp xây dựng nhà thờ để mua nhà riêng, sắm của riêng cho mình và cho bà con anh chị em của mình. Tại sao vậy ?
Thưa, bởi vì khi đã không thành thật với bản thân mình thì sinh ra kiêu ngạo, nói dối và gian trá, không những trong các việc nhỏ mà ngay cả trong các việc lớn nữa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
NHỎ MÀ TO
Có những điều tưởng nhỏ mà hóa to, có những điều tưởng to mà lại nhỏ. Như tục ngữ Việt Nam nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. To hoặc nhỏ cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng, tiêu cực và tích cực. Chuyện nhỏ và to giống như vòng lẩn quẩn, có cái khôi hài mà “thấm thía”.
Trong cộng đồng mạng, người ta có luận về “chuyện nhỏ – to” như thế này:“Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có… có…” (*). Đúng là cười ra nước mắt, cười mà đau, cười mà chẳng vui chút nào! Sao thế nhỉ? Chỉ khổ cho đám “dân đen”, kêu chẳng ai thèm nghe!
Chu kỳ “nhỏ-to” như vậy không chỉ nói tới xã hội, đừng vội cười người kẻo bị người cười, vì trong đó cũng thấy “thấp thoáng” bóng dáng những người có chức vị trong tôn giáo. Dù to hay nhỏ, dù rộng hay hẹp, loại “ô dù” nào cũng đáng sợ. Kiểu nào thì cũng chỉ khổ đám dân đen thấp cổ bé miệng mà thôi!
Tuy nhiên, sự thật mãi mãi là sự thật, và sự thật thường làm chúng ta đau lòng, ngại đối mặt, thế nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ “nên khôn”, vì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32) – Thầy chí thánh Giêsu đã bảo thế.
Trình thuật Ds 11:25-29 cho biết: “Ngày xưa, Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa”. Thần Khí đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài không bao giờ xuất hiện trong dạng hình người – chỉ như Gió, Lửa, Nước, hoặc Bồ Câu – nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động nơi mỗi chúng ta, ngay từ trong ý nghĩ.
Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!”. Ông Giô-suê, con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!”. Nhưng ông Mô-sê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!”.
Được lãnh nhận Thần Khí là điều ai cũng muốn, ông Mô-sê cũng đã mong cho mọi người đều được ơn “nói tiếng lạ” để trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa. Về cơ bản, bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì đều có thiên chức: Ngôn sứ, Tư tế, và Vương giả.
Đây là lĩnh vực thần học, như Công đồng Vatican II đã đề cập trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội (số 10). Đại ý: Thiên chức Tư tế (linh mục là tư tế thừa tác, Kitô hữu là tư tế cộng đồng) là để hiến dâng của lễ cứu độ loài người; Tiên tri (hoặc Ngôn sứ) là để loan báo Tin Mừng Nước Trời; Thiên chức Vương giả (hoặc Vương đế) là để phục vụ dân riêng của Thiên Chúa.
Với mỗi Kitô hữu (dù là giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, giáo dân, thành viên Đạo Binh Đức Mẹ, Lòng Chúa Thương Xót, Phạt Tạ Thánh Tâm, Con Đức Mẹ, Dòng Ba Đa-minh, Cursillo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội đồng Giáo xứ,…), đều được Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em em như những viên đá sống động mà xây lên ngôi đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa dắt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2:5).
Thời gian gần đây, chúng ta thấy xuất hiện phong trào “Sứ Điệp Từ Trời”, hoặc vấn đề “Canh Tân Đặc Sủng Với Ơn Té Ngã Và Nói Tiếng Lạ” mà Lm P.X. Ngô Tôn Huấn đã vài lần đề cập và cảnh báo. Quả thật, nếu chúng ta cứ “chạy đua” theo các “sự lạ” như vậy, coi chừng sẽ hóa thành Tin Lành.
Vì thế, đừng ham “thành tích” hoặc “sự lạ” mà tự làm hại đức tin của chính mình. Phúc đâu chưa thấy mà lại thấy họa! Trừ một số ít các vị thánh có ơn đặc biệt (như Thánh Martin de Porres, Thánh Faustina, Thánh Piô Năm Dấu,…), đa số các thánh đều có cuộc sống bình thường, thậm chí là rất bình thương, không có gì gọi là “lạ”. Vấn đề quan trọng vẫn là sống lòng thương xót để chứng tỏ đức tin vững mạnh và trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng. Ngay như đối với Thánh Gioan XXIII, Thánh Gioan Phaolô II, Chân phước Phaolô VI, Chân phước Têrêsa Calcutta, Bậc đáng kính P.X. Nguyễn Văn Thuận,… là những người vừa sống cùng thời với chúng ta, cuộc đời các ngài không có gì gọi là “sự lạ”, có chăng là cách sống “lạ” – tức là thâm tín, chịu đựng, hy sinh,… vì mến Chúa và yêu người. Ai thực sự được gặp Chúa thì chắc chắn cuộc đời biến đổi hẳn, chứ không “nửa vời” như những người vẫn vỗ ngực tự nhận là được “ơn lạ”, nhưng cách sống của họ không thấy rõ nét biến đổi. Quả là chí lý khi tiền nhân cảnh báo chúng ta: Cẩn tắc vô ưu!
Chắc hẳn tác giả Thánh Vịnh cũng có cuộc sống đời thường như chúng ta, nhưng có cái “lạ” là biết giữ trọn Luật Chúa và nhận thức sâu sắc: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Nhận thức được như vậy thì quyết tâm tuân thủ, không so đo, không tính toán: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh (Tv 19:10).
Tác giả Thánh Vịnh thật là khôn ngoan khi biết tìm kiếm và cầu xin những gì thực sự có lợi cho linh hồn: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽnên vẹn toàn, không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14).
Là Đấng chí tôn, tối thượng, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình đến tột cùng để sẵn sàng coi tội nhân chúng ta là thân hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Chúng ta dành cả đời để tạ ơn Ngài cũng không đủ, chứ nói chi dám năn nỉ Ngài ban cho điều gì nữa. Vì thế, chớ có ngu xuẩn mà ảo tưởng, tự cho mình là “ông kia, bà nọ”, hoặc đòi phải thế nọ, thế kia.
Thánh Giacôbê vừa nhắc nhở vừa cảnh báo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5:1-3).
Giàu sang, lắm của và nhiều tiền, đó không là tội. Nhưng tiền bạc có ma lực khó cưỡng lại, vì thế mà Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Đừng tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người còn tệ hơn giáo dân.
Ví dụ: Gm Tebartz-van Elst “nổi tiếng” là xa hoa hào nhoáng ở Đức, đã chi hơn 31 triệu euro để tu sửa dinh cơ của ông. ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng 10-2014. Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem tiền bạc đã bị tước năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles (Hoa Kỳ) từ ngày 25-6-2015. Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non vài tháng qua vì lem nhem tiền bạc, quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân ông. Và rồi các dịp đặc biệt (lễ, tết,…), Việt Nam cũng đã có giám mục được người ta đến chúc mừng bằng vật chất “béo bở” (không chỉ “phong bì dày” mà “vàng thật”). Thảo nào người ta bảo “tiền là tiên, là Phật,…”. Thật ngu xuẩn đối với những người xếp hàng để được vào gặp “quan lớn” như vậy! Có nên đặt “dấu hỏi LỚN” hay không nhỉ? Quả thật, đáng quan ngại biết bao!
Đó là cách “gian lận” tinh vi, cách xảo thuật “hối lộ”. Có lẽ lúc này mới thực sự thấm thía lời của Thánh Giacôbê: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Muốn có đức tin sống động, không còn cách nào hơn là có đời sống cầu nguyện liên lỉ, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Giacôbê nói thêm: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:4-6). Thật chí lý khi tiền nhân xác định: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cái nào cũng to, cũng khó, nhưng khó nhất vẫn là “tu thân”. Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt tiêu chí “tu thân” lên hàng đầu.
Hãy luôn ghi nhớ lời của Thánh Phaolô: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Và cũng đừng quên lời của Thánh Phêrô:“Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chuyện NHỎ mà lại TO, không hề NHỎ chút nào ráo trọi!
Với những người giàu, Thánh Phaolô đưa ra lời khuyên để Thánh Timôthê truyền đạt lại: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họđừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họphải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1 Tm 17:19). Khác nhau là giàu cái gì, đời này hay đời sau.
Một hôm, chàng trai trẻ Gioan nói với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Gioan hơi bị vô duyên, vì cứ tưởng không ai khác có quyền trừ quỷ. Ảo tưởng! Cái ảo tưởng của Gioan cũng là cái ảo tưởng của nhiều người trong chúng ta ngày nay. Và rồi Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40).
Sau đó, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Chén nước chẳng là gì, chỉ là “chuyện nhỏ”, thế nhưng lại là “chuyện lớn”, chuyện quan trọng, và được Chúa Giêsu “chấm công”. Tất nhiên “việc nhỏ” đó phải được thực hiện với tình yêu thương, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, chứ không vì bất cứ lý do gì khác.
Liên quan vấn đề nhỏ – to, Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất “nặng”, nhưng Ngài nói thật, không hề nói giỡn chơi hoặc hù dọa chi cả. Thiết tưởng rằng trẻ nhỏ ở đây không chỉ là trẻ thơ, trẻ em, hoặc con nít, mà còn là những người chân chất thật thà – dù đã trưởng thành hoặc cao niên.
Và còn hơn thế nữa, vốn dĩ tính thẳng thắn thật thà, Chúa Giêsu nói “mạnh” hơn nữa: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48).
Những lời này đầy “lửa”, có thể thiêu đốt bất cứ người nào, bất cứ lúc nào, và bất cứ nơi nào!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thực hiện những điều bình thường một cách phi thường, làm với tình đồng loại thực sự, mong sao được nên giống Ngài phần nào, vì con biết con rất dễ ảo tưởng. Xin thương xót, định hướng và nâng đỡ con, lạy Chúa! Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO nhưng hiệu quả NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO nhưng lỗi lại NHỎ… Trong đất nước NHỎ có những ông lãnh đạo TO, những ông lãnh đạo TO có cái đầu NHỎ, cái đầu NHỎ nhưng túi tham TO, túi tham TO bởi vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên tác hại TO, tác hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO, quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ nhưng lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ nhưng tổn thất TO, tổn thất TO nhưng báo cáo là NHỎ , báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật vẫn TO. Và… cán bộ TO đi xe NHỎ (xe riêng), cán bộ NHỎ lại đi xe TO (xe đò), ông quan TO thường ở với vợ NHỎ (vợ bé), ông quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả) và ở nhà TO (nhà tập thể)…
Có những điều tưởng nhỏ mà hóa to, có những điều tưởng to mà lại nhỏ. Như tục ngữ Việt Nam nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. To hoặc nhỏ cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng, tiêu cực và tích cực. Chuyện nhỏ và to giống như vòng lẩn quẩn, có cái khôi hài mà “thấm thía”.
Trong cộng đồng mạng, người ta có luận về “chuyện nhỏ – to” như thế này:“Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có… có…” (*). Đúng là cười ra nước mắt, cười mà đau, cười mà chẳng vui chút nào! Sao thế nhỉ? Chỉ khổ cho đám “dân đen”, kêu chẳng ai thèm nghe!
Chu kỳ “nhỏ-to” như vậy không chỉ nói tới xã hội, đừng vội cười người kẻo bị người cười, vì trong đó cũng thấy “thấp thoáng” bóng dáng những người có chức vị trong tôn giáo. Dù to hay nhỏ, dù rộng hay hẹp, loại “ô dù” nào cũng đáng sợ. Kiểu nào thì cũng chỉ khổ đám dân đen thấp cổ bé miệng mà thôi!
Tuy nhiên, sự thật mãi mãi là sự thật, và sự thật thường làm chúng ta đau lòng, ngại đối mặt, thế nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ “nên khôn”, vì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32) – Thầy chí thánh Giêsu đã bảo thế.
Trình thuật Ds 11:25-29 cho biết: “Ngày xưa, Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa”. Thần Khí đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài không bao giờ xuất hiện trong dạng hình người – chỉ như Gió, Lửa, Nước, hoặc Bồ Câu – nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động nơi mỗi chúng ta, ngay từ trong ý nghĩ.
Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!”. Ông Giô-suê, con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!”. Nhưng ông Mô-sê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!”.
Được lãnh nhận Thần Khí là điều ai cũng muốn, ông Mô-sê cũng đã mong cho mọi người đều được ơn “nói tiếng lạ” để trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa. Về cơ bản, bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì đều có thiên chức: Ngôn sứ, Tư tế, và Vương giả.
Đây là lĩnh vực thần học, như Công đồng Vatican II đã đề cập trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội (số 10). Đại ý: Thiên chức Tư tế (linh mục là tư tế thừa tác, Kitô hữu là tư tế cộng đồng) là để hiến dâng của lễ cứu độ loài người; Tiên tri (hoặc Ngôn sứ) là để loan báo Tin Mừng Nước Trời; Thiên chức Vương giả (hoặc Vương đế) là để phục vụ dân riêng của Thiên Chúa.
Với mỗi Kitô hữu (dù là giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, giáo dân, thành viên Đạo Binh Đức Mẹ, Lòng Chúa Thương Xót, Phạt Tạ Thánh Tâm, Con Đức Mẹ, Dòng Ba Đa-minh, Cursillo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội đồng Giáo xứ,…), đều được Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em em như những viên đá sống động mà xây lên ngôi đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa dắt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2:5).
Thời gian gần đây, chúng ta thấy xuất hiện phong trào “Sứ Điệp Từ Trời”, hoặc vấn đề “Canh Tân Đặc Sủng Với Ơn Té Ngã Và Nói Tiếng Lạ” mà Lm P.X. Ngô Tôn Huấn đã vài lần đề cập và cảnh báo. Quả thật, nếu chúng ta cứ “chạy đua” theo các “sự lạ” như vậy, coi chừng sẽ hóa thành Tin Lành.
Vì thế, đừng ham “thành tích” hoặc “sự lạ” mà tự làm hại đức tin của chính mình. Phúc đâu chưa thấy mà lại thấy họa! Trừ một số ít các vị thánh có ơn đặc biệt (như Thánh Martin de Porres, Thánh Faustina, Thánh Piô Năm Dấu,…), đa số các thánh đều có cuộc sống bình thường, thậm chí là rất bình thương, không có gì gọi là “lạ”. Vấn đề quan trọng vẫn là sống lòng thương xót để chứng tỏ đức tin vững mạnh và trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng. Ngay như đối với Thánh Gioan XXIII, Thánh Gioan Phaolô II, Chân phước Phaolô VI, Chân phước Têrêsa Calcutta, Bậc đáng kính P.X. Nguyễn Văn Thuận,… là những người vừa sống cùng thời với chúng ta, cuộc đời các ngài không có gì gọi là “sự lạ”, có chăng là cách sống “lạ” – tức là thâm tín, chịu đựng, hy sinh,… vì mến Chúa và yêu người. Ai thực sự được gặp Chúa thì chắc chắn cuộc đời biến đổi hẳn, chứ không “nửa vời” như những người vẫn vỗ ngực tự nhận là được “ơn lạ”, nhưng cách sống của họ không thấy rõ nét biến đổi. Quả là chí lý khi tiền nhân cảnh báo chúng ta: Cẩn tắc vô ưu!
Chắc hẳn tác giả Thánh Vịnh cũng có cuộc sống đời thường như chúng ta, nhưng có cái “lạ” là biết giữ trọn Luật Chúa và nhận thức sâu sắc: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Nhận thức được như vậy thì quyết tâm tuân thủ, không so đo, không tính toán: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh (Tv 19:10).
Tác giả Thánh Vịnh thật là khôn ngoan khi biết tìm kiếm và cầu xin những gì thực sự có lợi cho linh hồn: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽnên vẹn toàn, không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14).
Là Đấng chí tôn, tối thượng, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình đến tột cùng để sẵn sàng coi tội nhân chúng ta là thân hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Chúng ta dành cả đời để tạ ơn Ngài cũng không đủ, chứ nói chi dám năn nỉ Ngài ban cho điều gì nữa. Vì thế, chớ có ngu xuẩn mà ảo tưởng, tự cho mình là “ông kia, bà nọ”, hoặc đòi phải thế nọ, thế kia.
Thánh Giacôbê vừa nhắc nhở vừa cảnh báo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5:1-3).
Giàu sang, lắm của và nhiều tiền, đó không là tội. Nhưng tiền bạc có ma lực khó cưỡng lại, vì thế mà Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Đừng tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người còn tệ hơn giáo dân.
Ví dụ: Gm Tebartz-van Elst “nổi tiếng” là xa hoa hào nhoáng ở Đức, đã chi hơn 31 triệu euro để tu sửa dinh cơ của ông. ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng 10-2014. Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem tiền bạc đã bị tước năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles (Hoa Kỳ) từ ngày 25-6-2015. Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non vài tháng qua vì lem nhem tiền bạc, quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân ông. Và rồi các dịp đặc biệt (lễ, tết,…), Việt Nam cũng đã có giám mục được người ta đến chúc mừng bằng vật chất “béo bở” (không chỉ “phong bì dày” mà “vàng thật”). Thảo nào người ta bảo “tiền là tiên, là Phật,…”. Thật ngu xuẩn đối với những người xếp hàng để được vào gặp “quan lớn” như vậy! Có nên đặt “dấu hỏi LỚN” hay không nhỉ? Quả thật, đáng quan ngại biết bao!
Đó là cách “gian lận” tinh vi, cách xảo thuật “hối lộ”. Có lẽ lúc này mới thực sự thấm thía lời của Thánh Giacôbê: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Muốn có đức tin sống động, không còn cách nào hơn là có đời sống cầu nguyện liên lỉ, luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Giacôbê nói thêm: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:4-6). Thật chí lý khi tiền nhân xác định: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cái nào cũng to, cũng khó, nhưng khó nhất vẫn là “tu thân”. Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt tiêu chí “tu thân” lên hàng đầu.
Hãy luôn ghi nhớ lời của Thánh Phaolô: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Và cũng đừng quên lời của Thánh Phêrô:“Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chuyện NHỎ mà lại TO, không hề NHỎ chút nào ráo trọi!
Với những người giàu, Thánh Phaolô đưa ra lời khuyên để Thánh Timôthê truyền đạt lại: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họđừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họphải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1 Tm 17:19). Khác nhau là giàu cái gì, đời này hay đời sau.
Một hôm, chàng trai trẻ Gioan nói với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Gioan hơi bị vô duyên, vì cứ tưởng không ai khác có quyền trừ quỷ. Ảo tưởng! Cái ảo tưởng của Gioan cũng là cái ảo tưởng của nhiều người trong chúng ta ngày nay. Và rồi Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40).
Sau đó, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Chén nước chẳng là gì, chỉ là “chuyện nhỏ”, thế nhưng lại là “chuyện lớn”, chuyện quan trọng, và được Chúa Giêsu “chấm công”. Tất nhiên “việc nhỏ” đó phải được thực hiện với tình yêu thương, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, chứ không vì bất cứ lý do gì khác.
Liên quan vấn đề nhỏ – to, Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất “nặng”, nhưng Ngài nói thật, không hề nói giỡn chơi hoặc hù dọa chi cả. Thiết tưởng rằng trẻ nhỏ ở đây không chỉ là trẻ thơ, trẻ em, hoặc con nít, mà còn là những người chân chất thật thà – dù đã trưởng thành hoặc cao niên.
Và còn hơn thế nữa, vốn dĩ tính thẳng thắn thật thà, Chúa Giêsu nói “mạnh” hơn nữa: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48).
Những lời này đầy “lửa”, có thể thiêu đốt bất cứ người nào, bất cứ lúc nào, và bất cứ nơi nào!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thực hiện những điều bình thường một cách phi thường, làm với tình đồng loại thực sự, mong sao được nên giống Ngài phần nào, vì con biết con rất dễ ảo tưởng. Xin thương xót, định hướng và nâng đỡ con, lạy Chúa! Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO nhưng hiệu quả NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO nhưng lỗi lại NHỎ… Trong đất nước NHỎ có những ông lãnh đạo TO, những ông lãnh đạo TO có cái đầu NHỎ, cái đầu NHỎ nhưng túi tham TO, túi tham TO bởi vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên tác hại TO, tác hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO, quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ nhưng lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ nhưng tổn thất TO, tổn thất TO nhưng báo cáo là NHỎ , báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật vẫn TO. Và… cán bộ TO đi xe NHỎ (xe riêng), cán bộ NHỎ lại đi xe TO (xe đò), ông quan TO thường ở với vợ NHỎ (vợ bé), ông quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả) và ở nhà TO (nhà tập thể)…
Người lớn nhất
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT 9/17/2015
Khuynh hướng của con người luôn muốn hơn người khác. Đặc biệt, ai cũng muốn xếp hạng nhất, muốn làm người lãnh đạo, làm người điều khiển người khác. Trên thị trường, nhiều quảng cáo xem ra rất kêu, nhằm kéo thị hiếu của con người. Như vậy, con người luôn nghĩ ra nhiều kế, nhiều kế hoạch, nhiều trò nhằm làm thỏa mãn khuynh hướng muốn thống trị, đứng đầu, số một của mình. Chúa Giêsu lại dạy con người bài học thật khác lạ :” Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người “ ( Mc 9, 35).
Thật vậy, Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại một luồng gió mới. Ngài dạy dỗ con người với lòng yêu thương vô bờ của Ngài. Ngài đến làm cho Lề Luật nên trọn hảo. Ngài kiện toàn luật Cựu Ước. Do đó, Chúa Giêsu ban cho nhân loại, ban cho con người giới răn yêu thương mới, giới răn được đặt trên bác ái yêu thương. Các môn đệ của Chúa đã được Chúa uốn nắn,dạy dỗ và rèn luyện,nhưng thực tế, các Ngài vẫn chưa hiểu được ý Chúa, chưa nhận ra con đường của Người. Do đó, các môn đệ còn tranh cãi nhau, còn giành giật nhau theo kiểu người đời, theo cung cách của thế gian.
Một bữa kia khi đi trên đường, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai làm lớn, làm bé. Chúa không can thiệp vào công việc của các môn đệ lúc đó, Ngài giả bộ như không biết gì. Ngài muốn đo lường sự hiểu biết của các môn đệ. Chính vì thế, sau khi về đến nơi nghỉ, Chúa Giêsu đã vặn hỏi các môn đệ xem các Ngài đã tranh luận gì khi đi dọc đường. Chúa Giêsu đã biết rõ cõi lòng của các môn đệ. Bởi vì, các môn đệ cứ tưởng Chúa sẽ làm vua theo kiểu người đời và các Ngài sẽ tranh nhau các ghế trong nội các của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ bài học phục vụ khiêm nhường, phục vụ vô vị lợi. Chúa đem một em bé đến trước mặt các ông và nói :” Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính mình Thầy “ ( Mc 9, 37 ).
Đối với Chúa Giêsu trẻ nhỏ bị xã hội, bị người lớn coi thường, họ coi trẻ nhỏ như những người không quan trọng, không đáng quan tâm, lưu ý; những người tàn tật, bị bỏ rơi, những kẻ bơ vơ, vất vưởng, neo đơn, tất bạt. Chúa Giêsu đồng hóa với những con người bất hạnh ấy. Ngài nói :” khi cho một kẻ nghèo, một người bơ vơ, bệnh hoạn, tù đầy…vv… ăn, uống, giúp đỡ, thăm nuôi họ là đã làm cho chính Chúa. Chúa Giêsu muốn gửi đến thế giới, đến con người, đến mỗi người chúng ta sứ điệp yêu thương này.
Về vấn đề phục vụ, làm người đứng đầu, Chúa Giêsu lại có một quan điểm khác lạ bởi vì bình thường người lãnh đạo, người đứng đầu là người truyền lệnh, bắt cấp dưới thi hành lệnh của cấp trên. Chức tước, địa vị càng cao, họ càng có quyền, càng ra lệnh bắt cấp dưới phải thi hành ý muốn của họ. Đối với Chúa Giêsu thì khác, người làm lớn là người phục vụ nhiều nhất, hăng say, năng nổ nhất, người làm lớn làm trước, làm gương và nghỉ sau cùng.
Người làm đầu theo kiểu của Chúa, theo quan điểm của Ngài là người không dùng quyền để quyết định, dùng quyền để sai khiến, lãnh đạo. Người lãnh đạo không dùng sức mạnh để chỉ huy, để chèn ép người khác, nhưng dùng con tim đầy yêu thương, đôi tay nhẹ nhàng để phục vụ.
Làm lớn theo kiểu của Chúa Giêsu là người hy sinh phục vụ quên mình, là người yêu thương, quảng đại. Chính Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Chồn có hang, chim trời có tổ…Chúa Giêsu đã làm gương cho những người làm lớn là Ngài không nhà, không cửa,không dành cho mình bất cứ điều gì…Ngài tay không: không có nơi tựa đầu thua con chồn, chú chim vv…
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói :” người ngày nay thích chứng nhân hơn là người nói “. Làm, phục vụ theo cung cách của Chúa Giêsu là kiểu mẫu Ngài muốn để lại cho những người lãnh đạo: khiêm nhường, phục vụ, yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đẩy ra khỏi đầu óc chúng con sự ích kỷ, ghen tương, khoe khoang, tự cao, tự đắc. Xin cho chúng con biết khiêm tốn phục vụ trong yêu thương bởi vì Chúa đã thật sự dạy nhân loại bài học khiêm tốn, hy sinh và phục vụ. Albert Schweitzer đã viết :” Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ “. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Trẻ nhỏ theo quan điểm của Chúa Giêsu là gì ?
2.Phục vụ đối với Chúa Giêsu phải làm sao ?
3.Làm lớn theo quan điểm của Chúa Giêsu ?
4.Chúa Giêsu đã dạy chúng ta bài học gì qua việc lanh đạo ?
5.Làm lớn theo cung cách của Chúa Giêsu phải thế nào ?
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT 9/17/2015
Khuynh hướng của con người luôn muốn hơn người khác. Đặc biệt, ai cũng muốn xếp hạng nhất, muốn làm người lãnh đạo, làm người điều khiển người khác. Trên thị trường, nhiều quảng cáo xem ra rất kêu, nhằm kéo thị hiếu của con người. Như vậy, con người luôn nghĩ ra nhiều kế, nhiều kế hoạch, nhiều trò nhằm làm thỏa mãn khuynh hướng muốn thống trị, đứng đầu, số một của mình. Chúa Giêsu lại dạy con người bài học thật khác lạ :” Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người “ ( Mc 9, 35).
Thật vậy, Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại một luồng gió mới. Ngài dạy dỗ con người với lòng yêu thương vô bờ của Ngài. Ngài đến làm cho Lề Luật nên trọn hảo. Ngài kiện toàn luật Cựu Ước. Do đó, Chúa Giêsu ban cho nhân loại, ban cho con người giới răn yêu thương mới, giới răn được đặt trên bác ái yêu thương. Các môn đệ của Chúa đã được Chúa uốn nắn,dạy dỗ và rèn luyện,nhưng thực tế, các Ngài vẫn chưa hiểu được ý Chúa, chưa nhận ra con đường của Người. Do đó, các môn đệ còn tranh cãi nhau, còn giành giật nhau theo kiểu người đời, theo cung cách của thế gian.
Một bữa kia khi đi trên đường, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai làm lớn, làm bé. Chúa không can thiệp vào công việc của các môn đệ lúc đó, Ngài giả bộ như không biết gì. Ngài muốn đo lường sự hiểu biết của các môn đệ. Chính vì thế, sau khi về đến nơi nghỉ, Chúa Giêsu đã vặn hỏi các môn đệ xem các Ngài đã tranh luận gì khi đi dọc đường. Chúa Giêsu đã biết rõ cõi lòng của các môn đệ. Bởi vì, các môn đệ cứ tưởng Chúa sẽ làm vua theo kiểu người đời và các Ngài sẽ tranh nhau các ghế trong nội các của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ bài học phục vụ khiêm nhường, phục vụ vô vị lợi. Chúa đem một em bé đến trước mặt các ông và nói :” Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính mình Thầy “ ( Mc 9, 37 ).
Đối với Chúa Giêsu trẻ nhỏ bị xã hội, bị người lớn coi thường, họ coi trẻ nhỏ như những người không quan trọng, không đáng quan tâm, lưu ý; những người tàn tật, bị bỏ rơi, những kẻ bơ vơ, vất vưởng, neo đơn, tất bạt. Chúa Giêsu đồng hóa với những con người bất hạnh ấy. Ngài nói :” khi cho một kẻ nghèo, một người bơ vơ, bệnh hoạn, tù đầy…vv… ăn, uống, giúp đỡ, thăm nuôi họ là đã làm cho chính Chúa. Chúa Giêsu muốn gửi đến thế giới, đến con người, đến mỗi người chúng ta sứ điệp yêu thương này.
Về vấn đề phục vụ, làm người đứng đầu, Chúa Giêsu lại có một quan điểm khác lạ bởi vì bình thường người lãnh đạo, người đứng đầu là người truyền lệnh, bắt cấp dưới thi hành lệnh của cấp trên. Chức tước, địa vị càng cao, họ càng có quyền, càng ra lệnh bắt cấp dưới phải thi hành ý muốn của họ. Đối với Chúa Giêsu thì khác, người làm lớn là người phục vụ nhiều nhất, hăng say, năng nổ nhất, người làm lớn làm trước, làm gương và nghỉ sau cùng.
Người làm đầu theo kiểu của Chúa, theo quan điểm của Ngài là người không dùng quyền để quyết định, dùng quyền để sai khiến, lãnh đạo. Người lãnh đạo không dùng sức mạnh để chỉ huy, để chèn ép người khác, nhưng dùng con tim đầy yêu thương, đôi tay nhẹ nhàng để phục vụ.
Làm lớn theo kiểu của Chúa Giêsu là người hy sinh phục vụ quên mình, là người yêu thương, quảng đại. Chính Chúa Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Chồn có hang, chim trời có tổ…Chúa Giêsu đã làm gương cho những người làm lớn là Ngài không nhà, không cửa,không dành cho mình bất cứ điều gì…Ngài tay không: không có nơi tựa đầu thua con chồn, chú chim vv…
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói :” người ngày nay thích chứng nhân hơn là người nói “. Làm, phục vụ theo cung cách của Chúa Giêsu là kiểu mẫu Ngài muốn để lại cho những người lãnh đạo: khiêm nhường, phục vụ, yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đẩy ra khỏi đầu óc chúng con sự ích kỷ, ghen tương, khoe khoang, tự cao, tự đắc. Xin cho chúng con biết khiêm tốn phục vụ trong yêu thương bởi vì Chúa đã thật sự dạy nhân loại bài học khiêm tốn, hy sinh và phục vụ. Albert Schweitzer đã viết :” Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ “. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Trẻ nhỏ theo quan điểm của Chúa Giêsu là gì ?
2.Phục vụ đối với Chúa Giêsu phải làm sao ?
3.Làm lớn theo quan điểm của Chúa Giêsu ?
4.Chúa Giêsu đã dạy chúng ta bài học gì qua việc lanh đạo ?
5.Làm lớn theo cung cách của Chúa Giêsu phải thế nào ?
NHIỀU LOẠI MÙ
Tính ích kỷ làm ta mù không thấy nhu cầu của tha nhân.
Tính vô cảm làm ta mù không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân.
Tính tự phụ làm ta mù không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình.
Tính kiêu căng làm ta mù không thấy khuyết điểm của mình.
Những thành kiến làm ta mù không thấy sự thật.
Sự hối hả làm ta mù không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh.
Khuynh hướng duy vật làm ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng.
Sự hời hợt làm ta mù không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án.
SƯU TẦM
Tính ích kỷ làm ta mù không thấy nhu cầu của tha nhân.
Tính vô cảm làm ta mù không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân.
Tính tự phụ làm ta mù không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình.
Tính kiêu căng làm ta mù không thấy khuyết điểm của mình.
Những thành kiến làm ta mù không thấy sự thật.
Sự hối hả làm ta mù không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh.
Khuynh hướng duy vật làm ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng.
Sự hời hợt làm ta mù không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án.
SƯU TẦM
ĐIỆP KHÚC KHỐN
Có những “mối phúc” thì cũng có những “mối khốn”. Tuy nhiên, khi nghe các “mối phúc”, chúng ta thực sự cảm thấy “dễ chịu” hơn, dù đôi khi vẫn cảm thấy “lấn cấn” một chút: “Phúc thay…! Phúc thay…!”. Thế nhưng khi nghe các “mối khốn”, chúng ta cảm thấy “nhức đầu” lắm: “Khốn thay…! Khốn thay…!”.
Kinh Thánh cho chúng ta thấy rõ ràng rằng Thầy Chí Thánh Giêsu rất ghét dạng người giả hình, dù đó là điều nhỏ nhất hoặc bất cứ dạng giả hình nào. Sau khi Ngài nói đừng nhận ai là “cha” vì chúng ta chỉ có một Cha là Cha trên trời, và cũng đừng để ai gọi mình là “người lãnh đạo” vì chỉ có một vị lãnh đạo, đó là chính Đức Kitô. Rồi Ngài nói: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23:12). Ngài đề cao đức khiêm nhường, nhân đức nền tảng và cột trụ trong “tòa nhà” nhân đức.
Tiếp theo là trình thuật Mt 23:13-33, Chúa Giêsu đưa ra “điệp khúc khốn”, đó là một loạt lời nguyền rủa mà Ngài nhắm thẳng vào bè lũ giả hình – tức là những người ưa hình thức, khoái bề ngoài, thích nổi trội.
“Điệp khúc” này rất khó nghe vì rất “rát tai”, gây “dị ứng”, ai có “máu giả hình” rất ngại nghe nói hoặc không muốn người khác nhắc tới. Thuận ngôn nghịch nhĩ. Sự thật vốn dĩ dễ mất lòng. Đó là điều tất yếu. Chuyện đời như vậy, chuyện đạo cũng thế thôi. Tuy nhiên, dù thích hay không thì cũng là điều Chúa Giêsu đã khuyến cáo, Ngài phê bình nặng nề và rõ ràng từng chi tiết, vì Ngài là người luôn nói thẳng nói thật, “không vị nể ai” (1 pr 1:17). Thuốc có đắng thì mới “đã” tật. Có thể lâu nay chúng ta chỉ đọc lướt hoặc thoáng nghe, rồi quên hoặc không muốn nhớ. Hôm nay, chúng ta cứ thử đọc lại xem sao, đọc chậm thôi, để “nội soi” chính mình:
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.
– KHỐN cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề thì bị ràng buộc”. Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các người còn nói: “Ai chỉ bàn thờ mà thề thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề thì bị ràng buộc”. Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyệncướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.
– Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thìcó vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình vàgian ác!
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói: “Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ”. Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. Vậy thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!
Đọc kỹ “điệp khúc khốn” này thì thấy rởn tóc gáy và thực sự đáng sợ. Ngày nay, người ta giả hình tinh vi hơn, khó có thể nhận ra theo lẽ thường. Loại người này xuất hiện bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào. Hình như người ta càng có chức có quyền thì người ta càng dễ bị “nhiễm” virus giả hình. Phải chăng xã hội ngày nay coi trọng bề ngoài nên người ta tiêm nhiễm? Chưa chắc. Thiết nghĩ do chính lối suy nghĩ thiển cận và ảo tưởng mà sinh ra thôi.
Xét các dạng giả hình trên đây, chúng ta thấy “nổi gai óc”, nhưng đáng sợ nhất là câu này của Chúa Giêsu: “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục?” (Mt 23:33). Như vậy, rõ ràng người giả hình không thoát khỏi hỏa ngục, tức là chắc chắn có “vé” vào cửa tự do rồi. Ai có máu giả hình thì mau mà chấn chỉnh ngay kẻo không kịp đâu, vì Chúa đến bất ngờ như Chàng Rể trong dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ” (Mt 25:1-13) mà chúng ta đã “thuộc lòng” rồi.
Nếu tịnh tâm mà đọc và suy, phải công nhận rằng càng đọc càng thấy hãi hùng!
Nhưng cũng chưa xong đâu, vì ngoài “điệp khúc khốn” trên đây – có thể gọi là “bát khốn” cho dễ nhớ, trình thuật Lc 6:24-26 còn đưa ra “tứ khốn” khác, cách nói tương tự nhưng đối lập với Bát Phúc, chắc hẳn cũng khiến chúng ta “giật mình” không kém. Ai “giật mình” càng mạnh và càng nhiều thì càng có lợi cho đời sống tâm linh. “Tứ khốn” đó như sau:
– KHỐN cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
– KHỐN cho các ngươi là những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.
– KHỐN cho các ngươi là những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.
– KHỐN cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế”.
Tự “nội soi” bằng siêu-tia-X “bát khốn” và “tứ khốn” trên đây, chắc hẳn chúng ta cảm thấy “nổi da gà” lắm rồi. Tuy nhiên, “bệnh án linh hồn” của chúng ta chưa hoàn tất, vì chúng ta còn có thêm “nhị khốn” khác để khả dĩ xét nghiệm linh hồn một cách toàn diện hơn:
– KHỐN cho những thành đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối! (Mt 11:21-24; Lc 10:13-15).
– KHỐN cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã! Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã! (Mt 18:7; Mc 9:42-48; Lc 17:1-2).
Khốn nạn, khốn kiếp, khốn thay! Đó là dạng nguyền rủa nặng nề nhất trong phàm ngôn, ai bị nguyền rủa như vậy thì thật là khốn đốn, khốn khổ, khốn cùng! Tương tự là lời nguyền rủa “quân chó má” mà Tân Ước có đề cập 2 lần. Thứ nhất, Thánh Phaolô cảnh báo chúng ta về những kẻ xấu, kẻ giả hình: “Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì!” (Pl 3:2). Thứ nhì, Thánh Gioan cho biết: “Nhữngquân chó má, làm phù phép, gian dâm, sát nhân, thờ ngẫu tượng, cùng với mọi kẻ thích điều gian dối và ăn gian nói dối, hãy xéo ra ngoài” (Kh 22:15). Những người thích gian dối tức là những kẻ giả hình, những người “bằng mặt mà không bằng lòng” cũng là giả hình vậy!
Tóm lại, nói xa chẳng qua nói thật, vấn đề “đáng sợ” nhất vẫn là câu nguyền rủa của Chúa Giêsu: “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục?” (Mt 23:33). Vấn đề “đáng sợ” ở đây không phải là khốn khổ ở đời này, cũng chẳng phải đau khổ ở Luyện Hình, mà là khốn nạn đời đời trong Hỏa Ngục!
Lạy Thiên Chúa, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử (Tv 51:5-6).
TRẦM THIÊN THU
Có những “mối phúc” thì cũng có những “mối khốn”. Tuy nhiên, khi nghe các “mối phúc”, chúng ta thực sự cảm thấy “dễ chịu” hơn, dù đôi khi vẫn cảm thấy “lấn cấn” một chút: “Phúc thay…! Phúc thay…!”. Thế nhưng khi nghe các “mối khốn”, chúng ta cảm thấy “nhức đầu” lắm: “Khốn thay…! Khốn thay…!”.
Kinh Thánh cho chúng ta thấy rõ ràng rằng Thầy Chí Thánh Giêsu rất ghét dạng người giả hình, dù đó là điều nhỏ nhất hoặc bất cứ dạng giả hình nào. Sau khi Ngài nói đừng nhận ai là “cha” vì chúng ta chỉ có một Cha là Cha trên trời, và cũng đừng để ai gọi mình là “người lãnh đạo” vì chỉ có một vị lãnh đạo, đó là chính Đức Kitô. Rồi Ngài nói: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23:12). Ngài đề cao đức khiêm nhường, nhân đức nền tảng và cột trụ trong “tòa nhà” nhân đức.
Tiếp theo là trình thuật Mt 23:13-33, Chúa Giêsu đưa ra “điệp khúc khốn”, đó là một loạt lời nguyền rủa mà Ngài nhắm thẳng vào bè lũ giả hình – tức là những người ưa hình thức, khoái bề ngoài, thích nổi trội.
“Điệp khúc” này rất khó nghe vì rất “rát tai”, gây “dị ứng”, ai có “máu giả hình” rất ngại nghe nói hoặc không muốn người khác nhắc tới. Thuận ngôn nghịch nhĩ. Sự thật vốn dĩ dễ mất lòng. Đó là điều tất yếu. Chuyện đời như vậy, chuyện đạo cũng thế thôi. Tuy nhiên, dù thích hay không thì cũng là điều Chúa Giêsu đã khuyến cáo, Ngài phê bình nặng nề và rõ ràng từng chi tiết, vì Ngài là người luôn nói thẳng nói thật, “không vị nể ai” (1 pr 1:17). Thuốc có đắng thì mới “đã” tật. Có thể lâu nay chúng ta chỉ đọc lướt hoặc thoáng nghe, rồi quên hoặc không muốn nhớ. Hôm nay, chúng ta cứ thử đọc lại xem sao, đọc chậm thôi, để “nội soi” chính mình:
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.
– KHỐN cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề thì bị ràng buộc”. Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các người còn nói: “Ai chỉ bàn thờ mà thề thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề thì bị ràng buộc”. Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyệncướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.
– Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thìcó vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình vàgian ác!
– KHỐN cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói: “Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ”. Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. Vậy thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!
Đọc kỹ “điệp khúc khốn” này thì thấy rởn tóc gáy và thực sự đáng sợ. Ngày nay, người ta giả hình tinh vi hơn, khó có thể nhận ra theo lẽ thường. Loại người này xuất hiện bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào. Hình như người ta càng có chức có quyền thì người ta càng dễ bị “nhiễm” virus giả hình. Phải chăng xã hội ngày nay coi trọng bề ngoài nên người ta tiêm nhiễm? Chưa chắc. Thiết nghĩ do chính lối suy nghĩ thiển cận và ảo tưởng mà sinh ra thôi.
Xét các dạng giả hình trên đây, chúng ta thấy “nổi gai óc”, nhưng đáng sợ nhất là câu này của Chúa Giêsu: “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục?” (Mt 23:33). Như vậy, rõ ràng người giả hình không thoát khỏi hỏa ngục, tức là chắc chắn có “vé” vào cửa tự do rồi. Ai có máu giả hình thì mau mà chấn chỉnh ngay kẻo không kịp đâu, vì Chúa đến bất ngờ như Chàng Rể trong dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ” (Mt 25:1-13) mà chúng ta đã “thuộc lòng” rồi.
Nếu tịnh tâm mà đọc và suy, phải công nhận rằng càng đọc càng thấy hãi hùng!
Nhưng cũng chưa xong đâu, vì ngoài “điệp khúc khốn” trên đây – có thể gọi là “bát khốn” cho dễ nhớ, trình thuật Lc 6:24-26 còn đưa ra “tứ khốn” khác, cách nói tương tự nhưng đối lập với Bát Phúc, chắc hẳn cũng khiến chúng ta “giật mình” không kém. Ai “giật mình” càng mạnh và càng nhiều thì càng có lợi cho đời sống tâm linh. “Tứ khốn” đó như sau:
– KHỐN cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
– KHỐN cho các ngươi là những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.
– KHỐN cho các ngươi là những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.
– KHỐN cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế”.
Tự “nội soi” bằng siêu-tia-X “bát khốn” và “tứ khốn” trên đây, chắc hẳn chúng ta cảm thấy “nổi da gà” lắm rồi. Tuy nhiên, “bệnh án linh hồn” của chúng ta chưa hoàn tất, vì chúng ta còn có thêm “nhị khốn” khác để khả dĩ xét nghiệm linh hồn một cách toàn diện hơn:
– KHỐN cho những thành đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối! (Mt 11:21-24; Lc 10:13-15).
– KHỐN cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã! Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã! (Mt 18:7; Mc 9:42-48; Lc 17:1-2).
Khốn nạn, khốn kiếp, khốn thay! Đó là dạng nguyền rủa nặng nề nhất trong phàm ngôn, ai bị nguyền rủa như vậy thì thật là khốn đốn, khốn khổ, khốn cùng! Tương tự là lời nguyền rủa “quân chó má” mà Tân Ước có đề cập 2 lần. Thứ nhất, Thánh Phaolô cảnh báo chúng ta về những kẻ xấu, kẻ giả hình: “Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì!” (Pl 3:2). Thứ nhì, Thánh Gioan cho biết: “Nhữngquân chó má, làm phù phép, gian dâm, sát nhân, thờ ngẫu tượng, cùng với mọi kẻ thích điều gian dối và ăn gian nói dối, hãy xéo ra ngoài” (Kh 22:15). Những người thích gian dối tức là những kẻ giả hình, những người “bằng mặt mà không bằng lòng” cũng là giả hình vậy!
Tóm lại, nói xa chẳng qua nói thật, vấn đề “đáng sợ” nhất vẫn là câu nguyền rủa của Chúa Giêsu: “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục?” (Mt 23:33). Vấn đề “đáng sợ” ở đây không phải là khốn khổ ở đời này, cũng chẳng phải đau khổ ở Luyện Hình, mà là khốn nạn đời đời trong Hỏa Ngục!
Lạy Thiên Chúa, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử (Tv 51:5-6).
TRẦM THIÊN THU
MỤC TỬ NHÂN LÀNH HAY KẺ CHĂN THUÊ?
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu, khi nói về người mục tử, đã định nghĩa và phân biệt hai loại mục tử, mục tử nhân lành và kẻ chăn thuê: “Mục Tử nhân lành hy sinh tính mạng cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuôc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10,11-13). Là một linh mục, hay bất kì chức vụ nào khác trong Hội Thánh, có lẽ mỗi người ít nhiều đã không thể quên điều nhắc nhở của Thầy Giêsu. Tuy nhiên, có thực sự mình đang là những mục tử nhân lành?
Tình cờ đọc được cuốn sách có tựa đề “The Top 10 Distinctions between Entrepreneurs and Employees” của tác giả Keeith Cameron Smith viết cho các nhà lãnh đạo, bản thân là một linh mục – người lãnh đạo cộng đoàn – tôi cũng cảm thấy “nhột nhột” với cảm giác hình như mình cũng đang nằm trong nhóm chăn thuê (?). Lật mở lại những dòng giáo huấn của Tin Mừng và của Hội Thánh để thêm một lần khám phá và chia sẻ cùng mọi người đang cùng trách nhiệm mục tử từ góc nhìn của tác giả Smith.
Mục tử nhân lành học nhiều hơn tiêu khiển, kẻ chăn thuê tiêu khiển nhiều hơn tự học.
Quá trình đào tạo trong Đại Chủng Viện xây dựng chúng ta thành những mục tử như lòng Chúa mong muốn. Tuy nhiên, việc trở thành mục tử nhân lành hay kẻ chăn thuê lại là việc của từng người khi bắt đầu sứ vụ linh mục trong việc “biết chiên” và “chiên biết” (Ga 10,14), như chính Thầy Giêsu đã nói về mình. Điều này, thôi thúc chúng ta ưu tiên dành nhiều thời gian cho việc học tập như thường huấn và tự thường huấn. Nhưng chúng ta sẽ phải học điều gì? Đó mới là vấn đề!
Trước hết, để có thể “biết chiên” và “chiên biết”, người mục tử nhân lành khi bắt đầu sứ vụ không thể không học và không ngừng học khám phá đàn chiên của mình. Điều này cũng hàm chứa một đòi hỏi khám phá chính bản thân mình. Đó là con đường của gặp gỡ và đối thoại không ngừng nghỉ với thái độ khiêm tốn và khôn ngoan. Học biết giao tiếp và lắng nghe không luôn là điều dễ và cũng không thể thực hiện một lần thay cho tất cả.
Bên cạnh đó, sự trợ giúp của khoa học nhân văn như: tâm lý, xã hội,… cũng là những đối tượng cần được tài bồi. Điều này đã được Công đồng Vaticano II khuyến cáo: “Trong phạm vi mục vụ, phải thấu triệt và áp dụng không những các nguyên tắc thần học, nhưng cả những phát minh của các khoa học "đời", nhất là khoa tâm lý và xã hội học. Như thế, các tín hữu cũng sẽ nuôi dưỡng được một đời sống đức tin tinh ròng và trưởng thành hơn” (GS, 62).
Hơn nữa, trong tư cách là một nhà lãnh đạo, linh mục, nếu thiếu những kiến thức nhất định về khoa học lãnh đạo, sẽ không thể có khả năng truyền cảm hứng cho “đàn chiên". Kết quả khó tránh được là vị ấy sẽ thiên về sự thúc ép quá đáng hoặc sẽ rơi vào thái độ chán nản, sống khép kín và buông xuôi.
Quan trọng hơn, mục tử nhân lành dẫn dắt đàn chiên đi tới nguồn sống đích thực để chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Những kiến thức giáo lý, thần học, những định hướng từ giáo huấn của Hội Thánh nếu không liên tục cập nhật, người mục tử khó có thể dẫn lối cho đàn chiên mình.
Bởi thế, báo chí, truyền hình, internet… và nhiều thứ tiêu khiển khác là cần thiết, nhưng tất cả chỉ có thể là những trò tiêu khiển; những phút giây thư giãn, nếu không biết sử dụng một cách khôn ngoan để rút tỉa từ đó sự am hiểu về thế giới, con người, những vấn đề của con người và cuộc sống hiện tại... Đó không phải là con đường của học tập. Điều đó cũng có nghĩa là một sự cản trở cho tiến trình trở thành mục tử nhân lành khi chúng ta tiếp tục bám vào đó. Đó là con đường của kẻ chăn thuê.
Mục tử nhân lành nhận trách nhiệm khi thất bại, kẻ chăn thuê xem thất bại là điều tệ hại.
Thất bại không đơn thuần là một thất bại nhưng là một cơ hội mở ra những kinh nghiệm và những bài học vô giá cho một khởi đầu mới. Theo tác giả Smith, thất bại là một động từ chứ không phải là một danh từ, nó là hành động của ta chứ không phải là bản thân ta.
Đối với những mục tử nhân lành, đón nhận thất bại như là một phần sứ vụ của mình là điều giúp họ mở ra một tiến trình mới của việc tự giáo dục. Mỗi một thất bại đều có hai chiều kích, một đàng, họ nhận ra những khiếm khuyết cần được bổ túc; đàng khác, họ thấy được những hướng đi khác cho sứ vụ. Bên cạnh đó, việc dám chấp nhận thất bại cũng nói lên thái độ khiêm hạ của người mục tử nhân lành. Từ chấp nhận chính thất bại của mình mở ra một thái độ khiêm hạ chấp nhận những thất bại của anh chị em mình.
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong bài giáo lý về Tuần Thánh và Thánh Giá ngày 16/4/2014 đã xác tín với kinh nghiệm của vị mục tử nhân lành: “Chúng ta trông mong Thiên Chúa, trong sự toàn năng của Ngài, đánh bại bất công, sự dữ, tội lỗi và đau khổ bằng một cuộc chiến thắng khải hoàn thần diệu. Thay vào đó, Thiên Chúa cho chúng ta thấy một chiến thắng khiêm tốn, bị coi như là thất bại trước mắt loài người. Chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa chiến thắng trong thất bại!...
Khi tất cả dường như bị thất bại, khi không còn ai vì chúng đánh “chủ chăn, và đàn chiên sẽ bị phân tán” (Mt 26,31), thì chính khi đó, Thiên Chúa can thiệp với quyền năng Phục Sinh. Sự Sống Lại của Chúa Giêsu không phải là kết thúc tốt đẹp của một câu chuyện thần tiên, không phải là kết thúc có hậu của một cuốn phim, nhưng là sự can thiệp của Thiên Chúa Cha, và ở nơi mà niềm hy vọng của con người bị sụp đổ. Vào lúc mà tất cả dường như bị mất hết, trong lúc đớn đau, trong đó nhiều người cảm thấy cần phải xuống khỏi thập giá, chính là lúc gần sự sống lại nhất. Đêm trở nên tối hơn ngay trước khi buổi sáng bắt đầu, trước khi ánh sáng bắt đầu. Trong lúc đen tối nhất thì Thiên Chúa can thiệp và sống lại”.
Trong khi đó, kẻ chăn thuê có thể sẽ đổ lỗi, quy trách nhiệm, than phiền… và bỏ cuộc khi mọi thứ trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Bởi lẽ, họ nhìn thất bại bằng con mắt tiêu cực và đánh mất niềm hy vọng vào một thứ quyền năng của sự khôn ngoan nơi Thiên Chúa (1Cr 1, 25).
Mục tử nhân lành tìm kiếm giải pháp lâu dài, kẻ chăn thuê tìm cách giải quyết vấn đề trước mắt.
Theo tác giả Smith, giải quyết vấn đề trước mắt là cách làm của người thiển cận. Đó là cách làm của kẻ chăn thuê, vì họ không suy nghĩ theo hướng loại bỏ triệt để vấn đề, không coi đó thuộc về phần trách nhiệm, nên không hy sinh thời gian của mình cho việc giải quyết này. Họ bộc lộ rõ ý tưởng đùn đẩy, cứ để đó, người sau sẽ làm. Nói cách khác, đó là một sự lẩn tránh trách nhiệm.
Trong khi đó, mục tử nhân lành ý thức rõ vấn đề của cộng đoàn mình cần phải được giải quyết tận gốc rễ của nó. Dù họ biết rằng trước mắt, điều đó làm cho họ hao tổn sức khỏe, thời gian, đụng chạm…, nhưng sẽ đem lại hiệu quả cho sự phát triển và thăng tiến cộng đoàn ở tương lai. Họ ý thức rất rõ, dù chưa thể tìm ra giải pháp cho vấn đề ngay lúc này, nhưng họ tin sẽ giải quyết được nó trong tương lai. Đó là một cam kết dấn thân với sự tin tưởng và cả phó thác của người mục tử nhân lành. Bởi lẽ, cộng đoàn mà họ được trao phó là một phần cuộc đời của họ. Thế nên, việc giải quyết vấn đề của cộng đoàn sẽ là công việc trước tiên khởi đi từ việc giải quyết vấn đề của chính bản thân họ. Tác giả Smith nhận định, việc tìm giải pháp lâu dài trước tiên là kỷ luật cá nhân, sau đó, mới là hệ thống. Chỉ khi bình an trong tâm hồn, người mục tử nhân lành mới có được trạng thái đầy sức mạnh và sáng suốt để sáng tạo một con đường.
Mục tử nhân lành biết rộng, kẻ chăn thuê biết hẹp.
Mục tử nhân lành là người có kiến thức phổ quát, cái nhìn của họ bao quát nhiều lĩnh vực. Điều này cho phép họ thực sự thấy vấn đề nào quan trọng hơn; và nhờ đó, họ có được cái nhìn quân bình hơn về mọi sự. Nói cách khác, họ có cái nhìn tổng thể về cộng đoàn của họ và biết cần phải giải quyết điều gì trước, điều gì sau.
Trái lại, kẻ chăn thuê thường trầm trọng hóa vấn đề, bởi góc nhìn của họ hẹp, thiếu bao quát. Vì biết ít, họ nghĩ tưởng rằng mình quan trọng hơn so với thực tế. Điều này luôn khiến họ trở nên bối rối trong cách xử lý các vấn đề và thường không thành công.
Mục tử nhân lành động viên và sửa sai, kẻ chăn thuê luôn tránh né và an phận.
Động viên và sửa lỗi không chỉ là một vấn đề tâm lý trong tương giao người với người, nhưng đó là một đòi hỏi thiết yếu của Tin Mừng. "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em” (Mt 18,15).
Với Chúa Giêsu, đó không chỉ là tiến trình từng bước mà trong tư cách Mục Tử Nhân Lành, Người đã ứng xử theo nguyên tắc: sửa sai và khích lệ, động viên. Trong câu chuyện về hai anh em nhà Giêbêđê xin xỏ địa vị (Mt 20, 20-23), trước tiên, Chúa Giêsu chấn chỉnh họ (c.22); kế đến, Người làm cho họ thực tế hơn khi gieo vào trong lòng họ ước muốn (c.22b), và sau cùng, Người khích lệ họ (c.23). Mặt khác, đó cũng là thái độ kiếm tìm và tha thứ của người mục tử nhân lành. “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai” (Lc 15,5).
Trái lại, kẻ chăn thuê chẳng tha thiết gì với việc động viên và sửa lỗi, nếu không nói là họ từ chối việc sửa sai người khác. Họ chủ trương không dại gì “dây vào” với những người lỗi lầm vì chính họ cũng không muốn thăng tiến bản thân mình. Họ sợ bị “lật mặt nạ”, sợ người khác biết tư cách chăn thuê của họ. Thế nên, việc chọn lựa thái độ “phớt lờ” của thứ chủ nghĩa “makeno” sẽ là giải pháp cuối cùng của kẻ chăn thuê chỉ mong tìm sự “bình an” cho mình.
Mục tử nhân lành nói: “Lỗi tại tôi”, kẻ chăn thuê nói: “không phải tại tôi”.
Không chỉ là chấp nhận người khác trong sự thật về họ để trân trọng, yêu thương và trợ giúp, chính bản thân người mục tử nhân lành cũng ý thức rất rõ về thân phận đầy yếu đuối của mình. Bởi thế, họ can đảm nhận lấy những lỗi lầm của mình: “Lỗi tại tôi”. Họ ý thức được rằng, sự thay đổi của cộng đoàn sẽ không bao giờ có thể diễn ra khi chính bản thân họ chưa thay đổi. Ý thức lỗi lầm của mình sẽ là bước đầu tiên cho tiến trình đổi thay này.
Trái lại, với kẻ chăn thuê, những gì đang xảy ra trong cộng đoàn không phải là tại họ nhưng do bởi ai đó. Họ đổ lỗi cho người khác, và không chấp nhận biến đổi mình. Vì vậy, việc thăng tiến của cộng đoàn là trách nhiệm của ai khác chứ không phải là của họ.
Mục tử nhân lành xây dựng sự giàu có, kẻ chăn thuê kiếm tiền.
Khi chưa trở thành linh mục, tôi vẫn nghe nói, làm linh mục giáo phận, muốn giàu là giàu, muốn nghèo là nghèo, muốn sướng là sướng và muốn khổ là khổ… Thú thực lúc ấy, tôi chẳng thể hiểu nổi điều này. Nhưng khi trở thành linh mục rồi, tôi bắt đầu “ngộ” ra. Và đây cũng là điều mà tác giả Smith đề cập đến để phân biệt mục tử nhân lành hay kẻ chăn thuê.
Cách đây ít lâu, một cụ ông chia sẻ: “Con xin cho bà cụ nhà 30 thánh lễ, cha xứ bảo con còn thiếu tiền, vì bằng này chưa đủ 30 lễ…(!!!)”. Một giáo dân khác kể: “Cha xứ con thông báo xin một thánh lễ giá là….. (!!!)”. Một chị giáo dân ấm ức: “Có người nhờ con chuyển dùm lễ với số tiền…, nhưng nhiều cha không nhận…(???)”… và nhiều nhiều tình huống khác tương tự. Buồn! nhưng rõ ràng vẫn còn không ít mục tử đang là kẻ chăn thuê để kiếm tiền. Cho dù lý giải khéo đến đâu đi chăng nữa, rõ ràng đây là thực tế khó chấp nhận trong tư cách mục tử nhân lành.
Điều mà tác giả Smith đề cập tới không phải là sự giàu có về vật chất. Sự giàu có mà mục tử nhân lành xây dựng chính là một cộng đoàn tăng trưởng mạnh mẽ. Nếu một người chủ không chỉ dừng lại ở việc kiếm tiền, nhưng còn tìm cách làm cho công ty của mình phát triển mạnh mẽ, thì một mục tử nhân lành đích thực cũng thế, phải tìm cách để làm cho cộng đoàn của mình phát triển toàn vẹn mọi mặt trên nền tảng của chính cộng đoàn mình. Điều này thể hiện trước tiên trong tiến trình “làm giàu” của chính bản thân mục tử. Nếu chỉ dừng lại ở việc tích góp tiền của, mục tử có nguy cơ trở thành kẻ chăn thuê, nhưng khi hướng tới việc “làm giàu” cho bản thân, là cho bản thân thăng tiến toàn diện, mục tử sẽ trở thành mục tử nhân lành đích thực đồng thời cũng sẽ tìm ra một con đường khả dĩ dẫn lối cho cộng đoàn của mình!.
Kẻ chăn thuê, vì chủ trương kiếm tiền, sẽ có thể bỏ đàn chiên khi nơi đó không thể kiếm tiền dồi dào được nữa, hoặc họ sẽ “mọc rễ” thật chắc và thật sâu tại những nơi ‘béo bở”. Mục tử nhân lành thì khác, vì lo lắng cho sự “phồn vinh và giàu có” của đàn chiên, của cộng đoàn, họ tiếp tục khám phá và xây nền trên chính sự thực của cộng đoàn họ.
Mục tử nhân lành bay cùng đại bàng, kẻ chăn thuê chơi cùng lũ gà.
Tác giả Smith quả quyết, nếu muốn trở thành vĩ đại, bạn phải chơi cùng những người vĩ đại. Nếu muốn hạnh phúc, bạn phải ở bên cạnh những người hạnh phúc. Điều quả quyết này gợi nhắc, một mục tử muốn trở thành “nhân lành”, phải biết kết thân và sống với những mục tử nhân lành. Nói cách khác, linh mục, trong tư cách là mục tử, chỉ có thể trở nên “Nhân Lành” khi bắt đầu biết quay về học và khám phá cách mà Mục Tử Nhân Lành mang tên Giêsu đã sống chết với đàn chiên của mình. Những kiến thức khoa học về lãnh đạo, tâm lý nhân sự… cần cho người mục tử nhưng chưa đủ, họ cần sống tương giao đích thực với Mục Tử Nhân Lành Giêsu mới mong hoàn thành sứ vụ của mình.
Trái lại, những kẻ chăn thuê chỉ cần áp dụng quyền tài phán thô thiển theo cảm tính, những thứ “đắc nhân tâm” rẻ tiền như những kim chỉ nam để dẫn dắt đàn chiên. Có thể nói chính xác hơn, họ dùng thứ quyền lực của pháp lý hơn là thứ quyền lực nội tại trong chính nhân cách của họ. Họ học biết và ứng xử theo những nhà lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền kiểu thế quyền. Con đường quyền lực pháp lý một khi không thành công, việc xử dụng các biện pháp cưỡng chế, ép buộc… là khó tránh khỏi. Điều này hoàn toàn trái ngược với mẫu của mục tử nhân lành: “biết chiên và chiên biết”.
Mục tử nhân lành hướng tới tương lai, kẻ chăn thuê nhìn vào quá khứ.
Một nhà lãnh đạo đích thực không thể thiếu một tầm nhìn. Tầm nhìn là khả năng có thể nhìn thấy một bức tranh tốt đẹp cho tương lai. Chúa Giêsu trong vai trò của một Mục Tử Nhân Lành đã xác định một tầm nhìn rõ ràng của Người với mọi người khi Người công khai rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người mở ra một nhãn giới tràn đầy hy vọng cho sứ vụ của Người cho những kẻ theo Người cũng như cho những ai tiếp bước hành trình của Người. Suy ngẫm về quá khứ là điều cần, nhưng với mục tử nhân lành, họ không dừng lại với quá khứ mà từ kinh nghiệm quá khứ, họ hoạch định một tầm nhìn cho tương lai.
Trái lại, kẻ chăn thuê không thấy sự cần thiết của một tầm nhìn. Họ “chạy gạo từng bữa” với sứ vụ của mình. Tệ hơn, họ chỉ nhìn vào quá khứ “để ca ngợi mãi và tiếc nuối cho thời “vàng son” đã qua, để than phiền hoặc để “gặm nhấm nỗi đau” về những khiếm khuyết, những tội lỗi hay sự xấu hổ….. Họ không chỉ cảm thấy thất vọng về cộng đoàn của mình mà chính họ đang thất vọng về (chính) bản thân mình nữa.
Mục tử nhân lành tin tưởng nên chấp nhận rủi ro, kẻ chăn thuê sợ hãi nên chọn an toàn.
Một trong những khác biệt giữa người lãnh đạo và người quản lý là người lãnh đạo tìm kiếm sự thay đổi, còn người quản lý tìm kiếm sự an toàn. Linh mục, với tư cách là người lãnh đạo cộng đoàn cũng sẽ được thẩm định bằng ý tưởng của tác giả Smith. Mục tử nhân lành không thể là người quản lý nhưng phải là nhà lãnh đạo. Điều này hàm chứa rằng, mục tử nhân lành không bao giờ chọn sự an toàn. Để có thể bảo vệ đàn chiên, mục tử nhân lành phải can đảm và tin tưởng để chấp nhận những rủi ro. “Anh ta đi trước và chiên đi theo sau” (Ga 10, 4). Sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách để bảo vệ đàn chiên, kể cả hy sinh tính mạng là đặc điểm của Mục Tử Nhân Lành (x. Ga 10,11). Đàng khác, sự tin tưởng của mục tử nhân lành cũng hàm chứa ngay trong sự tự tin và sự tin tưởng với từng con chiên trong đoàn. “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9).
Trái lại, kẻ chăn thuê sẽ không bao giờ sẵn sàng liều chết vì đàn chiên. Với anh ta, mạng sống mình bao giờ cũng quý hơn đàn chiên. Bởi lẽ, đàn chiên không thuộc về anh ta, mạng sống của anh ta mới là của anh ta. Chính vì thế, anh ta sợ hãi trước những nguy hiểm và bất trắc trong hành trình của mình và đàn chiên. Anh ta chọn những nơi, những con đường, những cách thế… an toàn cho anh ta hơn là cho đàn chiên. Có thể chọn lựa đó sẽ là một thiệt thòi lớn cho đàn chiên, nhưng với anh ta, điều đó không quan trọng. Bản thân anh ta mới là quan trọng số một và “anh ta không thiết gì đến chiên” (Ga 10, 13).
…
“Ném phao lại!”
Đọc lại những điều trên để một lần nữa, “Xuất phát lại từ Đức Kitô”. Tiến trình để trở thành mục tử nhân lành sẽ không được và không thể làm một lần thay cho tất cả. “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi!”. Hãy “ném phao lại” từ chính đời sống của mình để bắt đầu lại cho một hành trình mới của sứ vụ.
Mong thay!
Lm. Giuse Têrêsa Trần Anh Thụ
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu, khi nói về người mục tử, đã định nghĩa và phân biệt hai loại mục tử, mục tử nhân lành và kẻ chăn thuê: “Mục Tử nhân lành hy sinh tính mạng cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuôc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10,11-13). Là một linh mục, hay bất kì chức vụ nào khác trong Hội Thánh, có lẽ mỗi người ít nhiều đã không thể quên điều nhắc nhở của Thầy Giêsu. Tuy nhiên, có thực sự mình đang là những mục tử nhân lành?
Tình cờ đọc được cuốn sách có tựa đề “The Top 10 Distinctions between Entrepreneurs and Employees” của tác giả Keeith Cameron Smith viết cho các nhà lãnh đạo, bản thân là một linh mục – người lãnh đạo cộng đoàn – tôi cũng cảm thấy “nhột nhột” với cảm giác hình như mình cũng đang nằm trong nhóm chăn thuê (?). Lật mở lại những dòng giáo huấn của Tin Mừng và của Hội Thánh để thêm một lần khám phá và chia sẻ cùng mọi người đang cùng trách nhiệm mục tử từ góc nhìn của tác giả Smith.
Mục tử nhân lành học nhiều hơn tiêu khiển, kẻ chăn thuê tiêu khiển nhiều hơn tự học.
Quá trình đào tạo trong Đại Chủng Viện xây dựng chúng ta thành những mục tử như lòng Chúa mong muốn. Tuy nhiên, việc trở thành mục tử nhân lành hay kẻ chăn thuê lại là việc của từng người khi bắt đầu sứ vụ linh mục trong việc “biết chiên” và “chiên biết” (Ga 10,14), như chính Thầy Giêsu đã nói về mình. Điều này, thôi thúc chúng ta ưu tiên dành nhiều thời gian cho việc học tập như thường huấn và tự thường huấn. Nhưng chúng ta sẽ phải học điều gì? Đó mới là vấn đề!
Trước hết, để có thể “biết chiên” và “chiên biết”, người mục tử nhân lành khi bắt đầu sứ vụ không thể không học và không ngừng học khám phá đàn chiên của mình. Điều này cũng hàm chứa một đòi hỏi khám phá chính bản thân mình. Đó là con đường của gặp gỡ và đối thoại không ngừng nghỉ với thái độ khiêm tốn và khôn ngoan. Học biết giao tiếp và lắng nghe không luôn là điều dễ và cũng không thể thực hiện một lần thay cho tất cả.
Bên cạnh đó, sự trợ giúp của khoa học nhân văn như: tâm lý, xã hội,… cũng là những đối tượng cần được tài bồi. Điều này đã được Công đồng Vaticano II khuyến cáo: “Trong phạm vi mục vụ, phải thấu triệt và áp dụng không những các nguyên tắc thần học, nhưng cả những phát minh của các khoa học "đời", nhất là khoa tâm lý và xã hội học. Như thế, các tín hữu cũng sẽ nuôi dưỡng được một đời sống đức tin tinh ròng và trưởng thành hơn” (GS, 62).
Hơn nữa, trong tư cách là một nhà lãnh đạo, linh mục, nếu thiếu những kiến thức nhất định về khoa học lãnh đạo, sẽ không thể có khả năng truyền cảm hứng cho “đàn chiên". Kết quả khó tránh được là vị ấy sẽ thiên về sự thúc ép quá đáng hoặc sẽ rơi vào thái độ chán nản, sống khép kín và buông xuôi.
Quan trọng hơn, mục tử nhân lành dẫn dắt đàn chiên đi tới nguồn sống đích thực để chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Những kiến thức giáo lý, thần học, những định hướng từ giáo huấn của Hội Thánh nếu không liên tục cập nhật, người mục tử khó có thể dẫn lối cho đàn chiên mình.
Bởi thế, báo chí, truyền hình, internet… và nhiều thứ tiêu khiển khác là cần thiết, nhưng tất cả chỉ có thể là những trò tiêu khiển; những phút giây thư giãn, nếu không biết sử dụng một cách khôn ngoan để rút tỉa từ đó sự am hiểu về thế giới, con người, những vấn đề của con người và cuộc sống hiện tại... Đó không phải là con đường của học tập. Điều đó cũng có nghĩa là một sự cản trở cho tiến trình trở thành mục tử nhân lành khi chúng ta tiếp tục bám vào đó. Đó là con đường của kẻ chăn thuê.
Mục tử nhân lành nhận trách nhiệm khi thất bại, kẻ chăn thuê xem thất bại là điều tệ hại.
Thất bại không đơn thuần là một thất bại nhưng là một cơ hội mở ra những kinh nghiệm và những bài học vô giá cho một khởi đầu mới. Theo tác giả Smith, thất bại là một động từ chứ không phải là một danh từ, nó là hành động của ta chứ không phải là bản thân ta.
Đối với những mục tử nhân lành, đón nhận thất bại như là một phần sứ vụ của mình là điều giúp họ mở ra một tiến trình mới của việc tự giáo dục. Mỗi một thất bại đều có hai chiều kích, một đàng, họ nhận ra những khiếm khuyết cần được bổ túc; đàng khác, họ thấy được những hướng đi khác cho sứ vụ. Bên cạnh đó, việc dám chấp nhận thất bại cũng nói lên thái độ khiêm hạ của người mục tử nhân lành. Từ chấp nhận chính thất bại của mình mở ra một thái độ khiêm hạ chấp nhận những thất bại của anh chị em mình.
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong bài giáo lý về Tuần Thánh và Thánh Giá ngày 16/4/2014 đã xác tín với kinh nghiệm của vị mục tử nhân lành: “Chúng ta trông mong Thiên Chúa, trong sự toàn năng của Ngài, đánh bại bất công, sự dữ, tội lỗi và đau khổ bằng một cuộc chiến thắng khải hoàn thần diệu. Thay vào đó, Thiên Chúa cho chúng ta thấy một chiến thắng khiêm tốn, bị coi như là thất bại trước mắt loài người. Chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa chiến thắng trong thất bại!...
Khi tất cả dường như bị thất bại, khi không còn ai vì chúng đánh “chủ chăn, và đàn chiên sẽ bị phân tán” (Mt 26,31), thì chính khi đó, Thiên Chúa can thiệp với quyền năng Phục Sinh. Sự Sống Lại của Chúa Giêsu không phải là kết thúc tốt đẹp của một câu chuyện thần tiên, không phải là kết thúc có hậu của một cuốn phim, nhưng là sự can thiệp của Thiên Chúa Cha, và ở nơi mà niềm hy vọng của con người bị sụp đổ. Vào lúc mà tất cả dường như bị mất hết, trong lúc đớn đau, trong đó nhiều người cảm thấy cần phải xuống khỏi thập giá, chính là lúc gần sự sống lại nhất. Đêm trở nên tối hơn ngay trước khi buổi sáng bắt đầu, trước khi ánh sáng bắt đầu. Trong lúc đen tối nhất thì Thiên Chúa can thiệp và sống lại”.
Trong khi đó, kẻ chăn thuê có thể sẽ đổ lỗi, quy trách nhiệm, than phiền… và bỏ cuộc khi mọi thứ trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Bởi lẽ, họ nhìn thất bại bằng con mắt tiêu cực và đánh mất niềm hy vọng vào một thứ quyền năng của sự khôn ngoan nơi Thiên Chúa (1Cr 1, 25).
Mục tử nhân lành tìm kiếm giải pháp lâu dài, kẻ chăn thuê tìm cách giải quyết vấn đề trước mắt.
Theo tác giả Smith, giải quyết vấn đề trước mắt là cách làm của người thiển cận. Đó là cách làm của kẻ chăn thuê, vì họ không suy nghĩ theo hướng loại bỏ triệt để vấn đề, không coi đó thuộc về phần trách nhiệm, nên không hy sinh thời gian của mình cho việc giải quyết này. Họ bộc lộ rõ ý tưởng đùn đẩy, cứ để đó, người sau sẽ làm. Nói cách khác, đó là một sự lẩn tránh trách nhiệm.
Trong khi đó, mục tử nhân lành ý thức rõ vấn đề của cộng đoàn mình cần phải được giải quyết tận gốc rễ của nó. Dù họ biết rằng trước mắt, điều đó làm cho họ hao tổn sức khỏe, thời gian, đụng chạm…, nhưng sẽ đem lại hiệu quả cho sự phát triển và thăng tiến cộng đoàn ở tương lai. Họ ý thức rất rõ, dù chưa thể tìm ra giải pháp cho vấn đề ngay lúc này, nhưng họ tin sẽ giải quyết được nó trong tương lai. Đó là một cam kết dấn thân với sự tin tưởng và cả phó thác của người mục tử nhân lành. Bởi lẽ, cộng đoàn mà họ được trao phó là một phần cuộc đời của họ. Thế nên, việc giải quyết vấn đề của cộng đoàn sẽ là công việc trước tiên khởi đi từ việc giải quyết vấn đề của chính bản thân họ. Tác giả Smith nhận định, việc tìm giải pháp lâu dài trước tiên là kỷ luật cá nhân, sau đó, mới là hệ thống. Chỉ khi bình an trong tâm hồn, người mục tử nhân lành mới có được trạng thái đầy sức mạnh và sáng suốt để sáng tạo một con đường.
Mục tử nhân lành biết rộng, kẻ chăn thuê biết hẹp.
Mục tử nhân lành là người có kiến thức phổ quát, cái nhìn của họ bao quát nhiều lĩnh vực. Điều này cho phép họ thực sự thấy vấn đề nào quan trọng hơn; và nhờ đó, họ có được cái nhìn quân bình hơn về mọi sự. Nói cách khác, họ có cái nhìn tổng thể về cộng đoàn của họ và biết cần phải giải quyết điều gì trước, điều gì sau.
Trái lại, kẻ chăn thuê thường trầm trọng hóa vấn đề, bởi góc nhìn của họ hẹp, thiếu bao quát. Vì biết ít, họ nghĩ tưởng rằng mình quan trọng hơn so với thực tế. Điều này luôn khiến họ trở nên bối rối trong cách xử lý các vấn đề và thường không thành công.
Mục tử nhân lành động viên và sửa sai, kẻ chăn thuê luôn tránh né và an phận.
Động viên và sửa lỗi không chỉ là một vấn đề tâm lý trong tương giao người với người, nhưng đó là một đòi hỏi thiết yếu của Tin Mừng. "Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em” (Mt 18,15).
Với Chúa Giêsu, đó không chỉ là tiến trình từng bước mà trong tư cách Mục Tử Nhân Lành, Người đã ứng xử theo nguyên tắc: sửa sai và khích lệ, động viên. Trong câu chuyện về hai anh em nhà Giêbêđê xin xỏ địa vị (Mt 20, 20-23), trước tiên, Chúa Giêsu chấn chỉnh họ (c.22); kế đến, Người làm cho họ thực tế hơn khi gieo vào trong lòng họ ước muốn (c.22b), và sau cùng, Người khích lệ họ (c.23). Mặt khác, đó cũng là thái độ kiếm tìm và tha thứ của người mục tử nhân lành. “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai” (Lc 15,5).
Trái lại, kẻ chăn thuê chẳng tha thiết gì với việc động viên và sửa lỗi, nếu không nói là họ từ chối việc sửa sai người khác. Họ chủ trương không dại gì “dây vào” với những người lỗi lầm vì chính họ cũng không muốn thăng tiến bản thân mình. Họ sợ bị “lật mặt nạ”, sợ người khác biết tư cách chăn thuê của họ. Thế nên, việc chọn lựa thái độ “phớt lờ” của thứ chủ nghĩa “makeno” sẽ là giải pháp cuối cùng của kẻ chăn thuê chỉ mong tìm sự “bình an” cho mình.
Mục tử nhân lành nói: “Lỗi tại tôi”, kẻ chăn thuê nói: “không phải tại tôi”.
Không chỉ là chấp nhận người khác trong sự thật về họ để trân trọng, yêu thương và trợ giúp, chính bản thân người mục tử nhân lành cũng ý thức rất rõ về thân phận đầy yếu đuối của mình. Bởi thế, họ can đảm nhận lấy những lỗi lầm của mình: “Lỗi tại tôi”. Họ ý thức được rằng, sự thay đổi của cộng đoàn sẽ không bao giờ có thể diễn ra khi chính bản thân họ chưa thay đổi. Ý thức lỗi lầm của mình sẽ là bước đầu tiên cho tiến trình đổi thay này.
Trái lại, với kẻ chăn thuê, những gì đang xảy ra trong cộng đoàn không phải là tại họ nhưng do bởi ai đó. Họ đổ lỗi cho người khác, và không chấp nhận biến đổi mình. Vì vậy, việc thăng tiến của cộng đoàn là trách nhiệm của ai khác chứ không phải là của họ.
Mục tử nhân lành xây dựng sự giàu có, kẻ chăn thuê kiếm tiền.
Khi chưa trở thành linh mục, tôi vẫn nghe nói, làm linh mục giáo phận, muốn giàu là giàu, muốn nghèo là nghèo, muốn sướng là sướng và muốn khổ là khổ… Thú thực lúc ấy, tôi chẳng thể hiểu nổi điều này. Nhưng khi trở thành linh mục rồi, tôi bắt đầu “ngộ” ra. Và đây cũng là điều mà tác giả Smith đề cập đến để phân biệt mục tử nhân lành hay kẻ chăn thuê.
Cách đây ít lâu, một cụ ông chia sẻ: “Con xin cho bà cụ nhà 30 thánh lễ, cha xứ bảo con còn thiếu tiền, vì bằng này chưa đủ 30 lễ…(!!!)”. Một giáo dân khác kể: “Cha xứ con thông báo xin một thánh lễ giá là….. (!!!)”. Một chị giáo dân ấm ức: “Có người nhờ con chuyển dùm lễ với số tiền…, nhưng nhiều cha không nhận…(???)”… và nhiều nhiều tình huống khác tương tự. Buồn! nhưng rõ ràng vẫn còn không ít mục tử đang là kẻ chăn thuê để kiếm tiền. Cho dù lý giải khéo đến đâu đi chăng nữa, rõ ràng đây là thực tế khó chấp nhận trong tư cách mục tử nhân lành.
Điều mà tác giả Smith đề cập tới không phải là sự giàu có về vật chất. Sự giàu có mà mục tử nhân lành xây dựng chính là một cộng đoàn tăng trưởng mạnh mẽ. Nếu một người chủ không chỉ dừng lại ở việc kiếm tiền, nhưng còn tìm cách làm cho công ty của mình phát triển mạnh mẽ, thì một mục tử nhân lành đích thực cũng thế, phải tìm cách để làm cho cộng đoàn của mình phát triển toàn vẹn mọi mặt trên nền tảng của chính cộng đoàn mình. Điều này thể hiện trước tiên trong tiến trình “làm giàu” của chính bản thân mục tử. Nếu chỉ dừng lại ở việc tích góp tiền của, mục tử có nguy cơ trở thành kẻ chăn thuê, nhưng khi hướng tới việc “làm giàu” cho bản thân, là cho bản thân thăng tiến toàn diện, mục tử sẽ trở thành mục tử nhân lành đích thực đồng thời cũng sẽ tìm ra một con đường khả dĩ dẫn lối cho cộng đoàn của mình!.
Kẻ chăn thuê, vì chủ trương kiếm tiền, sẽ có thể bỏ đàn chiên khi nơi đó không thể kiếm tiền dồi dào được nữa, hoặc họ sẽ “mọc rễ” thật chắc và thật sâu tại những nơi ‘béo bở”. Mục tử nhân lành thì khác, vì lo lắng cho sự “phồn vinh và giàu có” của đàn chiên, của cộng đoàn, họ tiếp tục khám phá và xây nền trên chính sự thực của cộng đoàn họ.
Mục tử nhân lành bay cùng đại bàng, kẻ chăn thuê chơi cùng lũ gà.
Tác giả Smith quả quyết, nếu muốn trở thành vĩ đại, bạn phải chơi cùng những người vĩ đại. Nếu muốn hạnh phúc, bạn phải ở bên cạnh những người hạnh phúc. Điều quả quyết này gợi nhắc, một mục tử muốn trở thành “nhân lành”, phải biết kết thân và sống với những mục tử nhân lành. Nói cách khác, linh mục, trong tư cách là mục tử, chỉ có thể trở nên “Nhân Lành” khi bắt đầu biết quay về học và khám phá cách mà Mục Tử Nhân Lành mang tên Giêsu đã sống chết với đàn chiên của mình. Những kiến thức khoa học về lãnh đạo, tâm lý nhân sự… cần cho người mục tử nhưng chưa đủ, họ cần sống tương giao đích thực với Mục Tử Nhân Lành Giêsu mới mong hoàn thành sứ vụ của mình.
Trái lại, những kẻ chăn thuê chỉ cần áp dụng quyền tài phán thô thiển theo cảm tính, những thứ “đắc nhân tâm” rẻ tiền như những kim chỉ nam để dẫn dắt đàn chiên. Có thể nói chính xác hơn, họ dùng thứ quyền lực của pháp lý hơn là thứ quyền lực nội tại trong chính nhân cách của họ. Họ học biết và ứng xử theo những nhà lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền kiểu thế quyền. Con đường quyền lực pháp lý một khi không thành công, việc xử dụng các biện pháp cưỡng chế, ép buộc… là khó tránh khỏi. Điều này hoàn toàn trái ngược với mẫu của mục tử nhân lành: “biết chiên và chiên biết”.
Mục tử nhân lành hướng tới tương lai, kẻ chăn thuê nhìn vào quá khứ.
Một nhà lãnh đạo đích thực không thể thiếu một tầm nhìn. Tầm nhìn là khả năng có thể nhìn thấy một bức tranh tốt đẹp cho tương lai. Chúa Giêsu trong vai trò của một Mục Tử Nhân Lành đã xác định một tầm nhìn rõ ràng của Người với mọi người khi Người công khai rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người mở ra một nhãn giới tràn đầy hy vọng cho sứ vụ của Người cho những kẻ theo Người cũng như cho những ai tiếp bước hành trình của Người. Suy ngẫm về quá khứ là điều cần, nhưng với mục tử nhân lành, họ không dừng lại với quá khứ mà từ kinh nghiệm quá khứ, họ hoạch định một tầm nhìn cho tương lai.
Trái lại, kẻ chăn thuê không thấy sự cần thiết của một tầm nhìn. Họ “chạy gạo từng bữa” với sứ vụ của mình. Tệ hơn, họ chỉ nhìn vào quá khứ “để ca ngợi mãi và tiếc nuối cho thời “vàng son” đã qua, để than phiền hoặc để “gặm nhấm nỗi đau” về những khiếm khuyết, những tội lỗi hay sự xấu hổ….. Họ không chỉ cảm thấy thất vọng về cộng đoàn của mình mà chính họ đang thất vọng về (chính) bản thân mình nữa.
Mục tử nhân lành tin tưởng nên chấp nhận rủi ro, kẻ chăn thuê sợ hãi nên chọn an toàn.
Một trong những khác biệt giữa người lãnh đạo và người quản lý là người lãnh đạo tìm kiếm sự thay đổi, còn người quản lý tìm kiếm sự an toàn. Linh mục, với tư cách là người lãnh đạo cộng đoàn cũng sẽ được thẩm định bằng ý tưởng của tác giả Smith. Mục tử nhân lành không thể là người quản lý nhưng phải là nhà lãnh đạo. Điều này hàm chứa rằng, mục tử nhân lành không bao giờ chọn sự an toàn. Để có thể bảo vệ đàn chiên, mục tử nhân lành phải can đảm và tin tưởng để chấp nhận những rủi ro. “Anh ta đi trước và chiên đi theo sau” (Ga 10, 4). Sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách để bảo vệ đàn chiên, kể cả hy sinh tính mạng là đặc điểm của Mục Tử Nhân Lành (x. Ga 10,11). Đàng khác, sự tin tưởng của mục tử nhân lành cũng hàm chứa ngay trong sự tự tin và sự tin tưởng với từng con chiên trong đoàn. “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9).
Trái lại, kẻ chăn thuê sẽ không bao giờ sẵn sàng liều chết vì đàn chiên. Với anh ta, mạng sống mình bao giờ cũng quý hơn đàn chiên. Bởi lẽ, đàn chiên không thuộc về anh ta, mạng sống của anh ta mới là của anh ta. Chính vì thế, anh ta sợ hãi trước những nguy hiểm và bất trắc trong hành trình của mình và đàn chiên. Anh ta chọn những nơi, những con đường, những cách thế… an toàn cho anh ta hơn là cho đàn chiên. Có thể chọn lựa đó sẽ là một thiệt thòi lớn cho đàn chiên, nhưng với anh ta, điều đó không quan trọng. Bản thân anh ta mới là quan trọng số một và “anh ta không thiết gì đến chiên” (Ga 10, 13).
…
“Ném phao lại!”
Đọc lại những điều trên để một lần nữa, “Xuất phát lại từ Đức Kitô”. Tiến trình để trở thành mục tử nhân lành sẽ không được và không thể làm một lần thay cho tất cả. “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi!”. Hãy “ném phao lại” từ chính đời sống của mình để bắt đầu lại cho một hành trình mới của sứ vụ.
Mong thay!
Lm. Giuse Têrêsa Trần Anh Thụ
Tà tâm
Lm Vũđình Tường 8/28/2015
Cơ thể con người luôn phải phấn đấu chống lại bệnh tật và các thứ vi khuẩn đầy dẫy trong không gian. Dù thật cẩn thận bạn cũng chỉ có thể tìm được thực phẩm tương đối sạch, tươi nhưng không thể kiếm ra thức ăn, nước uống tinh tuyền, sạch trăm phần. Rất nhiều trường hợp không thể tránh mà phải chấp nhận. Ví dụ như bạn bay chuyến bay dài năm bảy tiếng đồng hồ bạn sẽ phải chia sẻ cùng lượng không khí trong máy bay với hàng trăm người khác. Trong số đó có bao hành khách mang bệnh mỗi lần thở ra hít vào đều xả vào không khí hàng loạt vi trùng. Da tay bạn sờ vào thành ghế, cầm cái li, bắt tay khách hàng, ngồi cùng chiếc ghế trên xe bus. Làm sao có thể bảo đảm da tay của họ cũng sạch sẽ, rửa cẩn thận như tay của bạn. Vì thế cơ thể ta liên tục chống lại vi khuẩn xâm nhập vào từ bên ngoài.
Tà tâm phát sinh từ một tâm hồn bất chính. Tâm hồn bất chính vì tâm hồn đó được nuôi dưỡng bằng những tư tưởng sai trái. Sai trái phát sinh do dục vọng. Dục vọng đây bao gồm lạc thú, danh lợi và tham vọng. Tương tự như vi khuẩn dục vọng không ngưng nghỉ mà luôn tìm cách xâm nhập vào cuộc sống tâm linh của con người. Chúng xâm nhập vào bằng muôn ngả, nghìn cách. Ngưng canh phòng là bị chúng âm thầm tấn công tâm linh ta. Chúng đóng đô trong tâm hồn và lung lạc cách suy nghĩ, phán đoán công chính. Thay vào đó là tư tưởng sai trái. Ta không những trở thành nạn nhân của tư tưởng tà vạy mà còn đứng ra tự bênh vực, biện hộ cho hành động sai trái do tư tưởng lầm lạc hướng dẫn.
Ai cũng biết thực phẩm tốt ăn vào có lợi cho cơ thể, trong khi thực phẩm xấu ăn vào làm hại cơ thể. Cả hai loại thực phẩm này hoàn toàn không ảnh hưởng đến đời sống tâm linh vì thực phẩm nuôi cơ thể không thể nuôi tâm linh. Thực phẩm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh bao gồm sách báo xấu và những dục vọng ta du nhập vào. Hình ảnh xấu tạo cảm xúc, kích thích ngũ quan để từ đó dẫn đến tư tưởng và hành động trái luân thường, đạo lí. Để bênh vực cho những hành động tồi tệ đó người ta tìm cách chỉ trích luân thường là cổ hủ, đạo lí là lỗi thời hầu lấn át tiếng nói lương tâm công chính. Như thế nội chiến xảy ra trong tâm hồn và tư tưởng xấu, tồi tệ đang thắng thế và chính ta đứng ra bảo vệ, bênh vực chúng.
Tư tưởng tốt, hình ảnh tốt, cảm xúc tốt là những thực phẩm tốt cho đời sống tâm linh. Những điều này đến từ Thiên Chúa và giáo huấn của Đức Kitô bởi Ngài là nguồn gốc của thiện hảo, nguồn gốc của mọi sự tốt lành. Đức Kitô không chê trách phong tục tốt lành ông cha truyền lại nhưng Ngài chỉ trích lối giải thích một chiều nhằm mục đích phục vụ nguồn lợi của phe Biệt Phái và Cơ Đốc. Chính lối giải thích xuyên tạc sự thật là điều Đức Kitô chỉ trích và cho biết lối giải thích xuyên tạc trên đến từ một tâm hồn bất chính, một tâm hồn ảnh hưởng bởi thực phẩm hư nát hoành hành, hướng dẫn. Chính những hành động trên gây tác hại cho lối suy nghĩ, phán đoán phản lại công chính và tình yêu Chúa ban. Chính thân nhân họ sẽ trở thành nạn nhân và cộng đồng nhân loại bị ảnh hưởng lây do lối sống bất chính.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm trong sáng hoá tâm hồn, biến con tim nguội lạnh, bất cảm thành con tim biết cảm thông, thanh tẩy con tim hận thù thành con tim biết tha thứ. Ngài ban sự sống cho con tim khô khan, nguội lạnh bởi Ngài là Đấng vừa sáng tạo vừa ban sự sống cho tâm hồn. Tâm hồn nào thuộc về Ngài đều có bình an thực sự trong tâm hồn.
Lm Vũđình Tường 8/28/2015
Cơ thể con người luôn phải phấn đấu chống lại bệnh tật và các thứ vi khuẩn đầy dẫy trong không gian. Dù thật cẩn thận bạn cũng chỉ có thể tìm được thực phẩm tương đối sạch, tươi nhưng không thể kiếm ra thức ăn, nước uống tinh tuyền, sạch trăm phần. Rất nhiều trường hợp không thể tránh mà phải chấp nhận. Ví dụ như bạn bay chuyến bay dài năm bảy tiếng đồng hồ bạn sẽ phải chia sẻ cùng lượng không khí trong máy bay với hàng trăm người khác. Trong số đó có bao hành khách mang bệnh mỗi lần thở ra hít vào đều xả vào không khí hàng loạt vi trùng. Da tay bạn sờ vào thành ghế, cầm cái li, bắt tay khách hàng, ngồi cùng chiếc ghế trên xe bus. Làm sao có thể bảo đảm da tay của họ cũng sạch sẽ, rửa cẩn thận như tay của bạn. Vì thế cơ thể ta liên tục chống lại vi khuẩn xâm nhập vào từ bên ngoài.
Tà tâm phát sinh từ một tâm hồn bất chính. Tâm hồn bất chính vì tâm hồn đó được nuôi dưỡng bằng những tư tưởng sai trái. Sai trái phát sinh do dục vọng. Dục vọng đây bao gồm lạc thú, danh lợi và tham vọng. Tương tự như vi khuẩn dục vọng không ngưng nghỉ mà luôn tìm cách xâm nhập vào cuộc sống tâm linh của con người. Chúng xâm nhập vào bằng muôn ngả, nghìn cách. Ngưng canh phòng là bị chúng âm thầm tấn công tâm linh ta. Chúng đóng đô trong tâm hồn và lung lạc cách suy nghĩ, phán đoán công chính. Thay vào đó là tư tưởng sai trái. Ta không những trở thành nạn nhân của tư tưởng tà vạy mà còn đứng ra tự bênh vực, biện hộ cho hành động sai trái do tư tưởng lầm lạc hướng dẫn.
Ai cũng biết thực phẩm tốt ăn vào có lợi cho cơ thể, trong khi thực phẩm xấu ăn vào làm hại cơ thể. Cả hai loại thực phẩm này hoàn toàn không ảnh hưởng đến đời sống tâm linh vì thực phẩm nuôi cơ thể không thể nuôi tâm linh. Thực phẩm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh bao gồm sách báo xấu và những dục vọng ta du nhập vào. Hình ảnh xấu tạo cảm xúc, kích thích ngũ quan để từ đó dẫn đến tư tưởng và hành động trái luân thường, đạo lí. Để bênh vực cho những hành động tồi tệ đó người ta tìm cách chỉ trích luân thường là cổ hủ, đạo lí là lỗi thời hầu lấn át tiếng nói lương tâm công chính. Như thế nội chiến xảy ra trong tâm hồn và tư tưởng xấu, tồi tệ đang thắng thế và chính ta đứng ra bảo vệ, bênh vực chúng.
Tư tưởng tốt, hình ảnh tốt, cảm xúc tốt là những thực phẩm tốt cho đời sống tâm linh. Những điều này đến từ Thiên Chúa và giáo huấn của Đức Kitô bởi Ngài là nguồn gốc của thiện hảo, nguồn gốc của mọi sự tốt lành. Đức Kitô không chê trách phong tục tốt lành ông cha truyền lại nhưng Ngài chỉ trích lối giải thích một chiều nhằm mục đích phục vụ nguồn lợi của phe Biệt Phái và Cơ Đốc. Chính lối giải thích xuyên tạc sự thật là điều Đức Kitô chỉ trích và cho biết lối giải thích xuyên tạc trên đến từ một tâm hồn bất chính, một tâm hồn ảnh hưởng bởi thực phẩm hư nát hoành hành, hướng dẫn. Chính những hành động trên gây tác hại cho lối suy nghĩ, phán đoán phản lại công chính và tình yêu Chúa ban. Chính thân nhân họ sẽ trở thành nạn nhân và cộng đồng nhân loại bị ảnh hưởng lây do lối sống bất chính.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm trong sáng hoá tâm hồn, biến con tim nguội lạnh, bất cảm thành con tim biết cảm thông, thanh tẩy con tim hận thù thành con tim biết tha thứ. Ngài ban sự sống cho con tim khô khan, nguội lạnh bởi Ngài là Đấng vừa sáng tạo vừa ban sự sống cho tâm hồn. Tâm hồn nào thuộc về Ngài đều có bình an thực sự trong tâm hồn.
Đại Họa
Tôi tin, cách đối phó đúng nhất và cũng hữu hiệu nhất là tìm về chính nguồn. Nguồn đó là Chúa Giêsu.
1. Đang khi đạo tưng bừng chào mừng nhiều đại lễ, và đang khi đời hoan hô mừng nhiều đại hội, thì đó đây xảy ra nhiều đại hoạ. Nước mắt và tiếng khóc. Tàn phá và tan hoang. Mất của và trôi người. Đại hoạ bất ngờ. Đại hoạ lan rộng. Đó là những trận mưa lũ đánh chìm nhiều nơi tại miền Bắc nước ta.
2. Đại hoạ đó đánh thức lương tâm tôi. Tôi đau cái đau của biết bao đồng bào nạn nhân lũ lụt. Tôi lo cái lo của biết bao người có trách nhiệm đời đạo tại những nơi đó.
3. Đại hoạ đó là dịp để tôi nghĩ tới một đại hoạ khác đang đánh chìm nhiều nơi trong Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay. Đại hoạ mà tôi muốn nói tới ở đây, đó là tinh thần thế tục,cũng gọi là tinh thần tục hóa.
4. Ngay từ thời các thánh tông đồ, tinh thần thế tục vốn đã là một nguy cơ lớn cho đạo. Nên thánh tông đồ Phaolô đã viết: “Anh em đừng rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em, bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa. Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,2).
5. Theo lời dạy trên đây, tinh thần thế tục là sống theo ý riêng mình, chứ không theo ý Chúa. Tinh thần thế tục là không nhận ra đâu là cái tốt thật, đâu là cái đẹp lòng Chúa thật, đâu là cái hoàn hảo thật, mà chỉ đánh giá theo ý riêng mình, chứ không theo ý Chúa, rồi cho là đánh giá đúng.
Xét mình sơ qua, tôi cũng đã thấy tinh thần thế tục đúng là một đại hoạ cho chính bản thân tôi. Thí dụ:
6. Khi cầu nguyện, ăn chay, bố thí hay làm các việc đạo đức khác, nếu tôi để cho mục đích phô trương lẻn vào lòng tôi, thì Chúa sẽ phán với tôi: “Con đã được thưởng công rồi” (Mt 6,18). Phô trương là một hình thức của tinh thần thế tục. Chúa kết án hình thức đó.
7. Khi coi thường các điều kiện cuộc sống, như thời giờ, sức khoẻ, của cải, địa vị, hoặc lợi dụng chúng vào mục đích hưởng thụ, chớ không dùng chúng vào mục đích đổi mới bản thân mình để trở về với Chúa, thì Chúa sẽ phán về tôi, như xưa Người đã phán về thành Giêrusalem: “Sẽ có ngày thành này sẽ bị phá huỷ, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận ra thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19,44). Dửng dưng với ơn Chúa và sống hưởng thụ, đó là một hình thức khá phổ biến của tinh thần thế tục. Chúa kết án hình thức đó.
8. Khi đề cập đến những người hiện nay gây nên tội ác, như mất tính người, tôi thường đổ lỗi cho hoàn cảnh này nọ, mà không dám coi đó là dấu chỉ của quyền lực quỷ dữ hoành hành. Nhưng có lúc tôi được Chúa cho nhớ lại trường hợp một người bị quỷ ám đã trả lời với Chúa là “tôi là đạo binh”, nghĩa là trong người đó có rất đông quỷ dữ nhập vào (x. Lc 8,28-37). Không tin có quỷ, đó là một hình thức rất nguy hiểm của tinh thần thế tục, tạo môi trường tốt cho quỷ hoạt động.
9. Tinh thần thế tục gồm nhận thức sai trái và hành động sai trái, theo thói thế gian.
Nhận thức sai trái đó thường mang tính lừa dối. Hành động sai trái đó thường mang tính cách phá hoại đạo đức. Nhận thức sai trái đó và hành động sai trái đó là những hình thức tai hại của tinh thần thế tục, đang và sẽ bị Chúa kết án nặng nề.
10. Hiện nay, tinh thần thế tục là cả một hệ thống xấu gồm những lừa dối, những độc ác nối kết với nhau. Cái xấu này tạo nên môi trường để phát sinh ra cái xấu kia. Hệ thống xấu đó đang hình thành trong đạo cũng như ngoài đời.
11. Để đối phó với đại hoạ trên đây, Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức thức cầu nguyện, và sống tiết độ (1Pr 5,8).
Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến nhiều cảnh đối phó với tinh thần thế tục. Rất buồn là chính cảnh đối phó lại rất nặng tinh thần thế tục. Quỷ dữ do vậy mà thêm thắng thế.
12. Tôi tin, cách đối phó đúng nhất và cũng hữu hiệu nhất là tìm về chính nguồn.Nguồn đó là Chúa Giêsu. Tôi phải đến với Nguồn, phải uống nước từ Nguồn, phải để nước nguồn thấm sâu vào tôi, phải để nước nguồn nuôi dưỡng và đổi mới tôi.
13. Tôi làm những việc đó theo gương Đức Mẹ và những chứng nhân sống động trong lịch sử Hội Thánh.
Một trong những chứng nhân có ảnh hưởng lớn với tôi, là thánh Gioan Maria Vianney, cha sở xứ Ars.
Ngài là con người cầu nguyện gắn kết mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể.
Ngài là con người sống tiết độ trong mọi sự.
Ngài là con người gắn bó với bổn phận mục vụ một cách trung tín.
Ngài là con người tha thiết cứu các linh hồn.
Ngài là con người, mà quỷ tìm cách tấn công bằng đủ mưu mô, nhưng ngài vẫn thoát khỏi tinh thần thế tục, mà quỷ muốn lôi ngài vào.
Ngài là con người luôn khiêm tốn vâng phục Chúa Thánh Thần, để biết phân định, để biết chọn lựa, để biết sống tự do thực sự của người con Chúa.
14. Đại hoạ hiện nay là tinh thần thế tục, tinh thần tục hóa. Đại hoạ này đang có vẻ phát triển về chiều rộng và chiều sâu. Nhận thức được sự thực trên đây là một khởi đầu tốt, để có những bắt đầu lại, theo Phúc Âm, trong niềm tin vào Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót.
Rất mừng là tại Việt Nam hôm nay, nhiều người đã nhận thức được sự thực đó. Xin hết lòng cảm tạ Chúa.
ĐGM. GB Bùi Tuần
Tôi tin, cách đối phó đúng nhất và cũng hữu hiệu nhất là tìm về chính nguồn. Nguồn đó là Chúa Giêsu.
1. Đang khi đạo tưng bừng chào mừng nhiều đại lễ, và đang khi đời hoan hô mừng nhiều đại hội, thì đó đây xảy ra nhiều đại hoạ. Nước mắt và tiếng khóc. Tàn phá và tan hoang. Mất của và trôi người. Đại hoạ bất ngờ. Đại hoạ lan rộng. Đó là những trận mưa lũ đánh chìm nhiều nơi tại miền Bắc nước ta.
2. Đại hoạ đó đánh thức lương tâm tôi. Tôi đau cái đau của biết bao đồng bào nạn nhân lũ lụt. Tôi lo cái lo của biết bao người có trách nhiệm đời đạo tại những nơi đó.
3. Đại hoạ đó là dịp để tôi nghĩ tới một đại hoạ khác đang đánh chìm nhiều nơi trong Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay. Đại hoạ mà tôi muốn nói tới ở đây, đó là tinh thần thế tục,cũng gọi là tinh thần tục hóa.
4. Ngay từ thời các thánh tông đồ, tinh thần thế tục vốn đã là một nguy cơ lớn cho đạo. Nên thánh tông đồ Phaolô đã viết: “Anh em đừng rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em, bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa. Cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,2).
5. Theo lời dạy trên đây, tinh thần thế tục là sống theo ý riêng mình, chứ không theo ý Chúa. Tinh thần thế tục là không nhận ra đâu là cái tốt thật, đâu là cái đẹp lòng Chúa thật, đâu là cái hoàn hảo thật, mà chỉ đánh giá theo ý riêng mình, chứ không theo ý Chúa, rồi cho là đánh giá đúng.
Xét mình sơ qua, tôi cũng đã thấy tinh thần thế tục đúng là một đại hoạ cho chính bản thân tôi. Thí dụ:
6. Khi cầu nguyện, ăn chay, bố thí hay làm các việc đạo đức khác, nếu tôi để cho mục đích phô trương lẻn vào lòng tôi, thì Chúa sẽ phán với tôi: “Con đã được thưởng công rồi” (Mt 6,18). Phô trương là một hình thức của tinh thần thế tục. Chúa kết án hình thức đó.
7. Khi coi thường các điều kiện cuộc sống, như thời giờ, sức khoẻ, của cải, địa vị, hoặc lợi dụng chúng vào mục đích hưởng thụ, chớ không dùng chúng vào mục đích đổi mới bản thân mình để trở về với Chúa, thì Chúa sẽ phán về tôi, như xưa Người đã phán về thành Giêrusalem: “Sẽ có ngày thành này sẽ bị phá huỷ, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận ra thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (Lc 19,44). Dửng dưng với ơn Chúa và sống hưởng thụ, đó là một hình thức khá phổ biến của tinh thần thế tục. Chúa kết án hình thức đó.
8. Khi đề cập đến những người hiện nay gây nên tội ác, như mất tính người, tôi thường đổ lỗi cho hoàn cảnh này nọ, mà không dám coi đó là dấu chỉ của quyền lực quỷ dữ hoành hành. Nhưng có lúc tôi được Chúa cho nhớ lại trường hợp một người bị quỷ ám đã trả lời với Chúa là “tôi là đạo binh”, nghĩa là trong người đó có rất đông quỷ dữ nhập vào (x. Lc 8,28-37). Không tin có quỷ, đó là một hình thức rất nguy hiểm của tinh thần thế tục, tạo môi trường tốt cho quỷ hoạt động.
9. Tinh thần thế tục gồm nhận thức sai trái và hành động sai trái, theo thói thế gian.
Nhận thức sai trái đó thường mang tính lừa dối. Hành động sai trái đó thường mang tính cách phá hoại đạo đức. Nhận thức sai trái đó và hành động sai trái đó là những hình thức tai hại của tinh thần thế tục, đang và sẽ bị Chúa kết án nặng nề.
10. Hiện nay, tinh thần thế tục là cả một hệ thống xấu gồm những lừa dối, những độc ác nối kết với nhau. Cái xấu này tạo nên môi trường để phát sinh ra cái xấu kia. Hệ thống xấu đó đang hình thành trong đạo cũng như ngoài đời.
11. Để đối phó với đại hoạ trên đây, Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức thức cầu nguyện, và sống tiết độ (1Pr 5,8).
Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến nhiều cảnh đối phó với tinh thần thế tục. Rất buồn là chính cảnh đối phó lại rất nặng tinh thần thế tục. Quỷ dữ do vậy mà thêm thắng thế.
12. Tôi tin, cách đối phó đúng nhất và cũng hữu hiệu nhất là tìm về chính nguồn.Nguồn đó là Chúa Giêsu. Tôi phải đến với Nguồn, phải uống nước từ Nguồn, phải để nước nguồn thấm sâu vào tôi, phải để nước nguồn nuôi dưỡng và đổi mới tôi.
13. Tôi làm những việc đó theo gương Đức Mẹ và những chứng nhân sống động trong lịch sử Hội Thánh.
Một trong những chứng nhân có ảnh hưởng lớn với tôi, là thánh Gioan Maria Vianney, cha sở xứ Ars.
Ngài là con người cầu nguyện gắn kết mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể.
Ngài là con người sống tiết độ trong mọi sự.
Ngài là con người gắn bó với bổn phận mục vụ một cách trung tín.
Ngài là con người tha thiết cứu các linh hồn.
Ngài là con người, mà quỷ tìm cách tấn công bằng đủ mưu mô, nhưng ngài vẫn thoát khỏi tinh thần thế tục, mà quỷ muốn lôi ngài vào.
Ngài là con người luôn khiêm tốn vâng phục Chúa Thánh Thần, để biết phân định, để biết chọn lựa, để biết sống tự do thực sự của người con Chúa.
14. Đại hoạ hiện nay là tinh thần thế tục, tinh thần tục hóa. Đại hoạ này đang có vẻ phát triển về chiều rộng và chiều sâu. Nhận thức được sự thực trên đây là một khởi đầu tốt, để có những bắt đầu lại, theo Phúc Âm, trong niềm tin vào Thiên Chúa là tình yêu giàu lòng thương xót.
Rất mừng là tại Việt Nam hôm nay, nhiều người đã nhận thức được sự thực đó. Xin hết lòng cảm tạ Chúa.
ĐGM. GB Bùi Tuần
Sai Một Ly
… Luật pháp là công cụ quản lý xã hội, bảo đảm công bằng và góp phần phát triển xã hội. Thế nhưng chính cái điều đáng ra làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt trong đời sống con người thì lại sai lầm. Trong số 1.700.000 văn bản pháp luật được công bố từ 10 năm qua, Cục Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư Pháp kiểm và phát hiện trên 50.000 văn bản sai trái (x. VnExpress.net 26-7-2013). Một con số khiến không ít người phải ngỡ ngàng và giật mình…
***
“Sai một ly, đi một dặm”, Ông Bà ta vẫn dạy thế. Hai khái niệm “ly” và “dặm” mang ý nghĩa đối nghịch nhau. Một ly (1/10 cm) thì rất nhỏ, rất gần; mà một dặm thì rất lớn, rất xa. Ấy thế mà chỉ sai có một ly thôi thì ta phải vượt chặng đường xa vô ích tới một dặm. Lối so sánh ấy nói lên hậu quả nghiêm trọng của những quyết định hay chọn lựa. Nếu không cẩn thận từng ly, ta sẽ chuốc lấy thiệt thòi hằng dặm. “Đi một dặm” là cái giá phải trả cho sự nông nổi cầu thả của mình.
Trong cuộc sống thông thường, vì thiếu ý thức hay bất cẩn, không những chúng ta phải trả giá về những hành động của mình, mà còn làm cho nhiều người bị ảnh hưởng thiệt thòi lây. Một ông giám đốc ký những quyết định vội vàng thiếu tính khả thi là làm thiệt thòi những số tiền khổng lồ vì một dự án bị thất bại. Một nhà đầu tư còn quá non trẻ trong lãnh vực kinh doanh, vội vàng trong những quyết định với đối tác mình chưa hiểu biết sẽ chuốc lấy những thất bại đắng cay cho mình và cho biết bao người có liên quan. Gần đây, khắp nơi rộ lên hiện tượng “tín dụng đen” làm điêu đứng biết bao người đã cho thấy hậu quả tai hại của sự nông nổi và hám lợi trước mắt.
Có những khi chúng ta sai một ly trong việc kết luận về tư cách một con người hay bản chất một sự việc. Những nhận định chủ quan dễ làm chúng ta sai lầm. Người Việt mình hễ nghe có tin đồn là dễ tin và rất nhiệt tình loan truyền cho nhau, không cần cân nhắc và kiểm chứng. Điều tệ hại là những tin tiêu cực thì loan truyền nhanh hơn những tin tích cực. Kết luận vội vàng về tư cách một cá nhân sẽ dễ dàng làm cho họ bị tổn thương. Nhiều người vì những dư luận vô cớ mà con đường tiến tới tương lai của họ bị khép lại.
Ngày nay, có nhiều bạn trẻ rất vội vàng trong việc chọn cho mình người bạn đời. Khi chọn ai làm chồng hay vợ là họ quyết định gắn bó cả đời với người ấy. Vì thế, hậu quả của những quyết định nông nổi là những gia đình tan vỡ, hoặc có cố níu kéo thì cũng căng thẳng và đau khổ như địa ngục trần gian. Cũng do quan niệm lệch lạc về hôn nhân mà có những mối tình chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, thậm chí chỉ vài tuần. Điều đáng nói đương sự không phải là những người ít học, mà họ là trí thức, thương nhân, những “ngôi sao” và những người nối tiếng. Một hôn nhân không đặt nền tảng trên tình yêu và sự tôn trọng lẫn nhau thì đổ vỡ là điều khó tránh khỏi.
Trong xã hội ta, số những vụ tai nạn giao thông được nhắc tới thường xuyên như lời cảnh tỉnh cho những ai lưu thông trên đường. Vậy mà số tai nạn vẫn không giảm vì vẫn có những người bất chấp mọi luật lệ, cố len cố vượt, đánh võng trong khi đi đường. Vì muốn nhanh chóng đến đích, nhiều người đã phải gánh chịu hậu quả nặng nề cho chính bản thân, phải trả giá bằng mạng sống của mình hoặc suốt đời thương tật. Vì sai một ly, họ đã phải đi không chỉ một dặm, mà suốt cả đời. Cuộc sống này cũng giống như giao thông đường bộ, nếu mỗi người biết tôn trọng “phần đường” của mình trong lãnh vực gia đình, bè bạn và đồng nghiệp thì sẽ hạnh phúc biết bao.
Luật pháp là công cụ quản lý xã hội, bảo đảm công bằng và góp phần phát triển xã hội. Thế nhưng chính cái điều đáng ra làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt trong đời sống con người thì lại sai lầm. Trong số 1.700.000 văn bản pháp luật được công bố từ 10 năm qua, Cục Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư Pháp kiểm và phát hiện trên 50.000 văn bản sai trái (x.VnExpress.net 26-7-2013). Một con số khiến không ít người phải ngỡ ngàng và giật mình. Các văn bản sai phạm này thuộc nhiều lãnh vực như du lịch, giao thông, giáo dục,văn hóa đủ mọi cấp, từ trung ương đến địa phương. Năm mươi nghìn văn bản này đã bị “tuýt còi”, nhưng từ khi chúng được công bố và áp dụng cho đến khi tuýt còi, có biết bao nhiêu người đã là nạn nhân của những văn bản sai phạm đó và những người soạn thảo và công bố những văn bản đó có trách nhiệm đến đâu. Một số quy định luật pháp đã từng là đề tài cho mọi câu chuyện đàm tiếu vì tính khôi hài của chúng. Nhiều văn bản luật pháp như sản phẩm của trí tưởng tượng, hình dung những trường hợp chẳng bao giờ xảy ra. Có lẽ sự cẩu thả thiếu thực tế là một căn bệnh cố hữu của những người làm luật, vì thế mà trong Tin Mừng, những luật sĩ bị Chúa Giêsu lên án nặng nề, vì họ “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4). Việc sai một ly này cũng dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng khác cho xã hội.
Trong đời sống Đức Tin, chúng ta cũng phải khôn ngoan cân nhắc để chọn lựa và thực hành những gì hợp với giáo huấn Tin Mừng. Người môn đệ của Đức Giêsu được mời gọi hãy “Khôn ngoan như con rắn, và đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10,16). Họ cũng được nhắc nhở hãy luôn tỉnh thức, giống như người đầy tớ coi nhà đợi chủ đi vắng. Chủ có thể về sớm hay muộn, điều đó không quan trọng. Mối ưu tư đầu tiên đối với người đầy tớ là phải trung tín và chăm chỉ. Người đầy tớ trung thành đáng được thưởng công vì luôn luôn cần mẫn thực hành công việc được trao phó. Nhờ sự biết cân nhắc thận trọng, người tín hữu giống như những cô gái khôn ngoan đi đón chàng rể, đã mang đèn lại trang bị cả dầu để giữ cho ngọn đèn luôn luôn cháy sáng (x. Mt 25,1-13).
Một trong những mục đích quan trọng của Năm Đức Tin, theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, là giúp người tín hữu duyệt lại đức tin của mình (x. Tự sắc Porta Fidei, 13). Khi có Đức Tin chắc chắn, người tín hữu xây đời mình trên đá, khi mưa sa nước lũ, không sợ bị đổ sập, nhưng vững vàng và tồn tại với thời gian (x. Mt 7,21-29).
“Sai một ly, đi một dặm”, lời khuyên khôn ngoan của Tiền Nhân luôn có giá trị với mỗi chúng ta, trong đời sống đức tin cũng như trong đời sống hằng ngày.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
… Luật pháp là công cụ quản lý xã hội, bảo đảm công bằng và góp phần phát triển xã hội. Thế nhưng chính cái điều đáng ra làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt trong đời sống con người thì lại sai lầm. Trong số 1.700.000 văn bản pháp luật được công bố từ 10 năm qua, Cục Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư Pháp kiểm và phát hiện trên 50.000 văn bản sai trái (x. VnExpress.net 26-7-2013). Một con số khiến không ít người phải ngỡ ngàng và giật mình…
***
“Sai một ly, đi một dặm”, Ông Bà ta vẫn dạy thế. Hai khái niệm “ly” và “dặm” mang ý nghĩa đối nghịch nhau. Một ly (1/10 cm) thì rất nhỏ, rất gần; mà một dặm thì rất lớn, rất xa. Ấy thế mà chỉ sai có một ly thôi thì ta phải vượt chặng đường xa vô ích tới một dặm. Lối so sánh ấy nói lên hậu quả nghiêm trọng của những quyết định hay chọn lựa. Nếu không cẩn thận từng ly, ta sẽ chuốc lấy thiệt thòi hằng dặm. “Đi một dặm” là cái giá phải trả cho sự nông nổi cầu thả của mình.
Trong cuộc sống thông thường, vì thiếu ý thức hay bất cẩn, không những chúng ta phải trả giá về những hành động của mình, mà còn làm cho nhiều người bị ảnh hưởng thiệt thòi lây. Một ông giám đốc ký những quyết định vội vàng thiếu tính khả thi là làm thiệt thòi những số tiền khổng lồ vì một dự án bị thất bại. Một nhà đầu tư còn quá non trẻ trong lãnh vực kinh doanh, vội vàng trong những quyết định với đối tác mình chưa hiểu biết sẽ chuốc lấy những thất bại đắng cay cho mình và cho biết bao người có liên quan. Gần đây, khắp nơi rộ lên hiện tượng “tín dụng đen” làm điêu đứng biết bao người đã cho thấy hậu quả tai hại của sự nông nổi và hám lợi trước mắt.
Có những khi chúng ta sai một ly trong việc kết luận về tư cách một con người hay bản chất một sự việc. Những nhận định chủ quan dễ làm chúng ta sai lầm. Người Việt mình hễ nghe có tin đồn là dễ tin và rất nhiệt tình loan truyền cho nhau, không cần cân nhắc và kiểm chứng. Điều tệ hại là những tin tiêu cực thì loan truyền nhanh hơn những tin tích cực. Kết luận vội vàng về tư cách một cá nhân sẽ dễ dàng làm cho họ bị tổn thương. Nhiều người vì những dư luận vô cớ mà con đường tiến tới tương lai của họ bị khép lại.
Ngày nay, có nhiều bạn trẻ rất vội vàng trong việc chọn cho mình người bạn đời. Khi chọn ai làm chồng hay vợ là họ quyết định gắn bó cả đời với người ấy. Vì thế, hậu quả của những quyết định nông nổi là những gia đình tan vỡ, hoặc có cố níu kéo thì cũng căng thẳng và đau khổ như địa ngục trần gian. Cũng do quan niệm lệch lạc về hôn nhân mà có những mối tình chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, thậm chí chỉ vài tuần. Điều đáng nói đương sự không phải là những người ít học, mà họ là trí thức, thương nhân, những “ngôi sao” và những người nối tiếng. Một hôn nhân không đặt nền tảng trên tình yêu và sự tôn trọng lẫn nhau thì đổ vỡ là điều khó tránh khỏi.
Trong xã hội ta, số những vụ tai nạn giao thông được nhắc tới thường xuyên như lời cảnh tỉnh cho những ai lưu thông trên đường. Vậy mà số tai nạn vẫn không giảm vì vẫn có những người bất chấp mọi luật lệ, cố len cố vượt, đánh võng trong khi đi đường. Vì muốn nhanh chóng đến đích, nhiều người đã phải gánh chịu hậu quả nặng nề cho chính bản thân, phải trả giá bằng mạng sống của mình hoặc suốt đời thương tật. Vì sai một ly, họ đã phải đi không chỉ một dặm, mà suốt cả đời. Cuộc sống này cũng giống như giao thông đường bộ, nếu mỗi người biết tôn trọng “phần đường” của mình trong lãnh vực gia đình, bè bạn và đồng nghiệp thì sẽ hạnh phúc biết bao.
Luật pháp là công cụ quản lý xã hội, bảo đảm công bằng và góp phần phát triển xã hội. Thế nhưng chính cái điều đáng ra làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt trong đời sống con người thì lại sai lầm. Trong số 1.700.000 văn bản pháp luật được công bố từ 10 năm qua, Cục Kiểm tra Văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư Pháp kiểm và phát hiện trên 50.000 văn bản sai trái (x.VnExpress.net 26-7-2013). Một con số khiến không ít người phải ngỡ ngàng và giật mình. Các văn bản sai phạm này thuộc nhiều lãnh vực như du lịch, giao thông, giáo dục,văn hóa đủ mọi cấp, từ trung ương đến địa phương. Năm mươi nghìn văn bản này đã bị “tuýt còi”, nhưng từ khi chúng được công bố và áp dụng cho đến khi tuýt còi, có biết bao nhiêu người đã là nạn nhân của những văn bản sai phạm đó và những người soạn thảo và công bố những văn bản đó có trách nhiệm đến đâu. Một số quy định luật pháp đã từng là đề tài cho mọi câu chuyện đàm tiếu vì tính khôi hài của chúng. Nhiều văn bản luật pháp như sản phẩm của trí tưởng tượng, hình dung những trường hợp chẳng bao giờ xảy ra. Có lẽ sự cẩu thả thiếu thực tế là một căn bệnh cố hữu của những người làm luật, vì thế mà trong Tin Mừng, những luật sĩ bị Chúa Giêsu lên án nặng nề, vì họ “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4). Việc sai một ly này cũng dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng khác cho xã hội.
Trong đời sống Đức Tin, chúng ta cũng phải khôn ngoan cân nhắc để chọn lựa và thực hành những gì hợp với giáo huấn Tin Mừng. Người môn đệ của Đức Giêsu được mời gọi hãy “Khôn ngoan như con rắn, và đơn sơ như chim bồ câu” (Mt 10,16). Họ cũng được nhắc nhở hãy luôn tỉnh thức, giống như người đầy tớ coi nhà đợi chủ đi vắng. Chủ có thể về sớm hay muộn, điều đó không quan trọng. Mối ưu tư đầu tiên đối với người đầy tớ là phải trung tín và chăm chỉ. Người đầy tớ trung thành đáng được thưởng công vì luôn luôn cần mẫn thực hành công việc được trao phó. Nhờ sự biết cân nhắc thận trọng, người tín hữu giống như những cô gái khôn ngoan đi đón chàng rể, đã mang đèn lại trang bị cả dầu để giữ cho ngọn đèn luôn luôn cháy sáng (x. Mt 25,1-13).
Một trong những mục đích quan trọng của Năm Đức Tin, theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, là giúp người tín hữu duyệt lại đức tin của mình (x. Tự sắc Porta Fidei, 13). Khi có Đức Tin chắc chắn, người tín hữu xây đời mình trên đá, khi mưa sa nước lũ, không sợ bị đổ sập, nhưng vững vàng và tồn tại với thời gian (x. Mt 7,21-29).
“Sai một ly, đi một dặm”, lời khuyên khôn ngoan của Tiền Nhân luôn có giá trị với mỗi chúng ta, trong đời sống đức tin cũng như trong đời sống hằng ngày.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
CÁO MƯỢN OAI HÙM
Con hổ xưng hùng xưng bá ở trong rừng sâu, bắt muôn thú mà ăn.
Một hôm, nó bắt được một con cáo, con cáo làm bộ điệu rất oai nghiêm, nói:
- “Mày làm sao mà dám ăn thịt tao, thượng đế đã ra lệnh cho tao làm thủ lĩnh bách thú, thống soái muôn chim, nếu ngươi ăn tao, tức là vi phạm lệnh của trời. Mày không tin sao, vậy thì mày ở sau lưng và cùng đi với tao, để coi có con thú nào mà không dám chạy chứ ?” con hổ liền đi sau nó.
Quả nhiên, muôn thú nhìn thấy nó liền ùn ùn chạy trốn, từ đó con hổ rất cung kính con cáo như các quan đối với nhà vua vậy.
(Chính Quốc sách)
Suy tư:
Thời xưa cũng như thời nay, có những người thường ỷ vào mình quen ông này bà nọ làm lớn, mà tác oai tác quái với người khác, và những ông bà làm lớn vì được họ nịnh nên thường làm lơ trước sai trái của họ:
- Trong một tập thể, có người ỷ mình là con nuôi ông thủ trưởng mà lên mặt sai bảo anh em đồng nghiệp, lại còn tự do cho mình có quyền ngang hàng như thủ trưởng làm trước báo cáo sau, gây xáo trộn trong tập thể.
- Trong cơ quan ỷ mình là bồ nhí của thủ trưởng, thế là vênh mặt kiêu hảnh chanh chua với đồng nghiệp...
Muôn thú chạy dài không phải vì sợ con cáo, mà là sợ con hổ đang đi sau lưng con cáo, vì nó mượn oai của con hổ.
Cũng vậy, dựa vào người quyền thế hoặc người có địa vị để kiêu căng phách lối với người khác là bản chất của bọn tiểu nhân và cơ hội, mà làm kẻ tiểu nhân và cơ hội thì ai cũng có thể, ngoại trừ người quân tử. Mà mục đích của kẻ tiểu nhân và cơ hội là gây chia rẻ nội bộ để đạt được mục đích riêng của mình, bởi vì chính bản thân của họ không làm gì được mà chỉ cậy dựa vào người khác mà thôi...
Ai hiểu thì không muốn làm kẻ tiểu nhân và cơ hội.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
Con hổ xưng hùng xưng bá ở trong rừng sâu, bắt muôn thú mà ăn.
Một hôm, nó bắt được một con cáo, con cáo làm bộ điệu rất oai nghiêm, nói:
- “Mày làm sao mà dám ăn thịt tao, thượng đế đã ra lệnh cho tao làm thủ lĩnh bách thú, thống soái muôn chim, nếu ngươi ăn tao, tức là vi phạm lệnh của trời. Mày không tin sao, vậy thì mày ở sau lưng và cùng đi với tao, để coi có con thú nào mà không dám chạy chứ ?” con hổ liền đi sau nó.
Quả nhiên, muôn thú nhìn thấy nó liền ùn ùn chạy trốn, từ đó con hổ rất cung kính con cáo như các quan đối với nhà vua vậy.
(Chính Quốc sách)
Suy tư:
Thời xưa cũng như thời nay, có những người thường ỷ vào mình quen ông này bà nọ làm lớn, mà tác oai tác quái với người khác, và những ông bà làm lớn vì được họ nịnh nên thường làm lơ trước sai trái của họ:
- Trong một tập thể, có người ỷ mình là con nuôi ông thủ trưởng mà lên mặt sai bảo anh em đồng nghiệp, lại còn tự do cho mình có quyền ngang hàng như thủ trưởng làm trước báo cáo sau, gây xáo trộn trong tập thể.
- Trong cơ quan ỷ mình là bồ nhí của thủ trưởng, thế là vênh mặt kiêu hảnh chanh chua với đồng nghiệp...
Muôn thú chạy dài không phải vì sợ con cáo, mà là sợ con hổ đang đi sau lưng con cáo, vì nó mượn oai của con hổ.
Cũng vậy, dựa vào người quyền thế hoặc người có địa vị để kiêu căng phách lối với người khác là bản chất của bọn tiểu nhân và cơ hội, mà làm kẻ tiểu nhân và cơ hội thì ai cũng có thể, ngoại trừ người quân tử. Mà mục đích của kẻ tiểu nhân và cơ hội là gây chia rẻ nội bộ để đạt được mục đích riêng của mình, bởi vì chính bản thân của họ không làm gì được mà chỉ cậy dựa vào người khác mà thôi...
Ai hiểu thì không muốn làm kẻ tiểu nhân và cơ hội.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
CHA GIẢNG HAY, CHA GIẢNG DỞ
Có nhiều bạn trẻ không thích các linh mục lớn tuổi giảng, bởi vì các ngài thường hay giảng dài, giảng dai và giảng không thu hút cho lắm, hơn nữa các ngài thường “ôn cố quên tân”, tức là các ngài thường hay lấy “sự xưa tích cũ” không ăn nhằm gì với Lời Chúa, để nói vói lớp người của thời đại vi tính. Mà lớp trẻ bây giờ thì cần cập nhật hóa Tin Mừng, ứng dụng Tin Mừng vào trong vi tính, trong trái banh da, trong từng con số khó nuốt trong bài toán cao cấp, và có khi, họ cũng muốn đem Lời Chúa ứng dụng nơi các siêu thị, mà mỗi ngày không biết họ tiếp xúc với bao nhiêu là loại người khó tính và vui tính. Tóm lại, các bạn trẻ thích cha giảng ngắn gọn mà thực tế, dễ dàng áp dụng trong cuộc sống. Tâm lý các bạn trẻ là như thế
Nhưng, cũng có các linh mục già, lớn tuổi, nhưng tâm hồn của các ngài thì không già tí nào cả, mỗi lần các vị ấy giảng, thì y như có lửa, làm cho cả nhà thờ thấp thỏm lo sợ bài giảng của ngài chấm dứt. Có một vị linh mục tuổi đã ngoài bảy mươi, nhưng khi nghe ngài giảng thì không ai biết là ngài đã lớn tuổi, cứ mỗi lần cha sở chúng tôi mời ngài đến giảng tĩnh tâm cho họ đạo là nhà thờ đều chật cứng, bởi vì ai cũng thích nghe ngài giảng, ngài giảng rất hấp dẫn, hùng hồn và đầy tính thuyết phục. Vậy thì, cha già hay cha trẻ đều có thể giảng hay như nhau, hay hoặc dở đều do tại lòng mình mà ra cả.
Cha giảng hay, cha giảng dở, đối với chúng ta không quan trọng, nhưng quan trọng là mỗi người trong chúng ta có khiêm tốn đủ để nghe hay không mà thôi!
Nếu chúng ta dâng thánh lễ, mà cứ như đi đến trường học, cố gắng học cho thuộc làu bài giảng của linh mục, để rồi phân tích, phê bình, đánh giá thì bài giảng của linh mục chẳng giúp ích gì được cho ta cả. Còn nếu chúng ta nghĩ rằng, tâm hồn chúng ta là những mảnh đất (tốt hay xấu tùy mỗi người) và Lời Chúa là hạt giống, thì chỉ cần một câu Lời Chúa nghe được nơi bài giảng của linh mục trong thánh lễ, cũng giúp cho chúng ta ăn ngay ở lành, sống đẹp lòng Thiên Chúa trong cuộc sống rồi vậy!
Có các bạn trẻ (và cả người lớn) đi dự thánh lễ, khi nghe đọc Phúc Âm xong, liền ùn ùn kéo ra khỏi nhà thờ ngồi nơi bậc cấp nhà thồ để nói chuyện…thời sự, hút thuốc hoặc âu yếm ôm nhau, trong nhà thờ cha giảng mặc cha, cha giảng cha nghe, con cứ nói chuyện ngoài nhà thờ, không ảnh hưởng làm rộn ai cả “huề cả làng”. Nếu chúng ta – các bạn trẻ – có thái độ như thế khi đi tham dự thánh lễ, thì: một là chúng ta không hiểu tí gì về thánh lễ và ích lợi của thánh lễ; hai là chúng ta chẳng có tí gì là lịch sự với Chúa, với linh mục và với cộng đoàn; ba là chúng ta là những người tội nghiệp nhất vì cái ngu của chúng ta, ngu là được mời gọi tham dự tiệc cưới Nước Trời, được nếm mùi vị thơm ngon của bánh trường sinh là Mình và Máu Thánh Chúa Giê-su, mà lại không biết thưởng thức bỏ đi ra ngoài phòng tiệc, thật đáng tiếc thay và cũng ngu thay!
Bài giảng của linh mục, nếu chúng ta nghe không được hay cho lắm, xét cho cùng, thì cũng chẳng phải là dở như ta nghĩ, thực ra, chỉ vì các linh mục có những người có tài lợi khẩu, ăn nói lưu loát, không vấp váp; cũng có các linh mục ăn nói không được lưu loát lợi khấu cho lắm, nên bị chúng ta cho là giảng dở mà thôi. Sáu, bảy năm ăn ở tại đại chủng viện, mà các ông bà ta ngày xưa gọi là trường lý đoán, vì ở đó, các ngài chỉ chuẩn bị duy nhất có một việc, đó là làm linh mục. Linh mục có nghĩa là người dẫn dắt linh hồn, ngoài các môn học về triết và thần học, bài giảng cũng là một phần trong chương trình học. Do đó, khi các ngài giảng, chúng ta đừng cho là lạc đạo để rồi phân tích, phê bình, nhưng chỉ lo cho chúng ta có lãnh hội được Lời Chúa nơi miệng các ngài hay không mà thôi.
Cha giảng hay, cha giảng dở cũng là mối bận tâm cho giáo dân nói chung, và cho các bạn trẻ nói riêng, đành rằng, các linh mục cũng có người khi giảng, thì đem tất cả tổng luận thần học của thánh Tô-ma mà mình đã học ở trong chủng viện giảng cho giáo dân, làm cho họ nghe y như là nghe tiếng lạ; đành rằng, cũng có các linh mục khi giảng thì đem chuyện riêng tư của ai đó ra mà nói cho cộng đoàn nghe, và cũng có một vài linh mục khi giảng thì nói móc họng giáo dân, làm cho họ nghe mà thêm xa Chúa. Mặc dù có những linh mục có cá tính đặc biệt như thế, nhưng đó không phải là chuyện thường xuyên, mà đôi lúc trong việc coi sóc giáo xứ, các ngài đã bị những con chiên của mình quay lại cắn mình, nên bực tức, tâm lý bị dao động chút ít, thế thôi. Đó không phải là giảng hay, giảng dở, nhưng đó là những điều mà chúng ta cần phải thông cảm cho những vị mục tử của chúng ta, khi chúng ta nghe được như thế trong bài giảng của các ngài.
Vậy thì, thế nào là Cha giảng hay? Có một lần, sau khi tham dự thánh lễ của buổi tĩnh tâm tại một giáo xứ lớn nọ, vừa ra khỏi nhà thờ, có bạn trẻ đã nói với tôi: “Chà, hôm nay cha giảng hay tuyệt”. Tôi hỏi lại: “Hay là sao?” – “Cha giảng hay quá con chẳng buồn ngủ chút nào!”. Đây chưa phải là cha giảng hay, mà chỉ là Cha giảng to tiếng, vui nhộn, cho nên không thể ngủ được mà thôi.
Và thế nào là cha giảng dở ? Sau khi tham dự thánh lễ do một linh mục giáo sư chủng viện nọ chủ tế và giảng, có một tu sĩ đã thốt lên một câu rất là không có văn hoá :”Giảng gì mà dở ẹt, lặp lui lặp tới hoài, tui giảng có lẽ hay hơn”!
Đây không phải là giảng dở, lặp lui lặp tới không phải là giảng dở, mà là vì chúng ta không lãnh hội nổi ý nghĩa của bài giảng, hoặc là chúng ta nghe mà cứ tìm những khuyết điểm của bài giảng để phê bình hay dở thì làm sao mà nghe hay được chứ ? Khi Chúa Giê-su giảng dạy cho dân chúng, ngoài những người nghèo khó, bệnh tật và người giàu có ra, thì có cả những người biệt phái, các thầy thông luật cũng đến nghe nữa, chúng ta thử nhìn xem thái độ của họ sau khi nghe Chúa Giê-su giảng dạy: những người nghèo khó, bệnh tật và cả những người giàu có (như thu thuế Lêvi, Giakêu lùn…) thì vui vẻ đón nhận lời của Ngài mà không phê bình, không nói giảng hay giảng dở, nhưng các ông đã thành tâm thiện chí nghe Chúa Giê-su giảng, và tâm hồn của các ông đã được đổi mới hoàn toàn. Trái lại, những người biệt phái, những thầy thông luật thì phê bình, bắt bí, hăm doạ Chúa Giê-su, tại sao vậy ? Thưa là vì họ kiêu ngạo, họ có thành kiến, họ nghe Chúa giảng mà y như thầy giáo nghe học trò thi vấn đáp, chỉ mong tìm kẻ hở của Chúa mà bắt bí, mà chê bai này nọ, thì làm sao có thể lãnh hội được hết ý nghĩa cao sâu của bài giảng chứ ?
Cha giảng hay là khi chúng ta nghe mà cố ý lắng nghe cho được một câu Lời Chúa trong bài giảng, để đem theo bên mình trong cuộc sống đời thường, để mà sống, mà thực hành, mà giao lưu với những người mà chúng ta tiếp xúc, gặp gỡ, thì hạt giống Lời Chúa mà chúng ta nắm bắt trong bài giảng của linh mục, cứ đơm hoa kết trái, sinh sôi nẩy nở nơi những người khác chung quanh ta, thì mới nói được là cha giảng hay tuyệt vời.
Còn khi cha giảng mà chúng ta cứ nghĩ rằng, nói gì mà nói hoài nói mãi, thật nhàm tai. Mà không khiêm tốn nghe giảng, hoặc là nghe mà tỏ ý kiêu ngạo mà ta đã học qua rồi, hay ít nữa là đã nghe rồi, chán lắm, thì thật là tội nghiệp cho chúng ta vậy. Bởi vì, hạt giống Lời Chúa không thể nào đâm chồi nẩy lộc nơi những tâm hồn kêu ngạo. Hơn nữa, bài giảng không phải là một bài diễn thuyết mà các linh mục tìm cách biện minh luận cứ cho bài thuyết trình. Nhưng, bài giảng của linh mục là sự cắt nghĩa Phúc Âm vừa nghe đọc, và chia sẻ kinh nghiệm sống đạo cho mỗi tín hữu của ngài, để qua bài giảng của linh mục, mà các tín hữu hiểu rõ hơn về Chúa, và đem áp dụng trong đời sống thường ngày của mình.
Tóm lại, cha giảng hay hoặc cha giảng dở, cách chung, không hề tại linh mục, mà là do tâm hồn và thái độ của chúng ta khi nghe giảng như thế nào mà thôi. Nếu chúng ta cho rằng cha giảng hay, mà không đem cái hay ấy vào trong cuộc sống của mình, nghĩa là không thực hành cái hay của bài giảng trong đời thường, thì đó không phải là bài giảng hay cho chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta nói rằng cha giảng dở, nhưng nếu chúng ta bỏ cái tôi của mình đi, để chú ý nghe một câu của bài giảng mà thôi, rồi ra về hân hoan thực hành Lời Chúa mà mình đã nghe được, thì không những là cha giảng hay, mà chúng ta còn thêm ơn ích bởi bài giảng ấy vậy. Mà ơn ích lớn nhất là chúng ta tập tành được nhân đức khiêm tốn, là nền tảng của mọi nhân đức, thì lo gì mà không nên thánh chứ?
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Có nhiều bạn trẻ không thích các linh mục lớn tuổi giảng, bởi vì các ngài thường hay giảng dài, giảng dai và giảng không thu hút cho lắm, hơn nữa các ngài thường “ôn cố quên tân”, tức là các ngài thường hay lấy “sự xưa tích cũ” không ăn nhằm gì với Lời Chúa, để nói vói lớp người của thời đại vi tính. Mà lớp trẻ bây giờ thì cần cập nhật hóa Tin Mừng, ứng dụng Tin Mừng vào trong vi tính, trong trái banh da, trong từng con số khó nuốt trong bài toán cao cấp, và có khi, họ cũng muốn đem Lời Chúa ứng dụng nơi các siêu thị, mà mỗi ngày không biết họ tiếp xúc với bao nhiêu là loại người khó tính và vui tính. Tóm lại, các bạn trẻ thích cha giảng ngắn gọn mà thực tế, dễ dàng áp dụng trong cuộc sống. Tâm lý các bạn trẻ là như thế
Nhưng, cũng có các linh mục già, lớn tuổi, nhưng tâm hồn của các ngài thì không già tí nào cả, mỗi lần các vị ấy giảng, thì y như có lửa, làm cho cả nhà thờ thấp thỏm lo sợ bài giảng của ngài chấm dứt. Có một vị linh mục tuổi đã ngoài bảy mươi, nhưng khi nghe ngài giảng thì không ai biết là ngài đã lớn tuổi, cứ mỗi lần cha sở chúng tôi mời ngài đến giảng tĩnh tâm cho họ đạo là nhà thờ đều chật cứng, bởi vì ai cũng thích nghe ngài giảng, ngài giảng rất hấp dẫn, hùng hồn và đầy tính thuyết phục. Vậy thì, cha già hay cha trẻ đều có thể giảng hay như nhau, hay hoặc dở đều do tại lòng mình mà ra cả.
Cha giảng hay, cha giảng dở, đối với chúng ta không quan trọng, nhưng quan trọng là mỗi người trong chúng ta có khiêm tốn đủ để nghe hay không mà thôi!
Nếu chúng ta dâng thánh lễ, mà cứ như đi đến trường học, cố gắng học cho thuộc làu bài giảng của linh mục, để rồi phân tích, phê bình, đánh giá thì bài giảng của linh mục chẳng giúp ích gì được cho ta cả. Còn nếu chúng ta nghĩ rằng, tâm hồn chúng ta là những mảnh đất (tốt hay xấu tùy mỗi người) và Lời Chúa là hạt giống, thì chỉ cần một câu Lời Chúa nghe được nơi bài giảng của linh mục trong thánh lễ, cũng giúp cho chúng ta ăn ngay ở lành, sống đẹp lòng Thiên Chúa trong cuộc sống rồi vậy!
Có các bạn trẻ (và cả người lớn) đi dự thánh lễ, khi nghe đọc Phúc Âm xong, liền ùn ùn kéo ra khỏi nhà thờ ngồi nơi bậc cấp nhà thồ để nói chuyện…thời sự, hút thuốc hoặc âu yếm ôm nhau, trong nhà thờ cha giảng mặc cha, cha giảng cha nghe, con cứ nói chuyện ngoài nhà thờ, không ảnh hưởng làm rộn ai cả “huề cả làng”. Nếu chúng ta – các bạn trẻ – có thái độ như thế khi đi tham dự thánh lễ, thì: một là chúng ta không hiểu tí gì về thánh lễ và ích lợi của thánh lễ; hai là chúng ta chẳng có tí gì là lịch sự với Chúa, với linh mục và với cộng đoàn; ba là chúng ta là những người tội nghiệp nhất vì cái ngu của chúng ta, ngu là được mời gọi tham dự tiệc cưới Nước Trời, được nếm mùi vị thơm ngon của bánh trường sinh là Mình và Máu Thánh Chúa Giê-su, mà lại không biết thưởng thức bỏ đi ra ngoài phòng tiệc, thật đáng tiếc thay và cũng ngu thay!
Bài giảng của linh mục, nếu chúng ta nghe không được hay cho lắm, xét cho cùng, thì cũng chẳng phải là dở như ta nghĩ, thực ra, chỉ vì các linh mục có những người có tài lợi khẩu, ăn nói lưu loát, không vấp váp; cũng có các linh mục ăn nói không được lưu loát lợi khấu cho lắm, nên bị chúng ta cho là giảng dở mà thôi. Sáu, bảy năm ăn ở tại đại chủng viện, mà các ông bà ta ngày xưa gọi là trường lý đoán, vì ở đó, các ngài chỉ chuẩn bị duy nhất có một việc, đó là làm linh mục. Linh mục có nghĩa là người dẫn dắt linh hồn, ngoài các môn học về triết và thần học, bài giảng cũng là một phần trong chương trình học. Do đó, khi các ngài giảng, chúng ta đừng cho là lạc đạo để rồi phân tích, phê bình, nhưng chỉ lo cho chúng ta có lãnh hội được Lời Chúa nơi miệng các ngài hay không mà thôi.
Cha giảng hay, cha giảng dở cũng là mối bận tâm cho giáo dân nói chung, và cho các bạn trẻ nói riêng, đành rằng, các linh mục cũng có người khi giảng, thì đem tất cả tổng luận thần học của thánh Tô-ma mà mình đã học ở trong chủng viện giảng cho giáo dân, làm cho họ nghe y như là nghe tiếng lạ; đành rằng, cũng có các linh mục khi giảng thì đem chuyện riêng tư của ai đó ra mà nói cho cộng đoàn nghe, và cũng có một vài linh mục khi giảng thì nói móc họng giáo dân, làm cho họ nghe mà thêm xa Chúa. Mặc dù có những linh mục có cá tính đặc biệt như thế, nhưng đó không phải là chuyện thường xuyên, mà đôi lúc trong việc coi sóc giáo xứ, các ngài đã bị những con chiên của mình quay lại cắn mình, nên bực tức, tâm lý bị dao động chút ít, thế thôi. Đó không phải là giảng hay, giảng dở, nhưng đó là những điều mà chúng ta cần phải thông cảm cho những vị mục tử của chúng ta, khi chúng ta nghe được như thế trong bài giảng của các ngài.
Vậy thì, thế nào là Cha giảng hay? Có một lần, sau khi tham dự thánh lễ của buổi tĩnh tâm tại một giáo xứ lớn nọ, vừa ra khỏi nhà thờ, có bạn trẻ đã nói với tôi: “Chà, hôm nay cha giảng hay tuyệt”. Tôi hỏi lại: “Hay là sao?” – “Cha giảng hay quá con chẳng buồn ngủ chút nào!”. Đây chưa phải là cha giảng hay, mà chỉ là Cha giảng to tiếng, vui nhộn, cho nên không thể ngủ được mà thôi.
Và thế nào là cha giảng dở ? Sau khi tham dự thánh lễ do một linh mục giáo sư chủng viện nọ chủ tế và giảng, có một tu sĩ đã thốt lên một câu rất là không có văn hoá :”Giảng gì mà dở ẹt, lặp lui lặp tới hoài, tui giảng có lẽ hay hơn”!
Đây không phải là giảng dở, lặp lui lặp tới không phải là giảng dở, mà là vì chúng ta không lãnh hội nổi ý nghĩa của bài giảng, hoặc là chúng ta nghe mà cứ tìm những khuyết điểm của bài giảng để phê bình hay dở thì làm sao mà nghe hay được chứ ? Khi Chúa Giê-su giảng dạy cho dân chúng, ngoài những người nghèo khó, bệnh tật và người giàu có ra, thì có cả những người biệt phái, các thầy thông luật cũng đến nghe nữa, chúng ta thử nhìn xem thái độ của họ sau khi nghe Chúa Giê-su giảng dạy: những người nghèo khó, bệnh tật và cả những người giàu có (như thu thuế Lêvi, Giakêu lùn…) thì vui vẻ đón nhận lời của Ngài mà không phê bình, không nói giảng hay giảng dở, nhưng các ông đã thành tâm thiện chí nghe Chúa Giê-su giảng, và tâm hồn của các ông đã được đổi mới hoàn toàn. Trái lại, những người biệt phái, những thầy thông luật thì phê bình, bắt bí, hăm doạ Chúa Giê-su, tại sao vậy ? Thưa là vì họ kiêu ngạo, họ có thành kiến, họ nghe Chúa giảng mà y như thầy giáo nghe học trò thi vấn đáp, chỉ mong tìm kẻ hở của Chúa mà bắt bí, mà chê bai này nọ, thì làm sao có thể lãnh hội được hết ý nghĩa cao sâu của bài giảng chứ ?
Cha giảng hay là khi chúng ta nghe mà cố ý lắng nghe cho được một câu Lời Chúa trong bài giảng, để đem theo bên mình trong cuộc sống đời thường, để mà sống, mà thực hành, mà giao lưu với những người mà chúng ta tiếp xúc, gặp gỡ, thì hạt giống Lời Chúa mà chúng ta nắm bắt trong bài giảng của linh mục, cứ đơm hoa kết trái, sinh sôi nẩy nở nơi những người khác chung quanh ta, thì mới nói được là cha giảng hay tuyệt vời.
Còn khi cha giảng mà chúng ta cứ nghĩ rằng, nói gì mà nói hoài nói mãi, thật nhàm tai. Mà không khiêm tốn nghe giảng, hoặc là nghe mà tỏ ý kiêu ngạo mà ta đã học qua rồi, hay ít nữa là đã nghe rồi, chán lắm, thì thật là tội nghiệp cho chúng ta vậy. Bởi vì, hạt giống Lời Chúa không thể nào đâm chồi nẩy lộc nơi những tâm hồn kêu ngạo. Hơn nữa, bài giảng không phải là một bài diễn thuyết mà các linh mục tìm cách biện minh luận cứ cho bài thuyết trình. Nhưng, bài giảng của linh mục là sự cắt nghĩa Phúc Âm vừa nghe đọc, và chia sẻ kinh nghiệm sống đạo cho mỗi tín hữu của ngài, để qua bài giảng của linh mục, mà các tín hữu hiểu rõ hơn về Chúa, và đem áp dụng trong đời sống thường ngày của mình.
Tóm lại, cha giảng hay hoặc cha giảng dở, cách chung, không hề tại linh mục, mà là do tâm hồn và thái độ của chúng ta khi nghe giảng như thế nào mà thôi. Nếu chúng ta cho rằng cha giảng hay, mà không đem cái hay ấy vào trong cuộc sống của mình, nghĩa là không thực hành cái hay của bài giảng trong đời thường, thì đó không phải là bài giảng hay cho chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta nói rằng cha giảng dở, nhưng nếu chúng ta bỏ cái tôi của mình đi, để chú ý nghe một câu của bài giảng mà thôi, rồi ra về hân hoan thực hành Lời Chúa mà mình đã nghe được, thì không những là cha giảng hay, mà chúng ta còn thêm ơn ích bởi bài giảng ấy vậy. Mà ơn ích lớn nhất là chúng ta tập tành được nhân đức khiêm tốn, là nền tảng của mọi nhân đức, thì lo gì mà không nên thánh chứ?
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
NỖI LO SỢ KHÔNG TÊN
Chuyện kể rằng, một người nọ sau khi từ giã cõi đời và được về bên Thượng Đế, anh ta mạo muội xin phép Thượng Đế cho anh ta được sống lại một vài giai đoạn trong đời anh ta. Sau khi suy nghĩ và thấy anh này cũng có một đề nghị hơi lạ, Thượng Đế đã đồng ý. Anh ta xin tiếp, “Thưa Ngài, sau mỗi quãng đời, xin cho con được dừng lại và về gặp Ngài để hỏi một vài thắc mắc có được không?” Thượng Đế cũng tỏ vẻ vui lòng ưng thuận. Vậy là người này trở lại kiếp người.
Anh ta làm lại một cậu học trò với bao bận rộn với việc học hành, nhưng cũng không ít vui chơi hồn nhiên giải trí. Nhưng khi phải vượt qua những kỳ thi, thì cậu học trò lại tỏ ra lo sợ. Cậu ta lo sợ bị thi rớt, sợ bị điểm thấp, sợ bị chúng bạn chê cười,… Cậu ta xin dừng cuộc đời lại đó và đi hỏi Thượng Đế. “Thưa Ngài, tại sao con phải lo sợ những chuyện thi cử?”. “Con lo sợ chúng vì con đã nhìn cuộc đời của con như thể chỉ có chuyện thi cử mà quên đi những chuyện khác xung quanh con.” Thượng Đế trả lời.
Anh ta trở lại dương thế và tiếp tục làm người. Giai đoạn này, anh ta có người yêu, lập gia đình, có con và tưởng chừng như anh ta đã vượt qua những nỗi lo sợ của thời trẻ con. Thế nhưng, anh ta vẫn lo sợ. Anh sợ vợ anh phản bội, con anh không đủ sức khỏe, công việc làm ăn không ổn định. Anh dừng cuộc đời lại và đi hỏi thượng đế.“Thưa Ngài, dù biết rằng con đã không nhìn cuộc đời như trước đây nữa, nhưng sao con vẫn lo sợ?” Thượng Đế đáp, “Con lo sợ vì con muốn sở hữu chúng vĩnh viễn; con không muốn bị mất chúng. Con nên nhớ, điều gì con càng muốn nắm giữ, thì con càng lo sợ chúng bị mất đi.”
Trở lại cuộc sống dương thế lần thứ ba, giờ đây ở tuổi cao niên, sau bao tháng ngày sợ hãi, lo lắng, ông già trông bình an và chấp nhận hơn. Ông không lo sợ bị mất vợ và lo lắng cho con cái như trước đây. Nhưng trong tâm thức ông, một nỗi lo âu, sợ hãi vẫn ám ảnh ông. Nỗi lo sợ của ông không còn là nỗi lo liên quan đến “cơm áo, gạo tiền” như trước đây, nhưng ông lại sợ bị lãng quên những công trạng của thời trai trẻ; ông lo những thành quả ông góp cho đời sẽ bị mất dấu tích. Kỳ lạ thay, ông lại lo không còn được cảm nếm những nỗi lo sợ của thời học trò, của thời thiếu niên, của người thanh niên mà ông đã trải qua. Ông quá tò mò nên quay về hỏi Thượng Đế, “Thưa Ngài, tại sao những điều lúc trước làm con lo sợ, thì bây giờ con lại sợ không còn được cảm nếm những nỗi sợ ấy nữa?” Thượng Đế đáp, “Con yêu! Chừng nào con còn sống trong quá khứ, muốn quay trở lại quá khứ; và chừng nào con còn lo nghĩ về tương lai, muốn làm chủ lấy tương lai, thì con còn sống trong sợ hãi. Cha không có quá khứ, Cha không có tương lai. Cha chỉ có hiện tại. Nơi nào không có hiện tại, nơi đó không có bình an.”
* * *
Quí bạn thân mến, mẩu chuyện tưởng tượng trên cho ta thấy rằng, đời con người xem chừng như cứ bị bao trùm hết nỗi lo sợ này đến nỗi lo sợ khác: Nỗi lo sợ của đứa trẻ mới bước vào đời, nỗi lo sợ của người thanh niên về tương lai, và nỗi lo sợ của vị cao niên về quá khứ của mình bị đánh mất. Vậy nỗi lo sợ ấy đến từ đâu, và lý do gì mà ta lo sợ?
Suy gẫm thấu đáo ta có thể nhận thức rằng, hoàn cảnh “đáng sợ” không thực sự đáng sợ như ta tưởng, nhưng điều làm ta lo sợ chính là ta lo sợ điều chưa xảy ra. Chúng ta thường sợ điều chưa xảy đến hơn là điều đã xảy đến. Nếu quí bạn có dịp trò chuyện với các bệnh nhân mang những căn bệnh nan y, thì có rất nhiều người cho rằng, điều đáng sợ của họ bây giờ không phải là căn bệnh họ đang mang, mà là những điều khác. Nỗi sợ của họ bây giờ không còn là căn bệnh nữa, nhưng là sợ bị bỏ rơi, bị cô đơn, bị quên lãng, và biết bao nhiêu nỗi sợ không tên khác. Kỳ thực thay, dù ai trong chúng ta cũng đã không ít một lần bị bỏ rơi, cũng đã không ít có một lần kinh nghiệm cô đơn, và bị người đời quên lãng; biết là như thế và đã trải qua kinh nghiệm nhiều lần như thế trong đời rồi, nhưng con người vẫn lo sợ chúng; con người vẫn rối lên khi đối diện chúng.
Thưa bạn, bạn cũng như tôi đã trải nghiệm những lo sợ mà có lúc đã làm chúng ta mất ăn mất ngủ ở lứa tuổi học trò, ở tuổi xuân, ở những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất (người thân ra đi, bị tù đày tra tấn,…). Xét cho cùng, cuối cùng nỗi lo sợ này cũng chỉ có thế thôi, có phải không? Thế thì những nỗi sợ hôm nay – giây phút này – ngay lúc này, cũng chỉ là một phần của kiếp làm người của chúng ta mà thôi. Hãy nhìn chúng như là một phần đời của chúng ta để giúp chúng ta nâng cao giá trị đời mình, chứ đừng để chúng trở thành nỗi ám ảnh bao trùm những vẻ đẹp của giây phút hiện tại.
Thưa bạn, hôm nay tôi mời gọi bạn hiểu sâu hơn ý nghĩa thực của giây phút hiện tại. Vì thực ra cuộc đời của bạn chỉ có hôm nay, giây phút này chứ không phải hôm qua hay ngày mai. Và dù bạn có lo sợ điều gì lớn lao đến mấy đi chăng nữa, mỗi ngày bạn cũng phải đi qua 1440 phút. Vậy bạn muốn sở hữu 1440 khoảnh khắc bình an, tự tại hay là 1440 nỗi âu lo, sợ hãi???
--Br. Huynhquảng
Chuyện kể rằng, một người nọ sau khi từ giã cõi đời và được về bên Thượng Đế, anh ta mạo muội xin phép Thượng Đế cho anh ta được sống lại một vài giai đoạn trong đời anh ta. Sau khi suy nghĩ và thấy anh này cũng có một đề nghị hơi lạ, Thượng Đế đã đồng ý. Anh ta xin tiếp, “Thưa Ngài, sau mỗi quãng đời, xin cho con được dừng lại và về gặp Ngài để hỏi một vài thắc mắc có được không?” Thượng Đế cũng tỏ vẻ vui lòng ưng thuận. Vậy là người này trở lại kiếp người.
Anh ta làm lại một cậu học trò với bao bận rộn với việc học hành, nhưng cũng không ít vui chơi hồn nhiên giải trí. Nhưng khi phải vượt qua những kỳ thi, thì cậu học trò lại tỏ ra lo sợ. Cậu ta lo sợ bị thi rớt, sợ bị điểm thấp, sợ bị chúng bạn chê cười,… Cậu ta xin dừng cuộc đời lại đó và đi hỏi Thượng Đế. “Thưa Ngài, tại sao con phải lo sợ những chuyện thi cử?”. “Con lo sợ chúng vì con đã nhìn cuộc đời của con như thể chỉ có chuyện thi cử mà quên đi những chuyện khác xung quanh con.” Thượng Đế trả lời.
Anh ta trở lại dương thế và tiếp tục làm người. Giai đoạn này, anh ta có người yêu, lập gia đình, có con và tưởng chừng như anh ta đã vượt qua những nỗi lo sợ của thời trẻ con. Thế nhưng, anh ta vẫn lo sợ. Anh sợ vợ anh phản bội, con anh không đủ sức khỏe, công việc làm ăn không ổn định. Anh dừng cuộc đời lại và đi hỏi thượng đế.“Thưa Ngài, dù biết rằng con đã không nhìn cuộc đời như trước đây nữa, nhưng sao con vẫn lo sợ?” Thượng Đế đáp, “Con lo sợ vì con muốn sở hữu chúng vĩnh viễn; con không muốn bị mất chúng. Con nên nhớ, điều gì con càng muốn nắm giữ, thì con càng lo sợ chúng bị mất đi.”
Trở lại cuộc sống dương thế lần thứ ba, giờ đây ở tuổi cao niên, sau bao tháng ngày sợ hãi, lo lắng, ông già trông bình an và chấp nhận hơn. Ông không lo sợ bị mất vợ và lo lắng cho con cái như trước đây. Nhưng trong tâm thức ông, một nỗi lo âu, sợ hãi vẫn ám ảnh ông. Nỗi lo sợ của ông không còn là nỗi lo liên quan đến “cơm áo, gạo tiền” như trước đây, nhưng ông lại sợ bị lãng quên những công trạng của thời trai trẻ; ông lo những thành quả ông góp cho đời sẽ bị mất dấu tích. Kỳ lạ thay, ông lại lo không còn được cảm nếm những nỗi lo sợ của thời học trò, của thời thiếu niên, của người thanh niên mà ông đã trải qua. Ông quá tò mò nên quay về hỏi Thượng Đế, “Thưa Ngài, tại sao những điều lúc trước làm con lo sợ, thì bây giờ con lại sợ không còn được cảm nếm những nỗi sợ ấy nữa?” Thượng Đế đáp, “Con yêu! Chừng nào con còn sống trong quá khứ, muốn quay trở lại quá khứ; và chừng nào con còn lo nghĩ về tương lai, muốn làm chủ lấy tương lai, thì con còn sống trong sợ hãi. Cha không có quá khứ, Cha không có tương lai. Cha chỉ có hiện tại. Nơi nào không có hiện tại, nơi đó không có bình an.”
* * *
Quí bạn thân mến, mẩu chuyện tưởng tượng trên cho ta thấy rằng, đời con người xem chừng như cứ bị bao trùm hết nỗi lo sợ này đến nỗi lo sợ khác: Nỗi lo sợ của đứa trẻ mới bước vào đời, nỗi lo sợ của người thanh niên về tương lai, và nỗi lo sợ của vị cao niên về quá khứ của mình bị đánh mất. Vậy nỗi lo sợ ấy đến từ đâu, và lý do gì mà ta lo sợ?
Suy gẫm thấu đáo ta có thể nhận thức rằng, hoàn cảnh “đáng sợ” không thực sự đáng sợ như ta tưởng, nhưng điều làm ta lo sợ chính là ta lo sợ điều chưa xảy ra. Chúng ta thường sợ điều chưa xảy đến hơn là điều đã xảy đến. Nếu quí bạn có dịp trò chuyện với các bệnh nhân mang những căn bệnh nan y, thì có rất nhiều người cho rằng, điều đáng sợ của họ bây giờ không phải là căn bệnh họ đang mang, mà là những điều khác. Nỗi sợ của họ bây giờ không còn là căn bệnh nữa, nhưng là sợ bị bỏ rơi, bị cô đơn, bị quên lãng, và biết bao nhiêu nỗi sợ không tên khác. Kỳ thực thay, dù ai trong chúng ta cũng đã không ít một lần bị bỏ rơi, cũng đã không ít có một lần kinh nghiệm cô đơn, và bị người đời quên lãng; biết là như thế và đã trải qua kinh nghiệm nhiều lần như thế trong đời rồi, nhưng con người vẫn lo sợ chúng; con người vẫn rối lên khi đối diện chúng.
Thưa bạn, bạn cũng như tôi đã trải nghiệm những lo sợ mà có lúc đã làm chúng ta mất ăn mất ngủ ở lứa tuổi học trò, ở tuổi xuân, ở những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất (người thân ra đi, bị tù đày tra tấn,…). Xét cho cùng, cuối cùng nỗi lo sợ này cũng chỉ có thế thôi, có phải không? Thế thì những nỗi sợ hôm nay – giây phút này – ngay lúc này, cũng chỉ là một phần của kiếp làm người của chúng ta mà thôi. Hãy nhìn chúng như là một phần đời của chúng ta để giúp chúng ta nâng cao giá trị đời mình, chứ đừng để chúng trở thành nỗi ám ảnh bao trùm những vẻ đẹp của giây phút hiện tại.
Thưa bạn, hôm nay tôi mời gọi bạn hiểu sâu hơn ý nghĩa thực của giây phút hiện tại. Vì thực ra cuộc đời của bạn chỉ có hôm nay, giây phút này chứ không phải hôm qua hay ngày mai. Và dù bạn có lo sợ điều gì lớn lao đến mấy đi chăng nữa, mỗi ngày bạn cũng phải đi qua 1440 phút. Vậy bạn muốn sở hữu 1440 khoảnh khắc bình an, tự tại hay là 1440 nỗi âu lo, sợ hãi???
--Br. Huynhquảng
CÂY KIẾM GỖ
Chuyện xưa kể rằng, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về kho báu của mình, và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong cuộc sống; các vị quan trở nên mối nghi ngờ, và tương lai trở nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho ông.
Từ chốn cung điện nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ông thấy họ toát lên nỗi đơn sơ, chất phát và không lo lắng cho tương lai. Quá tò mò lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an và không lo lắng.
Ngày kia, vị vua giả dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời. Vị vua giả dạng hỏi, “Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?” Người nghèo đáp, “Tôi có một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay.” Vị vua giả dạng hỏi tiếp, “Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ tiền mua bánh mì?” “Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Người nghèo đáp.
Sau khi ra về, vị vua muốn thử niềm tin người thợ giày. Ông ra lệnh cấm những người sửa giày dép hành nghề. Khi biết mình bị cấm hành nghề sửa giày dép, người thợ giày nhủ thầm: “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Ngay lập tức ông thấy một vài phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối. Tối đến, vị vua dưới dạng người ăn mày thăm người nghèo. Người nghèo vẫn thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua ra lệnh cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống từng ngày cùa mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn thản nhiên tin rằng, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Vì quá tò mò trước triết lý sống của người nghèo này, vị vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo làm lính cho cung điện. T hật đáng thương, người nghèo không được phát lương hằng ngày, nhưng hằng tháng. Dầu vậy, ông đã bán lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh mì và vẫn hạnh phúc. Vị vua giả dạng thăm ông và hỏi, “Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?” “Tôi được làm lính cho vua.” Người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng, “Làm lính nhận lương mỗi tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm và như thế tôi sẽ có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ.” Nhà vua giả dạng hỏi tiếp, “Nhưng nếu ông phái rút gươm ra vào ngày mai thì sao?” Người nghèo vẫn thản nhiên, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Quả thật, hôm sau người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm gỗ, người nghèo này sẽ không thể thực hiện được việc này, và như thế để xem thử niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp ông hay không.
Tên tử tội quì mọp xuống chân anh lính và thống thiết van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Anh nhà nghèo trong tranh phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn tiếng. “Lạy Đấng Tối Cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua. Nếu người này vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm này thành gươm gỗ.” Ngay tức khắc, anh rút lưỡi gươm và lưỡi gươm anh cầm trên tay là lưỡi gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên: “Đây là phép lạ,” và người bị kết án được tha. Vị Vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận rằng. “Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm.”[1]
****************************************
Quí bạn thân mến, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Thế đó, cuộc sống chỉ thực sự tồn tại trong hiện tại, chứ không ở trong quá khứ hay trong tương lai. Cái triết lý của anh nhà nghèo ấy là triết lý thực và có giá trị hơn vàng bạc, địa vị, nhan sắc, và quyền lực. Dù giàu có và quyền lực bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu bạn không sống hôm nay, thì bạn không cảm nếm được giá trị của cuộc đời. Nếu bạn không sống cho giây phút hiện tại, thì cuộc đời của bạn vẫn như là những chuỗi ngày kiếm tìm, rượt bắt cái bóng “an toàn, hạnh phúc” một cách vô vọng. Thật hữu ý và hợp tình khi danh từ tiếng Anh “present” mang nghĩa “quà tặng” và cũng có nghĩa “hiện tại.” Như vậy, hiện tại là quà tặng. Ai không sống trong hiện tại là tự mình khước từ quà tặng. Khước từ quà tặng, tức là khước từ niềm vui, hạnh phúc, bình an, và tự chủ ngay trong từng giây phút này của đời mình.
Chúc bạn sống giây phút này, ngay bây giờ thật tràn đầy, sung mãn.
--Br. Huynhquảng
Chuyện xưa kể rằng, có một vị vua ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc của mình, về kho báu của mình, và đặc biệt về ngai vàng của mình. Ông không tìm thấy bình an trong cuộc sống; các vị quan trở nên mối nghi ngờ, và tương lai trở nên nỗi ám ảnh sợ hãi cho ông.
Từ chốn cung điện nhìn xuống đám dân nghèo, ông cảm thấy như thèm muốn được như họ, vì ông thấy họ toát lên nỗi đơn sơ, chất phát và không lo lắng cho tương lai. Quá tò mò lối sống của dân nghèo, vị vua quyết định hóa trang thành người ăn mày để tìm hiểu nguyên nhân nào đã làm cho những dân nghèo được bình an và không lo lắng.
Ngày kia, vị vua giả dạng người ăn mày gõ cửa một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời người ăn mày vào và cùng chia sẻ một ổ bánh mì với thái độ hạnh phúc và yêu đời. Vị vua giả dạng hỏi, “Điều gì đã làm ông hạnh phúc như vậy?” Người nghèo đáp, “Tôi có một ngày rất tốt. Tôi sửa giày và kiếm đủ tiền để mua ổ bánh cho buổi tối nay.” Vị vua giả dạng hỏi tiếp, “Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ngày mai ông không kiếm đủ tiền mua bánh mì?” “Tôi có niềm tin vào mỗi ngày. Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Người nghèo đáp.
Sau khi ra về, vị vua muốn thử niềm tin người thợ giày. Ông ra lệnh cấm những người sửa giày dép hành nghề. Khi biết mình bị cấm hành nghề sửa giày dép, người thợ giày nhủ thầm: “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Ngay lập tức ông thấy một vài phụ nữ đang gánh nước ra chợ bán rau, ông xin được gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối. Tối đến, vị vua dưới dạng người ăn mày thăm người nghèo. Người nghèo vẫn thái độ ung dung, hạnh phúc với ổ bánh mì của mình. Hôm sau, vua ra lệnh cấm không cho phép hành nghề gánh nước thuê. Và cứ như thế, người nghèo đã thay đổi nhiều nghề khác nhau, nhưng nơi ông vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống từng ngày cùa mình. Còn vị vua vẫn không thể nào hiểu nổi sự bình an và niềm tin của người nghèo kia. Mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo vẫn thản nhiên tin rằng, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Vì quá tò mò trước triết lý sống của người nghèo này, vị vua ra lệnh và dàn xếp để người nghèo làm lính cho cung điện. T hật đáng thương, người nghèo không được phát lương hằng ngày, nhưng hằng tháng. Dầu vậy, ông đã bán lưỡi gươm và có đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Tối đến, ông vẫn có bánh mì và vẫn hạnh phúc. Vị vua giả dạng thăm ông và hỏi, “Hôm nay ông làm nghề gì mà kiếm tiến mua bánh mì?” “Tôi được làm lính cho vua.” Người nghèo đáp. Ông cũng đơn sơ kể rằng, “Làm lính nhận lương mỗi tháng, nên tôi đã bán lưỡi gươm thật và đủ tiền để mua bánh mì cho một tháng. Sau khi có lương, tôi sẽ chuộc lại lưỡi gươm và như thế tôi sẽ có cuộc sống tốt hơn. Hiện nay tôi đang dùng lưỡi gươm bằng gỗ.” Nhà vua giả dạng hỏi tiếp, “Nhưng nếu ông phái rút gươm ra vào ngày mai thì sao?” Người nghèo vẫn thản nhiên, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.”
Quả thật, hôm sau người ta bắt được một tên trộm và bị kết án xử chém. Vua yêu cầu người nghèo trong trang phục lính thực hiện việc này. Vì nhà vua biết rằng, với lưỡi kiếm gỗ, người nghèo này sẽ không thể thực hiện được việc này, và như thế để xem thử niềm tin vào triết lý sống từng ngày của ông có thể giúp ông hay không.
Tên tử tội quì mọp xuống chân anh lính và thống thiết van xin được tha mạng vì còn vợ và con nhỏ. Anh nhà nghèo trong tranh phục lính nhìn đám đông xung quanh và hô lớn tiếng. “Lạy Đấng Tối Cao, nếu người sắp bị hành quyết này là người có tội, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua. Nếu người này vô tội, xin hãy biến lưỡi gươm này thành gươm gỗ.” Ngay tức khắc, anh rút lưỡi gươm và lưỡi gươm anh cầm trên tay là lưỡi gươm gỗ. Đám đông đồng thanh la lên: “Đây là phép lạ,” và người bị kết án được tha. Vị Vua truyền lệnh tha tên ăn trộm đồng thời tiến đến người lính nghèo thú nhận rằng. “Trẫm chính là người ăn mày mỗi tối tại nhà ngươi. Từ nay trở đi, trẫm muốn ngươi là bạn và là quân sư cho trẫm.”[1]
****************************************
Quí bạn thân mến, “Ngày từng ngày, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.” Thế đó, cuộc sống chỉ thực sự tồn tại trong hiện tại, chứ không ở trong quá khứ hay trong tương lai. Cái triết lý của anh nhà nghèo ấy là triết lý thực và có giá trị hơn vàng bạc, địa vị, nhan sắc, và quyền lực. Dù giàu có và quyền lực bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu bạn không sống hôm nay, thì bạn không cảm nếm được giá trị của cuộc đời. Nếu bạn không sống cho giây phút hiện tại, thì cuộc đời của bạn vẫn như là những chuỗi ngày kiếm tìm, rượt bắt cái bóng “an toàn, hạnh phúc” một cách vô vọng. Thật hữu ý và hợp tình khi danh từ tiếng Anh “present” mang nghĩa “quà tặng” và cũng có nghĩa “hiện tại.” Như vậy, hiện tại là quà tặng. Ai không sống trong hiện tại là tự mình khước từ quà tặng. Khước từ quà tặng, tức là khước từ niềm vui, hạnh phúc, bình an, và tự chủ ngay trong từng giây phút này của đời mình.
Chúc bạn sống giây phút này, ngay bây giờ thật tràn đầy, sung mãn.
--Br. Huynhquảng
NGHIỆP AI NẤY MANG, DUYÊN AI NẤY HƯỞNG
Là một nhà sư, tôi thường được yêu cầu đến tụng kinh cho tang lễ. Tôi cảm thấy buồn cho gia quyến của người chết nhưng đôi khi tôi cũng cảm thấy không giúp được gì vì có quá nhiều khó xử trong vai tṛò của một nhà sư đi tụng kinh đám tang.
Một ngày nọ, một phụ nữ trẻ tuổi đến gặp tôi. Cha cô mới chết sáng hôm đó. Ông mới chỉ 42 tuổi. Cô nói với tôi bằng tiếng Phúc Kiến: “Xin mời thầy đến tụng kinh. Xin thầy mở con đường cho cha tôi”.
Tôi nhìn cô ta với tất cả tấm ḷòng từ bi mà tôi có thể tập trung. Tôi có thể cảm thấy sự bối rối và đau khổ của cô. Cô khoảng chừng 20 tuổi và là một người con gái có hiếu.
Trong thâm tâm tôi nói thầm với mình:
“Trời ơi tôi sẽ mở đường cho người như thế nào đây? Con đường tưởng tượng nào tôi sẽ vẽ trong không khí cho hồn tưởng tượng đặt chân lên? Làm sao tôi có thể nói với người phụ nữ trẻ tuổi tội nghiệp đang ở trong tình trạng buồn phiền và bối rối rằng:” không có con đường nào như cô có lẽ đã tưởng tượng như thế?”
Đức Phật cũng có lần ở trong tình thế như vậy và Ngài đă trả lời ra sao?
Một hôm một người trẻ tuổi lại gần Đức Phật và hỏi Ngài: “Bạch Thế Tôn, cha con chết. Xin mời Đức Phật đến và cầu nguyện cho cha con, cứu độ linh hồn ông ấy để ông ấy có thể đi lên thiên đàng. Những người Bà La Môn cử hành những nghi thức này nhưng Đức Phật lại còn mạnh hơn họ nhiều. Nếu Ngài sẽ làm điều đó, chắc chắn hồn cha con sẽ bay thẳng về thiên đường.
Đức Phật trả lời, “Rất tốt, hãy đi ra chợ và đem về cho ta hai cái bình đất và một ít bơ”. Người trẻ tuổi sung sướng vì Đức Phật đã hạ cố thi hành một số thần thông để cứu linh hồn cha của mình. Anh ta vội vã đi ra phố và mua các thứ mà Đức Phật bảo.
Đức Phật chỉ dẫn cho anh ta để bơ vào một bình và để đá vào bình kia. Rồi ném cả hai bình đó xuống ao. Người trẻ tuổi làm theo và cả hai bình đều chìm xuống đáy ao. Rồi Đức Phật tiếp tục: “Bây giờ hãy lấy một cái gậy và đập vỡ hai bình đó ở dưới ao”. Người trẻ tuổi làm theo. Hai cái bình bị đập vỡ và bơ thì nhẹ đă nổi lên còn hòn đá vì nặng nên vẫn ở dưới đáy ao.
Rồi Đức Phật nói: “Bây giờ nhanh lên đi tập họp tất cả những thầy tu. Hãy nói với họ đến và tụng kinh để bơ chìm xuống và viên đá nổi lên.
Người trẻ tuổi nhìn Đức Phật, sửng sốt, nói, “Bạch Đức Thế Tôn, Ngài có nói thật không ạ. Chắc chắn Ngài không thể trông chờ bơ nhẹ mà chìm và đá nặng mà nổi. Điều đó ngược lại với quy luật tự nhiên.”
Đức Phật mỉm cười và nói: “Này con, con đã thấy nếu cha con có một cuộc đời LƯƠNG THIỆN thì những HÀNH VI của ông cũng nhẹ như bơ cho dù thế nào thì ông cũng lên thiên đàng. Không ai có thể cản được, ngay cả đến ta. Không ai có thể chống lại NGHIỆP luật thiên nhiên.
Nhưng nếu cha ngươi có một cuộc đời BẤT THIỆN thì cũng giống như hòn đá nặng, cha ngươi sẽ bị chìm vào địa ngục. Dù tụng kinh nhiều đến đâu đi nữa bởi tất cả các thầy tu trên thế giới này cũng không thể gây thành khác được.”
Người trẻ tuổi hiểu ra. Anh thay đổi quan niệm sai lầm của anh và ngừng đi loanh quanh đ̣ể hỏi cái không thể được.
Nụ cười của Đức Phật đã đi tới điểm:
Không ai có thể cứu chúng ta,sau khi chúng ta chết. Theo NGHIỆP luật, chúng ta là sở hữu chủ của những hành vi của chúng ta, chúng ta là người thừa hưởng những hành vi của chúng ta. Những hành vi của chúng ta thực sự là tài sản của chúng ta. Chúng là chỗ nương tựa thực sự của chúng ta, là những thân nhân thực sự của chúng ta.
Khi chúng ta chết, chúng ta không mang được dù chỉ có một xu với chúng ta, hay bất cứ thứ đồ dùng của cá nhân chúng ta. Cũng chẳng có thể mang được một trong những người thân để cùng đi với chúng ta.
Giống như chúng ta đến thế gian này một mình theo NGHIỆP của chúng ta, thì chúng ta cũng phải ra đi một mình với Nghiệp của kiếp này.
Nếu chúng ta hiểu rõ NGHIỆP luật, thì chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy sống một cuộc đời LƯƠNG THIỆN quan trọng đến như thế nào trong khi chúng ta còn sống. Đợi đến lúc chết thì sẽ quá muộn.
Tỳ Kheo Visuddhacara
Là một nhà sư, tôi thường được yêu cầu đến tụng kinh cho tang lễ. Tôi cảm thấy buồn cho gia quyến của người chết nhưng đôi khi tôi cũng cảm thấy không giúp được gì vì có quá nhiều khó xử trong vai tṛò của một nhà sư đi tụng kinh đám tang.
Một ngày nọ, một phụ nữ trẻ tuổi đến gặp tôi. Cha cô mới chết sáng hôm đó. Ông mới chỉ 42 tuổi. Cô nói với tôi bằng tiếng Phúc Kiến: “Xin mời thầy đến tụng kinh. Xin thầy mở con đường cho cha tôi”.
Tôi nhìn cô ta với tất cả tấm ḷòng từ bi mà tôi có thể tập trung. Tôi có thể cảm thấy sự bối rối và đau khổ của cô. Cô khoảng chừng 20 tuổi và là một người con gái có hiếu.
Trong thâm tâm tôi nói thầm với mình:
“Trời ơi tôi sẽ mở đường cho người như thế nào đây? Con đường tưởng tượng nào tôi sẽ vẽ trong không khí cho hồn tưởng tượng đặt chân lên? Làm sao tôi có thể nói với người phụ nữ trẻ tuổi tội nghiệp đang ở trong tình trạng buồn phiền và bối rối rằng:” không có con đường nào như cô có lẽ đã tưởng tượng như thế?”
Đức Phật cũng có lần ở trong tình thế như vậy và Ngài đă trả lời ra sao?
Một hôm một người trẻ tuổi lại gần Đức Phật và hỏi Ngài: “Bạch Thế Tôn, cha con chết. Xin mời Đức Phật đến và cầu nguyện cho cha con, cứu độ linh hồn ông ấy để ông ấy có thể đi lên thiên đàng. Những người Bà La Môn cử hành những nghi thức này nhưng Đức Phật lại còn mạnh hơn họ nhiều. Nếu Ngài sẽ làm điều đó, chắc chắn hồn cha con sẽ bay thẳng về thiên đường.
Đức Phật trả lời, “Rất tốt, hãy đi ra chợ và đem về cho ta hai cái bình đất và một ít bơ”. Người trẻ tuổi sung sướng vì Đức Phật đã hạ cố thi hành một số thần thông để cứu linh hồn cha của mình. Anh ta vội vã đi ra phố và mua các thứ mà Đức Phật bảo.
Đức Phật chỉ dẫn cho anh ta để bơ vào một bình và để đá vào bình kia. Rồi ném cả hai bình đó xuống ao. Người trẻ tuổi làm theo và cả hai bình đều chìm xuống đáy ao. Rồi Đức Phật tiếp tục: “Bây giờ hãy lấy một cái gậy và đập vỡ hai bình đó ở dưới ao”. Người trẻ tuổi làm theo. Hai cái bình bị đập vỡ và bơ thì nhẹ đă nổi lên còn hòn đá vì nặng nên vẫn ở dưới đáy ao.
Rồi Đức Phật nói: “Bây giờ nhanh lên đi tập họp tất cả những thầy tu. Hãy nói với họ đến và tụng kinh để bơ chìm xuống và viên đá nổi lên.
Người trẻ tuổi nhìn Đức Phật, sửng sốt, nói, “Bạch Đức Thế Tôn, Ngài có nói thật không ạ. Chắc chắn Ngài không thể trông chờ bơ nhẹ mà chìm và đá nặng mà nổi. Điều đó ngược lại với quy luật tự nhiên.”
Đức Phật mỉm cười và nói: “Này con, con đã thấy nếu cha con có một cuộc đời LƯƠNG THIỆN thì những HÀNH VI của ông cũng nhẹ như bơ cho dù thế nào thì ông cũng lên thiên đàng. Không ai có thể cản được, ngay cả đến ta. Không ai có thể chống lại NGHIỆP luật thiên nhiên.
Nhưng nếu cha ngươi có một cuộc đời BẤT THIỆN thì cũng giống như hòn đá nặng, cha ngươi sẽ bị chìm vào địa ngục. Dù tụng kinh nhiều đến đâu đi nữa bởi tất cả các thầy tu trên thế giới này cũng không thể gây thành khác được.”
Người trẻ tuổi hiểu ra. Anh thay đổi quan niệm sai lầm của anh và ngừng đi loanh quanh đ̣ể hỏi cái không thể được.
Nụ cười của Đức Phật đã đi tới điểm:
Không ai có thể cứu chúng ta,sau khi chúng ta chết. Theo NGHIỆP luật, chúng ta là sở hữu chủ của những hành vi của chúng ta, chúng ta là người thừa hưởng những hành vi của chúng ta. Những hành vi của chúng ta thực sự là tài sản của chúng ta. Chúng là chỗ nương tựa thực sự của chúng ta, là những thân nhân thực sự của chúng ta.
Khi chúng ta chết, chúng ta không mang được dù chỉ có một xu với chúng ta, hay bất cứ thứ đồ dùng của cá nhân chúng ta. Cũng chẳng có thể mang được một trong những người thân để cùng đi với chúng ta.
Giống như chúng ta đến thế gian này một mình theo NGHIỆP của chúng ta, thì chúng ta cũng phải ra đi một mình với Nghiệp của kiếp này.
Nếu chúng ta hiểu rõ NGHIỆP luật, thì chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy sống một cuộc đời LƯƠNG THIỆN quan trọng đến như thế nào trong khi chúng ta còn sống. Đợi đến lúc chết thì sẽ quá muộn.
Tỳ Kheo Visuddhacara
VÌ NGƯỜI HIẾN THÂN
Mạnh Thường Quân đối xử rất tốt với môn khách là Hạ Hầu Chương, tặng ông ta tiền ăn của bốn năm trăm người gộp lại, nhưng Hạ Hầu Chương vẫn luôn nói xấu Mạnh Thường Quân.
Có người mách với Mạnh Thường Quân, Mạnh Thường Quân nói: “Tôi thường có những việc phải thỉnh giáo Hạ hầu công, đừng nói về chuyện ông ấy.”
Phồn Thanh đem câu chuyện này nói lại với Hạ Hầu Chương, Hạ nói:
- “Tôi không có một chút công lao nào mà Mạnh Thường Quân tặng tôi tiền ăn của bốn năm trăm người gộp lại, lại còn đối xử rất tốt với tôi, mà tôi lại còn đi nói xấu ông ấy; Mạnh Thường Quân lấy lòng quân tử đối xử với người rất khoan hậu như vậy, mà tôi thì trở thành kẻ tiểu nhân vong ân bội nghĩa, hỗn láo, như thế tôi phải lấy nhân cách và danh dự của mình vì Mạnh Thường Quân mà cống hiến sức lực, tôi không biết còn phải nói gì nữa đây?”
(Chính Quốc sách)
Suy tư:
Chúng ta chưa bao giờ nói xấu đạo của mình, nhưng chúng ta cũng rất ít khi vì tôn giáo mà lên án những bất công trong xã hội.
Chúng ta chưa làm gì để cho Chúa vui cả, mà chỉ luôn luôn lấy cái trí nhỏ nhen, đem cái tâm ích kỷ của mình để đòi hỏi nơi Chúa mà thôi.
Chúng ta chưa làm gì cho cộng đoàn của mình cả, mà chỉ vì những quyền lợi nhỏ nhen cá nhân mà đòi hỏi cộng đoàn và khích bác anh chị em trong cộng đoàn.
Chúng ta chưa làm gì cho giáo xứ của mình cả, nhưng cứ hể tới nhà thờ là chỉ trích người này người nọ, chỉ trích cái này sai cái kia chưa tốt.
Nếu Thiên Chúa cứ hể thấy chúng ta phạm tội là phạt, thì thử hỏi chúng ta sống được một giây để chỉ trích nói xấu gièm pha anh chị em nữa hay không ?
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
Mạnh Thường Quân đối xử rất tốt với môn khách là Hạ Hầu Chương, tặng ông ta tiền ăn của bốn năm trăm người gộp lại, nhưng Hạ Hầu Chương vẫn luôn nói xấu Mạnh Thường Quân.
Có người mách với Mạnh Thường Quân, Mạnh Thường Quân nói: “Tôi thường có những việc phải thỉnh giáo Hạ hầu công, đừng nói về chuyện ông ấy.”
Phồn Thanh đem câu chuyện này nói lại với Hạ Hầu Chương, Hạ nói:
- “Tôi không có một chút công lao nào mà Mạnh Thường Quân tặng tôi tiền ăn của bốn năm trăm người gộp lại, lại còn đối xử rất tốt với tôi, mà tôi lại còn đi nói xấu ông ấy; Mạnh Thường Quân lấy lòng quân tử đối xử với người rất khoan hậu như vậy, mà tôi thì trở thành kẻ tiểu nhân vong ân bội nghĩa, hỗn láo, như thế tôi phải lấy nhân cách và danh dự của mình vì Mạnh Thường Quân mà cống hiến sức lực, tôi không biết còn phải nói gì nữa đây?”
(Chính Quốc sách)
Suy tư:
Chúng ta chưa bao giờ nói xấu đạo của mình, nhưng chúng ta cũng rất ít khi vì tôn giáo mà lên án những bất công trong xã hội.
Chúng ta chưa làm gì để cho Chúa vui cả, mà chỉ luôn luôn lấy cái trí nhỏ nhen, đem cái tâm ích kỷ của mình để đòi hỏi nơi Chúa mà thôi.
Chúng ta chưa làm gì cho cộng đoàn của mình cả, mà chỉ vì những quyền lợi nhỏ nhen cá nhân mà đòi hỏi cộng đoàn và khích bác anh chị em trong cộng đoàn.
Chúng ta chưa làm gì cho giáo xứ của mình cả, nhưng cứ hể tới nhà thờ là chỉ trích người này người nọ, chỉ trích cái này sai cái kia chưa tốt.
Nếu Thiên Chúa cứ hể thấy chúng ta phạm tội là phạt, thì thử hỏi chúng ta sống được một giây để chỉ trích nói xấu gièm pha anh chị em nữa hay không ?
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
CỘNG ĐOÀN: TRƯỜNG HỌC YÊU THƯƠNG
Học và hành luôn đi đôi với nhau, đó là chìa khoá cho sự thành công, có một số người trời phú cho sự thông minh học đâu thuộc đó, nhưng để sử dụng cái máy tính nhân chia số thập phân thì chẳng biết bấm nút nào cho nó đúng! Cũng có người lái xe mô tô, chạy xe hơi ào ào, nhưng khi xe không khởi động máy thì chẳng biết đường nào mà rờ, đem tới thợ coi ra sao, té ra là đã khoá…xăng ! Anh ta chưa hiểu lý thuyết vận hành của xe cộ !
Có một vài giáo dân thuộc làu làu mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu điều luật Hội thánh; khi dự thánh lễ cha chưa giảng thì đã hiểu nội dung của bài Phúc Âm. Nhưng trong cuộc sống đời thường thì họ sống y như là người chưa biết chút gì về Lời Chúa: chửi thề, phóng túng, rượu chè, cờ bạc.v.v…họ chưa thực hành Lời Chúa, và họ bị người ta cho là “đồ vô đạo”.
Không có môi trường nào để học và thực hành đức ái tốt cho bằng trong cộng đoàn, bởi vì cộng đoàn là nơi để chúng ta học tập yêu thương, thực hành yêu thương và nuôi dưỡng yêu thương.
1. Học tập yêu thương:
Cộng đoàn giáo xứ, cộng đoàn dòng tu hay một cộng đoàn tu hội đời, là một gia đình mà các thành viên trong cộng đoàn “không liên hệ huyết thống” gì với nhau như gia đình thân bằng quyến thuộc của mỗi người, cho nên, khi gia nhập cộng đoàn là chúng ta tách mình ra khỏi tình cảm huyết nhục cha mẹ, anh em, chị em, để chúng ta sát nhập vào một gia đình mới, không phải cùng huyết thống, mà là liên hệ trong đức tin, đó chính là làm con cái của tổ phụ A-bra-ham.
Ở trong cộng đoàn mới nầy, chúng ta phải học tập yêu thương những người mà trước đây mình không quen biết, thương yêu để nhẫn nhục vì tính kiêu ngạo, khó chịu của chị em, anh em; học tập yêu thương để yêu thương những khuôn mặt cay cú quạu vọ của người anh em, chị em trong cộng đoàn của mình.
Bởi vì không ai tin chúng ta khi chúng ta dạy người khác phải yêu thương nhau, mà chính chúng ta lại chưa biết yêu thương người anh em, chị em trong cộng đoàn của mình.
2/ Thực hành yêu thương:
Linh mục Vincent Lebbe, người sáng lập bốn tu hội, cộng đoàn đã nói: “Thật yêu người tức là luôn luôn làm cho người ta trước, sau đó đến mình, khiến cho người ta tự mình được an ủi thật sự và ích lợi thật sự” .
Để trở thành một Ki-tô hữu chân chính, thì không những phải học yêu thương mà còn là phải thực hành yêu thương. Học tức là suy tư, biện luận, phản bác, có nghĩa là dùng lý trí để suy xét, nhưng học yêu thương thì không phản bác, không biện luận, không xét nét gì cả, mà chỉ có dùng trí khôn ngoan để tìm cách thi hành đức ái sao cho hoàn hảo nhất mà thôi.
Đức Chúa Giê-su chết trên thập giá vì yêu nhân loại tội lỗi, Ngài đã không phản bác, không biện luận, không xét nét, nhưng đã chọn cái chết khốc liệt nhất để yêu và cứu chuộc nhân loại. Cũng có nghĩa là Ngài đã làm cho nhân loại trước là được cứu chuộc; sau đó đến mình là hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại bằng sự phục sinh vinh hiển. Ngài đã thực hành yêu thương.
Nơi lý tưởng nhất để thực hành yêu thương chính là trong cộng đoàn của chúng ta.
3/ Nuôi dưỡng yêu thương:
Đi truyền giáo tức là đi đến nơi mà chúng ta chưa biết chưa quen, ở với một dân tộc hoặc một địa phương mà phải mất nhiều năm chúng ta mới thích nghi được với đời sống của họ. Tóm lại là vô cùng khó khăn, nhưng khó khăn và cảm thấy bị bỏ rơi nhất chính là khi chúng ta bị nỗi đơn dày vò, chính vì vậy mà có rất nhiều anh em, chị em đã ra đi không trở lại.
Cộng đoàn chính là nơi nuôi dưỡng yêu thương, để khi chúng ta ra đi gặt hái trên cánh đồng truyền giáo, gặp những khó khăn, đau khổ, chúng ta lại được bồi dưỡng tinh thần, giải toả những khó khăn, tìm lại được giây phút yêu thương đầm ấm ngay trong chính cộng đoàn của mình. Vì hiểu được điều ấy, mà có một số dòng tu có một nội quy rất dễ thương: các thành viên sau ba năm phục vụ ở ngoài xã hội, thì trở về nhà dòng mẹ từ ba đến bốn tháng để nghỉ ngơi, bồi dưỡng tinh thần cũng như sức khoẻ…
Tổng thống Mỹ John F. Kennedy nói: “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho tôi, nhưng hãy hỏi tôi đã làm gì cho tổ quốc”. Nếu chúng ta chưa tìm được nơi cộng đoàn sự yêu thương, thì nên tự hỏi mình: tôi đã làm gì cho cộng đoàn của tôi để đức ái được phát triển?
Học tập yêu thương và thực hành yêu thương, chính là dấu hiệu của người môn đệ của Đức Chúa Giê-su trong thế kỷ 21 nầy vậy !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Học và hành luôn đi đôi với nhau, đó là chìa khoá cho sự thành công, có một số người trời phú cho sự thông minh học đâu thuộc đó, nhưng để sử dụng cái máy tính nhân chia số thập phân thì chẳng biết bấm nút nào cho nó đúng! Cũng có người lái xe mô tô, chạy xe hơi ào ào, nhưng khi xe không khởi động máy thì chẳng biết đường nào mà rờ, đem tới thợ coi ra sao, té ra là đã khoá…xăng ! Anh ta chưa hiểu lý thuyết vận hành của xe cộ !
Có một vài giáo dân thuộc làu làu mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu điều luật Hội thánh; khi dự thánh lễ cha chưa giảng thì đã hiểu nội dung của bài Phúc Âm. Nhưng trong cuộc sống đời thường thì họ sống y như là người chưa biết chút gì về Lời Chúa: chửi thề, phóng túng, rượu chè, cờ bạc.v.v…họ chưa thực hành Lời Chúa, và họ bị người ta cho là “đồ vô đạo”.
Không có môi trường nào để học và thực hành đức ái tốt cho bằng trong cộng đoàn, bởi vì cộng đoàn là nơi để chúng ta học tập yêu thương, thực hành yêu thương và nuôi dưỡng yêu thương.
1. Học tập yêu thương:
Cộng đoàn giáo xứ, cộng đoàn dòng tu hay một cộng đoàn tu hội đời, là một gia đình mà các thành viên trong cộng đoàn “không liên hệ huyết thống” gì với nhau như gia đình thân bằng quyến thuộc của mỗi người, cho nên, khi gia nhập cộng đoàn là chúng ta tách mình ra khỏi tình cảm huyết nhục cha mẹ, anh em, chị em, để chúng ta sát nhập vào một gia đình mới, không phải cùng huyết thống, mà là liên hệ trong đức tin, đó chính là làm con cái của tổ phụ A-bra-ham.
Ở trong cộng đoàn mới nầy, chúng ta phải học tập yêu thương những người mà trước đây mình không quen biết, thương yêu để nhẫn nhục vì tính kiêu ngạo, khó chịu của chị em, anh em; học tập yêu thương để yêu thương những khuôn mặt cay cú quạu vọ của người anh em, chị em trong cộng đoàn của mình.
Bởi vì không ai tin chúng ta khi chúng ta dạy người khác phải yêu thương nhau, mà chính chúng ta lại chưa biết yêu thương người anh em, chị em trong cộng đoàn của mình.
2/ Thực hành yêu thương:
Linh mục Vincent Lebbe, người sáng lập bốn tu hội, cộng đoàn đã nói: “Thật yêu người tức là luôn luôn làm cho người ta trước, sau đó đến mình, khiến cho người ta tự mình được an ủi thật sự và ích lợi thật sự” .
Để trở thành một Ki-tô hữu chân chính, thì không những phải học yêu thương mà còn là phải thực hành yêu thương. Học tức là suy tư, biện luận, phản bác, có nghĩa là dùng lý trí để suy xét, nhưng học yêu thương thì không phản bác, không biện luận, không xét nét gì cả, mà chỉ có dùng trí khôn ngoan để tìm cách thi hành đức ái sao cho hoàn hảo nhất mà thôi.
Đức Chúa Giê-su chết trên thập giá vì yêu nhân loại tội lỗi, Ngài đã không phản bác, không biện luận, không xét nét, nhưng đã chọn cái chết khốc liệt nhất để yêu và cứu chuộc nhân loại. Cũng có nghĩa là Ngài đã làm cho nhân loại trước là được cứu chuộc; sau đó đến mình là hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại bằng sự phục sinh vinh hiển. Ngài đã thực hành yêu thương.
Nơi lý tưởng nhất để thực hành yêu thương chính là trong cộng đoàn của chúng ta.
3/ Nuôi dưỡng yêu thương:
Đi truyền giáo tức là đi đến nơi mà chúng ta chưa biết chưa quen, ở với một dân tộc hoặc một địa phương mà phải mất nhiều năm chúng ta mới thích nghi được với đời sống của họ. Tóm lại là vô cùng khó khăn, nhưng khó khăn và cảm thấy bị bỏ rơi nhất chính là khi chúng ta bị nỗi đơn dày vò, chính vì vậy mà có rất nhiều anh em, chị em đã ra đi không trở lại.
Cộng đoàn chính là nơi nuôi dưỡng yêu thương, để khi chúng ta ra đi gặt hái trên cánh đồng truyền giáo, gặp những khó khăn, đau khổ, chúng ta lại được bồi dưỡng tinh thần, giải toả những khó khăn, tìm lại được giây phút yêu thương đầm ấm ngay trong chính cộng đoàn của mình. Vì hiểu được điều ấy, mà có một số dòng tu có một nội quy rất dễ thương: các thành viên sau ba năm phục vụ ở ngoài xã hội, thì trở về nhà dòng mẹ từ ba đến bốn tháng để nghỉ ngơi, bồi dưỡng tinh thần cũng như sức khoẻ…
Tổng thống Mỹ John F. Kennedy nói: “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho tôi, nhưng hãy hỏi tôi đã làm gì cho tổ quốc”. Nếu chúng ta chưa tìm được nơi cộng đoàn sự yêu thương, thì nên tự hỏi mình: tôi đã làm gì cho cộng đoàn của tôi để đức ái được phát triển?
Học tập yêu thương và thực hành yêu thương, chính là dấu hiệu của người môn đệ của Đức Chúa Giê-su trong thế kỷ 21 nầy vậy !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
GIỎI BẮT BÍ BIỀN BIỀN
Có một người nước Tề đi thăm Biền Biền, nói:
- “Nghe danh tiếng thanh cao của Ngài đã lâu, không ra làm quan nhưng lại phục dịch cho mọi người.”
Biền Biền hỏi:
- “Ngài nghe ai nói ?”
Người ấy trả lời:
- “Tôi nghe đứa con gái hàng xóm nói .”
Biền Biền hỏi:
- “Nó nói như thế nào?”
Trả lời:
- “Đứa con gái hàng xóm nói nó không lấy chồng, nhưng chưa đầy ba mươi tuổi thì đã sinh bảy đứa con. Danh nghĩa thì nói không chồng, nhưng hành vi của nó thì người lấy chồng cũng không bằng! Như ngài đây không làm quan, nhưng lương đống của ngài ngàn chung (chén), tuỳ tùng phục dịch trên trăm người, danh nghĩa thì nói không làm quan, nhưng ngài lại lớn hơn cả người làm quan!”
( Chính Quốc sách)
Suy tư:
Cũng có một lúc nào đó, tôi nghe người ta nói với tôi –một linh mục- rằng: “Ngài tuy không phải là nhà triệu phú, nhưng ngài xài sang hơn cả triệu phú; tuy ngài không phải là một thanh niên đua đòi bắt chước, nhưng ngài đua đòi ăn diện còn hơn cả người đua đòi “ mốt” ăn diện; ngài tuy không phải là dân bợm nhậu, nhưng ngài ăn uống nhậu nhẹt còn hơn cả bợm nhâu.”
Và cũng có một lúc nào đó, nếu tôi không sống với đời sống của một linh mục- một Đức Ki-tô thứ hai– thì người ta cũng sẽ nói với tôi như thế này: “Mặc dù ngài là linh mục nhưng tư cách của ngài không giống linh mục chút nào, bởi vì ngài lo bon chen với tiền bạc và hưởng thụ hơn cả chúng tôi.”
Thật đáng tội nghiệp cho chúng ta –những linh mục- biết chừng nào.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
Có một người nước Tề đi thăm Biền Biền, nói:
- “Nghe danh tiếng thanh cao của Ngài đã lâu, không ra làm quan nhưng lại phục dịch cho mọi người.”
Biền Biền hỏi:
- “Ngài nghe ai nói ?”
Người ấy trả lời:
- “Tôi nghe đứa con gái hàng xóm nói .”
Biền Biền hỏi:
- “Nó nói như thế nào?”
Trả lời:
- “Đứa con gái hàng xóm nói nó không lấy chồng, nhưng chưa đầy ba mươi tuổi thì đã sinh bảy đứa con. Danh nghĩa thì nói không chồng, nhưng hành vi của nó thì người lấy chồng cũng không bằng! Như ngài đây không làm quan, nhưng lương đống của ngài ngàn chung (chén), tuỳ tùng phục dịch trên trăm người, danh nghĩa thì nói không làm quan, nhưng ngài lại lớn hơn cả người làm quan!”
( Chính Quốc sách)
Suy tư:
Cũng có một lúc nào đó, tôi nghe người ta nói với tôi –một linh mục- rằng: “Ngài tuy không phải là nhà triệu phú, nhưng ngài xài sang hơn cả triệu phú; tuy ngài không phải là một thanh niên đua đòi bắt chước, nhưng ngài đua đòi ăn diện còn hơn cả người đua đòi “ mốt” ăn diện; ngài tuy không phải là dân bợm nhậu, nhưng ngài ăn uống nhậu nhẹt còn hơn cả bợm nhâu.”
Và cũng có một lúc nào đó, nếu tôi không sống với đời sống của một linh mục- một Đức Ki-tô thứ hai– thì người ta cũng sẽ nói với tôi như thế này: “Mặc dù ngài là linh mục nhưng tư cách của ngài không giống linh mục chút nào, bởi vì ngài lo bon chen với tiền bạc và hưởng thụ hơn cả chúng tôi.”
Thật đáng tội nghiệp cho chúng ta –những linh mục- biết chừng nào.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
PHẢI SỐNG ĐẠO CÁCH NÀO …
PHẢI SỐNG ĐẠO CÁCH NÀO ĐỂ MƯU PHẦN RỖI CHO MÌNH
VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA
QUA GƯƠNG SÔNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH ?
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
Hỏi : xin cha cho biết phải sống Đạo cách nào để cho mình và giúp khác được cứu rỗi ?
Trả lời:
Là người có niềm tin Thiên Chúa, thì mục đích tối cao của đời mình phải là tìm Chúa để yêu mến Người trên hết mọi sự và ước muốn được cứu độ để vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên cõi vĩnh hằng mai sau.
Cho mục đích nói trên, thì người tín hữu phải thực tâm đầu tư tâm trí , khả năng và thì giờ vào việc tìm kiếm Thiên Chúa và yêu mến Người trong suốt hành trình đức tin của mình trên trần thế này cho đến ngày nhắm mắt lìa đời.
Cụ thể, phải sống Đạo cách nào để nói lên khát vọng tìm Chúa và Vương Quốc bình an, hạnh phúc của Người ?
Có Đạo và sống Đạo là hai việc nhìn qua có vẻ giống nhau , nhưng thực rất khác nhau về mọi khía cạnh.
Thật vậy, có Đạo có nghĩa là mình đi theo một tôn giáo nào đang có mặt trên thế giới như Đạo Công Giáo ( Roman Catholicism), Chính Thông Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) Đạo Do Thái ( Judaism) Tin Lành ( Protestants) Đạo Phật ( Buddhism), Đạo Ấn Giáo ( Hinduism) Đạo Khổng ( Confucianism), Đạo Lão, ( Taoism) Thần Đạo ( Shinto của Nhật bản) Hồi Giáo ( Islam). v..v..
Tin đồ các tôn giáo trên ở khắp nơi trên thế giới.Nhưng đông đảo nhất là tín đồ Kitô Giáo thuộc các Giáo Hội Công Giáo La Mã, Chính Thông Giáo Đông Phương , các nhánh Tin Lành, và Anh Giáo ( Anglican Communion) .Trong các Giáo Hội và giáo phái này , thì tín hữu Công Giáo chiếm đa số với trên một tỉ người đã gia nhập Giáo Hội qua Phép Rửa.
Con số thì đông và cơ sở thì to lớn và đồ xộ với các Thánh đường nguy nga từ giáo đô La Mã cho đến các điạ phương nghèo khó như các giáo xứ ở miền quê Việt Nam, nơi giáo dân phần nhiều còn sống khó khăn về mặt kinh tế nhưng cũng xây được các nhà thờ rộng lớn và khang trang với vật liệu mua từ nước ngoài như đá hoa cương, tháp chuông và bàn thờ, đèn nến…
Nếu chỉ nhìn qua những kiến trúc bề ngoài thì người du khách phải trầm trồ thán phục Giáo Hội Việt Nam về sức sống Đạo phong phú hơn nhiều nơi trong khắp Giáo Hội hoàn vũ.
Ở nước ngoài như Hoa Kỳ, Canada, và Úc Châu, người Công giáo Viêt Nam cũng xây được những nhà thờ nhà xứ to và đẹp hơn nhiều nhà thờ ở địa phương.
Nhưng đấy chỉ là bề nổi , bề ngoài của việc sống đạo, và vẻ huy hoàng bề ngoài này không hẳn đã phản ảnh trung thực bề sâu và mặt chìm của lòng mộ đạo sâu sắc. Nghĩa là phải sống Đạo cách đích thực có chiều sâu để khiến cho Chúa Kitô không phải than trách như Người đã quở mắng bọn Biết phái xưa kia:
“Dân này tôn tính Ta bằng môi bằng miệng
Còn lòng chúng thì lại xa Ta.”( Mt 15: 8)
Tôn kính bằng môi bằng miệng có nghĩa chỉ sống đạo cho có hình thức bề ngoài , như vẫn đi lễ ,đọc kinh, hành hương v.v nhưng tâm trí còn bám chặt những thực tại trần thế như tiền của, danh vọng phù phiếm hư hèn đến mức làm nô lệ và tôn thờ chúng cùng với mọi thú vui vô luân vô đạo, thay vì phải tôn thờ một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự chóng qua ở đời này.
Mặt khác, cũng phải sống Đạo cách nào trước mắt người đời “ để cho thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em , Đấng ngự trên Trời.” Như Chúa Giê su đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa kia. ( Mt 5: 16).
Thật vậy, có tên là người Công giáo phải đi đôi hay gắn liền với lòng tin yêu Chúa cách sâu đậm đích thực thì mới có giá trị thuyết phục và hy vọng được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn cho hết mọi người chúng ta.
Trong hoàn cảnh thế giới tục hóa ( secularism) ngày nay, chủ nghĩa vô thần, vô luân, tôn thờ tiền bạc ( cult of money) và ham mê khoái lạc ( hedonism) đang chi phối mạnh mẽ để lôi kéo con người ra khỏi mọi niềm tin tôn giáo, nhất là niêm tin có Thiêm Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, đầy yêu thương và giầu lòng tha thứ. Chính vì Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành nên Người gớm ghét mọi tội lỗi và sự dữ, như giết người, giết thai nhi để bán các cơ phận của thai nhi như mắt, tim phổi, thận để làm giầu , khủng bố, bắt cóc chặt đầu con tin, dâm ô, trộm cướp, gian ác, bóc lột, thù nghịch. ,nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ gái cho bọn bất lương hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn…Do đó, muốn sống niềm tin cho có chiều sâu thực sự, thì người tín hữu Công giáo phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ nói trên cùng với lối sống của người đời không có niềm tin, hay có mà không sống niềm tin ấy cách cụ thể. Phải xa tránh tội lỗi và những cách sống thiếu niềm tin của biết bao người khác để nói lên lòng yêu mến Chúa thực sự , tức yêu mến sự thiện, sự tốt lành, sự trong sạch, sự khôn ngoan, sự công chính… là những đặc tính cản bản thuộc về Thiên Chúa cực tốt cực lành. Cụ thể, yêu mến Chúa thực sự đòi hỏi mọi người tin có Chúa trước hết phải tuân giữ mọi Điều Răn của Chúa như Chúa Giê su đã dạy:
“ Ai yêu mến Thầy , thì sẽ giữ lời Thầy
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy
Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy.” ( Ga 14: 23)
Hay rõ hơn nữa
“ Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy
Anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy
Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
Và ở lại trong tình thương của Người,” ( Ga 15 : 10)
Giữ lời Thầy có nghĩa là thực thi những gì Chúa đã dạy , cụ thể là hai điều răn lớn và quan trọng nhất: đó là yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người khác như yêu thương chính mình, như Chúa Giê su đã nói với một luật sĩ kia. ( Mc 12: 28-31 ).
Tuân giữ các điều răn của Chúa không phải để làm lợi gì cho Chúa mà vì lợi ích của chính con người mà thôi.Chúa tuyệt đối không được lợi lộc gì khi ta tuân giữ các giới răn của Người.Chắc chắn như vậy.
Nói khác đi, nếu ai cũng được tự do cướp vợ giật chồng của nhau, tự do chiếm đoạt tài sản của người khác, tự do ăn gian nói dối và tự do giết người và dâm đãng thì thử hỏi thế giới này sẽ đi về đâu ?
Xã hội có luật pháp và người tín hữu Chúa Kitô có các giới luật của Thiên Chúa , vậy mà vẫn còn đầy rẫy những tội lỗi và sự dữ như giết người, oán thù , giết thai nhi, trộm cướp, bóc lột, gian dâm và hiếp dâm , bạo động và chiến tranh…Như vậy, thì thử hỏi : nếu không có luật pháp xã hội và các giới răn của Thiên Chúa thì đời sống con người và xã hội sẽ thê thảm đến mức nào ? Vì thế, tuân giữ luật pháp của xã hội và các giới răn của Chúa chỉ có lợi cho con người chứ không có lợi lộc gì cho Chúa hết.Cho nên, ta phải cảm tạ Chúa vì Người đã ban lề luật cho ta tuân giữ để được hạnh phúc ngay từ đời này, và nhất là đời sau.
Nói cách khác , nếu ai cũng biết tôn trọng mạng sống và danh dự của mình và của người khác, không ai thay vợ đổi chồng vì ham vui bất chính, không ai lường gạt, bóc lột người khác, không ai tham tiền để mở sòng bạc, nhà điếm, trồng cây thuốc phiện và cần sa , mở nhà tắm hơi trá hình để hành nghề mãi dâm, không ai gian ác để giết người, giết thai nhi…thì bộ mặt của thế giới này đã không quá tồi tệ và ghê sợ như thực trạng hiện nay.
Vậy, là người Công giáo – tức người tin Chúa Kitô- nếu muốn sống đức tin cách cụ thể và có sức thuyết phục người khác, thì phải tuân giữ các giới răn về mến Chúa, yêu người, yêu sự thiện và công bình, không gian dâm, trộm cắp, không oán thù và làm chứng gian, là những thói hư tật xấu của biết bao người không có niềm tin Thiên Chúa , hay có mà không sống niềm tin ấy cách cân xứng.
Chính việc tuân thủ mọi giới răn của Chúa, thực thi công bình và bác ái, xa lánh mọi thói hư tật xấu của người đời không có niềm tin, sẽ giúp người có và sống niềm tin phân biệt mình với họ và nhiên hậu cũng có sức lôi kéo , mời gọi người khác nhận biết có Chúa nhờ gương sống nhân chứng của mình.
Đây chính là sứ mệnh phúc âm hóa thế giới mà mọi tín hữu trong Giáo Hội có bổn phận thi hành để mang mang Nước Chúa và góp phần vào việc cứu rỗi người khác, vì “ Thiên Chúa Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhân biết chân lý.” ( 1 Tm 2 : 4).
Nói khác đi, sống giữa thế gian, người tin hữu Công giáo phải cố thực hành điều Thánh Phaolô đã khuyên dạy tin hữu Phi-lip-phê xưa là :
“ …anh em hãy làm mọi vệc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì , và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” ( Pl 2: 14-15)
Thế gian với quá nhiều gương xấu, quá nhiều quyến rũ về tiền bạc của cải vật chất , danh vọng và mọi thú vui vô luân vô đạo, là một thách đố to lớn cho những ai muốn chọn Chúa làm gia nghiệp để coi khinh , coi thường những lợi lãi và danh lợi chóng qua ở trần gian này.
Với những ai đang ham mê chạy theo những lôi cuốn đó của thế gian, thì Lời Chúa sau đây là một cảnh cáo và thức tỉnh cho họ và cũng cho tất cả những ai có niềm tin Chúa :
“ …Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống ( mất linh hồn) thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình.? ( Mt 16: 26; Mc 8: 36-37; Lc 9 : 25)
Thử hỏi : có ai được cả thế giới này làm lợi lãi đâu ? nhưng cho dù có chiếm được tất cả danh vọng và tiền bạc của trần thế này, mà mất mạng sống tức mất linh hồn thì được ích gì ? và lợi lãi kia có thể mua được phần rỗi của linh hồn hay không?
Đó là câu hỏi mà Chúa muốn mỗi người tín hữu chúng ta phải luôn suy nghĩ và hành động cho thích hợp.
Cũng cần nói thêm là , sống trên trần gian này, ai cũng phải lo cho mình và người thân của mình có được đời sống ấm no cho phù hợp với nhân phẩm. Trong mục đích và giới hạn này, Chúa không dạy chúng ta phải nghèo đói, rách rưới và vô gia cư thì mới được chúc phúc và cứu độ. Nghĩa là Chúa không cấm chúng ta đi tìm tiền bạc cho những nhu cầu chính đáng của thân xác và giúp thực thi bác ái với anh chị em kém may mắn vì nghèo túng. Nhưng là người có niềm tin Thiên Chúa và tin có sự sống mai sau trên Nước Trời , thì phải coi trọng phần rỗi của linh hồn mình hơn hết, dựa trên lời khuyên bảo sau đây của Chúa Giêsu: đó là : “ hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách , một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời , nơi trộm cắp không bến bảng, mối mọt cũng không đục phá.” ( Lc 12: 33) . Nghĩa là tiên vàn ta phải tìm kiếm “ Nước Thiên Chúa , còn các thứ kia Người sẽ thêm cho.” ( Lc 12: 31)
Các thứ kia là cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, xe cộ, bảo hiểm sức khỏe…là những thứ cần thiết cho đời sống con người bao lâu còn sống trên trần gian này. Và cầu xin Chúa ban cho những phương tiện sống cần thiết đó là điều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Nhưng điều cần thiết và quan trọng hơn là phải để hết tâm trí vào việc sống đạo cho có chiều sâu thực sự, thể hiện cụ thể qua việc siêng năng cầu nguyện để nâng lòng trí lên với Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc và giầu sang vĩnh cửu. Tiếp đến , phải siêng năng lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa giải tức là năng tham dự Thánh lễ để tâm hồn được nuôi dưỡng bằng lời Chúa và Mình Máu Chúa Kitô, là suối nguồn thông ban ơn cứu độ của Chúa cho ta qua Giáo Hội, là Thân Thể Nhiệm mầu của Chúa Kitô trong trần gian.
Sau nữa, cũng cần thiết phải luôn chạy đến với Chúa qua bí tích Hòa giải để được tha thứ mọi tội lỗi vì yếu đuối con người , trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình thương của Người.( Mc 3: 29)
Thêm vào đó, phải hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội thể hiện qua việc tuân thủ mọi giáo lý cúa Giáo Hội về hai lãnh vực rất quan trọng là tín lý và luân lý. Tín lý như tin có một Thiên Chúa với Ba Ngôi Vị, tin Chúa Ngôi Hai có hai bản tính là Thiên Chúa và là Con Người thật, tin Đức Maria trọn đời đồng trinh và lên trời cả hồn xác…Luân lý như cấm phá thai, cấm hôn nhân đồng tính ( same sex marriage) cấm thụ thai nhân tạo, và không được ly dị, không được mê tín dị đoan cờ bạc và mãi dâm…
Nếu không cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các lợi ích thiêng liêng lớn lao qua các Bí Tích Thánh Thể và Hòa giải và thi hành giáo lý của Giáo Hội, thì đời sống đức tin sẽ không thể tăng trưởng được. Và từ đó, cũng không giúp gia tăng lòng yêu mến Chúa và khao khát những sự trên trời mà hậu quả là chỉ còn mù quáng chậy theo những quyến rũ của trần gian với đam mê tiền của và mọi thú vui vô luân vô đạo, là bộ mặt thật của “văn hóa sự chết” đang chi phối biết bao triệu con người ở khắp nơi trên thế giới tục hóa, phi luân và phi nhân hiện nay.
Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo, tất cả đều được mong đợi sống đức tin, đức cậy và đức mến cách thực sự có chiều sâu để nói lên quyết tâm chọn Chúa làm gia nghiệp , là ưu tiên nhất cho cuộc sống trên đời này để chống lại mọi quyến rũ về tiền bạc, danh lợi và vui thú bất chính của trần gian hầu được cứu độ, được sống hạnh phúc vĩnh cửu và được “ thông phần bản tính Thiên Chúa , sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này.” như Thánh Phêrô đã khuyên dạy. ( 2 Pr 1 : 4).
PHẢI SỐNG ĐẠO CÁCH NÀO ĐỂ MƯU PHẦN RỖI CHO MÌNH
VÀ GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN BIẾT CHÚA
QUA GƯƠNG SÔNG CHỨNG NHÂN CỦA MÌNH ?
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
Hỏi : xin cha cho biết phải sống Đạo cách nào để cho mình và giúp khác được cứu rỗi ?
Trả lời:
Là người có niềm tin Thiên Chúa, thì mục đích tối cao của đời mình phải là tìm Chúa để yêu mến Người trên hết mọi sự và ước muốn được cứu độ để vui hưởng Thánh Nhan Chúa trên cõi vĩnh hằng mai sau.
Cho mục đích nói trên, thì người tín hữu phải thực tâm đầu tư tâm trí , khả năng và thì giờ vào việc tìm kiếm Thiên Chúa và yêu mến Người trong suốt hành trình đức tin của mình trên trần thế này cho đến ngày nhắm mắt lìa đời.
Cụ thể, phải sống Đạo cách nào để nói lên khát vọng tìm Chúa và Vương Quốc bình an, hạnh phúc của Người ?
Có Đạo và sống Đạo là hai việc nhìn qua có vẻ giống nhau , nhưng thực rất khác nhau về mọi khía cạnh.
Thật vậy, có Đạo có nghĩa là mình đi theo một tôn giáo nào đang có mặt trên thế giới như Đạo Công Giáo ( Roman Catholicism), Chính Thông Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) Đạo Do Thái ( Judaism) Tin Lành ( Protestants) Đạo Phật ( Buddhism), Đạo Ấn Giáo ( Hinduism) Đạo Khổng ( Confucianism), Đạo Lão, ( Taoism) Thần Đạo ( Shinto của Nhật bản) Hồi Giáo ( Islam). v..v..
Tin đồ các tôn giáo trên ở khắp nơi trên thế giới.Nhưng đông đảo nhất là tín đồ Kitô Giáo thuộc các Giáo Hội Công Giáo La Mã, Chính Thông Giáo Đông Phương , các nhánh Tin Lành, và Anh Giáo ( Anglican Communion) .Trong các Giáo Hội và giáo phái này , thì tín hữu Công Giáo chiếm đa số với trên một tỉ người đã gia nhập Giáo Hội qua Phép Rửa.
Con số thì đông và cơ sở thì to lớn và đồ xộ với các Thánh đường nguy nga từ giáo đô La Mã cho đến các điạ phương nghèo khó như các giáo xứ ở miền quê Việt Nam, nơi giáo dân phần nhiều còn sống khó khăn về mặt kinh tế nhưng cũng xây được các nhà thờ rộng lớn và khang trang với vật liệu mua từ nước ngoài như đá hoa cương, tháp chuông và bàn thờ, đèn nến…
Nếu chỉ nhìn qua những kiến trúc bề ngoài thì người du khách phải trầm trồ thán phục Giáo Hội Việt Nam về sức sống Đạo phong phú hơn nhiều nơi trong khắp Giáo Hội hoàn vũ.
Ở nước ngoài như Hoa Kỳ, Canada, và Úc Châu, người Công giáo Viêt Nam cũng xây được những nhà thờ nhà xứ to và đẹp hơn nhiều nhà thờ ở địa phương.
Nhưng đấy chỉ là bề nổi , bề ngoài của việc sống đạo, và vẻ huy hoàng bề ngoài này không hẳn đã phản ảnh trung thực bề sâu và mặt chìm của lòng mộ đạo sâu sắc. Nghĩa là phải sống Đạo cách đích thực có chiều sâu để khiến cho Chúa Kitô không phải than trách như Người đã quở mắng bọn Biết phái xưa kia:
“Dân này tôn tính Ta bằng môi bằng miệng
Còn lòng chúng thì lại xa Ta.”( Mt 15: 8)
Tôn kính bằng môi bằng miệng có nghĩa chỉ sống đạo cho có hình thức bề ngoài , như vẫn đi lễ ,đọc kinh, hành hương v.v nhưng tâm trí còn bám chặt những thực tại trần thế như tiền của, danh vọng phù phiếm hư hèn đến mức làm nô lệ và tôn thờ chúng cùng với mọi thú vui vô luân vô đạo, thay vì phải tôn thờ một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự chóng qua ở đời này.
Mặt khác, cũng phải sống Đạo cách nào trước mắt người đời “ để cho thiên hạ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em , Đấng ngự trên Trời.” Như Chúa Giê su đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa kia. ( Mt 5: 16).
Thật vậy, có tên là người Công giáo phải đi đôi hay gắn liền với lòng tin yêu Chúa cách sâu đậm đích thực thì mới có giá trị thuyết phục và hy vọng được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn cho hết mọi người chúng ta.
Trong hoàn cảnh thế giới tục hóa ( secularism) ngày nay, chủ nghĩa vô thần, vô luân, tôn thờ tiền bạc ( cult of money) và ham mê khoái lạc ( hedonism) đang chi phối mạnh mẽ để lôi kéo con người ra khỏi mọi niềm tin tôn giáo, nhất là niêm tin có Thiêm Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, đầy yêu thương và giầu lòng tha thứ. Chính vì Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành nên Người gớm ghét mọi tội lỗi và sự dữ, như giết người, giết thai nhi để bán các cơ phận của thai nhi như mắt, tim phổi, thận để làm giầu , khủng bố, bắt cóc chặt đầu con tin, dâm ô, trộm cướp, gian ác, bóc lột, thù nghịch. ,nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ gái cho bọn bất lương hành nghề mãi dâm và ấu dâm rất khốn nạn…Do đó, muốn sống niềm tin cho có chiều sâu thực sự, thì người tín hữu Công giáo phải quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi và sự dữ nói trên cùng với lối sống của người đời không có niềm tin, hay có mà không sống niềm tin ấy cách cụ thể. Phải xa tránh tội lỗi và những cách sống thiếu niềm tin của biết bao người khác để nói lên lòng yêu mến Chúa thực sự , tức yêu mến sự thiện, sự tốt lành, sự trong sạch, sự khôn ngoan, sự công chính… là những đặc tính cản bản thuộc về Thiên Chúa cực tốt cực lành. Cụ thể, yêu mến Chúa thực sự đòi hỏi mọi người tin có Chúa trước hết phải tuân giữ mọi Điều Răn của Chúa như Chúa Giê su đã dạy:
“ Ai yêu mến Thầy , thì sẽ giữ lời Thầy
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy
Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy.” ( Ga 14: 23)
Hay rõ hơn nữa
“ Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy
Anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy
Như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
Và ở lại trong tình thương của Người,” ( Ga 15 : 10)
Giữ lời Thầy có nghĩa là thực thi những gì Chúa đã dạy , cụ thể là hai điều răn lớn và quan trọng nhất: đó là yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người khác như yêu thương chính mình, như Chúa Giê su đã nói với một luật sĩ kia. ( Mc 12: 28-31 ).
Tuân giữ các điều răn của Chúa không phải để làm lợi gì cho Chúa mà vì lợi ích của chính con người mà thôi.Chúa tuyệt đối không được lợi lộc gì khi ta tuân giữ các giới răn của Người.Chắc chắn như vậy.
Nói khác đi, nếu ai cũng được tự do cướp vợ giật chồng của nhau, tự do chiếm đoạt tài sản của người khác, tự do ăn gian nói dối và tự do giết người và dâm đãng thì thử hỏi thế giới này sẽ đi về đâu ?
Xã hội có luật pháp và người tín hữu Chúa Kitô có các giới luật của Thiên Chúa , vậy mà vẫn còn đầy rẫy những tội lỗi và sự dữ như giết người, oán thù , giết thai nhi, trộm cướp, bóc lột, gian dâm và hiếp dâm , bạo động và chiến tranh…Như vậy, thì thử hỏi : nếu không có luật pháp xã hội và các giới răn của Thiên Chúa thì đời sống con người và xã hội sẽ thê thảm đến mức nào ? Vì thế, tuân giữ luật pháp của xã hội và các giới răn của Chúa chỉ có lợi cho con người chứ không có lợi lộc gì cho Chúa hết.Cho nên, ta phải cảm tạ Chúa vì Người đã ban lề luật cho ta tuân giữ để được hạnh phúc ngay từ đời này, và nhất là đời sau.
Nói cách khác , nếu ai cũng biết tôn trọng mạng sống và danh dự của mình và của người khác, không ai thay vợ đổi chồng vì ham vui bất chính, không ai lường gạt, bóc lột người khác, không ai tham tiền để mở sòng bạc, nhà điếm, trồng cây thuốc phiện và cần sa , mở nhà tắm hơi trá hình để hành nghề mãi dâm, không ai gian ác để giết người, giết thai nhi…thì bộ mặt của thế giới này đã không quá tồi tệ và ghê sợ như thực trạng hiện nay.
Vậy, là người Công giáo – tức người tin Chúa Kitô- nếu muốn sống đức tin cách cụ thể và có sức thuyết phục người khác, thì phải tuân giữ các giới răn về mến Chúa, yêu người, yêu sự thiện và công bình, không gian dâm, trộm cắp, không oán thù và làm chứng gian, là những thói hư tật xấu của biết bao người không có niềm tin Thiên Chúa , hay có mà không sống niềm tin ấy cách cân xứng.
Chính việc tuân thủ mọi giới răn của Chúa, thực thi công bình và bác ái, xa lánh mọi thói hư tật xấu của người đời không có niềm tin, sẽ giúp người có và sống niềm tin phân biệt mình với họ và nhiên hậu cũng có sức lôi kéo , mời gọi người khác nhận biết có Chúa nhờ gương sống nhân chứng của mình.
Đây chính là sứ mệnh phúc âm hóa thế giới mà mọi tín hữu trong Giáo Hội có bổn phận thi hành để mang mang Nước Chúa và góp phần vào việc cứu rỗi người khác, vì “ Thiên Chúa Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhân biết chân lý.” ( 1 Tm 2 : 4).
Nói khác đi, sống giữa thế gian, người tin hữu Công giáo phải cố thực hành điều Thánh Phaolô đã khuyên dạy tin hữu Phi-lip-phê xưa là :
“ …anh em hãy làm mọi vệc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì , và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” ( Pl 2: 14-15)
Thế gian với quá nhiều gương xấu, quá nhiều quyến rũ về tiền bạc của cải vật chất , danh vọng và mọi thú vui vô luân vô đạo, là một thách đố to lớn cho những ai muốn chọn Chúa làm gia nghiệp để coi khinh , coi thường những lợi lãi và danh lợi chóng qua ở trần gian này.
Với những ai đang ham mê chạy theo những lôi cuốn đó của thế gian, thì Lời Chúa sau đây là một cảnh cáo và thức tỉnh cho họ và cũng cho tất cả những ai có niềm tin Chúa :
“ …Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống ( mất linh hồn) thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình.? ( Mt 16: 26; Mc 8: 36-37; Lc 9 : 25)
Thử hỏi : có ai được cả thế giới này làm lợi lãi đâu ? nhưng cho dù có chiếm được tất cả danh vọng và tiền bạc của trần thế này, mà mất mạng sống tức mất linh hồn thì được ích gì ? và lợi lãi kia có thể mua được phần rỗi của linh hồn hay không?
Đó là câu hỏi mà Chúa muốn mỗi người tín hữu chúng ta phải luôn suy nghĩ và hành động cho thích hợp.
Cũng cần nói thêm là , sống trên trần gian này, ai cũng phải lo cho mình và người thân của mình có được đời sống ấm no cho phù hợp với nhân phẩm. Trong mục đích và giới hạn này, Chúa không dạy chúng ta phải nghèo đói, rách rưới và vô gia cư thì mới được chúc phúc và cứu độ. Nghĩa là Chúa không cấm chúng ta đi tìm tiền bạc cho những nhu cầu chính đáng của thân xác và giúp thực thi bác ái với anh chị em kém may mắn vì nghèo túng. Nhưng là người có niềm tin Thiên Chúa và tin có sự sống mai sau trên Nước Trời , thì phải coi trọng phần rỗi của linh hồn mình hơn hết, dựa trên lời khuyên bảo sau đây của Chúa Giêsu: đó là : “ hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách , một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời , nơi trộm cắp không bến bảng, mối mọt cũng không đục phá.” ( Lc 12: 33) . Nghĩa là tiên vàn ta phải tìm kiếm “ Nước Thiên Chúa , còn các thứ kia Người sẽ thêm cho.” ( Lc 12: 31)
Các thứ kia là cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, xe cộ, bảo hiểm sức khỏe…là những thứ cần thiết cho đời sống con người bao lâu còn sống trên trần gian này. Và cầu xin Chúa ban cho những phương tiện sống cần thiết đó là điều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Nhưng điều cần thiết và quan trọng hơn là phải để hết tâm trí vào việc sống đạo cho có chiều sâu thực sự, thể hiện cụ thể qua việc siêng năng cầu nguyện để nâng lòng trí lên với Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc và giầu sang vĩnh cửu. Tiếp đến , phải siêng năng lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa giải tức là năng tham dự Thánh lễ để tâm hồn được nuôi dưỡng bằng lời Chúa và Mình Máu Chúa Kitô, là suối nguồn thông ban ơn cứu độ của Chúa cho ta qua Giáo Hội, là Thân Thể Nhiệm mầu của Chúa Kitô trong trần gian.
Sau nữa, cũng cần thiết phải luôn chạy đến với Chúa qua bí tích Hòa giải để được tha thứ mọi tội lỗi vì yếu đuối con người , trừ tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức tội hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình thương của Người.( Mc 3: 29)
Thêm vào đó, phải hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội thể hiện qua việc tuân thủ mọi giáo lý cúa Giáo Hội về hai lãnh vực rất quan trọng là tín lý và luân lý. Tín lý như tin có một Thiên Chúa với Ba Ngôi Vị, tin Chúa Ngôi Hai có hai bản tính là Thiên Chúa và là Con Người thật, tin Đức Maria trọn đời đồng trinh và lên trời cả hồn xác…Luân lý như cấm phá thai, cấm hôn nhân đồng tính ( same sex marriage) cấm thụ thai nhân tạo, và không được ly dị, không được mê tín dị đoan cờ bạc và mãi dâm…
Nếu không cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các lợi ích thiêng liêng lớn lao qua các Bí Tích Thánh Thể và Hòa giải và thi hành giáo lý của Giáo Hội, thì đời sống đức tin sẽ không thể tăng trưởng được. Và từ đó, cũng không giúp gia tăng lòng yêu mến Chúa và khao khát những sự trên trời mà hậu quả là chỉ còn mù quáng chậy theo những quyến rũ của trần gian với đam mê tiền của và mọi thú vui vô luân vô đạo, là bộ mặt thật của “văn hóa sự chết” đang chi phối biết bao triệu con người ở khắp nơi trên thế giới tục hóa, phi luân và phi nhân hiện nay.
Tóm lại, là người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công Giáo, tất cả đều được mong đợi sống đức tin, đức cậy và đức mến cách thực sự có chiều sâu để nói lên quyết tâm chọn Chúa làm gia nghiệp , là ưu tiên nhất cho cuộc sống trên đời này để chống lại mọi quyến rũ về tiền bạc, danh lợi và vui thú bất chính của trần gian hầu được cứu độ, được sống hạnh phúc vĩnh cửu và được “ thông phần bản tính Thiên Chúa , sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này.” như Thánh Phêrô đã khuyên dạy. ( 2 Pr 1 : 4).
Bụt Nhà Không Thiêng
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
-Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật
Dương Phủ hỏi: Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó.
Dương Phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính cha mẹ ở trong nhà…
Bụt Nhà Không Thiêng, Thánh Thần Người Không Linh. Quả thật Ông Cha thời xưa có tầm nhận xét thật là chính sát. Điển hình như trong thế hệ ngày nay, chúng ta vẫn còn thấy có những tập thể luôn luôn mang Thánh Quan Thầy, Đấng Tổ Phụ của mình ra phô trương trong các xóm phường.
Việc tưởng nhớ ngày sáng lập dòng của một tập thể nào đó phải nên làm trong một phạm vy có tính cách là một nhà dòng tưởng nhớ và ghi ơn đấng sáng lập. Đừng nên lợi dụng thời điểm để khoe khoang và phơi bày trước quần chúng rằng Đấng Tổ Phụ mình linh thiêng hơn, tốt lành hơn và quan trọng hơn.
Hãy cùng làm gương cho nhau, cùng khuyến khích nhau đề cao đời sống tâm linh. Đức Chúa Trời, Đức Phật hoặc Đức Thánh đang ở trong nhà mọi người. Nội tâm của từng cá nhân là ngôi nhà cao quý nhất để đón nhận Thượng Đế của mình.
Thầy Phó Giòm
Trong truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường, ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
-Được gặp Võ Tề đại sư chẳng bằng gặp Phật
Dương Phủ hỏi: Phật ở đâu?
Lão tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép ngược là chính Đức Phật đó.
Dương Phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối, ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa mà là chính cha mẹ ở trong nhà…
Bụt Nhà Không Thiêng, Thánh Thần Người Không Linh. Quả thật Ông Cha thời xưa có tầm nhận xét thật là chính sát. Điển hình như trong thế hệ ngày nay, chúng ta vẫn còn thấy có những tập thể luôn luôn mang Thánh Quan Thầy, Đấng Tổ Phụ của mình ra phô trương trong các xóm phường.
Việc tưởng nhớ ngày sáng lập dòng của một tập thể nào đó phải nên làm trong một phạm vy có tính cách là một nhà dòng tưởng nhớ và ghi ơn đấng sáng lập. Đừng nên lợi dụng thời điểm để khoe khoang và phơi bày trước quần chúng rằng Đấng Tổ Phụ mình linh thiêng hơn, tốt lành hơn và quan trọng hơn.
Hãy cùng làm gương cho nhau, cùng khuyến khích nhau đề cao đời sống tâm linh. Đức Chúa Trời, Đức Phật hoặc Đức Thánh đang ở trong nhà mọi người. Nội tâm của từng cá nhân là ngôi nhà cao quý nhất để đón nhận Thượng Đế của mình.
Thầy Phó Giòm
Thôi Kệ!!
Thôi kệ, buồn chi những tiếng đời
Chỉ là âm điệu thoảng đầu môi
Nghe khen càng thích, chê càng khổ
Thế sự muôn trùng.. vẫn cứ trôi..
Thôi kệ, sầu chi chuyện được thua
Tuồng đời thăng giáng lúc tôi, vua
Ai khôn mà chẳng dăm lần dại ?
Rồi cũng phù vân.. ngọn gió đùa!
Muôn sự trên đời do Nghiệp Duyên
Hiểu ra, thanh thoát mọi ưu phiền
Trong mơ, ai biết đời hư ảo
Thả mồi bắt bóng.. tự truân chuyên..
Thôi kệ, đừng than, trách thế nhân
Đừng nhìn lỗi họ để.. bâng khuâng!
Nhân tình thế thái xưa nay vậy
Thánh thiện thì ai ở dưới trần?
Thôi kệ, chi rồi cũng sẽ qua
Giận, hờn, ân, oán, nặng riêng ta
Gỡ cặp kính màu cho bớt khổ
Mắt nhặm trông đời vạn đốm hoa..
Sống giữa nhân hoàn mấy chục năm
Nói năng thì dễ, khó là câm!
– Đời trôi, ta nhọc vì ôm giữ
Vui, buồn, sướng, khổ tại nơi tâm.
Thích Tánh Tuệ
Thôi kệ, buồn chi những tiếng đời
Chỉ là âm điệu thoảng đầu môi
Nghe khen càng thích, chê càng khổ
Thế sự muôn trùng.. vẫn cứ trôi..
Thôi kệ, sầu chi chuyện được thua
Tuồng đời thăng giáng lúc tôi, vua
Ai khôn mà chẳng dăm lần dại ?
Rồi cũng phù vân.. ngọn gió đùa!
Muôn sự trên đời do Nghiệp Duyên
Hiểu ra, thanh thoát mọi ưu phiền
Trong mơ, ai biết đời hư ảo
Thả mồi bắt bóng.. tự truân chuyên..
Thôi kệ, đừng than, trách thế nhân
Đừng nhìn lỗi họ để.. bâng khuâng!
Nhân tình thế thái xưa nay vậy
Thánh thiện thì ai ở dưới trần?
Thôi kệ, chi rồi cũng sẽ qua
Giận, hờn, ân, oán, nặng riêng ta
Gỡ cặp kính màu cho bớt khổ
Mắt nhặm trông đời vạn đốm hoa..
Sống giữa nhân hoàn mấy chục năm
Nói năng thì dễ, khó là câm!
– Đời trôi, ta nhọc vì ôm giữ
Vui, buồn, sướng, khổ tại nơi tâm.
Thích Tánh Tuệ
ĐỒNG TIỀN THỊ PHI
Lm Jos Tạ duy Tuyền
Có người bảo rằng: “Thiên hạ ồn ào đều vì lợi mà đến, thiên hạ náo nhiệt cũng vì lợi mà đi”. Thực vậy, nhìn vào xã hội với những ồn ào, náo nhiệt chúng ta sẽ thấy điều gì? Thưa, chúng ta sẽ thấy sự náo nhiệt được hình thành bởi kẻ có tiền đến đó để xài tiền và kẻ không có tiền đến đó để kiếm tiền. Có thể nói ở thế gian chỉ có hai loại người: Một là kẻ kiếm tiền. Hai là kẻ xài tiền. Hai loại người này đã làm thành một xã hội đầy những thị phi, và vui buồn, sướng khổ cuộc đời cũng từ đó mà ra!
Hôm nay Chúa lại bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Nhưng xem ra có mấy ai thanh thoát được với tiền bạc trần gian. Ai cũng cần tiền. Ai cũng tích góp. Ai cũng tìm cơ hội để có tiền, để giầu có. Có mấy ai sống mà không dắt lưng cho mình ít tiền để làm vốn, để phòng khi trái gió trở trời?
Ở nơi này nơi kia vẫn nghe nói có cha này cha nọ chỉ lo đi kiếm tiền mà bỏ bê giáo xứ. Ở nơi này nơi kia vẫn còn đó những người đi truyền giáo thì không lo chỉ lo đi lấy lòng người giầu có để trục lợi cho bản thân. Ở nơi này nơi kia giáo xứ cũng tan nát vì đồng tiền thiếu minh bạch dẫn đến kiện cáo, đố kỵ với nhau.
Nhưng đó chỉ là những gợn sóng nhỏ vẫn lăn tanh trong lòng Giáo hội. Giáo hội vẫn còn nhiều những con người sống nghèo khó để cho mọi người và vì mọi người. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống khó nghèo như người nghèo, để sống cứu đời cho người nghèo và vì người nghèo.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Một điều mà ai cũng biết là tham thì thâm. Lòng tham sẽ trói buộc con người trong ích kỷ chỉ để thu vén. Lòng tham sẽ làm cho con người ra đê tiện, tiểu nhân và tầm thường. Người ta kể rằng: Người Ấn Độ làm lồng bắt khỉ thường để thức ăn vào trong. Khỉ thò tay vào để lấy thức ăn, chỉ cần nắm được thì không thể nào lấy tay ra được. Nếu muốn lấy được tay ra chỉ có thể bỏ lại thức ăn. Khỉ đã thò tay nắm được thức ăn thì không muốn bỏ ra.
Khỉ không chấp nhận việc từ bỏ, còn con người thì sao?
Đáng tiếc là con người vẫn còn nhiều thứ khó từ bỏ, thế nên vẫn chết trong lòng tham như loài khỉ!
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu con người sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen
Lm Jos Tạ duy Tuyền
Có người bảo rằng: “Thiên hạ ồn ào đều vì lợi mà đến, thiên hạ náo nhiệt cũng vì lợi mà đi”. Thực vậy, nhìn vào xã hội với những ồn ào, náo nhiệt chúng ta sẽ thấy điều gì? Thưa, chúng ta sẽ thấy sự náo nhiệt được hình thành bởi kẻ có tiền đến đó để xài tiền và kẻ không có tiền đến đó để kiếm tiền. Có thể nói ở thế gian chỉ có hai loại người: Một là kẻ kiếm tiền. Hai là kẻ xài tiền. Hai loại người này đã làm thành một xã hội đầy những thị phi, và vui buồn, sướng khổ cuộc đời cũng từ đó mà ra!
Hôm nay Chúa lại bảo sứ giả Tin Mừng phải sống thanh thoát với tiền của vật chất. Họ vào đời không phải để bon chen kiếm tiền. Họ dấn thân không phải để xài tiền phung phí. Họ bước vào đời để làm chứng cho nhân thế một giá trị khác với vật chất tầm thường. Một giá trị vĩnh cửu mà không phải mua bằng tiền của vật chất. Họ đi vào cuộc đời để mời gọi con người tìm kiếm của ăn không hư nát là Nước Trời mai sau, chứ không phải là bon chen tìm kiếm những vinh hoa phú quý đời này.
Nhưng xem ra có mấy ai thanh thoát được với tiền bạc trần gian. Ai cũng cần tiền. Ai cũng tích góp. Ai cũng tìm cơ hội để có tiền, để giầu có. Có mấy ai sống mà không dắt lưng cho mình ít tiền để làm vốn, để phòng khi trái gió trở trời?
Ở nơi này nơi kia vẫn nghe nói có cha này cha nọ chỉ lo đi kiếm tiền mà bỏ bê giáo xứ. Ở nơi này nơi kia vẫn còn đó những người đi truyền giáo thì không lo chỉ lo đi lấy lòng người giầu có để trục lợi cho bản thân. Ở nơi này nơi kia giáo xứ cũng tan nát vì đồng tiền thiếu minh bạch dẫn đến kiện cáo, đố kỵ với nhau.
Nhưng đó chỉ là những gợn sóng nhỏ vẫn lăn tanh trong lòng Giáo hội. Giáo hội vẫn còn nhiều những con người sống nghèo khó để cho mọi người và vì mọi người. Giáo hội vẫn còn đó những con người miệt mài đi lên những miền sơn cước để truyền giáo cho anh em dân tộc vùng Tây Nguyên và vùng miền núi phía Bắc. Giáo hội vẫn còn đó những con người sống thanh thoát khỏi những tiện nghi vật chất để sống khó nghèo như người nghèo, để sống cứu đời cho người nghèo và vì người nghèo.
Đó là những chứng nhân cho Tin Mừng. Họ sống thanh thoát khỏi những tham lam bất chính như người đời vẫn làm. Họ hiểu rằng lòng tham thì vô đáy. Điều quan yếu làm nên hạnh phúc không phải là có nhiều tiền mà là biết vui với những gì mình có, biết hạnh phúc với những cái trong tầm tay. Đó là cách giúp cho con người tránh khỏi mọi tham lam bất chính.
Một điều mà ai cũng biết là tham thì thâm. Lòng tham sẽ trói buộc con người trong ích kỷ chỉ để thu vén. Lòng tham sẽ làm cho con người ra đê tiện, tiểu nhân và tầm thường. Người ta kể rằng: Người Ấn Độ làm lồng bắt khỉ thường để thức ăn vào trong. Khỉ thò tay vào để lấy thức ăn, chỉ cần nắm được thì không thể nào lấy tay ra được. Nếu muốn lấy được tay ra chỉ có thể bỏ lại thức ăn. Khỉ đã thò tay nắm được thức ăn thì không muốn bỏ ra.
Khỉ không chấp nhận việc từ bỏ, còn con người thì sao?
Đáng tiếc là con người vẫn còn nhiều thứ khó từ bỏ, thế nên vẫn chết trong lòng tham như loài khỉ!
Cuộc sống con người sẽ đẹp biết bao nếu con người sống thanh thoát với của cải, để không vì tham lam mà giết chết danh dự, nhân phẩm của mình. Cuộc sống sẽ đẹp biết bao nếu con người đến với nhau không vì tiền, không vì lợi nhuận. Nhưng để sống được điều đó con người cần có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì tin mà họ phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Vì tin mà họ dấn thân cho tha nhân mà không mong đền đáp, chỉ mong cho danh Chúa cả sáng. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta có thể bước đi trong thánh ý Thiên Chúa. Amen
Đừng tưởng – thơ Bùi Giáng
Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Cứ trên là sáng cứ tu là hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe là điếc không trông là mù
Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của đã sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây
Đừng tưởng cứ uống là say
Cứ chân là bước cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ
Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Cứ già là hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Dưa vàng đừng tưởng đã chua
Sấm rền đừng tưởng sắp mưa ngập trời
Khi vui đừng tưởng chỉ cười
Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than…!
***
Đừng tưởng cứ nốc là say
Cứ hứa là thật, cứ tay là cầm
Đừng tưởng cứ giặc – ngoại xâm
Cứ bè là bạn, cứ dân là lành
Đừng tưởng cứ trời là xanh
Cứ đất và nước là thành quê hương
Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại, cứ hôn… là chồng
Đừng tưởng chẳng có thì không
Chẳng trai thì gái, chẳng ông thì bà
Đừng tưởng chẳng gần thì xa
Chẳng ta thì địch, chẳng ma thì người
Đừng tưởng chẳng khóc thì cười
Chẳng lên thì xuống, chẳng ngồi thì đi
Đừng tưởng sau nhất là nhì
Gần quan là tướng, gần suy là hèn
Đừng tưởng cứ sáng là đèn
Cứ đỏ là chín, cứ đen là thường
Đừng tưởng cứ đẹp là thương
Cứ xấu là ghét, cứ vương là tình
Đừng tưởng cứ ghế là vinh
Cứ tiền là mạnh, cứ dinh là bền
Đừng tưởng cứ cố là lên
Cứ lỳ là chắc, cứ bên là gần
Đừng tưởng cứ đều là cân
Cứ đông là đủ, cứ ân là nhờ
Đừng tưởng cứ vần là thơ
Cứ âm là nhạc, cứ tờ là tranh
Đừng tưởng cứ vội thì nhanh
Cứ tranh là được, cứ giành thì hơn
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo
Đừng tưởng cứ bến là neo
Cứ suối là lội, cứ đèo là qua
Đừng tưởng chồng mẹ là cha
Cứ khóc là khổ cứ la là phiền
Đừng tưởng cứ hét là điên
Cứ làm là sẽ có tiền đến ngay
Đừng tưởng cứ rượu là say
Cứ gió là sẽ tung bay cánh diều
Đừng tưởng tỏ tình là yêu
Cứ thơ ngọt nhạt là chiều tương tư
***
Đừng tưởng đi là sẽ chơi
Lang thang dạo phố vào nơi hư người
Đừng tưởng vui thì sẽ cười
Đôi hàng nước mắt lệ rơi đầm đìa
Đừng tưởng cứ mực là bia
Bút sa gà chết nhân chia cộng trừ…
Đừng tưởng cứ gió là mưa
Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè
Đừng tưởng cứ hạ là ve
Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn…
Đừng tưởng thu là lá tuôn
Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.
Đừng tưởng cứ thích là yêu
Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay
Đừng tưởng tình chẳng lung lay
Chỉ một giấc ngủ, chẳng may … có bầu.
Đừng tưởng cứ cầu là hên,
Nhiều khi gặp hạn, ngồi rên một mình.
Đừng tưởng vua là anh minh,
Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.
Đừng tưởng tìm bạn tri âm,
Là sẽ có kẻ mạn đàm suốt đêm.
Đừng tưởng đời mãi êm đềm,
Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.
Đừng tưởng cười nói ân cần,
Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.
Đừng tưởng trong lưỡi có đường
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người
Đừng tưởng cứ chọc là cười
Nhiều khi nói móc biết cười làm sao
Đừng tưởng khó nhọc gian lao
Vượt qua thử thách tự hào lắm thay
Đừng tưởng cứ giỏi là hay
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần
Đừng tưởng cứ quỳnh là thơm
Nhìn đi nhìn lại hóa ra cúc quỳ
Đừng tưởng mưa gió ầm ì
Ngày thì đã hết trời dần về đêm
Đừng tưởng nắng gió êm đềm
Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng
Đừng tưởng góp sức là chung
Chỉ là lợi dụng lòng tin của người
Đừng tưởng cứ tiến là lên
Cứ lui là xuống, cứ yên là mằn (mần, làm)
Đừng tưởng rằm sẽ có trăng
Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu
Đừng tưởng cứ khóc là sầu
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
Đừng tưởng cứ nước là trong
Cứ than là hắc, cứ sao là vàng
Đừng tưởng cứ củi là than
Cứ quan là có, cứ dân là nghèo
Đừng tưởng cứ khúc là eo
Cứ lúc là mạc, cứ sang là giầu
Đừng tưởng cứ thế là khôn!
Nhiều thằng khốn nạn còn hơn cả mình
Đừng tưởng lời nói là tiền
Có khi là những oán hận chưa tan
Đừng tưởng dưới đất có vàng
Vàng đâu chả thấy phí tan cuộc đời
***
Đừng tưởng cứ nghèo là hèn
Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.
Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên…!
Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Cứ trên là sáng cứ tu là hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe là điếc không trông là mù
Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của đã sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây
Đừng tưởng cứ uống là say
Cứ chân là bước cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ
Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Cứ già là hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Dưa vàng đừng tưởng đã chua
Sấm rền đừng tưởng sắp mưa ngập trời
Khi vui đừng tưởng chỉ cười
Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than…!
***
Đừng tưởng cứ nốc là say
Cứ hứa là thật, cứ tay là cầm
Đừng tưởng cứ giặc – ngoại xâm
Cứ bè là bạn, cứ dân là lành
Đừng tưởng cứ trời là xanh
Cứ đất và nước là thành quê hương
Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại, cứ hôn… là chồng
Đừng tưởng chẳng có thì không
Chẳng trai thì gái, chẳng ông thì bà
Đừng tưởng chẳng gần thì xa
Chẳng ta thì địch, chẳng ma thì người
Đừng tưởng chẳng khóc thì cười
Chẳng lên thì xuống, chẳng ngồi thì đi
Đừng tưởng sau nhất là nhì
Gần quan là tướng, gần suy là hèn
Đừng tưởng cứ sáng là đèn
Cứ đỏ là chín, cứ đen là thường
Đừng tưởng cứ đẹp là thương
Cứ xấu là ghét, cứ vương là tình
Đừng tưởng cứ ghế là vinh
Cứ tiền là mạnh, cứ dinh là bền
Đừng tưởng cứ cố là lên
Cứ lỳ là chắc, cứ bên là gần
Đừng tưởng cứ đều là cân
Cứ đông là đủ, cứ ân là nhờ
Đừng tưởng cứ vần là thơ
Cứ âm là nhạc, cứ tờ là tranh
Đừng tưởng cứ vội thì nhanh
Cứ tranh là được, cứ giành thì hơn
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo
Đừng tưởng cứ bến là neo
Cứ suối là lội, cứ đèo là qua
Đừng tưởng chồng mẹ là cha
Cứ khóc là khổ cứ la là phiền
Đừng tưởng cứ hét là điên
Cứ làm là sẽ có tiền đến ngay
Đừng tưởng cứ rượu là say
Cứ gió là sẽ tung bay cánh diều
Đừng tưởng tỏ tình là yêu
Cứ thơ ngọt nhạt là chiều tương tư
***
Đừng tưởng đi là sẽ chơi
Lang thang dạo phố vào nơi hư người
Đừng tưởng vui thì sẽ cười
Đôi hàng nước mắt lệ rơi đầm đìa
Đừng tưởng cứ mực là bia
Bút sa gà chết nhân chia cộng trừ…
Đừng tưởng cứ gió là mưa
Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè
Đừng tưởng cứ hạ là ve
Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn…
Đừng tưởng thu là lá tuôn
Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.
Đừng tưởng cứ thích là yêu
Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay
Đừng tưởng tình chẳng lung lay
Chỉ một giấc ngủ, chẳng may … có bầu.
Đừng tưởng cứ cầu là hên,
Nhiều khi gặp hạn, ngồi rên một mình.
Đừng tưởng vua là anh minh,
Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.
Đừng tưởng tìm bạn tri âm,
Là sẽ có kẻ mạn đàm suốt đêm.
Đừng tưởng đời mãi êm đềm,
Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.
Đừng tưởng cười nói ân cần,
Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.
Đừng tưởng trong lưỡi có đường
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người
Đừng tưởng cứ chọc là cười
Nhiều khi nói móc biết cười làm sao
Đừng tưởng khó nhọc gian lao
Vượt qua thử thách tự hào lắm thay
Đừng tưởng cứ giỏi là hay
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần
Đừng tưởng cứ quỳnh là thơm
Nhìn đi nhìn lại hóa ra cúc quỳ
Đừng tưởng mưa gió ầm ì
Ngày thì đã hết trời dần về đêm
Đừng tưởng nắng gió êm đềm
Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng
Đừng tưởng góp sức là chung
Chỉ là lợi dụng lòng tin của người
Đừng tưởng cứ tiến là lên
Cứ lui là xuống, cứ yên là mằn (mần, làm)
Đừng tưởng rằm sẽ có trăng
Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu
Đừng tưởng cứ khóc là sầu
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
Đừng tưởng cứ nước là trong
Cứ than là hắc, cứ sao là vàng
Đừng tưởng cứ củi là than
Cứ quan là có, cứ dân là nghèo
Đừng tưởng cứ khúc là eo
Cứ lúc là mạc, cứ sang là giầu
Đừng tưởng cứ thế là khôn!
Nhiều thằng khốn nạn còn hơn cả mình
Đừng tưởng lời nói là tiền
Có khi là những oán hận chưa tan
Đừng tưởng dưới đất có vàng
Vàng đâu chả thấy phí tan cuộc đời
***
Đừng tưởng cứ nghèo là hèn
Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.
Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên…!
Áng hương lòng
Cạnh tranh trong sinh hoạt tôn giáo là sự ngột ngạt của những làn khói đen che kín tâm hồn… “Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác” (Is 1,13).
Có nhiều thứ trầm hương, hương dâng trong đền thờ Phật, trong đền thờ Chúa. Kho tàng văn chương tu đức Ðông Phương, có câu chuyện kể về hương trầm như sau:
Làng kia có ngôi chùa. Dân trong làng đem tượng Phật của mình đến để trong chùa. Ngày rằm, người ta đến dâng hương Ðức Phật. Trong số các tín nữ đến chùa có bà quê nghèo không tiền mua nhang. Trong số các tín nữ ấy, có bà mang theo hương quả. Bà để ý thấy bà quê kia không bao giờ mang hương lạy Phật. Dần dần bà đem lòng khó chịu.
Cứ khi đốt nhang lên tượng Phật của bà, bà quê kia liền lạy theo. Với cái khó chịu, bà nghĩ rằng bà quê kia keo kiệt, chỉ chờ người khác dâng nhang là lạy ké. Bà đâm lòng ghét bỏ. Suy nghĩ mãi, lần sau đến chùa, bà mang theo kế hoạch. Trước khi đốt nhang, bà lấy tàu lá đu đủ làm thành ống dẫn hương đổ lên mặt Ðức Phật, đầu kia bà lấy cái phễu gắn vào. Bà chỉ lạy nhang cho bay vào cái phễu để lên mặt Ðức Phật của bà, không cho hương thoát sang tượng Phật bà kia. Lạy xong, nhìn lên, bà thấy sao mặt Ðức Phật của bà mặt mày đen đủi, hai lỗ mũi đen kịt khói. Còn tượng Phật của bà quê kia vẫn cứ đẹp đẽ sáng ngời.
Trong kho tàng tu đức nhà Ðạo, sách tiên tri Isaia viết:
“Chúa phán: Muôn vàn hy lễ có lợi gì cho Ta? Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo nữa. Khi các ngươi đến trước mặt Ta ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta? Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những tế lễ vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác. Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó làm khổ Ta. Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi. Khi ngươi giơ tay các ngươi lên thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời vì tay các ngươi vấy đầy máu. Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy hãm dẹp khỏi mặt Ta các tư tưởng xấu xa” (Is. 1:10-20).
Trầm hương dâng Phật hay Chúa phải là nén hương lòng. Của lễ nào vào đền thánh phải siêu thoát từ con tim. Hôm nay có nhiều thứ hương trầm, nhiều thứ của lễ lắm.
Ðầu tháng hoa, nếu ba cộng đoàn hợp nhau rước kiệu, kiệu nào đi trước? Nhóm mình hay nhóm kia? Kiệu Ðức Mẹ Lộ Ðức hay La Vang, Fatima hay Hằng Cứu Giúp?
Sự cạnh tranh, thiếu siêu nhiên dường như nó bàng bạc khắp nơi. Có đông người, nhiều của lễ là có so sánh. So sánh thì có hơn thua. Hãnh diện thì cũng có không hãnh diện. Thành công thì cũng có kém thành công. Tiếng khen thường nằm cạnh tiếng chê, cho dù tiếng chê ấy không nói ra. Nó âm thầm mà khó chịu.
Một con người ba khuôn mặt
Vì sao trong việc thờ phượng, người ta lại cạnh tranh như thế?
Có lẽ cái thiếu thức tỉnh của cuộc sống đưa đến nỗi xấu xa ấy. Mỗi người đều sống với ba khuôn mặt này: Kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Con người kinh tế: Ai cũng cần của ăn, áo mặc, nhà ở. Nghèo thì khổ. Nghèo không thể tiến thân. Muốn có nhiều tiền, phải cạnh tranh. Tôi không khá hơn, người kia sẽ chiếm mất, lấn át tôi. Hai tiệm ăn gần nhau, muốn tiệm mình có nhiều khách, tiền vào nhiều hơn, phải cạnh tranh. Chiếm được khách bên kia là ưu tư của mình. Bất cứ gì đụng tới vật chất, tiền bạc, kinh tế đều chạm tới cạnh tranh.
Con người chính trị: Nếu tôi không mạnh, người khác sẽ xâm lăng. Kẻ có quyền là người có miếng. Tôi phải quen biết người có thế lực để cậy nhờ. Tôi cần có thế lực để gây ảnh hưởng. Nếu tôi không cai trị người, người sẽ cai trị tôi. Xã hội nào cũng mạnh được yếu thua. Cá lớn nuốt cá bé. Quyền lực đến từ nhu cầu sống còn, nó nằm sâu trong bản tính con người. Ai cũng muốn quyền lực.
Con người tôn giáo: Tôn giáo đi tìm thế giới siêu nhiên, đưa con người đến những liên quan tới Trời. Tôn giáo mời gọi con người đến giá trị chân thật của lương tâm. Hiểu như thế, tiếng gọi của tôn giáo nào cũng đẹp, niềm tin tôn giáo nào cũng đáng mến và con người tôn giáo nào cũng đáng yêu.
Ba khuôn mặt trong đền thờ
Ai cũng đều mang cả ba bộ mặt kinh tế, chính trị, tôn giáo trong một con người. Khi con người tôn giáo bước vào đền thờ, bước vào chung với cả hai khuôn mặt kia: Kinh tế và chính trị. Họ vừa buôn bán ngoài đường phố ban sáng, vừa âm mưu một ý định chính trị ban trưa, chiều nay bước vào đền thờ dâng hương, không thể để con người chính trị và kinh tế ở nhà. Chiều nay bước vào đền thờ, họ bước vào với cả ba khuôn mặt. Từ đó nảy sinh một cách vô ý thức là tôn giáo, kinh tế và chính trị lẫn lộn với nhau. Rồi tôn giáo bị sự canh tranh của hai con người kia điều khiển, xúi đẩy.
Người ta đem cạnh tranh trong kinh tế vào tôn giáo. Ðem cạnh tranh trong quyền lực vào tôn giáo. Cho nên xứ đạo mình phải tổ chức linh đình hơn xứ đạo kia. Tìm cách lôi kéo người khác vào phong trào mình để phong trào này đông hơn phong trào nọ. Ðạo mình phải nổi hơn đạo khác. Ðền thờ này thiêng hơn đền thờ kia. Từ đó, tượng Ðức Phật bị dơ do lòng con người dâng những áng hương hẹp hòi nhỏ mọn. Từ đó, tượng Chúa kêu than thành tiếng: “Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta. Ta nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).
Thực tế cho thấy, thu xếp sao cho các ca đoàn trong giáo xứ hát chung với nhau trong một lễ trọng đã là khó rồi! Nhỏ như vậy, đã vương khói u ám, thì những công trình liên họ đạo, liên địa phận còn khó như thế nào. “Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương.” Không có tấm lòng siêu thoát, tất cả thờ phượng tôn giáo chỉ là những làn khói đen chứ không còn là hương trầm. Số phận của những con người làm nên nó đã được nhắc đến trong ngôn sứ Isaia: “Khi các ngươi giơ tay lên thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời. Vì tay các ngươi vấy đầy máu.”
* * *
Thay vì con người tôn giáo phải hướng dẫn con người tiền bạc và con người quyền thế, hôm nay, dường như con người tôn giáo đang thu nhỏ lại trước hai con người kia. Từ đó, hương khói trong đền thánh không còn là áng hương lòng, nó là u uất của những làn khói đen vì cạnh tranh nhau.
Cạnh tranh trong tôn giáo làm cho đời sống tâm linh nhỏ nhoi. Khi cuộc sống tâm linh nghèo nàn, tâm hồn ấy không còn bình an nội tại và niềm vui nữa. Chung quanh cuộc đời sẽ bị giằng co bằng cạnh tranh, họ băn khoăn làm sao hơn người. Cạnh tranh dẫn đến lo âu. Cạnh tranh dẫn đến buồn vì sợ người khác nổi hơn mình. Trong khi thánh Phaolô nói rõ “hoa trái của Thánh Thần là bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal. 5:22).
Cạnh tranh trong sinh hoạt tôn giáo là sự ngột ngạt của những làn khói đen che kín tâm hồn. Của lễ dâng Chúa trong sự cạnh tranh, bấy giờ trở thành thờ cúng ngẫu tượng. Chính vì thế tiên tri Isaia đã nói bằng ngôn ngữ rất mạnh. Thiên Chúa ghê tởm những của lễ đó. Thiên Chúa nhàm chán chịu đựng. Thiên Chúa khổ tâm.
Thấy mình không vui vì người khác được ca ngợi, thấy mơ hồ sự ghen tị, thèm muốn cạnh tranh trong việc tông đồ, lúc đó, ta cần đọc lại những lời này:
“Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác. Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta. Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).
Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ.
Cạnh tranh trong sinh hoạt tôn giáo là sự ngột ngạt của những làn khói đen che kín tâm hồn… “Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác” (Is 1,13).
Có nhiều thứ trầm hương, hương dâng trong đền thờ Phật, trong đền thờ Chúa. Kho tàng văn chương tu đức Ðông Phương, có câu chuyện kể về hương trầm như sau:
Làng kia có ngôi chùa. Dân trong làng đem tượng Phật của mình đến để trong chùa. Ngày rằm, người ta đến dâng hương Ðức Phật. Trong số các tín nữ đến chùa có bà quê nghèo không tiền mua nhang. Trong số các tín nữ ấy, có bà mang theo hương quả. Bà để ý thấy bà quê kia không bao giờ mang hương lạy Phật. Dần dần bà đem lòng khó chịu.
Cứ khi đốt nhang lên tượng Phật của bà, bà quê kia liền lạy theo. Với cái khó chịu, bà nghĩ rằng bà quê kia keo kiệt, chỉ chờ người khác dâng nhang là lạy ké. Bà đâm lòng ghét bỏ. Suy nghĩ mãi, lần sau đến chùa, bà mang theo kế hoạch. Trước khi đốt nhang, bà lấy tàu lá đu đủ làm thành ống dẫn hương đổ lên mặt Ðức Phật, đầu kia bà lấy cái phễu gắn vào. Bà chỉ lạy nhang cho bay vào cái phễu để lên mặt Ðức Phật của bà, không cho hương thoát sang tượng Phật bà kia. Lạy xong, nhìn lên, bà thấy sao mặt Ðức Phật của bà mặt mày đen đủi, hai lỗ mũi đen kịt khói. Còn tượng Phật của bà quê kia vẫn cứ đẹp đẽ sáng ngời.
Trong kho tàng tu đức nhà Ðạo, sách tiên tri Isaia viết:
“Chúa phán: Muôn vàn hy lễ có lợi gì cho Ta? Ta đã chán chê và không còn ưa thích những của lễ toàn thiêu bằng chiên đực, mỡ các súc vật béo nữa. Khi các ngươi đến trước mặt Ta ai kiểm soát các vật ấy nơi tay các ngươi, để các ngươi đi vào hành lang của Ta? Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những tế lễ vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác. Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó làm khổ Ta. Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi. Khi ngươi giơ tay các ngươi lên thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời vì tay các ngươi vấy đầy máu. Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, hãy hãm dẹp khỏi mặt Ta các tư tưởng xấu xa” (Is. 1:10-20).
Trầm hương dâng Phật hay Chúa phải là nén hương lòng. Của lễ nào vào đền thánh phải siêu thoát từ con tim. Hôm nay có nhiều thứ hương trầm, nhiều thứ của lễ lắm.
Ðầu tháng hoa, nếu ba cộng đoàn hợp nhau rước kiệu, kiệu nào đi trước? Nhóm mình hay nhóm kia? Kiệu Ðức Mẹ Lộ Ðức hay La Vang, Fatima hay Hằng Cứu Giúp?
Sự cạnh tranh, thiếu siêu nhiên dường như nó bàng bạc khắp nơi. Có đông người, nhiều của lễ là có so sánh. So sánh thì có hơn thua. Hãnh diện thì cũng có không hãnh diện. Thành công thì cũng có kém thành công. Tiếng khen thường nằm cạnh tiếng chê, cho dù tiếng chê ấy không nói ra. Nó âm thầm mà khó chịu.
Một con người ba khuôn mặt
Vì sao trong việc thờ phượng, người ta lại cạnh tranh như thế?
Có lẽ cái thiếu thức tỉnh của cuộc sống đưa đến nỗi xấu xa ấy. Mỗi người đều sống với ba khuôn mặt này: Kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Con người kinh tế: Ai cũng cần của ăn, áo mặc, nhà ở. Nghèo thì khổ. Nghèo không thể tiến thân. Muốn có nhiều tiền, phải cạnh tranh. Tôi không khá hơn, người kia sẽ chiếm mất, lấn át tôi. Hai tiệm ăn gần nhau, muốn tiệm mình có nhiều khách, tiền vào nhiều hơn, phải cạnh tranh. Chiếm được khách bên kia là ưu tư của mình. Bất cứ gì đụng tới vật chất, tiền bạc, kinh tế đều chạm tới cạnh tranh.
Con người chính trị: Nếu tôi không mạnh, người khác sẽ xâm lăng. Kẻ có quyền là người có miếng. Tôi phải quen biết người có thế lực để cậy nhờ. Tôi cần có thế lực để gây ảnh hưởng. Nếu tôi không cai trị người, người sẽ cai trị tôi. Xã hội nào cũng mạnh được yếu thua. Cá lớn nuốt cá bé. Quyền lực đến từ nhu cầu sống còn, nó nằm sâu trong bản tính con người. Ai cũng muốn quyền lực.
Con người tôn giáo: Tôn giáo đi tìm thế giới siêu nhiên, đưa con người đến những liên quan tới Trời. Tôn giáo mời gọi con người đến giá trị chân thật của lương tâm. Hiểu như thế, tiếng gọi của tôn giáo nào cũng đẹp, niềm tin tôn giáo nào cũng đáng mến và con người tôn giáo nào cũng đáng yêu.
Ba khuôn mặt trong đền thờ
Ai cũng đều mang cả ba bộ mặt kinh tế, chính trị, tôn giáo trong một con người. Khi con người tôn giáo bước vào đền thờ, bước vào chung với cả hai khuôn mặt kia: Kinh tế và chính trị. Họ vừa buôn bán ngoài đường phố ban sáng, vừa âm mưu một ý định chính trị ban trưa, chiều nay bước vào đền thờ dâng hương, không thể để con người chính trị và kinh tế ở nhà. Chiều nay bước vào đền thờ, họ bước vào với cả ba khuôn mặt. Từ đó nảy sinh một cách vô ý thức là tôn giáo, kinh tế và chính trị lẫn lộn với nhau. Rồi tôn giáo bị sự canh tranh của hai con người kia điều khiển, xúi đẩy.
Người ta đem cạnh tranh trong kinh tế vào tôn giáo. Ðem cạnh tranh trong quyền lực vào tôn giáo. Cho nên xứ đạo mình phải tổ chức linh đình hơn xứ đạo kia. Tìm cách lôi kéo người khác vào phong trào mình để phong trào này đông hơn phong trào nọ. Ðạo mình phải nổi hơn đạo khác. Ðền thờ này thiêng hơn đền thờ kia. Từ đó, tượng Ðức Phật bị dơ do lòng con người dâng những áng hương hẹp hòi nhỏ mọn. Từ đó, tượng Chúa kêu than thành tiếng: “Ta chán ghét những ngày trăng mới và các lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta. Ta nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).
Thực tế cho thấy, thu xếp sao cho các ca đoàn trong giáo xứ hát chung với nhau trong một lễ trọng đã là khó rồi! Nhỏ như vậy, đã vương khói u ám, thì những công trình liên họ đạo, liên địa phận còn khó như thế nào. “Các ngươi đừng tiếp tục hiến dâng cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương.” Không có tấm lòng siêu thoát, tất cả thờ phượng tôn giáo chỉ là những làn khói đen chứ không còn là hương trầm. Số phận của những con người làm nên nó đã được nhắc đến trong ngôn sứ Isaia: “Khi các ngươi giơ tay lên thì Ta quay mặt đi. Khi các ngươi càng cầu nguyện thì Ta càng không nhận lời. Vì tay các ngươi vấy đầy máu.”
* * *
Thay vì con người tôn giáo phải hướng dẫn con người tiền bạc và con người quyền thế, hôm nay, dường như con người tôn giáo đang thu nhỏ lại trước hai con người kia. Từ đó, hương khói trong đền thánh không còn là áng hương lòng, nó là u uất của những làn khói đen vì cạnh tranh nhau.
Cạnh tranh trong tôn giáo làm cho đời sống tâm linh nhỏ nhoi. Khi cuộc sống tâm linh nghèo nàn, tâm hồn ấy không còn bình an nội tại và niềm vui nữa. Chung quanh cuộc đời sẽ bị giằng co bằng cạnh tranh, họ băn khoăn làm sao hơn người. Cạnh tranh dẫn đến lo âu. Cạnh tranh dẫn đến buồn vì sợ người khác nổi hơn mình. Trong khi thánh Phaolô nói rõ “hoa trái của Thánh Thần là bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal. 5:22).
Cạnh tranh trong sinh hoạt tôn giáo là sự ngột ngạt của những làn khói đen che kín tâm hồn. Của lễ dâng Chúa trong sự cạnh tranh, bấy giờ trở thành thờ cúng ngẫu tượng. Chính vì thế tiên tri Isaia đã nói bằng ngôn ngữ rất mạnh. Thiên Chúa ghê tởm những của lễ đó. Thiên Chúa nhàm chán chịu đựng. Thiên Chúa khổ tâm.
Thấy mình không vui vì người khác được ca ngợi, thấy mơ hồ sự ghen tị, thèm muốn cạnh tranh trong việc tông đồ, lúc đó, ta cần đọc lại những lời này:
“Các ngươi đừng tiếp tục dâng hiến cho Ta những lễ tế vô ích nữa. Ta ghê tởm mùi hương. Ta không chịu được các ngày đầu tháng, các ngày sabbat và các ngày lễ trọng khác. Ta chán ghét những ngày trăng mới và các ngày lễ trọng của các ngươi. Tất cả những thứ đó đã làm khổ Ta. Ta đã nhàm chán chịu đựng rồi” (Is. 1:10-20).
Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ.
Chút cảm nghiệm tuổi về chiều
Khi đã bước chân vào trần gian, không ai không thoát khỏi cái định luật của con người : sinh – lão – bệnh và tử.
Cái cửa tử là cái cửa chắc chắn nhất mà ai ai trong chúng ta dù muốn dù không, dù sớm dù muộn đều phải bước qua. Nhưng, bước qua như thế nào và bước qua đi về đâu mới là chuyện quan trọng.
Thật ra mà nói, ai ai cũng mong cho mình sống lâu. Thế nhưng chuyện sinh tử là chuyện của Thiên Chúa. Sống ngày nào trên trần gian chính là quà tặng mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Con người không ai có quyền định đoạt được thời gian sống của mình.
Có những người đang dệt ước mơ đời mình nhưng bỗng chốc lại ra đi.
“Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” (Tv 103, 15-16)
Hay là :
“Lạy Chúa, con như người thợ dệt
đang mãi dệt đời mình,
bỗng nhiên bị bàn tay Chúa
cắt đứt ngang hàng chỉ”. (Is 38,12).
Nhiều biến cố, nhiều sự kiện diễn ra hàng ngày bên đời ta để ta thấy điều đó rõ hơn ai hết. Và khi nhìn lại đời sống của mình, mỗi ngày còn thức giấc là mỗi ngày tạ ơn cũng như xin Chúa gìn giữ ta trong quãng đời còn lại :
“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (Tv 90, 12).
Nhiều lần nhiều lúc cũng vui vẻ với bạn bè, choáng váng với những hào nhoáng chóng qua … đến khi chợt tỉnh giấc nhận ra rằng tuổi của mình đã xế chiều. Những ngày tháng xế chiều này, Chúa cho tôi thời gian nhìn lại con người tội lỗi của mình. Thật sự mà nói là quá tội lỗi trong một thời gian quá dài. Chẳng dám ví đời mình như Thánh Augustino nhưng quả thật, tội lỗi của tôi sao chồng chat. Tỉnh ra mới thấy mình đã đi sai đường Chúa dạy.
Chính trong cái giật mình đó, tôi lại chìm đắm trong cầu nguyện, trong lời kinh đặc biệt Kinh Mân Côi. Đến với Kinh Mân Côi tôi tìm được sự bình an cũng như chuyển những ơn lành mà Chúa và Mẹ hứa dành cho các linh hồn đã ra đi.
Những năm dài lăn lộn với thương trường mà như người ta nói có khi còn hơn cả chiến trường nữa. Ở đó, người ta tranh giành và sẵn sàng đánh đổi tất cả để tìm cái lợi cho mình. Vì lợi, người ta có khi hành động tán tận lương tâm. Tạ ơn Chúa đã cho tôi thấy và tôi dừng.
Có thể người này người kia sẽ bảo tôi bất bình thường, tôi chơi nổi, tôi đánh bóng tên tuổi của tôi khi tôi viết ra đây những cảm nghĩ của mình. Có thể khi suy nghĩ này đến với quý vị tôi sẽ bị chỉ trích, lên án và sẽ được những thúng … gạch đá … Chẳng sao cả, có gạch đá để chuyển đến những nơi nghèo cần xây nhà tình nghĩa.
Tuổi đang dần chiều, nhìn lại và tôi cảm thấy thấm với tâm tư của anh chàng nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh : Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt ! Thật sự là như thế, đôi khi ta cứ mãi loanh quanh đi tìm cái gì đó cho mình là danh, là tiền, là quyền, là địa vị … Thế nhưng, tất cả những thứ mà người ta mãi đi tìm đó sẽ là con số không thật khổng lồ khi con người ta nhắm mắt xuôi tay.
Những câu chuyện thật đời mà tôi cũng như nhiều người đã đọc như mẫu chuyện “Bao nhiêu tấc đất cho vừa” đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ. Con người ta mãi miết tham miếng đất như anh chàng trong câu chuyện đó để mãi đi tìm, tìm cho bằng nhiều nhưng khi chiều đến do tham quá không nghỉ ngơi ăn uống nên khi lấy được miếng đất thật to thì cũng là lúc mà anh ta kiệt sức. Cuối cùng, những người hầu của ông địa chủ bán đất cho anh ta chỉ còn có việc duy nhất để chôn anh ta.
Chuyện là ông địa chủ bán đất cho anh với giá 1 đồng bạc. Chủ nói là anh cứ đi từ sáng cho đến chiều, đến khi nào mệt nghỉ thì số đất mà anh đi qua sẽ thuộc về anh. Vì tham lam nên bỏ ăn bỏ uống bỏ nghỉ để chạy cho thật nhiều để mảnh đất mình mua được dài nhất. Thế nhưng vì tham quá nên đã chết sau khi chạy con đường dài không ngơi nghỉ.
Bài học thực tiễn trong cuộc đời chúng ta đó ! Có khi cứ mãi miết đi tìm và đi tìm cho thật nhiều để rồi không bao giờ thấy mình đủ.
Ngày hôm nay không phải là ở cái thời bao cấp nữa, dể thở hơn nhưng vẫn vất vả chạy ăn chạy mặc. Chết vì thiếu ăn thiếu mặc có nhưng chết vì ăn nhiều quá cũng có, chết vì tốn nhiều tiền cho chuyện mặc của mình cũng có.
Và vì thế, tôi có cái cảm giác là cuộc sống của những người lớn tuổi như tôi đây nên chăng phải cảm thấy mình đủ. Khi cảm thấy mình đủ mình sẽ được bình an và mình sẽ dành nhiều thời gian hơn nữa để kết hợp mật thiết với Chúa, để dọn lòng thanh thản ra trình diện trước mặt Chúa.
Có một chuyện mà tôi cảm thấy nực cười đó là ông bà và cha mẹ quá khéo lo cho con cháu đến độ con cháu bực mình. Hay là lo cho chúng cho đã để rồi nhận lại thái độ lạnh lùng bất hiếu. Sau đó lại oán trách chúng bởi lẽ suy nghĩ giữa hai thế hệ khác nhau.
Cứ như phương Tây, 18 tuổi đủ trưởng thành và ta cho nó tự lập. Có chăng ta đứng sau lưng để dõi theo và nhắc nhở. Phần của ta, ta cứ lo phần của ta để sao ta có thời gian nhiều để cầu nguyện, để gắn bó với Chúa.
Có nhiều bậc cha mẹ bào chữa rằng vì lo cho con cái đến độ không có thời gian dành cho Chúa ? Nhưng thử hỏi có cha mẹ nào lột da để sống đời bên cạnh lo cho con cái đâu ? Cuối cùng đời cũng chẳng ra đời mà đạo cũng chẳng giữ cho suông vì cứ viện lý do này lý do nọ.
Tôi trộm nghĩ tuổi già là cái tuổi đẹp để ta có nhiều thời gian hơn để ta gần Chúa, và khi ta gần Chúa ta sẽ thấy mình thật thư thái, bình an và có thời gian nhiều để cầu nguyện cho con cháu nữa.
Vấn đề chính tôi cảm và tôi chia sẻ ở đây đó chính là thời gian dành cho Chúa ở cái độ tuổi về chiều. Đôi khi vì lý do nào đó ta cứ biện minh là lo cho con cho cháu đến độ không còn thời gian. Hay là lo cho cơm áo gạo tiền đến độ không còn giờ cho Chúa nữa.
Nếu ta suy nghĩ như thế và hành xử như thế ta nên nhìn lại để quân bình đời sống tâm linh và đời sống thể xác của ta. Có khi mãi cứ chăm chút vào thể xác mà quên đi phần hồn của ta là điều quan trọng hơn cả.
Chính vì lẽ đó nên ở cái tuổi về chiều, xin mọi người hãy nhìn lại cuộc đời của mình, xin nhìn lại phần tâm linh mà suốt thời gian còn trẻ mình đã quên phần nuôi dưỡng.
Cuộc đời qua đi quá vội và rất vội ! Xin hãy dành nhiều thời gian cho Chúa bằng kinh nguyện và những hy sinh. Sống như thế, khi Chúa gọi ta về lòng ta sẽ nhẹ nhàng và thanh thản và khi đó ta vui vẻ hát rằng : Khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ, miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi ngàn lời ca hát, ngàn dân tung hô tôi thật vinh phúc.
Mic Thành Châu
Khi đã bước chân vào trần gian, không ai không thoát khỏi cái định luật của con người : sinh – lão – bệnh và tử.
Cái cửa tử là cái cửa chắc chắn nhất mà ai ai trong chúng ta dù muốn dù không, dù sớm dù muộn đều phải bước qua. Nhưng, bước qua như thế nào và bước qua đi về đâu mới là chuyện quan trọng.
Thật ra mà nói, ai ai cũng mong cho mình sống lâu. Thế nhưng chuyện sinh tử là chuyện của Thiên Chúa. Sống ngày nào trên trần gian chính là quà tặng mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Con người không ai có quyền định đoạt được thời gian sống của mình.
Có những người đang dệt ước mơ đời mình nhưng bỗng chốc lại ra đi.
“Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” (Tv 103, 15-16)
Hay là :
“Lạy Chúa, con như người thợ dệt
đang mãi dệt đời mình,
bỗng nhiên bị bàn tay Chúa
cắt đứt ngang hàng chỉ”. (Is 38,12).
Nhiều biến cố, nhiều sự kiện diễn ra hàng ngày bên đời ta để ta thấy điều đó rõ hơn ai hết. Và khi nhìn lại đời sống của mình, mỗi ngày còn thức giấc là mỗi ngày tạ ơn cũng như xin Chúa gìn giữ ta trong quãng đời còn lại :
“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (Tv 90, 12).
Nhiều lần nhiều lúc cũng vui vẻ với bạn bè, choáng váng với những hào nhoáng chóng qua … đến khi chợt tỉnh giấc nhận ra rằng tuổi của mình đã xế chiều. Những ngày tháng xế chiều này, Chúa cho tôi thời gian nhìn lại con người tội lỗi của mình. Thật sự mà nói là quá tội lỗi trong một thời gian quá dài. Chẳng dám ví đời mình như Thánh Augustino nhưng quả thật, tội lỗi của tôi sao chồng chat. Tỉnh ra mới thấy mình đã đi sai đường Chúa dạy.
Chính trong cái giật mình đó, tôi lại chìm đắm trong cầu nguyện, trong lời kinh đặc biệt Kinh Mân Côi. Đến với Kinh Mân Côi tôi tìm được sự bình an cũng như chuyển những ơn lành mà Chúa và Mẹ hứa dành cho các linh hồn đã ra đi.
Những năm dài lăn lộn với thương trường mà như người ta nói có khi còn hơn cả chiến trường nữa. Ở đó, người ta tranh giành và sẵn sàng đánh đổi tất cả để tìm cái lợi cho mình. Vì lợi, người ta có khi hành động tán tận lương tâm. Tạ ơn Chúa đã cho tôi thấy và tôi dừng.
Có thể người này người kia sẽ bảo tôi bất bình thường, tôi chơi nổi, tôi đánh bóng tên tuổi của tôi khi tôi viết ra đây những cảm nghĩ của mình. Có thể khi suy nghĩ này đến với quý vị tôi sẽ bị chỉ trích, lên án và sẽ được những thúng … gạch đá … Chẳng sao cả, có gạch đá để chuyển đến những nơi nghèo cần xây nhà tình nghĩa.
Tuổi đang dần chiều, nhìn lại và tôi cảm thấy thấm với tâm tư của anh chàng nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh : Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt ! Thật sự là như thế, đôi khi ta cứ mãi loanh quanh đi tìm cái gì đó cho mình là danh, là tiền, là quyền, là địa vị … Thế nhưng, tất cả những thứ mà người ta mãi đi tìm đó sẽ là con số không thật khổng lồ khi con người ta nhắm mắt xuôi tay.
Những câu chuyện thật đời mà tôi cũng như nhiều người đã đọc như mẫu chuyện “Bao nhiêu tấc đất cho vừa” đã để lại trong tôi nhiều suy nghĩ. Con người ta mãi miết tham miếng đất như anh chàng trong câu chuyện đó để mãi đi tìm, tìm cho bằng nhiều nhưng khi chiều đến do tham quá không nghỉ ngơi ăn uống nên khi lấy được miếng đất thật to thì cũng là lúc mà anh ta kiệt sức. Cuối cùng, những người hầu của ông địa chủ bán đất cho anh ta chỉ còn có việc duy nhất để chôn anh ta.
Chuyện là ông địa chủ bán đất cho anh với giá 1 đồng bạc. Chủ nói là anh cứ đi từ sáng cho đến chiều, đến khi nào mệt nghỉ thì số đất mà anh đi qua sẽ thuộc về anh. Vì tham lam nên bỏ ăn bỏ uống bỏ nghỉ để chạy cho thật nhiều để mảnh đất mình mua được dài nhất. Thế nhưng vì tham quá nên đã chết sau khi chạy con đường dài không ngơi nghỉ.
Bài học thực tiễn trong cuộc đời chúng ta đó ! Có khi cứ mãi miết đi tìm và đi tìm cho thật nhiều để rồi không bao giờ thấy mình đủ.
Ngày hôm nay không phải là ở cái thời bao cấp nữa, dể thở hơn nhưng vẫn vất vả chạy ăn chạy mặc. Chết vì thiếu ăn thiếu mặc có nhưng chết vì ăn nhiều quá cũng có, chết vì tốn nhiều tiền cho chuyện mặc của mình cũng có.
Và vì thế, tôi có cái cảm giác là cuộc sống của những người lớn tuổi như tôi đây nên chăng phải cảm thấy mình đủ. Khi cảm thấy mình đủ mình sẽ được bình an và mình sẽ dành nhiều thời gian hơn nữa để kết hợp mật thiết với Chúa, để dọn lòng thanh thản ra trình diện trước mặt Chúa.
Có một chuyện mà tôi cảm thấy nực cười đó là ông bà và cha mẹ quá khéo lo cho con cháu đến độ con cháu bực mình. Hay là lo cho chúng cho đã để rồi nhận lại thái độ lạnh lùng bất hiếu. Sau đó lại oán trách chúng bởi lẽ suy nghĩ giữa hai thế hệ khác nhau.
Cứ như phương Tây, 18 tuổi đủ trưởng thành và ta cho nó tự lập. Có chăng ta đứng sau lưng để dõi theo và nhắc nhở. Phần của ta, ta cứ lo phần của ta để sao ta có thời gian nhiều để cầu nguyện, để gắn bó với Chúa.
Có nhiều bậc cha mẹ bào chữa rằng vì lo cho con cái đến độ không có thời gian dành cho Chúa ? Nhưng thử hỏi có cha mẹ nào lột da để sống đời bên cạnh lo cho con cái đâu ? Cuối cùng đời cũng chẳng ra đời mà đạo cũng chẳng giữ cho suông vì cứ viện lý do này lý do nọ.
Tôi trộm nghĩ tuổi già là cái tuổi đẹp để ta có nhiều thời gian hơn để ta gần Chúa, và khi ta gần Chúa ta sẽ thấy mình thật thư thái, bình an và có thời gian nhiều để cầu nguyện cho con cháu nữa.
Vấn đề chính tôi cảm và tôi chia sẻ ở đây đó chính là thời gian dành cho Chúa ở cái độ tuổi về chiều. Đôi khi vì lý do nào đó ta cứ biện minh là lo cho con cho cháu đến độ không còn thời gian. Hay là lo cho cơm áo gạo tiền đến độ không còn giờ cho Chúa nữa.
Nếu ta suy nghĩ như thế và hành xử như thế ta nên nhìn lại để quân bình đời sống tâm linh và đời sống thể xác của ta. Có khi mãi cứ chăm chút vào thể xác mà quên đi phần hồn của ta là điều quan trọng hơn cả.
Chính vì lẽ đó nên ở cái tuổi về chiều, xin mọi người hãy nhìn lại cuộc đời của mình, xin nhìn lại phần tâm linh mà suốt thời gian còn trẻ mình đã quên phần nuôi dưỡng.
Cuộc đời qua đi quá vội và rất vội ! Xin hãy dành nhiều thời gian cho Chúa bằng kinh nguyện và những hy sinh. Sống như thế, khi Chúa gọi ta về lòng ta sẽ nhẹ nhàng và thanh thản và khi đó ta vui vẻ hát rằng : Khi Chúa thương gọi tôi về, hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ, miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi ngàn lời ca hát, ngàn dân tung hô tôi thật vinh phúc.
Mic Thành Châu
Kẻ Hám Danh
Phạm Minh Tân.....?
Phạm Minh Tân.........?
Phạm Minh Tân............?
Phạm Minh Tân - Tiếng nói quan trọng số 1 trong ban soạn thảo tu bổ lại “Bản Nội Quy của Giáo Xứ Lộ Đức" được Linh Mục chính xứ Vincentê Đinh Ngọc Thảo kiểm duyệt và ấn ký tại Houston Texas ngày 28 tháng 3 năm 2014.
Phạm Minh Tân - Sau 2 tháng Bản Nội Quy ra đời. Chúa Nhật ngày 25 tháng 5 năm 2014, trong tờ "TIN YÊU" của giáo xứ Lộ Đức giới thiệu ông Phạm Minh Tân là Trưởng Ban Tổ Chức Bầu Cử Hội Đồng Mục Vụ cho nhiệm kỳ 2014-2017, ông đã cùng với Cha Thảo đẻ ngay ra cho 1 phát "LUẬT" mới là Phụ Đính 1 với "Đại ý" vì hoàn cảnh của năm bầu cử, Linh Mục chánh xứ và ban tổ chức bầu cử đương nhiệm soạn thảo thêm, "Những ai không ở trong các Ban Nghành, Đoàn Thể, hay Ca Đoàn cần phải có 50 chữ ký của các Gia Trưởng". Cha Thảo, và ông Tân muốn đưa vây cánh của mình vào làm Chủ Tịch Hội Đồng Mục Vụ, nhưng nhờ sự tìm hiểu, và hiểu biết của giáo dân mà kết quả 2 ngày bầu cử Thứ Bảy 26 và Chúa Nhật 27 tháng 7 năm 2014 vừa qua, vây cánh của Cha Thảo, ông Tân đã bị giáo dân cho về vườn rửa chuồng......!
Phạm Minh Tân - Đúng 1 tháng sau kết quả bầu cử. Ngày 30 tháng 8 năm 2014, Cha Thảo lại tuyên bố ông Phạm Minh Tân là "Trưởng Ban Kiến Thiết" của giáo xứ.
Quí vị ơi! Quí vị có thấy ông Tân này đẻ trứng Gà ra Vàng không? Chỉ có 6 tháng mà ông được Cha Thảo cất nhắc lên 3 địa vị quan trọng trong giáo xứ Lộ Đức. Chắc trong giáo xứ chúng ta không có ai được "TIN TƯỞNG" bằng ông. Vì "THẢO+TÂN+TIỀN+TÌNH" lúc nào cũng phải đi với nhau.
Thưa Quí vị, chúng ta đã khó nhọc biết bao nhiêu tháng trời để tìm hiểu, suy nghĩ, cầu nguyện mới “Bầu Cử” được 1 Hội Đồng Mục Vụ hoàn toàn đổi mới. Chúng ta hoàn toàn đặt tin tưởng vào HĐMV này, vì thế, tất cả những "Dự Án, Xây Cất, Sửa Chữa Lớn, Nhỏ" trong, ngoài giáo xứ, HĐMV "CẦN PHẢI BIẾT RÕ" cũng như thông báo cho giáo dân hiểu rõ vấn đề. Bởi vì Tiền bạc đóng góp, dâng cúng từ giáo dân, chứ không phải từ trên trời rơi xuống để các Cha, HĐTC, và Trưởng Ban Kiến Thiết muốn làm gì thì làm.
Một Giáo Dân Về Già
Phạm Minh Tân.....?
Phạm Minh Tân.........?
Phạm Minh Tân............?
Phạm Minh Tân - Tiếng nói quan trọng số 1 trong ban soạn thảo tu bổ lại “Bản Nội Quy của Giáo Xứ Lộ Đức" được Linh Mục chính xứ Vincentê Đinh Ngọc Thảo kiểm duyệt và ấn ký tại Houston Texas ngày 28 tháng 3 năm 2014.
Phạm Minh Tân - Sau 2 tháng Bản Nội Quy ra đời. Chúa Nhật ngày 25 tháng 5 năm 2014, trong tờ "TIN YÊU" của giáo xứ Lộ Đức giới thiệu ông Phạm Minh Tân là Trưởng Ban Tổ Chức Bầu Cử Hội Đồng Mục Vụ cho nhiệm kỳ 2014-2017, ông đã cùng với Cha Thảo đẻ ngay ra cho 1 phát "LUẬT" mới là Phụ Đính 1 với "Đại ý" vì hoàn cảnh của năm bầu cử, Linh Mục chánh xứ và ban tổ chức bầu cử đương nhiệm soạn thảo thêm, "Những ai không ở trong các Ban Nghành, Đoàn Thể, hay Ca Đoàn cần phải có 50 chữ ký của các Gia Trưởng". Cha Thảo, và ông Tân muốn đưa vây cánh của mình vào làm Chủ Tịch Hội Đồng Mục Vụ, nhưng nhờ sự tìm hiểu, và hiểu biết của giáo dân mà kết quả 2 ngày bầu cử Thứ Bảy 26 và Chúa Nhật 27 tháng 7 năm 2014 vừa qua, vây cánh của Cha Thảo, ông Tân đã bị giáo dân cho về vườn rửa chuồng......!
Phạm Minh Tân - Đúng 1 tháng sau kết quả bầu cử. Ngày 30 tháng 8 năm 2014, Cha Thảo lại tuyên bố ông Phạm Minh Tân là "Trưởng Ban Kiến Thiết" của giáo xứ.
Quí vị ơi! Quí vị có thấy ông Tân này đẻ trứng Gà ra Vàng không? Chỉ có 6 tháng mà ông được Cha Thảo cất nhắc lên 3 địa vị quan trọng trong giáo xứ Lộ Đức. Chắc trong giáo xứ chúng ta không có ai được "TIN TƯỞNG" bằng ông. Vì "THẢO+TÂN+TIỀN+TÌNH" lúc nào cũng phải đi với nhau.
Thưa Quí vị, chúng ta đã khó nhọc biết bao nhiêu tháng trời để tìm hiểu, suy nghĩ, cầu nguyện mới “Bầu Cử” được 1 Hội Đồng Mục Vụ hoàn toàn đổi mới. Chúng ta hoàn toàn đặt tin tưởng vào HĐMV này, vì thế, tất cả những "Dự Án, Xây Cất, Sửa Chữa Lớn, Nhỏ" trong, ngoài giáo xứ, HĐMV "CẦN PHẢI BIẾT RÕ" cũng như thông báo cho giáo dân hiểu rõ vấn đề. Bởi vì Tiền bạc đóng góp, dâng cúng từ giáo dân, chứ không phải từ trên trời rơi xuống để các Cha, HĐTC, và Trưởng Ban Kiến Thiết muốn làm gì thì làm.
Một Giáo Dân Về Già
TẠI SAO GIÁO HỘI CẦN PHẢI KHÓ NGHÈO ĐỂ RAO GIẢNG TIN MỪNG CÁCH THUYẾT PHỤC HƠN?
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những người chỉ biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên khinh thường mọi giá tri tinh thần trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm. Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời, thì khó nghèo lại là một nhân đức cần phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.
Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam mê về tiền bạc và của cải vật chất, tôn tờ khoái lạc (hedonism) khiến dửng dưng – hay lãnh cảm (numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng nhân đạo..
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.
Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo đói, sống vất vưởng trên hè phố ở các đô thị lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú, tỉ phú không hề quan tâm đến họ. Chính quyền liên bang cũng như tiểu bang , cho đến nay, vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria…vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! (Irak và Afghanistan)
Trước thực trạng nói trên của Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng, đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa nơi những người xấu số này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.
Đức Thánh Cha nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8:9)
Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thực hành phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa , “Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28).
Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau:
“ cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion) một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.
Tại sao phải sống khó nghèo?
Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu, Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở các bệnh viện. Nghĩa là không “lý tưởng thiếu thực tế” để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.
Nhưng điều quan trọng nhất là phải có nhân đức khó nghèo và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ. (Mt 5:3; Lc 6 : 20)
Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới về phần xác như đã nói ở trên mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm chóng qua ở đời này đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến không còn chú tâm vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.
Người tông đồ mà không có nhân đức khó nghèo, không khinh chê tiền bạc và của cải vật chất, thì không thể rao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có và không sống tinh thần khó nghèo thực sự mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Mặt khác, sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố, trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.
Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ – nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con trồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20)
Thử hỏi Chúa có đóng kịch “khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không?
Ai dám nói là có? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành lời Chúa để đi tìm và “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt 6: 20)
Nếu người tông đồ mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng, thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe.. Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và xa tránh hay chống lại những cám dỗ về tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi, bon chen để được về những xứ giầu, không chịu đi coi những xứ nghèo ở thôn quê, cũng như không muốn dâng lễ với bổng lễ ( mass stipends) thấp , thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu cho ai được.Và nhiên hậu, cũng sẽ không hơn gì bọn Biệt phái và luật sĩ xưa kia, là những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.”( Mt 23: 4).
Như thế, không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.
Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại xe đắt tiền như Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ cao.. thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì “con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.
Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh, coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.
Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, tách mình ra khỏi làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cá nhân. Có như thế thì mới có thể thi hành có hiệu quả sứ mệnh thiêng liêng của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa , Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe , lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. (1 Cr 2 : 9 )
Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí chóng qua ở trần gian này , thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác được.
Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này, không hề phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc , danh vọng và của cải vật chất hư hèn mà chỉ cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi. Lại nữa, không có giáo sĩ và tu sĩ nào có lời khấn sang giầu mà chỉ có lời khấn khó nghèo mà thôi. Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quý sang giầu đích thực. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi.” (Mc 10: 21)
Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ- bước đi qua bóng tối đen thui của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ, thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi.
Chúa nói: “ai có tai nghe thì nghe” (Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Khó nghèo là một bất hạnh lớn cho con người, xét theo khôn ngoan của người đời; là những người chỉ biết quí trọng giầu sang về vật chất,và chỉ đi tìm danh lợi chóng qua ở đời này, nên khinh thường mọi giá tri tinh thần trong đó có giá trị của sự khó nghèo nội tâm. Nhưng với người có niềm tin Thiên Chúa, tin có sự giầu sang vĩnh cửu trên Nước Trời, thì khó nghèo lại là một nhân đức cần phải có để xứng đáng là những môn đệ lớn nhỏ của Chúa Kitô, Đấng đã thực sự sống khó nghèo từ khi sinh ra trong hàng bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá.
Thế giới ngày nay đang chìm đắm trong đam mê về tiền bạc và của cải vật chất, tôn tờ khoái lạc (hedonism) khiến dửng dưng – hay lãnh cảm (numb, insensitive) trước sự đau khổ, nghèo đói của biết bao triệu người là nạn nhân của bóc lột và bất công xã hội đầy rẫy ở khắp nơi trong thế giới tôn thờ vật chất, tục hóa và suy thoái thê thảm về luân lý, đạo đức và lòng nhân đạo..
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng “ tôn thờ tiền bạc ( cult of money ) và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.
Không nói gì đến các nước vốn nghèo sẵn ở Á và Phi Châu, ngay ở Hoa Kỳ là nước được coi là giầu có nhất nhì thế giới mà cũng có biết bao người vô gia cư ( homeless) nghèo đói, sống vất vưởng trên hè phố ở các đô thị lớn như Los Angeles, Houston, Chicago, Nữu Ước… Họ nghèo đến nỗi không có nhà ở và hàng ngày phải đến xin ăn ở các cơ sở từ thiện, trong khi những người triệu phú, tỉ phú không hề quan tâm đến họ. Chính quyền liên bang cũng như tiểu bang , cho đến nay, vẫn không có biện pháp tích cực nào để giúp những người nghèo vô gia cự này.Nhưng mỉa mai và nghịch lý là chánh quyền Mỹ cứ thi nhau đem tiền ra giúp các nước như Irak. Afghanistan, Pakistan, Ai Cập, Syria…vì quyền lợi chiến lược của Mỹ, mặc dù dân các nước trên vẫn chống Mỹ và muốn đuổi quân đội Mỹ ra khỏi đất nước họ ! (Irak và Afghanistan)
Trước thực trạng nói trên của Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô, từ ngày lên ngôi Giáo Hoàng, đã tỏ mối quan tâm sâu xa đối với người nghèo khó ở khắp nơi trên thế giới và luôn kêu gọi Thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng phải làm gì cụ thể để thương giúp những người nghèo khó mà Chúa Kitô đang đồng hóa với họ và thách đố chúng ta nhận ra Chúa nơi những người xấu số này để thương giúp họ cách thich hợp theo khả năng của mình.
Đức Thánh Cha nghiêm khắc phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì người thấy rõ sự chênh lệch quá to lơn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này.Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng ( Pontificate) của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phan xicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “ Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8:9)
Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thực hành phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hôi noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa , “Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28).
Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau:
“ cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng( promotion) một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài( decoration) mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bất cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ ( austerity) tiết độ ( sobriety) và khó nghèo ( poverty)”.
Tại sao phải sống khó nghèo?
Trước hết, phải nói ngay là khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu, Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở các bệnh viện. Nghĩa là không “lý tưởng thiếu thực tế” để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.
Nhưng điều quan trọng nhất là phải có nhân đức khó nghèo và thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “ Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ. (Mt 5:3; Lc 6 : 20)
Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây không có nghĩa là phải đói khát , rách rưới về phần xác như đã nói ở trên mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi sa hoa, danh vọng phù phiếm chóng qua ở đời này đến độ vô tình làm nô lệ cho chúng khiến không còn chú tâm vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.
Người tông đồ mà không có nhân đức khó nghèo, không khinh chê tiền bạc và của cải vật chất, thì không thể rao giảng sự khó nghèo của Phúc Âm cho ai được. Không có và không sống tinh thần khó nghèo thực sự mà lại rao giảng nhân đức khó nghèo thì sẽ làm trò cười mỉa mai cho người nghe mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Mặt khác, sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ , Tòa Giám mục được xây cất sang trọng , lộng lẫy để khoe khoang với du khách mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi tín hữu để giúp họ sống đạo có chiều xâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội mỗi năm, đông người đi lễ hàng tuần, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố, trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.
Lại nữa,, người tông đồ lớn nhỏ – nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành được tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư đến nỗi có thể nói được về mình là “ con trồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8: 20)
Thử hỏi Chúa có đóng kịch “khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không?
Ai dám nói là có? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho hết mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng và toàn thể dân Chúa nói chung phải thi hành lời Chúa để đi tìm và “ tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt 6: 20)
Nếu người tông đồ mà chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng, thay vì xây dựng cho mình và cho những người mình phục vụ một lâu đài nội tâm hoành tráng, thì mọi lời rao giảng về khó nghèo của Phúc Âm sẽ trở nên trống rỗng và không có sức thuyết phục được ai tin và thực hành, nếu không muốn nói là làm trò cười cho người nghe.. Muốn thuyết phục thì chính mình phải sống và xa tránh hay chống lại những cám dỗ về tiền bạc và của cải vật chất để không đôn đáo đi tìm tiền, làm thân với người giầu có để trục lợi, bon chen để được về những xứ giầu, không chịu đi coi những xứ nghèo ở thôn quê, cũng như không muốn dâng lễ với bổng lễ ( mass stipends) thấp , thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu cho ai được.Và nhiên hậu, cũng sẽ không hơn gì bọn Biệt phái và luật sĩ xưa kia, là những kẻ chỉ dạy người khác sống nhưng chính họ lại không sống điều họ dạy bảo người khác, khiến Chúa Giêsu đã nhiều lần phải nghiêm khắc lên án họ là :“quân giả hình”, bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta , nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào.”( Mt 23: 4).
Như thế, không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.
Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các loại xe đắt tiền như Lexus, BMW, Mercedes, Ìnfinity, Volvo… đeo đồng hồ longines, Omega …làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ cao.. thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì “con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.
Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giê su-Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh, coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.
Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, tách mình ra khỏi làm tay sai cho thế quyền để trục lợi cá nhân. Có như thế thì mới có thể thi hành có hiệu quả sứ mệnh thiêng liêng của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa , Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà “ mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe , lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. (1 Cr 2 : 9 )
Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí chóng qua ở trần gian này , thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác được.
Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này, không hề phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc , danh vọng và của cải vật chất hư hèn mà chỉ cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời mà thôi. Lại nữa, không có giáo sĩ và tu sĩ nào có lời khấn sang giầu mà chỉ có lời khấn khó nghèo mà thôi. Có khó nghèo thực sự trong tâm hồn thì mới dễ vươn mình lên cùng Chúa là cội nguồn của mọi phú quý sang giầu đích thực. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi.” (Mc 10: 21)
Lời Chúa trên đây phải là đèn sáng soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội- cách riêng cho hàng giáo sĩ và tu sĩ- bước đi qua bóng tối đen thui của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ, thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi.
Chúa nói: “ai có tai nghe thì nghe” (Mt 13:43; Mc 4: 23; Lc 8:8)
Làm Từ Thiện
Lm Vũđình Tường 7/9/2015
Khi nói đến làm từ thiện chúng ta nghĩ ngay đến việc cho của cải, vật chất, tiền bạc mà ít khi nghĩ đến những nhu cầu khác. Từ thiện đúng nghĩa bao gồm cả việc cho tài năng, thời gian, lời nói và dĩ nhiên cả việc cầu nguyện. Những nhu cầu này cần cho xã hội tân tiến. Có những việc từ thiện rất dễ làm và có những việc xem ra cần can đảm và khuyến khích làm.
Việc từ thiện dễ làm chẳng hạn như khi có ai đau yếu bệnh tật chúng ta không ngại cầu cho họ hay yêu cầu họ cầu cho khi chúng ta gặp hoạn nạn. Cầu nguyện không phải chỉ là từ thiện, bác ái với tha nhân và bác ái với chính Thiên Chúa. Việc làm vừa có lợi cho mình và cho người mình cầu cho.
Việc từ thiện khó hơn khi có người yêu cầu chúng ta chấp nhận í kiến nghịch, chống lại í kiến, tư tưởng mình. Thông thường nhất và nhiều người mắc phạm đó là bác ái trong ngôn ngữ, lời nói, nhận xét phê bình hay phán đoán. Có người còn tin rằng đó là việc làm chính đáng, cần phải làm. Từ thiện, bác ái trong lời nói, việc làm có nguồn gốc từ Kinh Thánh và là dấu chỉ của người giầu lòng bác ái, vị tha là những nhân đức của Kitô hữu.
Việc từ thiện khác là cho nhau thời gian cần thiết. Một em bé than phiền ‘buồn quá, không ai chơi với con’. Điều than phiền này cho thấy em bé cô đơn, buồn giữa một gia đình có đông người nhưng ai cũng bận rộn với công việc riêng mình để mình em cô đơn. Cần cho người thân thời gian, vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, cần dành thời gian cho nhau, để đời bớt cô đơn. Cô đơn vì thiếu yêu thương, âu yếm của người thân.
Từ thiện trong việc đổ thừa xem ra có vẻ khó khăn hơn. Đổ thừa cho người lãnh trách nhiệm để mình tránh trách nhiệm, đồng thời tránh thiệt hại. Thay vì chấp nhận bất toàn và chịu trách nhiệm, thiệt hại ta đổ cho người khác lãnh và coi đó là hành động khôn ngoan. Cần lưu í đến an vui hạnh phúc của mình đồng thời an vui, hạnh phúc của người và gia đình họ như thế mới là trưởng thành, thánh thiện. Đức Kitô dặn các tông đồ sẽ bị xua đuổi. Nếu họ chào đón anh em hãy trú ngụ tại đó; nếu họ xua đuổi hãy âm thầm, lặng lẽ ra đi, mà không chống đối.
Từ thiện và thánh thiện cần đi chung. Từ thiện mà thiếu thánh thiện sẽ được nổi tiếng, người đời ca tụng; thánh thiện mà thiếu từ thiện là sáo ngữ, giảo hoạt, lẻo mép. Từ thiện và khiêm nhường, hi sinh chung vai sát cánh để cùng đồng hành với người mình phục vụ.
Đức Kitô dặn các tông đồ đi truyền giáo mà không cần mang hành lí phụ thêm ngoài những nhu cầu cần thiết. Không hành lí, của cải họ sẽ tự do hơn trong khi truyền giáo mà không lo mất của cải, vật chất bởi không có lấy chi mà mất. Các tông đồ có nhiều giờ hơn cho việc truyền giáo và yên tâm hơn để làm việc. Tình yêu và ân sủng Chúa đủ làm hành trang cho các ông. Các ông có thể nghèo của cải, vật chất nhưng giầu Lời Chúa, bình an và ân sủng Ngài. Các ông ban phát những ơn đó và những ai đón nhận ân sủng Chúa trở thành kẻ đồng hành cùng các ông trong cuộc đời rao giảng. Nghèo vật chất; giầu tình thương, lòng mến là thành quả không hư nát của người rao giảng.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Lm Vũđình Tường 7/9/2015
Khi nói đến làm từ thiện chúng ta nghĩ ngay đến việc cho của cải, vật chất, tiền bạc mà ít khi nghĩ đến những nhu cầu khác. Từ thiện đúng nghĩa bao gồm cả việc cho tài năng, thời gian, lời nói và dĩ nhiên cả việc cầu nguyện. Những nhu cầu này cần cho xã hội tân tiến. Có những việc từ thiện rất dễ làm và có những việc xem ra cần can đảm và khuyến khích làm.
Việc từ thiện dễ làm chẳng hạn như khi có ai đau yếu bệnh tật chúng ta không ngại cầu cho họ hay yêu cầu họ cầu cho khi chúng ta gặp hoạn nạn. Cầu nguyện không phải chỉ là từ thiện, bác ái với tha nhân và bác ái với chính Thiên Chúa. Việc làm vừa có lợi cho mình và cho người mình cầu cho.
Việc từ thiện khó hơn khi có người yêu cầu chúng ta chấp nhận í kiến nghịch, chống lại í kiến, tư tưởng mình. Thông thường nhất và nhiều người mắc phạm đó là bác ái trong ngôn ngữ, lời nói, nhận xét phê bình hay phán đoán. Có người còn tin rằng đó là việc làm chính đáng, cần phải làm. Từ thiện, bác ái trong lời nói, việc làm có nguồn gốc từ Kinh Thánh và là dấu chỉ của người giầu lòng bác ái, vị tha là những nhân đức của Kitô hữu.
Việc từ thiện khác là cho nhau thời gian cần thiết. Một em bé than phiền ‘buồn quá, không ai chơi với con’. Điều than phiền này cho thấy em bé cô đơn, buồn giữa một gia đình có đông người nhưng ai cũng bận rộn với công việc riêng mình để mình em cô đơn. Cần cho người thân thời gian, vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, cần dành thời gian cho nhau, để đời bớt cô đơn. Cô đơn vì thiếu yêu thương, âu yếm của người thân.
Từ thiện trong việc đổ thừa xem ra có vẻ khó khăn hơn. Đổ thừa cho người lãnh trách nhiệm để mình tránh trách nhiệm, đồng thời tránh thiệt hại. Thay vì chấp nhận bất toàn và chịu trách nhiệm, thiệt hại ta đổ cho người khác lãnh và coi đó là hành động khôn ngoan. Cần lưu í đến an vui hạnh phúc của mình đồng thời an vui, hạnh phúc của người và gia đình họ như thế mới là trưởng thành, thánh thiện. Đức Kitô dặn các tông đồ sẽ bị xua đuổi. Nếu họ chào đón anh em hãy trú ngụ tại đó; nếu họ xua đuổi hãy âm thầm, lặng lẽ ra đi, mà không chống đối.
Từ thiện và thánh thiện cần đi chung. Từ thiện mà thiếu thánh thiện sẽ được nổi tiếng, người đời ca tụng; thánh thiện mà thiếu từ thiện là sáo ngữ, giảo hoạt, lẻo mép. Từ thiện và khiêm nhường, hi sinh chung vai sát cánh để cùng đồng hành với người mình phục vụ.
Đức Kitô dặn các tông đồ đi truyền giáo mà không cần mang hành lí phụ thêm ngoài những nhu cầu cần thiết. Không hành lí, của cải họ sẽ tự do hơn trong khi truyền giáo mà không lo mất của cải, vật chất bởi không có lấy chi mà mất. Các tông đồ có nhiều giờ hơn cho việc truyền giáo và yên tâm hơn để làm việc. Tình yêu và ân sủng Chúa đủ làm hành trang cho các ông. Các ông có thể nghèo của cải, vật chất nhưng giầu Lời Chúa, bình an và ân sủng Ngài. Các ông ban phát những ơn đó và những ai đón nhận ân sủng Chúa trở thành kẻ đồng hành cùng các ông trong cuộc đời rao giảng. Nghèo vật chất; giầu tình thương, lòng mến là thành quả không hư nát của người rao giảng.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Gương mẫu
Lm. Giuse Trần Việt Hùng 7/5/2015
Tôi rất ngưỡng mộ các vị hiền tài, hiền triết, các bậc vĩ nhân, các thiên tài, nhân tài, kỳ tài và các ngôi sao tài tử…Họ là những người đã cống hiến khả năng được phú ban để góp phần cho công ích đời sống xã hội. Những kho tàng vô giá của nhân loại được lưu truyền, bảo tồn và tiếp tục phát triển. Thế hệ này nối kết thế hệ kia để hoàn thành sứ mệnh được Tạo Hóa trao ban. Đây là kho tàng văn hóa vĩ đại của cả nhân loại. Tạo Hóa trao ban cho mỗi người một khả năng tài trí để cùng chung góp dựng xây nền văn minh của nhân loại. Có rất nhiều các thiên tài sống âm thầm, nhưng đã cống hiến rất nhiều cho đời sống con người.
Sự hỗ tương giữa các tài năng giúp xã hội tiến bước không ngừng. Trên thế giới có muôn điều mới lạ mà có lẽ chúng ta chưa hề nghe, chưa hề thấy và chưa bao giờ tưởng tượng. Người ta đã khám phá và sáng chế tạo ra biết bao thiết bị kỹ thuật ứng dụng trong mọi ngành nghề chuyên môn. Chúng ta không thể nào tưởng tượng những món qùa thông minh tài trí của con người. Chúng ta ái mộ và trân quý tất cả những khả năng mà mỗi cá nhân được bẩm sinh thiên phú. Chúng ta hôm nay được thừa hưởng cả một nền văn minh đạo đức và khoa học vĩ đại. Con người phải nương tựa nhau để sống và sống tốt.
Hai chữ ‘tài đức’ kết hợp sẽ là gương mẫu cho mọi người soi chung. Có tài mà không có đức, con người sẽ bị vong thân. Chân Thiện Mỹ là căn cốt của đạo làm người. Ai cũng ưa thích cái tài, cái thiện, cái giỏi và cái đẹp. Nhưng cái đẹp bên trong tâm hồn quan trọng hơn. Người ta nói: ‘Cái nết đánh chết cái đẹp’. Thông minh, tài giỏi và đẹp đẽ mà không có đạo đức luân lý thì cuộc sống không thể trở thành gương mẫu. Chúng ta có thể khâm phục và ngưỡng mộ tài năng của các tài tử, các ngôi sao điện ảnh, các hoa hậu, người mẫu và các ca sĩ …qua những diễn xuất công cộng. Nhưng không phải tất cả họ là những gương mẫu và thần tượng để chúng ta noi theo.
Chúng ta biết rằng các nhà chính trị và các ngôi sao điện ảnh có ảnh hưởng rất lớn trên truyền thông, truyền hình và báo chí… Vì vậy, đời sống riêng tư không tốt của họ thường được báo giới khai thác một cách triệt để. Trong khi đó, những gương lành và gương sáng của các hiền nhân, chẳng mấy khi được đưa lên báo chí. Bởi thế, tiếng Việt mới gọi đó là ‘tin tức’. Tin xấu thì nhiều, mà tin vui thì ít. Các tệ nạn xã hội được truyền thông dưới mọi khía cạnh, còn những điều hay, lẽ đẹp thì bị giấu nhẹm. Điều này tạo nên một cái nhìn tiêu cực trong đời sống xã hội. Chúng ta cần vượt qua những điều bi quan này để mở ngõ cho những điều tích cực lạc quan.
Chúng ta cần nghe Tin Mừng của Chúa Giêsu và những hướng dẫn đạo đức luân lý chính thật của các Tôn Giáo. Xã hội của chúng ta cần loan báo những tấm gương sáng và những công việc hành thiện. Trong đời sống, không thiếu những bậc hiền tài và chân tu chiêm niệm ẩn núp sau những bức tường kín hoặc nơi rừng thiêng thanh vắng. Những nét đẹp của sự khôn ngoan hiền triết được bày tỏ nơi những tâm hồn đơn sơ thanh khiết và khiêm nhu hiền hậu. Họ mới là mẫu gương trong sáng soi dọi đường đời cho chúng ta bước theo.
Tôi thích câu truyện này: Thuở xưa có một nhà sư sống ẩn dật tại một triền núi được mọi người xem là đạo cao đức trọng. Một hôm, nhà sư phải tiếp một bà lão cùng cậu con trai của bà. Bà lão thưa: Bạch sư, con tôi mắc phải cái tật là ưa sưu tầm hoa kiểng. Nó đã làm cho tôi hao tốn không biết bao nhiêu là tiền của trong cái thời củi quế gạo châu nầy. Xin Sư làm ơn chữa trị hoặc răn dạy giùm, kẻo tội nghiệp cho tôi cùng vợ con nó. Nhà sư ngẫm nghĩ giây lâu rồi nói: Bà hãy đưa con về, độ nửa tháng sau trở lại, tôi sẽ giúp cho.
Đúng ngày hẹn, bà lão trở lại, nhà sư chỉ dạy có một câu đơn giản. Sư nói với cậu: Con à, đó là một thú vui hao tiền tốn của, con hãy bỏ đi, để tiền mà thờ mẹ và nuôi con. Bà lão bất bình, nói: Tưởng thầy có phương cách gì, té ra chỉ bao nhiêu lời đó. Thế sao thầy không làm ơn nói dùm ngay bữa trước, mà phải hẹn đến hôm nay. Ðường sá xa xôi biết là bao! Nhà sư mỉm cười: Chẳng dấu gì bà, tôi cũng mắc phải cái tật như cậu nhà đây. Nửa tháng gia hạn là thời gian tối thiểu để tôi bỏ cái cố tật đó. Nay mọi việc đã xong xuôi, tôi mới dám mở miệng khuyên can cậu em nầy. Chàng trai từ đó ăn ở rất vừa lòng mẹ.
Lời nói phải đi đôi với việc làm mới có giá trị. Nếu nói một đàng làm một nẻo, thì ai cũng nói được. Khuyên răn dạy bảo người khác làm điều lành, điều thiện thì ai cũng khuyên được. Lên mặt dạy đời thì khéo lắm, nhưng chính mình không muốn sửa đổi. Muốn người khác thay đổi, nhưng chúng ta lại cứ chứng nào tật đó. Người đời thường áp dụng kiểu ‘xấu che, tốt khoe’. Đôi khi chúng ta không sống thật với lòng mình. Nói chung, ai trong chúng ta cũng có điểm tốt, điểm xấu. Chúng ta có thể tốt hơn ở khía cạnh này, nhưng lại yếu kém ở lãnh vực khác trong đời sống. Mỗi người cố gắng nên hoàn thiện mỗi ngày. Dù biết rằng ‘nhân vô thập toàn’.
Đứng vào vị trí và vai trò của các thày dậy, chúng ta phải xưng thú rằng sống gương mẫu là một trong những khó khăn và nhức nhối nhất. Các giảng viên, các thày, các Dì, các cha…là những người thuờng xuyên giảng dạy về đạo giáo. Dạy về những thực hành tốt lành trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đoàn và xứ đạo. Trải nghiệm thực tế cuộc sống, chúng ta chẳng thực hành được bao nhiêu. Vẫn còn khoảng cách từ miệng đến trái tim và từ trái tim tới sự thể hiện bên ngoài. Đôi khi các thày dạy, chú trọng hình thức, giảng như con vẹt, nói trên sách vở và lề luật, khuyên răn người khác cải đổi đời sống, trong khi chính mình cứ ù lì và giậm chân tại chỗ. Tính nào tật đó. Thật là hổ thẹn!
Chúng ta biết rằng các thầy dậy, người có địa vị và các chức sắc có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống xã hội, cần phải cẩn trọng trong lời nói và cách ăn nết ở. Mỗi lời nói, việc làm của chúng ta đều ảnh hưởng rất lớn đối với những người khác. Chúng ta không thể biện minh hay trốn tránh trách nhiệm làm gương sáng. Mọi người có quyền đòi hỏi các thầy dậy phải là gương mẫu. Mỗi người cố gắng tu tâm luyện tính mỗi ngày, áp dụng lời nói đi đôi với hành động. Giáo dân bây giờ cần xem bài giảng, hơn là nghe bài giảng.
Chúng ta có thể nghĩ sâu, nói hay, diễn tài và hát giỏi, nhưng quan trọng là đem cái tâm vào đời sống. Yêu rồi làm. Pha trộn Chân Thiện Mỹ vào tất cả các sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày. Dần dần tâm tư của chúng ta sẽ vơi bớt đi những tà tâm quấy nhiễu. Đừng bao giờ làm gương mù gương xấu cho kẻ khác. Đèn của chúng ta phải được thắp lên, đặt trên giá và chiếu giãi ánh sáng soi lối cho mọi người chung quanh.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng 7/5/2015
Tôi rất ngưỡng mộ các vị hiền tài, hiền triết, các bậc vĩ nhân, các thiên tài, nhân tài, kỳ tài và các ngôi sao tài tử…Họ là những người đã cống hiến khả năng được phú ban để góp phần cho công ích đời sống xã hội. Những kho tàng vô giá của nhân loại được lưu truyền, bảo tồn và tiếp tục phát triển. Thế hệ này nối kết thế hệ kia để hoàn thành sứ mệnh được Tạo Hóa trao ban. Đây là kho tàng văn hóa vĩ đại của cả nhân loại. Tạo Hóa trao ban cho mỗi người một khả năng tài trí để cùng chung góp dựng xây nền văn minh của nhân loại. Có rất nhiều các thiên tài sống âm thầm, nhưng đã cống hiến rất nhiều cho đời sống con người.
Sự hỗ tương giữa các tài năng giúp xã hội tiến bước không ngừng. Trên thế giới có muôn điều mới lạ mà có lẽ chúng ta chưa hề nghe, chưa hề thấy và chưa bao giờ tưởng tượng. Người ta đã khám phá và sáng chế tạo ra biết bao thiết bị kỹ thuật ứng dụng trong mọi ngành nghề chuyên môn. Chúng ta không thể nào tưởng tượng những món qùa thông minh tài trí của con người. Chúng ta ái mộ và trân quý tất cả những khả năng mà mỗi cá nhân được bẩm sinh thiên phú. Chúng ta hôm nay được thừa hưởng cả một nền văn minh đạo đức và khoa học vĩ đại. Con người phải nương tựa nhau để sống và sống tốt.
Hai chữ ‘tài đức’ kết hợp sẽ là gương mẫu cho mọi người soi chung. Có tài mà không có đức, con người sẽ bị vong thân. Chân Thiện Mỹ là căn cốt của đạo làm người. Ai cũng ưa thích cái tài, cái thiện, cái giỏi và cái đẹp. Nhưng cái đẹp bên trong tâm hồn quan trọng hơn. Người ta nói: ‘Cái nết đánh chết cái đẹp’. Thông minh, tài giỏi và đẹp đẽ mà không có đạo đức luân lý thì cuộc sống không thể trở thành gương mẫu. Chúng ta có thể khâm phục và ngưỡng mộ tài năng của các tài tử, các ngôi sao điện ảnh, các hoa hậu, người mẫu và các ca sĩ …qua những diễn xuất công cộng. Nhưng không phải tất cả họ là những gương mẫu và thần tượng để chúng ta noi theo.
Chúng ta biết rằng các nhà chính trị và các ngôi sao điện ảnh có ảnh hưởng rất lớn trên truyền thông, truyền hình và báo chí… Vì vậy, đời sống riêng tư không tốt của họ thường được báo giới khai thác một cách triệt để. Trong khi đó, những gương lành và gương sáng của các hiền nhân, chẳng mấy khi được đưa lên báo chí. Bởi thế, tiếng Việt mới gọi đó là ‘tin tức’. Tin xấu thì nhiều, mà tin vui thì ít. Các tệ nạn xã hội được truyền thông dưới mọi khía cạnh, còn những điều hay, lẽ đẹp thì bị giấu nhẹm. Điều này tạo nên một cái nhìn tiêu cực trong đời sống xã hội. Chúng ta cần vượt qua những điều bi quan này để mở ngõ cho những điều tích cực lạc quan.
Chúng ta cần nghe Tin Mừng của Chúa Giêsu và những hướng dẫn đạo đức luân lý chính thật của các Tôn Giáo. Xã hội của chúng ta cần loan báo những tấm gương sáng và những công việc hành thiện. Trong đời sống, không thiếu những bậc hiền tài và chân tu chiêm niệm ẩn núp sau những bức tường kín hoặc nơi rừng thiêng thanh vắng. Những nét đẹp của sự khôn ngoan hiền triết được bày tỏ nơi những tâm hồn đơn sơ thanh khiết và khiêm nhu hiền hậu. Họ mới là mẫu gương trong sáng soi dọi đường đời cho chúng ta bước theo.
Tôi thích câu truyện này: Thuở xưa có một nhà sư sống ẩn dật tại một triền núi được mọi người xem là đạo cao đức trọng. Một hôm, nhà sư phải tiếp một bà lão cùng cậu con trai của bà. Bà lão thưa: Bạch sư, con tôi mắc phải cái tật là ưa sưu tầm hoa kiểng. Nó đã làm cho tôi hao tốn không biết bao nhiêu là tiền của trong cái thời củi quế gạo châu nầy. Xin Sư làm ơn chữa trị hoặc răn dạy giùm, kẻo tội nghiệp cho tôi cùng vợ con nó. Nhà sư ngẫm nghĩ giây lâu rồi nói: Bà hãy đưa con về, độ nửa tháng sau trở lại, tôi sẽ giúp cho.
Đúng ngày hẹn, bà lão trở lại, nhà sư chỉ dạy có một câu đơn giản. Sư nói với cậu: Con à, đó là một thú vui hao tiền tốn của, con hãy bỏ đi, để tiền mà thờ mẹ và nuôi con. Bà lão bất bình, nói: Tưởng thầy có phương cách gì, té ra chỉ bao nhiêu lời đó. Thế sao thầy không làm ơn nói dùm ngay bữa trước, mà phải hẹn đến hôm nay. Ðường sá xa xôi biết là bao! Nhà sư mỉm cười: Chẳng dấu gì bà, tôi cũng mắc phải cái tật như cậu nhà đây. Nửa tháng gia hạn là thời gian tối thiểu để tôi bỏ cái cố tật đó. Nay mọi việc đã xong xuôi, tôi mới dám mở miệng khuyên can cậu em nầy. Chàng trai từ đó ăn ở rất vừa lòng mẹ.
Lời nói phải đi đôi với việc làm mới có giá trị. Nếu nói một đàng làm một nẻo, thì ai cũng nói được. Khuyên răn dạy bảo người khác làm điều lành, điều thiện thì ai cũng khuyên được. Lên mặt dạy đời thì khéo lắm, nhưng chính mình không muốn sửa đổi. Muốn người khác thay đổi, nhưng chúng ta lại cứ chứng nào tật đó. Người đời thường áp dụng kiểu ‘xấu che, tốt khoe’. Đôi khi chúng ta không sống thật với lòng mình. Nói chung, ai trong chúng ta cũng có điểm tốt, điểm xấu. Chúng ta có thể tốt hơn ở khía cạnh này, nhưng lại yếu kém ở lãnh vực khác trong đời sống. Mỗi người cố gắng nên hoàn thiện mỗi ngày. Dù biết rằng ‘nhân vô thập toàn’.
Đứng vào vị trí và vai trò của các thày dậy, chúng ta phải xưng thú rằng sống gương mẫu là một trong những khó khăn và nhức nhối nhất. Các giảng viên, các thày, các Dì, các cha…là những người thuờng xuyên giảng dạy về đạo giáo. Dạy về những thực hành tốt lành trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đoàn và xứ đạo. Trải nghiệm thực tế cuộc sống, chúng ta chẳng thực hành được bao nhiêu. Vẫn còn khoảng cách từ miệng đến trái tim và từ trái tim tới sự thể hiện bên ngoài. Đôi khi các thày dạy, chú trọng hình thức, giảng như con vẹt, nói trên sách vở và lề luật, khuyên răn người khác cải đổi đời sống, trong khi chính mình cứ ù lì và giậm chân tại chỗ. Tính nào tật đó. Thật là hổ thẹn!
Chúng ta biết rằng các thầy dậy, người có địa vị và các chức sắc có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống xã hội, cần phải cẩn trọng trong lời nói và cách ăn nết ở. Mỗi lời nói, việc làm của chúng ta đều ảnh hưởng rất lớn đối với những người khác. Chúng ta không thể biện minh hay trốn tránh trách nhiệm làm gương sáng. Mọi người có quyền đòi hỏi các thầy dậy phải là gương mẫu. Mỗi người cố gắng tu tâm luyện tính mỗi ngày, áp dụng lời nói đi đôi với hành động. Giáo dân bây giờ cần xem bài giảng, hơn là nghe bài giảng.
Chúng ta có thể nghĩ sâu, nói hay, diễn tài và hát giỏi, nhưng quan trọng là đem cái tâm vào đời sống. Yêu rồi làm. Pha trộn Chân Thiện Mỹ vào tất cả các sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày. Dần dần tâm tư của chúng ta sẽ vơi bớt đi những tà tâm quấy nhiễu. Đừng bao giờ làm gương mù gương xấu cho kẻ khác. Đèn của chúng ta phải được thắp lên, đặt trên giá và chiếu giãi ánh sáng soi lối cho mọi người chung quanh.
LM John Võ Hồng Khanh của TGP Los Angeles bị cấm cử hành phung vụ vì lem nhem tiền bạc
Vân Đình 7/2/2015
Tòa Tổng Giám Mục Los Angeles trong ngày 25 tháng 6 năm 2015 đã ra thông cáo gửi các giáo xứ trong TGP về việc Linh Mục John Võ Hồng Khanh bị mất năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles.
Thông cáo do Đức Ông Lorenzo Miranda và cha Alex D. Aclan, Đại diện Đức TGM đặc trách Giáo Sĩ ký.
Thông cáo cho biết cha Võ Hồng Khanh đã quyên góp tiền cách bất chính để tiêu dùng cho mục đích cá nhân.
Thông báo viết như sau:
Văn Phòng Đại diện Đức TGM Đặc Trách Giáo Sĩ xin thông báo: Cha John Võ (Võ Hồng Khanh) không còn năng quyền cử hành phụng vụ tại bất cứ cơ sở nào của Tổng Giáo Phận.
Cha Võ đã quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân. Nếu cha Võ có đến nơi nào cử hành phụng vụ hoặc quyên góp tiền, xin qúy vị gọi cho Văn Phòng Đặc Trách Giáo Sĩ, số điện thoại (213) 637-7284.
Bản thông cáo cũng ghi chú thêm: Xin ban điều hành các giáo xứ tiếp tay phổ biến thông báo này tới các nhóm trong giáo xứ. Đặc biệt, các Nhóm Canh Tân Đặc Sủng (Charismatic Prayer Groups) thường hay mời các linh mục tham dự các buổi cầu nguyện.
Nhưng nếu qúy vị có nghi ngờ gì về bất cứ ai tự xưng là linh mục thì xin thông báo cho Tổng Giáo Phận. (Ghi chú: Bản dịch của www.Saigonecho.com)
Nguồn: Thông báo từ trang Web của TGP Los Angeles: http://www.la-archdiocese.org/
Vân Đình 7/2/2015
Tòa Tổng Giám Mục Los Angeles trong ngày 25 tháng 6 năm 2015 đã ra thông cáo gửi các giáo xứ trong TGP về việc Linh Mục John Võ Hồng Khanh bị mất năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles.
Thông cáo do Đức Ông Lorenzo Miranda và cha Alex D. Aclan, Đại diện Đức TGM đặc trách Giáo Sĩ ký.
Thông cáo cho biết cha Võ Hồng Khanh đã quyên góp tiền cách bất chính để tiêu dùng cho mục đích cá nhân.
Thông báo viết như sau:
Văn Phòng Đại diện Đức TGM Đặc Trách Giáo Sĩ xin thông báo: Cha John Võ (Võ Hồng Khanh) không còn năng quyền cử hành phụng vụ tại bất cứ cơ sở nào của Tổng Giáo Phận.
Cha Võ đã quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân. Nếu cha Võ có đến nơi nào cử hành phụng vụ hoặc quyên góp tiền, xin qúy vị gọi cho Văn Phòng Đặc Trách Giáo Sĩ, số điện thoại (213) 637-7284.
Bản thông cáo cũng ghi chú thêm: Xin ban điều hành các giáo xứ tiếp tay phổ biến thông báo này tới các nhóm trong giáo xứ. Đặc biệt, các Nhóm Canh Tân Đặc Sủng (Charismatic Prayer Groups) thường hay mời các linh mục tham dự các buổi cầu nguyện.
Nhưng nếu qúy vị có nghi ngờ gì về bất cứ ai tự xưng là linh mục thì xin thông báo cho Tổng Giáo Phận. (Ghi chú: Bản dịch của www.Saigonecho.com)
Nguồn: Thông báo từ trang Web của TGP Los Angeles: http://www.la-archdiocese.org/
CHỨC VỊ
Khi sinh ra, mỗi người chúng ta được phú bẩm những cấp bậc tài năng khác nhau. Đặc ân cao quí nhất là chúng ta được ơn làm người, mang hình ảnh của Đấng Tạo Hóa. Con người có hồn, có xác và có trí khôn vượt trên tất cả các loài thụ tạo hữu hình. Thượng Đế trao ban cho con người có quyền trên các tạo vật. Xã hội con người phát triển không ngừng theo thời gian. Con người xã hội có nhiều khác biệt về mọi phương diện: Mầu da, sắc tộc, ngôn ngữ, văn hóa, niềm tin và các khả năng bẩm sinh…
Con người có tính hợp quần liên kết tổ chức thành xã hội có cương kỷ. Giống như tổ ong, mỗi loại ong phụ trách một công việc: Có nhóm ong làm thợ, ong canh giữ, ong vệ sinh, ong kiếm mật, ong truyền giống và ong Chúa. Mỗi nhóm ong chu toàn nhiệm vụ của mình. Đối với con người, đơn vị gia đình là nồng cốt của xã hội. Mỗi thành viên trong gia đình đều có trách nhiệm và bổn phận bảo vệ, phục vụ và nâng đỡ nhau tạo thành một tổ ấm. Muốn gia đình sống thuận hòa cần tôn trọng lẫn nhau kính trên nhường dưới.
Đời sống con người văn minh hơn, nên có những cơ cấu tổ chức phức tạp hơn. Để điều hành công việc, con người đã phong ban cho nhau muôn ngàn chức tước, địa vị và danh xưng khác nhau. Hình như các dánh tánh và chức tước làm cho con người xem ra bệ vệ hơn, quan trọng hơn, cao quí hơn, uy quyền hơn, oai phong hơn và mãn nguyện hơn. Có những người tài đức và anh hùng lỗi lạc cống hiến khả năng dựng xây đất nước. Có người tự lập công phấn đấu và hy sinh xương máu để đạt được danh xưng địa vị. Còn có những con ông cháu cha hoặc có người mua quan bán tước để được phong hàm. Trong xã hội có muôn vàn cách thế để thăng tiến địa vị.
Tổ chức xã hội cũng giống như sự sắp xếp của các bàn cờ Vua hay bàn cờ Tướng. Quân sĩ xe mã tốt đầy đủ sẵn sàng để bảo vệ chủ tướng, nhưng bất cứ trong cuộc so đấu nào, kết cục cũng có một bên thắng và một bên thua, ‘thắng làm vua, thua làm giặc’. Chức tước địa vị không bảo đảm làm cho con người nên hoàn hảo hơn. Không phải cứ ai có chức to quyền trọng là tốt lành cả đâu. Nếu người ta lạm dụng địa vị để hà hiếp, bóc lột và chủ trương đi ngược lại với luân thường đạo lý, thì không sớm thì muộn, cũng sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn..
Trên thế giới, nơi đâu và thời nào cũng thế, xuất hiện nhiều phe phái thù nghịch chống đối lẫn nhau. Phe phái nào cũng có người theo, người phò. Những phe đối lập không quy thuận sẽ bị tẩy chay, bách hại và loại trừ. Cái lạ ở đời là bất cứ tổ chức nào, dù xấu dù tốt, dù thuận dù nghịch và dù hợp pháp hay bất hợp pháp, đều có người hỗ trợ và đi theo ửng hộ.
Tổ chức xã hội trao quyền cho một số người đại diện để điều hành sinh hoạt chung. Tặng thưởng cho con người những tước vị danh dự tối cao, như Tòa Án Tối Cao, Tối Cao Pháp Viện và ban Lãnh Đạo Tối Cao. Không phải làm việc trong viện tối cao là thông biết mọi sự, có khi cao mà lại tối không chừng. Con người có giới hạn về mọi mặt, cả tinh thần lẫn thể xác. Muốn có được danh cao chức trọng, người ta đều phải trả giá,‘Càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan’. Danh xưng tước vị là để phục vụ cho công ích, chứ không phải để ‘vinh thân phì gia’.
Con người có thể đóng rất nhiều vai trong cuộc sống. Nơi công cộng xã hội, có thể là ông này, bà kia và được ưu ái kính trọng, nhưng khi trở về cuộc sống thường nhật gia đình thì khác. Các tước hiệu như ông vua, bà hoàng hậu, ông/bà tổng thống, ông/bà chủ tịch hoặc ông/bà thủ tướng… khi về gia đình, các tước hiệu được này cất bỏ và tiếp tục sống vai trò của người chồng/vợ, cha/mẹ và con cái…Họ trở về với con người thật đời thường, cần sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ, thư dãn, làm việc và tiêu khiển riêng. Đây mới thực sự sống đời sống thật của mình.
Người ta thường nói: ‘Quan nhất thời, dân vạn đại’. Đúng thế, chức tước được phong ban hay thủ đắc là những danh hiệu. Người đời rất quý trọng và tôn vinh các danh xưng địa vị trong xã hội. Điều này rất phải lẽ, nhưng điều quan trọng là đòi hỏi các chức sắc đạo đời sống xứng đáng với địa vị của mình là lo phục vụ, xây dựng và ổn định đời sống cho dân. Còn những hạng người chỉ lo rút tỉa, bóc lột, đàn áp, chèn ép và thống trị thì không xứng đáng lãnh nhận chức quyền, dù to hay nhỏ.
Sống trong xã hội bát nháo như hiện nay, lương tâm của chúng ta không bắt buộc phải thi hành những luật lệ trái với luân lý đạo đức. Con người chúng ta còn có một cái gì linh thiêng cao cả hơn, đó là đức tin và tiếng nói lương tâm. Không phải đa số phiếu chấp nhận mà lề luật trở thành sự thật. Sự thật cũng không do thị hiếu của đông người. Chúng ta có quyền nói không với những điều trái với lương tâm chân chính. Chúng ta còn có Đấng cao trọng hơn tất cả, đó là Chúa Giêsu. Khi quan Philatô nói với Chúa Giêsu rằng: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao? Chúa Giêsu đáp lại: Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài, thì mắc tội nặng hơn.”(Jn 19, 10-11).
Trong những ngày qua, giới truyền thông được cơ hội mở cờ và những nhóm người phò hôn nhân đồng tính đã vui mừng hân hoan vì quyết định mới đây của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, đã cấp phép kết hôn cho các cặp vợ chồng đồng tính và công nhận hôn nhân đồng tính của tất cả các Tiểu Bang. Thái độ của các Kitô hữu cần có lập trường kiên vững. Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ mời gọi người Công Giáo hãy can đảm sống chứng nhân cho sự thật của đời sống hôn nhân. Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz, chủ tịch HĐGMHK nói rằng: Bản chất hôn nhân của loài người vẫn không thay đổi và không thể thay đổi. Ý nghĩa đích thật của hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Đây là một thách đố lớn cho niềm tin Kitô Giáo, chúng ta tiếp tục bước theo chân Chúa Kitô, sống và hành động trong sự thật.
Điều quan trọng là chúng ta hãy sống chứng nhân giữa dòng đời. Trong đời sống xã hội và Giáo Hội hiện nay, trào lưu tục hóa và hưởng thụ đã lan tràn khắp nơi. Nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới cũng đồng thuận theo khuynh hướng tự do cấp tiến này. Ngay trong đời sống của Giáo Hội cũng bị ảnh hưởng rất lớn, có rất nhiều người Công Giáo không còn muốn kết hôn với nhau qua Bí Tích Hôn Nhân nữa. Quan niệm sống xã hội thay đổi qua nhiều và quá nhanh. Những người đang được hưởng quyền lợi kết hôn thì không muốn, họ muốn sống tự do không kết hôn, sống thử, sống tạm, sống vội, ly thân, ly dị và thích sống hưởng thụ.
Chúng ta cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo, các chức sắc và những ai có trách nhiệm hướng dẫn con dân để bước đi trong con đường chính trực. Cầu nguyện cho mọi người, không phân biệt giới tính, để mọi người biết tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta nhớ rằng chỉ cần kiếm được 10 người công chính trong thành, Chúa sẽ cứu dân thành Sôđôma và Gômôra khỏi lửa thiêu. Chúng ta hãy can đảm làm nhân chứng tốt trong đời sống hôn nhân gia đình.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Khi sinh ra, mỗi người chúng ta được phú bẩm những cấp bậc tài năng khác nhau. Đặc ân cao quí nhất là chúng ta được ơn làm người, mang hình ảnh của Đấng Tạo Hóa. Con người có hồn, có xác và có trí khôn vượt trên tất cả các loài thụ tạo hữu hình. Thượng Đế trao ban cho con người có quyền trên các tạo vật. Xã hội con người phát triển không ngừng theo thời gian. Con người xã hội có nhiều khác biệt về mọi phương diện: Mầu da, sắc tộc, ngôn ngữ, văn hóa, niềm tin và các khả năng bẩm sinh…
Con người có tính hợp quần liên kết tổ chức thành xã hội có cương kỷ. Giống như tổ ong, mỗi loại ong phụ trách một công việc: Có nhóm ong làm thợ, ong canh giữ, ong vệ sinh, ong kiếm mật, ong truyền giống và ong Chúa. Mỗi nhóm ong chu toàn nhiệm vụ của mình. Đối với con người, đơn vị gia đình là nồng cốt của xã hội. Mỗi thành viên trong gia đình đều có trách nhiệm và bổn phận bảo vệ, phục vụ và nâng đỡ nhau tạo thành một tổ ấm. Muốn gia đình sống thuận hòa cần tôn trọng lẫn nhau kính trên nhường dưới.
Đời sống con người văn minh hơn, nên có những cơ cấu tổ chức phức tạp hơn. Để điều hành công việc, con người đã phong ban cho nhau muôn ngàn chức tước, địa vị và danh xưng khác nhau. Hình như các dánh tánh và chức tước làm cho con người xem ra bệ vệ hơn, quan trọng hơn, cao quí hơn, uy quyền hơn, oai phong hơn và mãn nguyện hơn. Có những người tài đức và anh hùng lỗi lạc cống hiến khả năng dựng xây đất nước. Có người tự lập công phấn đấu và hy sinh xương máu để đạt được danh xưng địa vị. Còn có những con ông cháu cha hoặc có người mua quan bán tước để được phong hàm. Trong xã hội có muôn vàn cách thế để thăng tiến địa vị.
Tổ chức xã hội cũng giống như sự sắp xếp của các bàn cờ Vua hay bàn cờ Tướng. Quân sĩ xe mã tốt đầy đủ sẵn sàng để bảo vệ chủ tướng, nhưng bất cứ trong cuộc so đấu nào, kết cục cũng có một bên thắng và một bên thua, ‘thắng làm vua, thua làm giặc’. Chức tước địa vị không bảo đảm làm cho con người nên hoàn hảo hơn. Không phải cứ ai có chức to quyền trọng là tốt lành cả đâu. Nếu người ta lạm dụng địa vị để hà hiếp, bóc lột và chủ trương đi ngược lại với luân thường đạo lý, thì không sớm thì muộn, cũng sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn..
Trên thế giới, nơi đâu và thời nào cũng thế, xuất hiện nhiều phe phái thù nghịch chống đối lẫn nhau. Phe phái nào cũng có người theo, người phò. Những phe đối lập không quy thuận sẽ bị tẩy chay, bách hại và loại trừ. Cái lạ ở đời là bất cứ tổ chức nào, dù xấu dù tốt, dù thuận dù nghịch và dù hợp pháp hay bất hợp pháp, đều có người hỗ trợ và đi theo ửng hộ.
Tổ chức xã hội trao quyền cho một số người đại diện để điều hành sinh hoạt chung. Tặng thưởng cho con người những tước vị danh dự tối cao, như Tòa Án Tối Cao, Tối Cao Pháp Viện và ban Lãnh Đạo Tối Cao. Không phải làm việc trong viện tối cao là thông biết mọi sự, có khi cao mà lại tối không chừng. Con người có giới hạn về mọi mặt, cả tinh thần lẫn thể xác. Muốn có được danh cao chức trọng, người ta đều phải trả giá,‘Càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan’. Danh xưng tước vị là để phục vụ cho công ích, chứ không phải để ‘vinh thân phì gia’.
Con người có thể đóng rất nhiều vai trong cuộc sống. Nơi công cộng xã hội, có thể là ông này, bà kia và được ưu ái kính trọng, nhưng khi trở về cuộc sống thường nhật gia đình thì khác. Các tước hiệu như ông vua, bà hoàng hậu, ông/bà tổng thống, ông/bà chủ tịch hoặc ông/bà thủ tướng… khi về gia đình, các tước hiệu được này cất bỏ và tiếp tục sống vai trò của người chồng/vợ, cha/mẹ và con cái…Họ trở về với con người thật đời thường, cần sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ, thư dãn, làm việc và tiêu khiển riêng. Đây mới thực sự sống đời sống thật của mình.
Người ta thường nói: ‘Quan nhất thời, dân vạn đại’. Đúng thế, chức tước được phong ban hay thủ đắc là những danh hiệu. Người đời rất quý trọng và tôn vinh các danh xưng địa vị trong xã hội. Điều này rất phải lẽ, nhưng điều quan trọng là đòi hỏi các chức sắc đạo đời sống xứng đáng với địa vị của mình là lo phục vụ, xây dựng và ổn định đời sống cho dân. Còn những hạng người chỉ lo rút tỉa, bóc lột, đàn áp, chèn ép và thống trị thì không xứng đáng lãnh nhận chức quyền, dù to hay nhỏ.
Sống trong xã hội bát nháo như hiện nay, lương tâm của chúng ta không bắt buộc phải thi hành những luật lệ trái với luân lý đạo đức. Con người chúng ta còn có một cái gì linh thiêng cao cả hơn, đó là đức tin và tiếng nói lương tâm. Không phải đa số phiếu chấp nhận mà lề luật trở thành sự thật. Sự thật cũng không do thị hiếu của đông người. Chúng ta có quyền nói không với những điều trái với lương tâm chân chính. Chúng ta còn có Đấng cao trọng hơn tất cả, đó là Chúa Giêsu. Khi quan Philatô nói với Chúa Giêsu rằng: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao? Chúa Giêsu đáp lại: Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài, thì mắc tội nặng hơn.”(Jn 19, 10-11).
Trong những ngày qua, giới truyền thông được cơ hội mở cờ và những nhóm người phò hôn nhân đồng tính đã vui mừng hân hoan vì quyết định mới đây của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, đã cấp phép kết hôn cho các cặp vợ chồng đồng tính và công nhận hôn nhân đồng tính của tất cả các Tiểu Bang. Thái độ của các Kitô hữu cần có lập trường kiên vững. Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ mời gọi người Công Giáo hãy can đảm sống chứng nhân cho sự thật của đời sống hôn nhân. Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz, chủ tịch HĐGMHK nói rằng: Bản chất hôn nhân của loài người vẫn không thay đổi và không thể thay đổi. Ý nghĩa đích thật của hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Đây là một thách đố lớn cho niềm tin Kitô Giáo, chúng ta tiếp tục bước theo chân Chúa Kitô, sống và hành động trong sự thật.
Điều quan trọng là chúng ta hãy sống chứng nhân giữa dòng đời. Trong đời sống xã hội và Giáo Hội hiện nay, trào lưu tục hóa và hưởng thụ đã lan tràn khắp nơi. Nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia trên thế giới cũng đồng thuận theo khuynh hướng tự do cấp tiến này. Ngay trong đời sống của Giáo Hội cũng bị ảnh hưởng rất lớn, có rất nhiều người Công Giáo không còn muốn kết hôn với nhau qua Bí Tích Hôn Nhân nữa. Quan niệm sống xã hội thay đổi qua nhiều và quá nhanh. Những người đang được hưởng quyền lợi kết hôn thì không muốn, họ muốn sống tự do không kết hôn, sống thử, sống tạm, sống vội, ly thân, ly dị và thích sống hưởng thụ.
Chúng ta cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo, các chức sắc và những ai có trách nhiệm hướng dẫn con dân để bước đi trong con đường chính trực. Cầu nguyện cho mọi người, không phân biệt giới tính, để mọi người biết tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta nhớ rằng chỉ cần kiếm được 10 người công chính trong thành, Chúa sẽ cứu dân thành Sôđôma và Gômôra khỏi lửa thiêu. Chúng ta hãy can đảm làm nhân chứng tốt trong đời sống hôn nhân gia đình.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
ĐỒNG TIỀN ĐI TRƯỚC
CVK Nguyễn Thế Bài
Tiền bạc, địa vị là một miếng mồi mà người thả câu bị vướng vào đầu tiên, rồi mới đến những người bị nhử. Không có tôn giáo nào có thể giải quyết vấn đề của cải vật chất, kể cả Kitô giáo, kể cả Thiên Chúa Toàn Năng. Đơn giản là vì nó liên quan đến quyền tự do con người, cái tự do đã khiến cho loài người mất hết, khi chọn lựa nghe theo ma qủy,nhưng cũng chính nó làm nên công đức cho hành vi con người,trong đó có việc sử dụng đúng đắn và hữu ích nhất những của cải của mình và không phải của mình. Cách mà Mạnh Thường Quân thu nạp và đãi đằng đến 3.000 môn khách, trong đó nhiều người có thực tài,nhưng không ít những kẻ bất tài, chỉ ăn bám, đáng để chúng ta, con cái Chúa, con cái sự sáng, phải suy nghĩ. Câu ca dao Việt Nam nói lên một phần câu chuyện hôm nay : “của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng” và “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”.
Hằng năm, Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế đều có báo cáo về tình trạng tham những,hối lộ trong các quốc gia trên thế giới. Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 09.03.2010 đăng lại tin từ BBC,rằng Việt Nam tham nhũng thứ ba Châu Á, sauIndonesia và Campuchia. Nhiều nguyên thủ quốc gia, nhiều chính trị gia, nhiều doanh nhân đã dùng tiền bạc công để đút lót, mua chuộc,dàn xếp nhằm đạt được những hợp đồng béo bở, để được dồn phiếu hoặc để củng cố địa vị chức quyền. Tiền làm nên những nhà độc tài. Tiền được các nhà độc tài sử dụng để thống trị bằng việc ban phát cho tay chân hoặc những người cần cho kế hoạch tham quyền cố vị của họ. Tổng thống nước Venezuela, Hugo Chavez, là một người biết sử dụng tài nguyên thiên nhiên là dầu mỏ với trử lượng khổng lồ thuộc các nước đứng đầu OPEC và thế giới, để củng cố địa vị. Ông đã từng vận động để làm tổng thống trọn đời. Từ một quốc gia có tiềm năng phát triển to lớn,Venezuela đã trở thành nghèo đói,lạc hậu. Nhưng có rất đông chính khách xôi thịt ủng hộ ông,vì “ơn mưa móc” họ nhận được từ tiền vàng của lượng dầu hoả bán ra hằng năm. Nó cho phép ông ngạo mạn thoá mạ hàng giáo phẩm Venezuela và thách thức hỗn xược cả với Đức Thánh Cha. Tin Mừng hôm nay cũng cho ta hình ảnh một người quản lý khéo léo “lấy xôi bụt đãi ăn mày”. Từ đó, Chúa Giêsu trách chê chúng ta,những người vẫn tự xưng là con cái sự sáng,nhưng xử sự với đồng loại thua kém con cái đời nầy, không phải để chúng ta noi gương bắt chước tâm địa và những việc làm sai trái, nhưng để điều chỉnh cách nghĩ,cách làm, để khi sử dụng những điều ngay chính, con cái Chúa không vô tình làm đau nhau. Người ta chẳng nói “cách cho hơn của cho” đó sao?
Khi đồng tiền kiếm được dễ dàng, người ta trở nên hào phóng, vui vẻ, quảng đại và muốn chia sẻ cho người khác và với người khác,nhưng khi ăn bửa trưa phải lo bửa tối, khi túng bấn ngặt nghèo, lại gặp lúc người nhà ốm o bệnh hoạn, thì chỉ có những kẻ ăn bám,vô tâm vô tình lắm,mới có thể bình thản. Kinh tế vẫn là một trong những nguyên nhân chính gây đổ vỡ hôn nhân và xào xáo gia đình. Câu “một mái nhà tranh,hai trái tim vàng” chỉ là lời nói đùa của những kẻ mộng mơ không tưởng. Cái khó “bó”, chứ không dễ gì “ló” cái khôn! Nhưng nếu gia đình thật sự đạo hạnh, có đời sống cầu nguyện và bí tích, thì dù ở hoàn cảnh nào, cũng có thể sống xứng đáng mà vẫn thấy hạnh phúc và bình an. Phẩm cách đại trượng phu theo lời dạy của thầy Mạnh-Tử cũng là tinh thần mà con cái Chúa phải có : “phú qúy bất năng dâm;bần tiện bất năng di; uy vũ bất năng khuất” (Giầu có mà không bị nhục dục lôi cuốn, nghèo nàn mà không thay lòng đổi dạ, không để cho uy quyền khuất phục).
Thomas là một chủ nông trại giàu có. Ông và vợ mình đối xử rất thân thiện với mọi người nên ai cũng yêu mến họ .Một hôm ông thấy vợ mình sai người giúp việc đến cuối làng, nhà bà John - một tá điền của ông - để mượn một cái bào rau củ. Sau khi người này đi khỏi, ông hỏi vợ vì sao phải đi mượn,trong khi ông bà cũng có một cái rất tốt. Bà Thomas từ tốn trả lời : “Anh xem, cái bào của nhà ta vẫn còn rất tốt. Em biết mọi người ở vùng này đều yêu quí chúng ta, vì chúng ta đem lại nhiều vật chất cho họ hơn các ông chủ khác; nhưng em không muốn như vậy. Em muốn được yêu mến bằng một thứ tình cảm cao hơn, tình làng xóm. Mà điều đó chỉ có thể khi nào chúng ta và họ không có khoảng cách giữa chủ và tớ, giữa giàu và nghèo. Cái bào rau củ chỉ là cái cớ để ta đến gần với mọi người hơn mà thôi”.Thái độ ứng xử trước vật chất,tiền bạc có lẽ là vấn đề gây nhức nhối nhất cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. Bao lâu Giáo Hội chưa giải quyết được vấn đề tiền bạc vật chất, thì bấy lâu Giáo Hội chưa thể thật sự ‘Ad gentes” (đến với muôn dân), vì vẫn còn một khoảng cách dù vô hình,nhưng dễ cảm nhận và đẩy các thừa tác viên Lời Chúa xa quần chúng.
Đây là một nghịch lý, vì đa số tuyệt đối các linh mục xuất thân từ những gia đình trung bình hoặc nghèo khó, nhưng khi làm linh mục, trở thành mục tử, thì lại “đứng trên nhìn xuống” hoặc “cúi xuống” trên người nghèo, không phải để xoi người nghèo như khuôn mẫu hoặc như lời nhở cuộc đời và lý tưởng phục vụ của linh mục, mà như những kẻ xa lạ, phiền nhiễu và ít đóng góp nhất vào lợi ích vật chất cũng như tinh thần cho cộng đoàn giáo xứ và Giáo Hội. Người nghèo rất nhạy bén: họ mau chóng “ngửi” được mùi xa cách. Giáo Hội và người nghèo vẫn như hai đường thẳng song song, đi bên nhau (hoa mỹ hơn thì gọi là “đồng hành”, ví dụ: Giáo Hội luôn đồng hành với người nghèo, với dân tộc), nhưng không bao giờ gặp nhau. Người ta thật tình không hiểu vì sao linh mục phải lo lắng về “ăn gì,mặc gì”. Nạn đói năm 1945 khiến hơn hai triệu đồng bào chết,nhưng không có bất cứ linh mục,tu sĩ nào bị thiếu ăn (mà nếu có đói bụng – như một số người nói đùa – là do không chịu ăn đúng bửa và ăn cho no). Giải pháp không thiếu,thậm chí là nhiều và rất hợp lý, không khó thực hành, nhưng chỉ sợ hàng giáo sĩ quá gắn bó với “củ hành củ tỏi Ê-chi-tô”,không có dũng khí để vứt bỏ, đạp đổ những quan niệm về tiền tài vật chất đã in hằn mấy trăm năm qua, để thoát được cái vũng lầy nầy,mà nay đã bị ô nhiễm nặng nề sau mấy thế kỷ Giáo Hội tăng trưởng. Có như vậy, - và cũng chỉ cần như thế - Thánh Giá sẽ trở lại nguyên vẹn hình hài và bản chất của nó, sần sùi và nghèo nàn, nhưng là cái mà Chúa Giêsu một đời ôm ấp, và muốn con cái sự sáng cũng vác lấy, đi theo Người.Câu ngạn ngữ “đồng tiền đi trước” xem ra chưa bao giờ cũ trong đắc nhân tâm và cho thấy uy lực của nó trong không ít những giao tiếp hằng ngày, cả khi nó được vận dụng một cách lộ liễu,trơ tráo,lẫn khi làm khôn kéo, kín đáo. Nhưng câu ‘đi trước đồng tiền’ – theo ý nghĩa không để bị đồng tiền chi phối và có dũng khí để làm chủ nó, chưa không để nó làm chủ - cũng quan trọng, nhất là đối với Giáo Hội.
Nghèo khó không chỉ là một lời mời gọi, mà là một mệnh lệnh, một đòi hỏi cấp bách,một điều kiện sine qua non của việc sống và rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội – cách chung và nhất là những người sống đời tận hiến – mà không tự nguyện sống khó nghèo,không giải quyết rốt ráo những gì liên quan đến vật chất, tiền bạc, lại còn tìm mọi lý lẽ để biện minh, thì đã vô hiệu hoá Lời Chúa và công cuộc rao giảng Tin Mừng. Đã đến lúc Giáo Hội – nói chung và đặc biệt những người sống đời tận hiến - phải chấp nhận thực tế cay đắng, khi bị bỏ ra ngoài lề, như một thực thể xa lạ, và oái oăm thay,‘xa lạ’ vì quá giống thế gian, quá bị thế tục hoá. Khi đã là “cá mè một lứa” như nhau, thì ai còn thèm đoái hoài! “Anh em là muối cho đời : Nếu muối lạt đi, thì lấy gì ướp nó mặn lại được…Nó chỉ còn đáng ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân” (Mt 5, 13). Một lời cảnh cáo từ chính Chúa Giêsu! “Rượu mời không uống, uống rượu phạt”: Câu thường gặp khi đọc sách hoặc xem phim kiếm hiệp cũng chính là dành cho Giáo Hội nói chung và cách riêng cho những người sống đời tận hiến.
Đồng tiền đi trước là khôn lỏi thế gian. Đi trước đồng tiền là khôn ngoan con cái sự sáng!
CVK Nguyễn Thế Bài
Tiền bạc, địa vị là một miếng mồi mà người thả câu bị vướng vào đầu tiên, rồi mới đến những người bị nhử. Không có tôn giáo nào có thể giải quyết vấn đề của cải vật chất, kể cả Kitô giáo, kể cả Thiên Chúa Toàn Năng. Đơn giản là vì nó liên quan đến quyền tự do con người, cái tự do đã khiến cho loài người mất hết, khi chọn lựa nghe theo ma qủy,nhưng cũng chính nó làm nên công đức cho hành vi con người,trong đó có việc sử dụng đúng đắn và hữu ích nhất những của cải của mình và không phải của mình. Cách mà Mạnh Thường Quân thu nạp và đãi đằng đến 3.000 môn khách, trong đó nhiều người có thực tài,nhưng không ít những kẻ bất tài, chỉ ăn bám, đáng để chúng ta, con cái Chúa, con cái sự sáng, phải suy nghĩ. Câu ca dao Việt Nam nói lên một phần câu chuyện hôm nay : “của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng” và “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”.
Hằng năm, Tổ Chức Minh Bạch Quốc Tế đều có báo cáo về tình trạng tham những,hối lộ trong các quốc gia trên thế giới. Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 09.03.2010 đăng lại tin từ BBC,rằng Việt Nam tham nhũng thứ ba Châu Á, sauIndonesia và Campuchia. Nhiều nguyên thủ quốc gia, nhiều chính trị gia, nhiều doanh nhân đã dùng tiền bạc công để đút lót, mua chuộc,dàn xếp nhằm đạt được những hợp đồng béo bở, để được dồn phiếu hoặc để củng cố địa vị chức quyền. Tiền làm nên những nhà độc tài. Tiền được các nhà độc tài sử dụng để thống trị bằng việc ban phát cho tay chân hoặc những người cần cho kế hoạch tham quyền cố vị của họ. Tổng thống nước Venezuela, Hugo Chavez, là một người biết sử dụng tài nguyên thiên nhiên là dầu mỏ với trử lượng khổng lồ thuộc các nước đứng đầu OPEC và thế giới, để củng cố địa vị. Ông đã từng vận động để làm tổng thống trọn đời. Từ một quốc gia có tiềm năng phát triển to lớn,Venezuela đã trở thành nghèo đói,lạc hậu. Nhưng có rất đông chính khách xôi thịt ủng hộ ông,vì “ơn mưa móc” họ nhận được từ tiền vàng của lượng dầu hoả bán ra hằng năm. Nó cho phép ông ngạo mạn thoá mạ hàng giáo phẩm Venezuela và thách thức hỗn xược cả với Đức Thánh Cha. Tin Mừng hôm nay cũng cho ta hình ảnh một người quản lý khéo léo “lấy xôi bụt đãi ăn mày”. Từ đó, Chúa Giêsu trách chê chúng ta,những người vẫn tự xưng là con cái sự sáng,nhưng xử sự với đồng loại thua kém con cái đời nầy, không phải để chúng ta noi gương bắt chước tâm địa và những việc làm sai trái, nhưng để điều chỉnh cách nghĩ,cách làm, để khi sử dụng những điều ngay chính, con cái Chúa không vô tình làm đau nhau. Người ta chẳng nói “cách cho hơn của cho” đó sao?
Khi đồng tiền kiếm được dễ dàng, người ta trở nên hào phóng, vui vẻ, quảng đại và muốn chia sẻ cho người khác và với người khác,nhưng khi ăn bửa trưa phải lo bửa tối, khi túng bấn ngặt nghèo, lại gặp lúc người nhà ốm o bệnh hoạn, thì chỉ có những kẻ ăn bám,vô tâm vô tình lắm,mới có thể bình thản. Kinh tế vẫn là một trong những nguyên nhân chính gây đổ vỡ hôn nhân và xào xáo gia đình. Câu “một mái nhà tranh,hai trái tim vàng” chỉ là lời nói đùa của những kẻ mộng mơ không tưởng. Cái khó “bó”, chứ không dễ gì “ló” cái khôn! Nhưng nếu gia đình thật sự đạo hạnh, có đời sống cầu nguyện và bí tích, thì dù ở hoàn cảnh nào, cũng có thể sống xứng đáng mà vẫn thấy hạnh phúc và bình an. Phẩm cách đại trượng phu theo lời dạy của thầy Mạnh-Tử cũng là tinh thần mà con cái Chúa phải có : “phú qúy bất năng dâm;bần tiện bất năng di; uy vũ bất năng khuất” (Giầu có mà không bị nhục dục lôi cuốn, nghèo nàn mà không thay lòng đổi dạ, không để cho uy quyền khuất phục).
Thomas là một chủ nông trại giàu có. Ông và vợ mình đối xử rất thân thiện với mọi người nên ai cũng yêu mến họ .Một hôm ông thấy vợ mình sai người giúp việc đến cuối làng, nhà bà John - một tá điền của ông - để mượn một cái bào rau củ. Sau khi người này đi khỏi, ông hỏi vợ vì sao phải đi mượn,trong khi ông bà cũng có một cái rất tốt. Bà Thomas từ tốn trả lời : “Anh xem, cái bào của nhà ta vẫn còn rất tốt. Em biết mọi người ở vùng này đều yêu quí chúng ta, vì chúng ta đem lại nhiều vật chất cho họ hơn các ông chủ khác; nhưng em không muốn như vậy. Em muốn được yêu mến bằng một thứ tình cảm cao hơn, tình làng xóm. Mà điều đó chỉ có thể khi nào chúng ta và họ không có khoảng cách giữa chủ và tớ, giữa giàu và nghèo. Cái bào rau củ chỉ là cái cớ để ta đến gần với mọi người hơn mà thôi”.Thái độ ứng xử trước vật chất,tiền bạc có lẽ là vấn đề gây nhức nhối nhất cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. Bao lâu Giáo Hội chưa giải quyết được vấn đề tiền bạc vật chất, thì bấy lâu Giáo Hội chưa thể thật sự ‘Ad gentes” (đến với muôn dân), vì vẫn còn một khoảng cách dù vô hình,nhưng dễ cảm nhận và đẩy các thừa tác viên Lời Chúa xa quần chúng.
Đây là một nghịch lý, vì đa số tuyệt đối các linh mục xuất thân từ những gia đình trung bình hoặc nghèo khó, nhưng khi làm linh mục, trở thành mục tử, thì lại “đứng trên nhìn xuống” hoặc “cúi xuống” trên người nghèo, không phải để xoi người nghèo như khuôn mẫu hoặc như lời nhở cuộc đời và lý tưởng phục vụ của linh mục, mà như những kẻ xa lạ, phiền nhiễu và ít đóng góp nhất vào lợi ích vật chất cũng như tinh thần cho cộng đoàn giáo xứ và Giáo Hội. Người nghèo rất nhạy bén: họ mau chóng “ngửi” được mùi xa cách. Giáo Hội và người nghèo vẫn như hai đường thẳng song song, đi bên nhau (hoa mỹ hơn thì gọi là “đồng hành”, ví dụ: Giáo Hội luôn đồng hành với người nghèo, với dân tộc), nhưng không bao giờ gặp nhau. Người ta thật tình không hiểu vì sao linh mục phải lo lắng về “ăn gì,mặc gì”. Nạn đói năm 1945 khiến hơn hai triệu đồng bào chết,nhưng không có bất cứ linh mục,tu sĩ nào bị thiếu ăn (mà nếu có đói bụng – như một số người nói đùa – là do không chịu ăn đúng bửa và ăn cho no). Giải pháp không thiếu,thậm chí là nhiều và rất hợp lý, không khó thực hành, nhưng chỉ sợ hàng giáo sĩ quá gắn bó với “củ hành củ tỏi Ê-chi-tô”,không có dũng khí để vứt bỏ, đạp đổ những quan niệm về tiền tài vật chất đã in hằn mấy trăm năm qua, để thoát được cái vũng lầy nầy,mà nay đã bị ô nhiễm nặng nề sau mấy thế kỷ Giáo Hội tăng trưởng. Có như vậy, - và cũng chỉ cần như thế - Thánh Giá sẽ trở lại nguyên vẹn hình hài và bản chất của nó, sần sùi và nghèo nàn, nhưng là cái mà Chúa Giêsu một đời ôm ấp, và muốn con cái sự sáng cũng vác lấy, đi theo Người.Câu ngạn ngữ “đồng tiền đi trước” xem ra chưa bao giờ cũ trong đắc nhân tâm và cho thấy uy lực của nó trong không ít những giao tiếp hằng ngày, cả khi nó được vận dụng một cách lộ liễu,trơ tráo,lẫn khi làm khôn kéo, kín đáo. Nhưng câu ‘đi trước đồng tiền’ – theo ý nghĩa không để bị đồng tiền chi phối và có dũng khí để làm chủ nó, chưa không để nó làm chủ - cũng quan trọng, nhất là đối với Giáo Hội.
Nghèo khó không chỉ là một lời mời gọi, mà là một mệnh lệnh, một đòi hỏi cấp bách,một điều kiện sine qua non của việc sống và rao giảng Tin Mừng. Giáo Hội – cách chung và nhất là những người sống đời tận hiến – mà không tự nguyện sống khó nghèo,không giải quyết rốt ráo những gì liên quan đến vật chất, tiền bạc, lại còn tìm mọi lý lẽ để biện minh, thì đã vô hiệu hoá Lời Chúa và công cuộc rao giảng Tin Mừng. Đã đến lúc Giáo Hội – nói chung và đặc biệt những người sống đời tận hiến - phải chấp nhận thực tế cay đắng, khi bị bỏ ra ngoài lề, như một thực thể xa lạ, và oái oăm thay,‘xa lạ’ vì quá giống thế gian, quá bị thế tục hoá. Khi đã là “cá mè một lứa” như nhau, thì ai còn thèm đoái hoài! “Anh em là muối cho đời : Nếu muối lạt đi, thì lấy gì ướp nó mặn lại được…Nó chỉ còn đáng ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân” (Mt 5, 13). Một lời cảnh cáo từ chính Chúa Giêsu! “Rượu mời không uống, uống rượu phạt”: Câu thường gặp khi đọc sách hoặc xem phim kiếm hiệp cũng chính là dành cho Giáo Hội nói chung và cách riêng cho những người sống đời tận hiến.
Đồng tiền đi trước là khôn lỏi thế gian. Đi trước đồng tiền là khôn ngoan con cái sự sáng!
BỆNH CÀ CHỚN
Cà trong cái nghĩa đầu tiên của nó là một danh từ dùng để gọi một loài thực vật cho quả ăn được. Nhưng trong cái loài quả gọi là cà này cũng còn được phân biệt ra làm nhiều giống: Nào là cà pháo, cà dái dê hay cà tím, cà dĩa hay còn gọi là cà dòn v.v...
Ngoài các loại cà vốn được người dân xứ ta trồng để làm thực phẩm từ lâu đời nói trên, còn có một số cà thuộc loại ngoại lai du nhập như cà chua hay có người còn gọi là cà "tô mát" cho có vẻ ta đây cũng rành tiếng Tây, và vài thứ có tên do gọi theo phiên âm mà có tiếng cà nhưng không hẳn là cà như cà rốt, cà phê v.v...
Cà chua cũng là một loại rau quả nhưng chỉ mới xuất hiện ở xứ ta từ lúc có các ông Tây bà đầm qua "khai hóa" cho dân ta và tập cho dân ta làm quen với những món ăn Tây phương, nhờ thế mà dân ta mới biết ăn cà chua và trồng cà chua để bổ sung cho danh sách rau quả bán ở ngoài chợ.
Cà chua ngoài việc được dùng làm thực phẩm như ăn sống, nấu chín, làm thành sốt cà, nước giải khát bổ dưỡng có nhiều sinh tố v.v... còn được xử dụng như là một loại vũ khí tuy không có khả năng sát hại hay gây thương tích cho người bị tấn công nhưng cũng đủ làm sứt mẻ uy tín của người đó. Một nghệ sĩ bất tài, trình diễn bị bể dĩa thì thay vì được khán giả tặng hoa, lại được khán giả tặng cho mấy quả cà chua thối. Mấy chính khách, lãnh tụ tầm cỡ quốc gia có những chính sách, chủ trương, đường lối không phù hợp với quyền lợi hay nguyện vọng của nhân dân một nước khác, hay một tập thể nào đó thì khi công du đến các vùng ấy thế nào cũng có những cuộc dàn chào bằng cà chua thối của những nhóm người chống đối.
Còn như cà rốt cũng là một loại thực phẩm nhưng thật ra cà rốt không phải là loại quả mà chính là một loại rể củ ăn được nhưng vì gọi theo phiên âm tiếng Tây nên vẫn có tiếng cà. Tuy nhiên khi nói đến cà phê thì lại đúng là một loại trái cây nhưng không phải dùng để ăn mà chỉ dùng để lấy hột đem rang cho cháy đen ngòm lên rồi xay nhỏ để chế nước sôi vào tạo thành một loại nước uống có màu đen sẫm và vị thì đắng đắng nhưng lại có mùi hương thơm rất quyến rũ, và khi uống vào thì thấy tinh thần như sảng khoái ra. Món này cũng được các ông Tây bà đầm du nhập vào xứ ta vào thời nước ta bị Phú Lãng Sa đô hộ, tuy nhiên sau đó dân ta cũng rất đông người đâm ra ghiền cái món cà phê này đến nỗi có nhiều người sáng dậy mở mắt ra mà không có ly cà phê để nhâm nhi là không chịu được. Không những thế, hai tiếng cà phê còn được biến hóa thành cụm từ "cà phê cà pháo", một thứ thành ngữ được dùng để chỉ một phương thức xã giao trong đời sống xã hội. Bạn bè gặp nhau vẫn hay có thói quen rủ nhau đi uống cà phê để tâm sự. Dân mánh mung hay người muốn cầu cạnh người khác một điều gì đó thì phải biết lo hối lộ, nhưng lại được nói khéo ra là lo cà phê cà pháo cho kẻ mình muốn nhờ vả thì mới mong đạt được mục đích.
Ngoài những món cà được xem là thực phẩm cho người kể trên, còn có một loại cà gọi là cà dược hay có khi còn gọi là cà độc dược là loại cà dại mọc hoang, cũng có quả nhưng nếu ăn vào thì coi như là đi đoong luôn, tuy nhiên đôi khi lại được người ta dùng để chế biến thành một vài vị thuốc đặc biệt "dĩ độc trị độc" theo kiểu Đông y, không kể cái mục đích dùng làm thuốc độc thật sự.
Mặc dù khi nói đến cà được dùng làm thực phẩm thì các loại cà như cà tím, cà dĩa thường được đánh giá cao hơn vì có thể chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu như đem xào với thịt ba rọi, nướng chín thoa mỡ hành, nấu với da heo thành món cà bung chẳng hạn, nhưng ăn theo kiểu này thường đòi hỏi khi nấu nướng phải kèm theo vài món phụ hay gia vị hành mỡ hơi tốn kém cho nên phải là những gia đình khá giả một tí thì mới hay ăn theo kiểu đó. Chỉ riêng có món cà pháo là bình dân nhất do cách ăn cũng rất đơn giản và cách chế biến cũng dễ dàng không tốn kém vì người ta có thể dùng nó để ăn sống chấm với tí mắm tôm hoặc thông dụng nhất là đem phơi cho héo rồi bỏ vào nước muối ngâm như kiểu muối dưa cải một thời gian cho cà trở thành chua chua mặn mặn để dành làm món mặn đưa cơm được rồi.
Chính vì vậy mà khi nhắc đến cà thì hầu như người dân Việt nào từng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất quê hương tự hào có bốn ngàn năm văn hiến nhưng vẫn quanh quẩn với cái nghèo tất nhiên sẽ nghĩ ngay đến món cà pháo trước tiên, vì nhà nghèo thì thường bữa cơm không mấy khi có thịt cá mà chỉ có món cà pháo muối dưa làm chuẩn. Riêng trong Nam thì nhờ ruộng đồng sông rạch lắm cá nhiều tôm nên người bình dân vẫn có thể sang hơn một tí, vì người ta còn có thể đem cà muối chung với mắm cá thành món mắm gọi là mắm cà để dùng.
Cũng vì cà là món ăn rẻ tiền thông dụng cho nên xưa kia nhiều người tá điền được chủ nuôi cơm mà gặp phải chủ mang trong người dòng máu hà tiện cỡ trùm Sò lại tham công tiếc việc, chỉ muốn cho người làm thật được việc cho mình mà cho ăn cơm thì chẳng có gì khiến cho người làm công nhiều lúc quá bất mãn phải thốt lên:
Làm cho lắm cũng ăn mắm với cà.
Làm thấy bà cũng ăn cà với mắm
Vì cà là một loại cây cho thực phẩm được người ta trồng cho nên công việc trồng cà cũng có thời vụ. Ca dao có câu nói về thời điểm để trồng cà như sau:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà...
Không những cà được trồng có thời vụ mà cái mảnh vườn cà đôi khi còn là bối cảnh cho những cuộc tình nên thơ của những đôi trai gái miền quê như ca dao từng có một bài miêu tả một mối tình lỡ làng, với lời lẽ tuy có đượm màu trách móc nhưng cũng lại rất nhẹ nhàng cảm động thấm thía, khởi đầu bằng mấy câu:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân...
Trong một bài ca dao khác, cà cũng được nhắc đến một cách khá ngộ nghĩnh hơn:
Thân anh làm rể Chương đài
Một đêm ăn hết mười hai vại cà
Giếng đâu thì dắc anh ra
Kẻo mà anh chết với cà đêm nay!
Thật ra thì khi đọc bài ca dao này tôi không hiểu cái anh chàng này làm rể kiểu nào mà một đêm lại ăn hết mười hai vại cà. Thường thì một vại cà có cả hàng ngàn quả và cà muối thì chỉ ăn độ chục quả là đủ cảm thấy mặn cả cổ và khát nước khô cả họng rồi mà anh chàng này xơi luôn một hơi mười hai vại thì tôi không tài nào hiểu nổi.
Không những ca dao nhắc đến cà mà ngay cả trong văn chương văn học cũng có nhiều câu chuyện hay giai thoại có liên quan đến cà. Trước đây thi sĩ Tản Đà vốn thích ăn và sành ăn nhưng chẳng may lại trót sinh ra làm một nhà thơ ở cái xứ mà "văn chương hạ giới rẻ như bèo" cho nên đồng tiền nhuận bút không cho phép thi sĩ mua những món ăn như thịt cá, do đó mà bữa cơm hàng ngày của nhà thơ cũng chỉ đạm bạc với mấy món đắp đổi như dưa chua, cà muối mà thôi. Ngày xuân, thấy thiên hạ trẩy hội chùa Hương, một nơi thắng cảnh lại còn nổi tiếng về món rau sắng ngon mà thi sĩ thì rỗng túi chỉ biết nằm khoèo ở nhà làm thơ, bèn phóng bút hạ luôn mấy câu:
Muốn ăn rau sắng chùa Hương
Đồng tiền ngại tốn, con đường ngại xa
Không đi đành ở lại nhà
Cái dưa thì khú cái cà thì thâm.
Sau khi Tản Đà cho đăng bài thơ này lên báo thì có một bậc nữ lưu độc giả bỗng nhiên đâm ra thương cảm cho hoàn cảnh của thi sĩ bèn tự mình đi viếng chùa Hương rồi mua rau sắng về và đem gửi biếu cho thi sĩ kèm theo bài thơ họa như sau:
Này đây rau sắng chùa Hương
Đồng tiền khỏi tốn, con đường khỏi xa
Không đi, xin gửi lại nhà
Thay cho dưa khú, với là cà thâm.
Không biết nhà thơ cảm kích tấm lòng từ hậu của người nữ độc giả này như thế nào nhưng bài thơ họa đó đã được nhà thơ đưa lên báo, nhờ thế mà văn học có thêm được một giai thoại về ăn của nhà thơ sành ăn này.
Dương Lễ biết bạn mình vì ham ăn chơi không chịu học hành nên nghĩ rằng nếu mình cưu mang bạn theo kiểu thường tình thì không bao giờ giúp bạn tiến thân được bèn nghĩ ra cái kế làm bộ không thèm tiếp, lại còn sai lính dọn bố thí cho Lưu Bình chén cơm hẩm với quả cà thâm. Lưu Bình hận lắm bèn bỏ đi.
Sau đó Dương Lễ mới cho gọi người vợ thứ ba của mình là Châu Long lên giải bày mối ưu tư của mình với người bạn cũ và muốn nhờ Châu Long thay mình trực tiếp đứng ra săn sóc cho Lưu Bình để giúp cho anh ta có cơ hội làm lại cuộc đời. Châu Long nhận lời nên Dương Lễ bèn giao tiền nong cho Châu Long đi tìm Lưu Bình đem về nuôi, khuyên giải và khuyến khích cho Lưu Bình học hành.
Lưu Bình từ khi giận Dương Lễ vô ân bạc nghĩa đối với mình thì cũng mong có cơ hội rửa cái mối hận này cho nên khi gặp được Châu Long tự nguyện đứng ra chăm sóc bảo bọc mình thì cũng thay đổi lối sống, chuyên tâm học hành cho nên đến kỳ vua lại mở khoa thi thì Lưu bình cũng ứng thí và đã thi đỗ. Lưu Bình vinh qui trở về, lòng tràn ngập hân hoan mong gặp Châu Long để cùng nàng xe duyên vợ chồng. Thế nhưng khi về đến nhà thì chẳng thấy bóng dáng Châu Long đâu nữa cả.
Sau đó Lưu Bình được bổ ra làm quan. Nhớ mối hận năm xưa, Lưu Bình tìm đến thăm Dương Lễ mong rửa hận nhưng khi vừa đến nơi thì Dương Lễ đã vội cho gọi Châu Long ra chào hỏi rồi kể rõ ngọn ngành cho Lưu Bình biết, nhờ thế mà Lưu Bình mới hiểu tấm lòng tốt của Dương Lễ. Thì ra nhờ Dương Lễ khôn khéo biết dùng quả cà thâm như một hình thức sỉ nhục để đánh thức lòng tự ái của Lưu Bình mà cuộc đời Lưu Bình đã chuyển hóa sáng sủa trở lại.
Tuy cà pháo không phải là món ngon vật lạ và xét về mặt giá trị dinh dưỡng thì cà pháo còn có nhiều độc tính nữa vì ăn cà thường gây nhức mình, da dẻ đâm ra sần sùi ngứa ngáy v.v... Tục ngữ cũng có câu: "Một quả cà là ba thang thuốc" không phải một quả cà bổ bằng ba thang thuốc mà người đang bệnh hay yêu yếu trong người mà ăn cà vào thì thế nào bệnh cũng nặng thêm. Thế nhưng cà pháo cũng có đặc tính làm cho người ăn quen có thể trở thành ghiền. Ca dao có câu:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Vào cái thời mà dân ta dù có đi đâu đi nữa thì cũng chỉ giới hạn trong cái mảnh đất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu thì câu ca dao trên có lẽ cũng chỉ để nói lên cái lòng quyến luyến hương vị quê hương nghèo khổ của những người dân quê bỏ xóm làng quen thuộc để đến một địa phương khác tìm kế sinh nhai. Tuy nhiên từ khi có cuộc "cách mạng giải phóng dân tộc" giúp cho người dân Việt một cơ hội từ bỏ cái đầu óc bám víu lấy mảnh đất quê nghèo đầy ải để tung mình đi xa khắp bốn bể năm châu thì người ta mới càng hiểu thấm thía cái tình quê hương thắm thiết trong câu ca dao ấy.
Có rất nhiều người qua xứ người sinh sống, được ăn các món ngon vật lạ đầy bổ dưỡng kiểu Tây Tàu mãi cũng đâm chán nên lâu lâu lại thèm món cà pháo. Chính vì thế mà người ở quê nhà mới chế ra cái món cà pháo đóng lọ xuất khẩu. Dĩ nhiên Tây Tàu Mỹ Mễ chả ai đụng đến cái món cà muối này bao giờ, nhưng đám dân Việt lưu lạc xứ người khi bất chợt thấy giữa hàng đống thực phẩm đóng hộp mang đủ thứ nhãn hiệu quốc tế chen chúc nhau trên kệ hàng siêu thị có cả bóng dáng lọ cà muối xen vào là mắt mũi sáng lên, cứ như thể là đã tìm thấy cả bầu trời quê hương nằm gọn trong cái lọ cỏn con ấy.
Không biết có phải từ nguyên thủy tiếng cà được dùng để gọi loài cây quả không mấy giá trị cho nên khi tiếng cà được ghép vào với những tiếng khác để tạo thành những cụm từ nhằm diễn tả cách thế, hình thái, đặc tính của sự vật và con người, thì hình như tiếng gì kết hợp với tiếng cà cũng chỉ nhằm diễn tả cái mặt xấu, dở, yếu kém, hay có nhiều khiếm khuyết của một sự vật chứ không có tiếng cà nào nhằm diễn tả sự hay ho, sung mãn hoặc tốt đẹp cả.
Khi đánh giá sự vật hay con người thì loại dở dở ương ương được người ta gọi là loại "cà mèng" hay còn gọi là "cà là mèng". Người có vẻ như mất thần, không tập trung tư tưởng thì được gọi là "cà lơ". Chân bị đau khiến cho đi đứng cứ khập khiểng thì gọi là "cà nhắc". Chân mà bị cà nhắc có khi còn được gọi là "cà thọt" hay là "xi cà que".
Người nghèo ăn uống thiếu dinh dưỡng thì thân thể thường ốm "cà tong cà teo", hình dáng trông cứ như là que củi "cà khẳng cà kheo". Do cái bệnh ốm đói kinh niên cho nên đi đứng làm việc lúc nào cũng có vẻ uể oải theo kiểu "cà rịch cà tang", và thường thích "kề rề cà rà" chứ không xông xáo. Đường sá quê nghèo thì lồi lõm ổ gà, lỗ chân trâu, khiến cho xe chạy không lăn bánh êm ả như trên xa lộ mà hay bị dồi xóc nên gọi là "cà tưng". Những người đi đứng không chững chạc mà lúc đi lúc nhảy như con dê non thì gọi là "cà tửng". Xe pháo cũ kỹ gọi là "cà tàng"...
Còn nhỏ mà không được đi học thì chỉ thích chạy "cà nhỏng" ngoài đường. Người lớn mà vô công rồi nghề không biết làm gì thì thường hay "la cà" chỗ này chỗ nọ. Gặp nhau chuyện gẫu hoài nhiều khi không còn biết chuyện gì để nói đành phải nói theo kiểu "cà kê dê ngỗng". Do cái tật cà kê dê ngỗng mà sinh ra tật nói "cà rởn" tức là nói chơi nói dỡn cho vui. Tuy nhiên đôi lúc vui quá cũng dễ sinh ra mất lòng gây bất hòa nên đâm ra "cà khịa", có nghĩa là nói thọc ngang, nói xóc hông người khác. Nếu tự ái của người nào đó bị xúc phạm quá nặng thì người đó có thể lên cơn giận đột xuất làm cho hệ thống thần kinh không còn làm chủ được cái lưỡi phát âm khiến cho nói không nên lời, mà cứ lắp ba lắp bắp vấp váp thành ra "cà lăm". Đúng ra thì cà lăm chính là tên gọi của một khuyết tật về nói bẩm sinh nơi một vài người mà khi sinh ra đã được trời ban cho họ một bộ máy phát âm không hoàn chỉnh, còn người bình thường thì chỉ cà lăm tạm thời rồi hết một khi cơn tức khí xung thiên đã qua đi.
Mặc dầu đã có nhiều tiếng được ghép với tiếng cà để diễn tả cái dở cái yếu kém nơi sự vật hay con người như đã nói trên, nhưng còn một tiếng nữa đáng nói đến nhất là tiếng "cà chớn". Thật ra thì tôi cũng không biết định nghĩa tiếng cà chớn này như thế nào vì tôi không có khả năng làm tự điển, nhưng thường thì tiếng này được dùng để nói về người và cứ xem trong mối tương quan xã hội của mọi người đối với nhau thì người bị cho là cà chớn là người hay có những thái độ bốc đồng, những cách hành xử như ưa thọc gậy bánh xe hay phá thối những công việc chung, ăn nói thì lời lẽ tiền hậu bất nhất v.v...
Anh nào mà xây mộng ước với một cô nàng cà chớn là có ngày bị leo cây. Một ông chồng hiền lành mà rước được một bà vợ cà chớn là coi như cuộc đời và sự nghiệp cũng tiêu tùng. Bà vợ nào mà lấy phải một ông chồng cà chớn là chỉ ôm hận. Làm ăn với người cà chớn có ngày vỡ nợ. Kết bạn với người cà chớn có ngày mang họa vào thân hoặc bị bán đứng. Đất nước mà được lãnh đạo bởi các chính khách cà chớn thì dân chúng chỉ có nước bị gậy ăn mày.
Tôi cũng không biết cái tiếng cà chớn này bắt nguồn từ thời nào nhưng trước đây tiếng cà chớn có lẽ chỉ mới thông dụng ở miền Nam chứ người miền Bắc hình như không biết. Chính vì thế mà khi mới vào Sài Gòn sau khi chế độ miền Nam sụp đổ, người ta mới bắt đầu truyền tụng cho nhau câu chuyện vui như sau:
Một hôm có một anh công nhân Sài Gòn ngồi nhâm nhi ly cà phê buổi sáng ở quán cóc thấy anh bộ đội, câu chuyện bắt đầu bằng câu hỏi của anh công nhân miền Nam về cà phê miền Bắc hương vị ra sao rồi bắt qua hỏi thăm về các loại cà này cà nọ. Bất cứ nói đến thứ cà gì cũng được anh bộ đội trả lời là miền Bắc có nhiều hơn, to hơn, ngon hơn hoặc tốt hơn trong Nam. Khi hỏi đến "cà rem" thì anh bộ đội vì muốn chứng minh sự giàu mạnh của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc nên không ngần ngại khoe ngay là cà rem thì không những ăn không hết còn được phơi khô để xuất khẩu nữa.
Nghe đến đây anh công nhân Sài Gòn hiểu ngay là anh bộ đội này đúng là thứ cà chớn bèn bồi luôn một câu hỏi nữa là ở miền Bắc có cà chớn không? Anh chàng bộ đội ngố từ lúc sinh ra có lẽ cũng chỉ được nếm có mỗi một món cà pháo, vừa lớn lên thì lại được cho ăn uống phải theo chế độ tiêu chuẩn tính theo "cà ram" cho từng đầu người, sau đó thì đi cầm súng làm "nghĩa vụ giải phóng miền Nam", bao nhiêu năm chỉ biết lặn lội trong rừng sâu hoặc là nằm dưới hầm để tránh đạn "cà nông" cho nên giỏi lắm cũng chỉ mới học thêm được tiếng "cà mèn" là món vật dụng bằng kim khí dùng đựng cơm của lính nên nay về thành phố, được nếm mùi cà phê sao mà thơm ngon quá cho nên tuy chẳng biết cà chớn là cái gì nhưng đinh ninh cà chớn chắc phải là một món gì đó cao quý lắm nên không ngần ngại đáp luôn là cái gì chứ cái thứ cà chớn thì ê hề, ở miền Bắc đâu đâu cũng có.
Không biết có phải những hiện tượng cà chớn đó đều có chung một căn nguyên do độc tố của cà gây ra vì ăn cà rồi dần dà biến thành một căn bệnh có khả năng di truyền hay không, vì nhìn kỹ thì hầu như cái bệnh cà chớn này không phải chỉ thấy xuất hiện nơi người dân Việt sinh sống ở trong nước mà ngay cả trong số người dân Việt đã bỏ xứ ra sinh sống ở đất nước người, ăn những loại thực phẩm bổ dưỡng tinh khiết hơn, vẫn có nhiều người còn mang căn bệnh cà chớn mạn tính trong người. Không tin thì cứ nhìn vào các cộng đồng của người Việt ở hải ngoại sẽ thấy không thiếu gì những hiện tượng cà chớn vẫn xảy ra trong các hội đoàn từ hội ái hữu nhỏ địa phương cho tới tổ chức chính trị, kinh tế to lớn, khiến cho người dân Việt chưa bao giờ thật sự xây dựng cho mình thành một khối hùng mạnh. Không nhưng thế, trong những khuôn mặt từng đại diện cho những kẻ từng sợ ăn cà pháo, từng cho rằng mình không có mang độc tính cà pháo trong giòng máu, từng hùng hổ tuyên bố chống cà pháo, nay bỗng nhiên lại đâm ra có kẻ nhớ cà, thèm cà theo kiểu rất cà chớn là "Ăn cơm nhà nọ kháo cà nhà kia" để rồi ca bài "cà pháo muôn năm" làm cho nhiều người nghe xong đều chưng hửng.
Ôi! Không biết đến bao giờ dân ta mới trừ khử được cái nọc độc cà chớn này trong giòng máu để cho dân ta trở thành những con người lành mạnh hầu có sức tranh đua với thế giới năm châu và làm rạng rỡ con Rồng cháu Tiên?
ĐOÀN VĂN KHANH
Mù, câm, điếc
Người ta nói lãnh đạo Việt Nam hiện nay chỉ có ba người, đó là: Mù, câm, điếc.
Mù vì họ không nhìn thấy dân tình đói khổ, xã hội bất công. Câm vì họ không bao giờ trả lời những câu hỏi sự thật của dân. Điếc vì họ không nghe dân nói.
Ba ông này cùng nhau dẫn dắt đất nước, thành ra 90 triệu đồng bào cũng bị thiểu năng trí tuệ cả. Những ai mà sáng mắt, thính tai, hoặc nói rõ ràng hơn họ một chút thì lập tức bị đàn áp và bỏ tù ngay. Vì đèn kia nào sáng hơn trăng bao giờ?
Xã hội bình thường vốn cơ quan nào chức năng nấy, ai giữ chức vụ gì thì thực thi nhiệm vụ đó. Như vậy mọi thứ mới có khuôn khổ, người dân cũng dựa vào đó mà kiểm tra và giám sát được. Nhưng ở đây, ba ông này đảm nhiệm chức năng lẫn lộn, vì thế mà không ai biết đường nào mà lần. Tình thế đó rất có lợi cho họ, vì chẳng ông nào phải chịu trách nhiệm trước dân, nhưng lại hưởng chung một niềm vinh quang thắng lợi. Cái thiệt thòi, khổ sở thì đều đổ hết lên đầu nhân dân cả.
Tuy là mù, câm, điếc như vậy, nhưng việc cai trị và lừa dối nhân dân thì ba ông lại phối hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn, như là người ta làm xiếc vậy. Dân chúng mãi xem xiếc mà cứ ngớ người ra, đến khi nhìn lại mới biết là mình bị lừa và bóc lột.
Số là thế này, mỗi khi cần nghe người dân chất vấn thì họ lại cử ông “Điếc” đi. Ông này ù ù cạc cạc, ai nói gì cũng mặc kệ, vì có nghe được gì đâu mà hiểu, mà giải quyết vấn đề?
Khi cần xem xét thực trạng quản lý đất nước, người ta lại cử ông “Mù” đi. Khổ nổi! Ông này có nhìn thấy gì đâu mà khảo với chả sát?
Kết quả là mọi chuyện lại đâu vào đấy, vẫn tốt đẹp cả. Chỉ có dân là dậm chân kêu trời.
Những lúc cần trả lời cho dân thì họ lại cử ông “Câm” đi. Chờ mãi chẳng nghe ông nói gì, dân tức muốn chết nhưng đành chịu. Thế nhưng người dân không làm cách nào để mà chống lại chiến thuật “luân phiên” và “xa luân chiến” của ba ông này cả.
Cứ mãi như thế thì dân thiệt thòi và khổ sở quá. Nhiều người đành liều mạng lên tiếng phản đối, kết quả là bị quy kết trở thành “phản động,” với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” hoặc “Tuyên truyền chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa.” Cho nên dân chỉ biết âm thầm gạt nước mắt nhịn nhục, cắn răng chịu đựng bất công.
Chuyện là thế, thật mà như bịa, mấy chục triệu dân mà phải chịu thua ba ông mù, câm, điếc này. Vì chẳng ai có thể trách người mù không nhìn thấy đường, người điếc không biết nghe và người câm không biết nói cả.
Kết quả là người ta bị thằng điếc đánh mỗi khi lên tiếng, vì cứ tưởng là chửi nó. Đánh dân xong rồi nó lại cho thằng câm ra giải thích và thằng mù đi kiểm tra, giám sát.
Quý vị có biết ba anh Mù, Câm, Điếc này là ai không? Xin thưa, đó là ba cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp ở nước ta hiện nay. Tương đương với Quốc Hội (Lập Pháp), Chính Phủ (Hành Pháp), Tòa Án (Tư Pháp).
Ở một nước dân chủ, thì ba cơ quan này tồn tại và hoạt động độc lập, có nhiệm vụ giám sát và chế tài lẫn nhau. Đằng này ở Việt Nam, ba cơ quan này mang tiếng là riêng nhưng lại gộp làm một, dưới sự lãnh đạo của một ông chột mắt là Đảng Cộng Sản.
Con mắt duy nhất thị lực cũng rất yếu, đã thế ông lại nhìn cuộc đời qua lăng kính “Chủ nghĩa Mác-Lê Nin,” cho nên mọi thứ đã mờ càng thêm ảo.
Ông chột sử dụng ba lá bài “Mù, Câm, Điếc” trong tay thành thạo như một tay cờ bạc bịp vậy. Cần dùng anh nào, với mục đích gì đều do đảng tùy nghi sử dụng. Thành ra nó như một ma trận hãi hùng, vùi dập người dân trong vô vọng.
Khi cần đàn áp nhân dân thì ba ông đoàn kết làm một. Ông Lập pháp ra luật, ông Hành Pháp bắt, ông Tư Pháp xét xử. Nhưng khi nhận trách nhiệm thì ông này lại đùn đẩy và đổ lỗi cho ông kia. Quý vị thấy họ có tài không?
Một anh chột lãnh đạo toàn diện ba anh Mù, Câm, Điếc là thực trạng chính trị hiện nay ở Việt Nam. Đó là nguyên nhân dẫn đến nổi khổ của dân, cũng như biến họ trở thành những kẻ thiểu năng trí tuệ.
Minh Văn
Người ta nói lãnh đạo Việt Nam hiện nay chỉ có ba người, đó là: Mù, câm, điếc.
Mù vì họ không nhìn thấy dân tình đói khổ, xã hội bất công. Câm vì họ không bao giờ trả lời những câu hỏi sự thật của dân. Điếc vì họ không nghe dân nói.
Ba ông này cùng nhau dẫn dắt đất nước, thành ra 90 triệu đồng bào cũng bị thiểu năng trí tuệ cả. Những ai mà sáng mắt, thính tai, hoặc nói rõ ràng hơn họ một chút thì lập tức bị đàn áp và bỏ tù ngay. Vì đèn kia nào sáng hơn trăng bao giờ?
Xã hội bình thường vốn cơ quan nào chức năng nấy, ai giữ chức vụ gì thì thực thi nhiệm vụ đó. Như vậy mọi thứ mới có khuôn khổ, người dân cũng dựa vào đó mà kiểm tra và giám sát được. Nhưng ở đây, ba ông này đảm nhiệm chức năng lẫn lộn, vì thế mà không ai biết đường nào mà lần. Tình thế đó rất có lợi cho họ, vì chẳng ông nào phải chịu trách nhiệm trước dân, nhưng lại hưởng chung một niềm vinh quang thắng lợi. Cái thiệt thòi, khổ sở thì đều đổ hết lên đầu nhân dân cả.
Tuy là mù, câm, điếc như vậy, nhưng việc cai trị và lừa dối nhân dân thì ba ông lại phối hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn, như là người ta làm xiếc vậy. Dân chúng mãi xem xiếc mà cứ ngớ người ra, đến khi nhìn lại mới biết là mình bị lừa và bóc lột.
Số là thế này, mỗi khi cần nghe người dân chất vấn thì họ lại cử ông “Điếc” đi. Ông này ù ù cạc cạc, ai nói gì cũng mặc kệ, vì có nghe được gì đâu mà hiểu, mà giải quyết vấn đề?
Khi cần xem xét thực trạng quản lý đất nước, người ta lại cử ông “Mù” đi. Khổ nổi! Ông này có nhìn thấy gì đâu mà khảo với chả sát?
Kết quả là mọi chuyện lại đâu vào đấy, vẫn tốt đẹp cả. Chỉ có dân là dậm chân kêu trời.
Những lúc cần trả lời cho dân thì họ lại cử ông “Câm” đi. Chờ mãi chẳng nghe ông nói gì, dân tức muốn chết nhưng đành chịu. Thế nhưng người dân không làm cách nào để mà chống lại chiến thuật “luân phiên” và “xa luân chiến” của ba ông này cả.
Cứ mãi như thế thì dân thiệt thòi và khổ sở quá. Nhiều người đành liều mạng lên tiếng phản đối, kết quả là bị quy kết trở thành “phản động,” với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” hoặc “Tuyên truyền chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa.” Cho nên dân chỉ biết âm thầm gạt nước mắt nhịn nhục, cắn răng chịu đựng bất công.
Chuyện là thế, thật mà như bịa, mấy chục triệu dân mà phải chịu thua ba ông mù, câm, điếc này. Vì chẳng ai có thể trách người mù không nhìn thấy đường, người điếc không biết nghe và người câm không biết nói cả.
Kết quả là người ta bị thằng điếc đánh mỗi khi lên tiếng, vì cứ tưởng là chửi nó. Đánh dân xong rồi nó lại cho thằng câm ra giải thích và thằng mù đi kiểm tra, giám sát.
Quý vị có biết ba anh Mù, Câm, Điếc này là ai không? Xin thưa, đó là ba cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp ở nước ta hiện nay. Tương đương với Quốc Hội (Lập Pháp), Chính Phủ (Hành Pháp), Tòa Án (Tư Pháp).
Ở một nước dân chủ, thì ba cơ quan này tồn tại và hoạt động độc lập, có nhiệm vụ giám sát và chế tài lẫn nhau. Đằng này ở Việt Nam, ba cơ quan này mang tiếng là riêng nhưng lại gộp làm một, dưới sự lãnh đạo của một ông chột mắt là Đảng Cộng Sản.
Con mắt duy nhất thị lực cũng rất yếu, đã thế ông lại nhìn cuộc đời qua lăng kính “Chủ nghĩa Mác-Lê Nin,” cho nên mọi thứ đã mờ càng thêm ảo.
Ông chột sử dụng ba lá bài “Mù, Câm, Điếc” trong tay thành thạo như một tay cờ bạc bịp vậy. Cần dùng anh nào, với mục đích gì đều do đảng tùy nghi sử dụng. Thành ra nó như một ma trận hãi hùng, vùi dập người dân trong vô vọng.
Khi cần đàn áp nhân dân thì ba ông đoàn kết làm một. Ông Lập pháp ra luật, ông Hành Pháp bắt, ông Tư Pháp xét xử. Nhưng khi nhận trách nhiệm thì ông này lại đùn đẩy và đổ lỗi cho ông kia. Quý vị thấy họ có tài không?
Một anh chột lãnh đạo toàn diện ba anh Mù, Câm, Điếc là thực trạng chính trị hiện nay ở Việt Nam. Đó là nguyên nhân dẫn đến nổi khổ của dân, cũng như biến họ trở thành những kẻ thiểu năng trí tuệ.
Minh Văn
Mời quý vị đọc và . . . . chuyển tiếp để mọi người nhìn thấy một "sự thật" rất rõ ràng như trong bài viết mà không hiểu tại sao các "Phật-tử" (!) cứ Mê đi như bị bỏ Bùa (!) hễ Thầy nói là đúng, mình nghe theo đã đành còn khuyến khích bạn bè,
VẤN ĐỀ PHẬT TỬ và CÁC VẤN ĐỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI
Hầu như trên khắp nước Mỹ, nơi nào có nhiều người Việt sinh sống thì ở đó đều có tổ chức Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia. Nhưng, thực tế cho thấy là người Việt hầu như chẳng còn mấy ai có hứng thú tham gia vào những hoạt động do Cộng Đồng tổ chức.
Ngược lại, chùa chiền ở Mỹ mọc lên như là nấm sau mưa. Mà đa số chùa chiền ở Mỹ bây giờ nằm trong tay những "nhà sư" được bảo lãnh qua sau này. Ngoài những việc nay kêu nộp tiền, mai gọi đóng góp, mốt tổ chức này kia “gây quỹ”… chẳng thấy họ tu hành gì cả. Thậm chí có nơi “quý thầy” còn đòi Phật tử phải “cúng dường” mỗi khi “quý thầy” muốn về Việt Nam v.v... Những "nhà sư" này không bao giờ cho Phật tử tham gia bất kỳ một sinh hoạt nào trái ý Việt Cộng.
Một điều nhìn thấy rất oái oăm là hễ nghe có người dựng chùa thì Phật tử cứ nhắm mắt ùn ùn kéo đến góp công góp của, chẳng cần biết "nhà sư" là ai, tu hành thế nào. Mà đa số Phật tử lại là những người vợ và con cháu của những gia đình sĩ quan VNCH qua Mỹ theo diện HO. Rồi có những "ông thầy" mới từ Việt Nam qua, không cần biết xuất xứ như thế nào, chỉ có những lời nói "xuôi lòng, mát dạ" mà có thể khiến được những người này rủ nhau quyên góp để xây chùa cho "thầy tu" và cung phụng hầu như không thiếu một thứ gì. Cũng đã có trường hợp đến khi biết mình bị lừa gạt thì chỉ còn biết … kêu trời!
Chuyện “thầy tu” làm chủ (sở hữu) nhà chùa, không tu hành mà chỉ sống xa hoa, lừa Phật tử lấy tiền v.v… LÀ CÓ THẬT!
Chuyện “thầy tu” làm chủ những ngôi chùa do đồng bào tỵ nạn quyên góp tạo nên, rồi “thầy tu” loạn dâm trong chùa, kể cả với trẻ em, LÀ CÓ THẬT!
Chuyện "nhà sư" được bảo lãnh qua tối ngày chỉ biết vòi tiền Phật tử LÀ CÓ THẬT!
Chuyện “nhà sư” ra giá cả mỗi khi có Phật tử mời đi cúng LÀ CÓ THẬT!
Chuyện "nhà sư" được các "thầy" qua trước bảo lãnh qua, rồi được các gia đình HO xây dựng chùa cho "tu", và "nhà sư trụ trì" này mời người tu hành khác về ở để cùng "tu", rồi lại buộc họ phải lừa phỉnh Phật tử để moi móc tiền LÀ CÓ THẬT!
Chuyện người tu hành từ chối sự bắt buộc của “trụ trì” là phải lừa dối Phật tử để moi tiền nên bị đuổi ra khỏi chùa LÀ CÓ THẬT!
Chuyện các "nhà sư" ở Mỹ đi đi về về Việt Nam một năm không biết bao nhiêu lần LÀ CÓ THẬT!
Chuyện các “nhà sư” tổ chức dạy những lớp tiếng Việt cho trẻ em mà dùng những sách mang từ Việt Nam qua, trong đó có hình “bác Hồ” và cờ đỏ sao vàng LÀ CÓ THẬT!
Chuyện một số không phải là ít Phật tử biết những “nhà sư” đã trắng trợn phạ̣m Trọ̣ng Giới nhà Phật, nhưng họ vẫn tiếp tục tôn thờ, đeo bám và tận tụy cung phụng LÀ CÓ THẬT!
Trên đất Mỹ, có nhiều người muốn tu hành thật sự nhưng không thể, hoặc chưa, tìm ra được nơi thích hợp để được tu hành LÀ CÓ THẬT!
Nhìn ra, đa số Phật tử Việt ở Mỹ không hề hiểu hoặc biết thế nào là tu hành, cho nên không bao giờ để ý đến việc biết quan sát đâu là chân sư, đâu là tà đạo. Và cũng từ đó, sức mạnh của người Việt ở hải ngoại đang nằm trong tay của Việt Cộng.
Theo lời người con gái của ông Hoàng Thu (ở Florida) kể, trước khi tự thiêu ông ta đã từng nói rằng nếu ở California thì ông ta có thể làm được nhiều việc, còn ở đó (Florida) thì ông ta chẳng làm được gì. Điều này có thể đủ để nói lên được sự bế tắc của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Cụ thể cũng cho thấy là khi được biết giàn khoan của giặc Tàu đã cắm trên biển Việt Nam, khắp nước Mỹ chẳng có được mấy cuộc biểu tình, mà mỗi lần như vậy cũng chẳng được bao nhiêu người tham dự.
Đã có trường hợp, theo vài người trong ban điều hành Cộng Đồng người Việt ở một địa phương cho biết, họ tới nhờ các chùa thông báo, hoặc xin dán thông báo,để kêu gọi người Việt tham gia biểu tình chống giặc Tàu vào lúc được tin sự kiện giàn khoan giặc Tàu đã vào cắm trên biển Việt Nam, thế nhưng các “nhà sư” từ chối, lấy lý do là chùa chiền không làm chính trị (?!).
Đã có trường hợp, cùng trong một ngày có hai sự kiện diễn ra tại cùng một địa phương: Cộng Đồng người Việt tổ chức biểu tình chống giặc Tàu xâm lược thì chỉ có vài chục người tham dự; còn một “ngôi chùa” nọ tổ chức rước ca sĩ về hát hò ngay trong khuôn viên “chùa” để “gây quỹ”, thì theo một người có vai trò chủ chốt trong “ngôi chùa” đó cho biết, số lượng người kéo về tham dự khoảng 400 người.
Đi biểu tình chống xâm lược KHÔNG phải là làm chính trị!
Tôi đã có nói chuyện, trao đổi, thắc mắc và giải thích với những người trong ban điều hành Cộng Đồng ở đó về vấn đề này. Nhưng xem ra ... nói chuyện cũng chỉ là nói chuyện.
Nếu là một Phật tử chân chính, thì thời buổi này chắc chắn sẽ chẳng còn mấy ai không biết đến một vị Pháp Vương của Phật Giáo khắp thế giới – đó là Đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 14. Và ngài đã nói như thế nào về vấn đề chính trị và tôn giáo?
"Tôi không xem chính trị tự nó là điều gì đấy sai lạc, nhưng bởi vì người ta sử dụng chính trị vì mục đích ích kỷ, và cuối cùng chính trị trở thành dơ bẩn. Trong tôn giáo cũng vậy, nếu con người sử dụng trong cung cách sai lầm thì tôn giáo cũng trở thành tôn giáo dơ bẩn."
Đó là lời của Đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 14. Ngài là một bậc chân tu, là một vị Pháp Vương của Phật Giáo, và có lẽ khó có người chối cãi điều này. Thế nhưng, Ngài vẫn không ngừng đấu tranh cho hạnh phúc của dân tộc Tây Tạng của Ngài. Điều đó có gì sai?
Nếu ai đó coi mình là một Phật tử chân chính, thì Đức Đạt lai Lạt ma có phải là một tấm gương để mình học hỏi và noi theo hay không?
Nếu ai đó là người Việt Nam, thì thảm cảnh của dân tộc Tây Tạng hiện nay có đủ để thức tỉnh mà nghĩ đến thảm họa trước mắt của quê hương và dân tộc mình hay không?
Hãy nhìn vào thực trạng sinh hoạt của đa số các Cộng Đồng, của đa số chùa chiền và Phật tử Việt Nam ở Mỹ!
Chúng ta còn có thể làm gì?
Hay chúng ta còn mong làm gì được cho quê hương?
Một thực tế đau buồn không thể nào không nghĩ đến được!
Yên Tử
VẤN ĐỀ PHẬT TỬ và CÁC VẤN ĐỀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI
Hầu như trên khắp nước Mỹ, nơi nào có nhiều người Việt sinh sống thì ở đó đều có tổ chức Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia. Nhưng, thực tế cho thấy là người Việt hầu như chẳng còn mấy ai có hứng thú tham gia vào những hoạt động do Cộng Đồng tổ chức.
Ngược lại, chùa chiền ở Mỹ mọc lên như là nấm sau mưa. Mà đa số chùa chiền ở Mỹ bây giờ nằm trong tay những "nhà sư" được bảo lãnh qua sau này. Ngoài những việc nay kêu nộp tiền, mai gọi đóng góp, mốt tổ chức này kia “gây quỹ”… chẳng thấy họ tu hành gì cả. Thậm chí có nơi “quý thầy” còn đòi Phật tử phải “cúng dường” mỗi khi “quý thầy” muốn về Việt Nam v.v... Những "nhà sư" này không bao giờ cho Phật tử tham gia bất kỳ một sinh hoạt nào trái ý Việt Cộng.
Một điều nhìn thấy rất oái oăm là hễ nghe có người dựng chùa thì Phật tử cứ nhắm mắt ùn ùn kéo đến góp công góp của, chẳng cần biết "nhà sư" là ai, tu hành thế nào. Mà đa số Phật tử lại là những người vợ và con cháu của những gia đình sĩ quan VNCH qua Mỹ theo diện HO. Rồi có những "ông thầy" mới từ Việt Nam qua, không cần biết xuất xứ như thế nào, chỉ có những lời nói "xuôi lòng, mát dạ" mà có thể khiến được những người này rủ nhau quyên góp để xây chùa cho "thầy tu" và cung phụng hầu như không thiếu một thứ gì. Cũng đã có trường hợp đến khi biết mình bị lừa gạt thì chỉ còn biết … kêu trời!
Chuyện “thầy tu” làm chủ (sở hữu) nhà chùa, không tu hành mà chỉ sống xa hoa, lừa Phật tử lấy tiền v.v… LÀ CÓ THẬT!
Chuyện “thầy tu” làm chủ những ngôi chùa do đồng bào tỵ nạn quyên góp tạo nên, rồi “thầy tu” loạn dâm trong chùa, kể cả với trẻ em, LÀ CÓ THẬT!
Chuyện "nhà sư" được bảo lãnh qua tối ngày chỉ biết vòi tiền Phật tử LÀ CÓ THẬT!
Chuyện “nhà sư” ra giá cả mỗi khi có Phật tử mời đi cúng LÀ CÓ THẬT!
Chuyện "nhà sư" được các "thầy" qua trước bảo lãnh qua, rồi được các gia đình HO xây dựng chùa cho "tu", và "nhà sư trụ trì" này mời người tu hành khác về ở để cùng "tu", rồi lại buộc họ phải lừa phỉnh Phật tử để moi móc tiền LÀ CÓ THẬT!
Chuyện người tu hành từ chối sự bắt buộc của “trụ trì” là phải lừa dối Phật tử để moi tiền nên bị đuổi ra khỏi chùa LÀ CÓ THẬT!
Chuyện các "nhà sư" ở Mỹ đi đi về về Việt Nam một năm không biết bao nhiêu lần LÀ CÓ THẬT!
Chuyện các “nhà sư” tổ chức dạy những lớp tiếng Việt cho trẻ em mà dùng những sách mang từ Việt Nam qua, trong đó có hình “bác Hồ” và cờ đỏ sao vàng LÀ CÓ THẬT!
Chuyện một số không phải là ít Phật tử biết những “nhà sư” đã trắng trợn phạ̣m Trọ̣ng Giới nhà Phật, nhưng họ vẫn tiếp tục tôn thờ, đeo bám và tận tụy cung phụng LÀ CÓ THẬT!
Trên đất Mỹ, có nhiều người muốn tu hành thật sự nhưng không thể, hoặc chưa, tìm ra được nơi thích hợp để được tu hành LÀ CÓ THẬT!
Nhìn ra, đa số Phật tử Việt ở Mỹ không hề hiểu hoặc biết thế nào là tu hành, cho nên không bao giờ để ý đến việc biết quan sát đâu là chân sư, đâu là tà đạo. Và cũng từ đó, sức mạnh của người Việt ở hải ngoại đang nằm trong tay của Việt Cộng.
Theo lời người con gái của ông Hoàng Thu (ở Florida) kể, trước khi tự thiêu ông ta đã từng nói rằng nếu ở California thì ông ta có thể làm được nhiều việc, còn ở đó (Florida) thì ông ta chẳng làm được gì. Điều này có thể đủ để nói lên được sự bế tắc của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Cụ thể cũng cho thấy là khi được biết giàn khoan của giặc Tàu đã cắm trên biển Việt Nam, khắp nước Mỹ chẳng có được mấy cuộc biểu tình, mà mỗi lần như vậy cũng chẳng được bao nhiêu người tham dự.
Đã có trường hợp, theo vài người trong ban điều hành Cộng Đồng người Việt ở một địa phương cho biết, họ tới nhờ các chùa thông báo, hoặc xin dán thông báo,để kêu gọi người Việt tham gia biểu tình chống giặc Tàu vào lúc được tin sự kiện giàn khoan giặc Tàu đã vào cắm trên biển Việt Nam, thế nhưng các “nhà sư” từ chối, lấy lý do là chùa chiền không làm chính trị (?!).
Đã có trường hợp, cùng trong một ngày có hai sự kiện diễn ra tại cùng một địa phương: Cộng Đồng người Việt tổ chức biểu tình chống giặc Tàu xâm lược thì chỉ có vài chục người tham dự; còn một “ngôi chùa” nọ tổ chức rước ca sĩ về hát hò ngay trong khuôn viên “chùa” để “gây quỹ”, thì theo một người có vai trò chủ chốt trong “ngôi chùa” đó cho biết, số lượng người kéo về tham dự khoảng 400 người.
Đi biểu tình chống xâm lược KHÔNG phải là làm chính trị!
Tôi đã có nói chuyện, trao đổi, thắc mắc và giải thích với những người trong ban điều hành Cộng Đồng ở đó về vấn đề này. Nhưng xem ra ... nói chuyện cũng chỉ là nói chuyện.
Nếu là một Phật tử chân chính, thì thời buổi này chắc chắn sẽ chẳng còn mấy ai không biết đến một vị Pháp Vương của Phật Giáo khắp thế giới – đó là Đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 14. Và ngài đã nói như thế nào về vấn đề chính trị và tôn giáo?
"Tôi không xem chính trị tự nó là điều gì đấy sai lạc, nhưng bởi vì người ta sử dụng chính trị vì mục đích ích kỷ, và cuối cùng chính trị trở thành dơ bẩn. Trong tôn giáo cũng vậy, nếu con người sử dụng trong cung cách sai lầm thì tôn giáo cũng trở thành tôn giáo dơ bẩn."
Đó là lời của Đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 14. Ngài là một bậc chân tu, là một vị Pháp Vương của Phật Giáo, và có lẽ khó có người chối cãi điều này. Thế nhưng, Ngài vẫn không ngừng đấu tranh cho hạnh phúc của dân tộc Tây Tạng của Ngài. Điều đó có gì sai?
Nếu ai đó coi mình là một Phật tử chân chính, thì Đức Đạt lai Lạt ma có phải là một tấm gương để mình học hỏi và noi theo hay không?
Nếu ai đó là người Việt Nam, thì thảm cảnh của dân tộc Tây Tạng hiện nay có đủ để thức tỉnh mà nghĩ đến thảm họa trước mắt của quê hương và dân tộc mình hay không?
Hãy nhìn vào thực trạng sinh hoạt của đa số các Cộng Đồng, của đa số chùa chiền và Phật tử Việt Nam ở Mỹ!
Chúng ta còn có thể làm gì?
Hay chúng ta còn mong làm gì được cho quê hương?
Một thực tế đau buồn không thể nào không nghĩ đến được!
Yên Tử
Tâm lý đạo đức : Tản mạn về cái “TÔI”!
Trần Mỹ Duyệt
Mỗi lần suy nghĩ về “cái tôi”, tôi lại nhớ lời của một vị thánh nhân: “Muốn làm thánh phải làm người trước đã” (St. Gioan Boscô). Tôi rất tâm đắc với tư tưởng này, đặc biệt trong cái nhìn của tâm lý giáo dục và tâm lý đạo đức.
Một tư tưởng mà nếu suy nghĩ một cách chín chắn ta sẽ thấy nó hiện ra con người thực của mình, hoặc nói một cách nôm na là “cái tôi” của mỗi người.
Ở đây ta hãy gác chuyện làm thánh nhân, vì theo Gioan Boscô, muốn được như vậy, trước hết ta phải làm “người” cái đã. Nhưng người ở đây là gì? Phải chăng là trở thành “cái tôi’ như chính tôi phải có và muốn có. Bởi vì không ai có thể là người được, nếu thiếu đi cái tôi thật sự của chính mình. Vậy làm người là làm gì? Làm sao? Và làm như thế nào? Tại sao cần phải là người trước khi là bất cứ cái gì kể cả việc trở thành một thánh nhân.
Nếu nhìn vào thực tế, ta sẽ thấy được điều này là có nhiều người nếu cho họ không phải là người thì tội nghiệp cho “cái người” của họ. Xem ra như họ bị kinh bỉ, coi thường, và bị coi nhẹ. Nhưng nếu bảo họ là người thì lại tội cho “cái người” của chung chúng ta. Thật sự, để tìm được một từ ngữ thích hợp cho những con người ấy theo như cái nhìn của Gioan Boscô quả thật là khó khăn. Gọi họ là người cũng không đúng, mà gọi họ là cái gì khác với người cũng không được. Bởi một lẽ rất dễ hiểu vì họ là người nhưng tư tưởng, lời nói và hành động không lột tả được hình ảnh và thực chất cao quí của “con người”.
Bạn gọi một người xách dao, súng vào nhà người khác đâm, chém, và bắn chết chủ nhà để lấy tiền là gì? Là đứa ăn cướp hay quân ăn cướp phải không?! Bởi vì không một con người nào có lương tri, hiểu biết, và ý thức là người lại làm chuyện rồ rại, gây đau khổ cho người khác như vậy.
Bạn gọi những cô gái, những thiếu nữ xinh xắn nhưng khiêu gợi trong các quán bar, các phòng trà, hay tại những xó xỉnh đâu đó chào mời và mua bán dục vọng với khách qua đường là gì? Nhẹ nhàng thì bạn gọi là các cô gái ăn sương, phường buôn hương bán phấn. Nặng nề hơn là bọn đĩ điếm.
Bạn gọi một người con để có mấy trăm đồng đi nhậu với bạn bè, hút sách, hoặc cờ bạc đem dao đâm bố chết là gì? Chắc chắn cái từ “con” dễ thương và đầy cảm xúc sẽ không bao giờ được dùng cho hạng con này, ngược lại, bạn sẽ gọi đó là “thằng bất hiếu”. Đứa con trời đánh.
Bạn gọi một người dùng quyền bính, dùng bằng cấp, dùng địa vị của mình để ăn chặn, ăn cướp tài sản và đất đai người khác là gì? Chắc chắn không gọi họ là những bộ trưởng, chủ tịch, hay chánh án…, mà bạn dùng một từ chung là phường ăn cướp. Những kẻ hối mại quyền thế. Bọ bất nhân và vô lương tâm.
Bạn gọi một người mê man cờ bạc đến bán nhà, bán đất, bán xe. Hoặc một người rượu chè, nghiện hút đến tán gia bại sản, bỏ bê con cái lây lất, vợ con nheo nhóc là gì? Là những bợm nhậu, bọn ma men, và phường đỏ đen.
Còn nhiều và nhiều nữa những hình ảnh của một người nhưng không phải là người như trên.
Đó cũng là lý do tại sao có những người được người đời kính nể và yêu mến. Và tại sao có những người mà chỉ nghe đến cái tên của họ nhiều người đã phải dội lại và nhổ nước bọt. Người ta ngại không dám thốt ra những tên tuổi đó vì “dơ” miệng của mỉnh. Và người ta sợ không dám nghĩ đến những tên tuổi đó, vì sợ “phiền” đến trí nhớ của mình. Và điều làm cho có sự cách biệt ấy là gì? Dĩ nhiên, như Gioan Boscô đã nói, đó là “làm người” hay “không làm người”.
Bạn có thể không đồng ý và cho rằng sao mà cay đắng, gay gắt, và khó khăn thế? Bộ ai mà không có lỗi lầm sao?! Việc gì phải lên án kẻ này, kẻ khác. Thật ra, mọi người nếu có một suy nghĩ và lối sống bình thường sẽ không có quyền, và không nên phê phán, chê trách ai. Chỉ là nêu lên một trong những nét tương phản, và những dữ kiện rõ ràng giữa con người biết suy nghĩ, biết nói năng, và biết sống như một người, với những con người mà lương tri và hành động của họ không có sự kiểm soát, không tự chế và không biết kìm hãm. Tóm lại, bề ngoài tuy họ là những người nắm giữ các chức vụ cao trong xã hội, những người có những bằng cấp và học vị, những người có nhiều quyền bính trong tay, những người giầu có, danh giá… Những người có tên tuổi trên các diễn đàn văn học, nghệ thuật, khoa học, văn hóa hay chính trị… nhưng nếu nhìn vào hành động của họ, nhìn vào cách sống và cách cử xử của họ, thật sự không dám nghĩ họ là “người”. Bởi vì không thể tìm được chất người trong những hình hài ấy, những lối sống ấy!
Napoléon đã nói: “Thắng vạn quân không bằng thắng chính mình”. Việc biết và chế ngự được cái tôi là một điều hết sức khó khăn, đòi hỏi tất cả sự hiểu biết, ý chí, sức mạnh, và quyết tâm của mỗi người. Như người lính khi xông pha tên đạn, khi điều binh khiển tướng phải biết dùng sự hiểu biết, ý chí, sức mạnh, quyết tâm và sự khôn ngoan mới mong thắng được kẻ địch. Khí giới tối tân, và sự tiếp tế hậu cần như những đòn bẩy tâm lý để thắng lúc ấy mới hy vọng thắng trận.
Vậy để là người, và để có khả năng trị được cái tôi, bạn cần nhìn lại con người “tự nhiên” của mình. Con người dưới cái nhìn thực vật như một con heo, con chó chẳng hạn. Với góc nhìn này, bạn phải biết kìm hãm những đam mê của mình. Những cái thích, cái ham muốn không thuộc về mình. Bạn phải có can đảm làm chủ nó lúc đó bạn mới có thể ngồi vào bàn ăn với bạn bè mà không ăn uống nhồm nhoàm, ngấu nghiến, chộp dật. Và bạn không phát ngôn một cách bừa bãi, văng tục, chửi thề một cách vô tội vạ. Bạn sẽ không khua chân, múa tay, phùng mang, trợn mắt, và rút dao, rút súng với người này, người khác một cách vô lý, thiếu ý thức. Vì bạn là một người.
Và bạn phải tự chủ cảm tình của mình. Hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Tự chủ những giận hờn, những xung khắc, những nóng nảy, những khó chịu, những lời dèm pha, và những lời phê phán thiếu trách nhiệm đối với những người mà bạn cho là không hợp với bạn, không cùng phe phái với bạn. Vì bạn là một người.
Sau cùng bạn phải tập ý thức trách nhiệm và bổn phận đạo đức - đạo đức xã hội, cũng như đạo đức tâm linh. Thí dụ, bạn ra đường phải tuân thủ luật đi đường. Làm ăn, buôn bán phải thật thà, thành tín. Làm con phải hiếu thảo… Đó là những luật lệ của lương tâm của con người mà Thượng Đế đã “in” vào trong lòng, trong trí của bạn khi chào đời. Dù bạn cố tình quên hay cố tình từ chối thì những luật lệ ấy vẫn xuất hiện mỗi khi bạn toan tính hay thực hiện điều gian ác. Tiếng bình dân gọi là “tiếng nói lương tâm”. Vì bạn là một người.
Tóm lại, để là một người, bạn phải biết làm chủ bạn, làm chủ cái tôi của bạn. Cái tôi ấy là con người tự nhiên. Cái tôi ấy là những cảm tình, những đam mê đang cuồng nhiệt trong bạn. Và cái tôi ấy là những tiếng lương tâm đang nhắc nhở bạn mỗi ngày.
Hiểu được cái tôi. Ý thức được cái tôi. Và làm chủ được cái tôi như vậy là bạn làm chủ được bạn, và bạn là người. Chỉ sau khi đã là người rồi, bạn mới hy vọng có thể trở thành người hữu ích cho nhân loại, và mới thực sự bước vào hành trình “thánh nhân hóa” con người cũng như cuộc đời của bạn.
Trần Mỹ Duyệt
Mỗi lần suy nghĩ về “cái tôi”, tôi lại nhớ lời của một vị thánh nhân: “Muốn làm thánh phải làm người trước đã” (St. Gioan Boscô). Tôi rất tâm đắc với tư tưởng này, đặc biệt trong cái nhìn của tâm lý giáo dục và tâm lý đạo đức.
Một tư tưởng mà nếu suy nghĩ một cách chín chắn ta sẽ thấy nó hiện ra con người thực của mình, hoặc nói một cách nôm na là “cái tôi” của mỗi người.
Ở đây ta hãy gác chuyện làm thánh nhân, vì theo Gioan Boscô, muốn được như vậy, trước hết ta phải làm “người” cái đã. Nhưng người ở đây là gì? Phải chăng là trở thành “cái tôi’ như chính tôi phải có và muốn có. Bởi vì không ai có thể là người được, nếu thiếu đi cái tôi thật sự của chính mình. Vậy làm người là làm gì? Làm sao? Và làm như thế nào? Tại sao cần phải là người trước khi là bất cứ cái gì kể cả việc trở thành một thánh nhân.
Nếu nhìn vào thực tế, ta sẽ thấy được điều này là có nhiều người nếu cho họ không phải là người thì tội nghiệp cho “cái người” của họ. Xem ra như họ bị kinh bỉ, coi thường, và bị coi nhẹ. Nhưng nếu bảo họ là người thì lại tội cho “cái người” của chung chúng ta. Thật sự, để tìm được một từ ngữ thích hợp cho những con người ấy theo như cái nhìn của Gioan Boscô quả thật là khó khăn. Gọi họ là người cũng không đúng, mà gọi họ là cái gì khác với người cũng không được. Bởi một lẽ rất dễ hiểu vì họ là người nhưng tư tưởng, lời nói và hành động không lột tả được hình ảnh và thực chất cao quí của “con người”.
Bạn gọi một người xách dao, súng vào nhà người khác đâm, chém, và bắn chết chủ nhà để lấy tiền là gì? Là đứa ăn cướp hay quân ăn cướp phải không?! Bởi vì không một con người nào có lương tri, hiểu biết, và ý thức là người lại làm chuyện rồ rại, gây đau khổ cho người khác như vậy.
Bạn gọi những cô gái, những thiếu nữ xinh xắn nhưng khiêu gợi trong các quán bar, các phòng trà, hay tại những xó xỉnh đâu đó chào mời và mua bán dục vọng với khách qua đường là gì? Nhẹ nhàng thì bạn gọi là các cô gái ăn sương, phường buôn hương bán phấn. Nặng nề hơn là bọn đĩ điếm.
Bạn gọi một người con để có mấy trăm đồng đi nhậu với bạn bè, hút sách, hoặc cờ bạc đem dao đâm bố chết là gì? Chắc chắn cái từ “con” dễ thương và đầy cảm xúc sẽ không bao giờ được dùng cho hạng con này, ngược lại, bạn sẽ gọi đó là “thằng bất hiếu”. Đứa con trời đánh.
Bạn gọi một người dùng quyền bính, dùng bằng cấp, dùng địa vị của mình để ăn chặn, ăn cướp tài sản và đất đai người khác là gì? Chắc chắn không gọi họ là những bộ trưởng, chủ tịch, hay chánh án…, mà bạn dùng một từ chung là phường ăn cướp. Những kẻ hối mại quyền thế. Bọ bất nhân và vô lương tâm.
Bạn gọi một người mê man cờ bạc đến bán nhà, bán đất, bán xe. Hoặc một người rượu chè, nghiện hút đến tán gia bại sản, bỏ bê con cái lây lất, vợ con nheo nhóc là gì? Là những bợm nhậu, bọn ma men, và phường đỏ đen.
Còn nhiều và nhiều nữa những hình ảnh của một người nhưng không phải là người như trên.
Đó cũng là lý do tại sao có những người được người đời kính nể và yêu mến. Và tại sao có những người mà chỉ nghe đến cái tên của họ nhiều người đã phải dội lại và nhổ nước bọt. Người ta ngại không dám thốt ra những tên tuổi đó vì “dơ” miệng của mỉnh. Và người ta sợ không dám nghĩ đến những tên tuổi đó, vì sợ “phiền” đến trí nhớ của mình. Và điều làm cho có sự cách biệt ấy là gì? Dĩ nhiên, như Gioan Boscô đã nói, đó là “làm người” hay “không làm người”.
Bạn có thể không đồng ý và cho rằng sao mà cay đắng, gay gắt, và khó khăn thế? Bộ ai mà không có lỗi lầm sao?! Việc gì phải lên án kẻ này, kẻ khác. Thật ra, mọi người nếu có một suy nghĩ và lối sống bình thường sẽ không có quyền, và không nên phê phán, chê trách ai. Chỉ là nêu lên một trong những nét tương phản, và những dữ kiện rõ ràng giữa con người biết suy nghĩ, biết nói năng, và biết sống như một người, với những con người mà lương tri và hành động của họ không có sự kiểm soát, không tự chế và không biết kìm hãm. Tóm lại, bề ngoài tuy họ là những người nắm giữ các chức vụ cao trong xã hội, những người có những bằng cấp và học vị, những người có nhiều quyền bính trong tay, những người giầu có, danh giá… Những người có tên tuổi trên các diễn đàn văn học, nghệ thuật, khoa học, văn hóa hay chính trị… nhưng nếu nhìn vào hành động của họ, nhìn vào cách sống và cách cử xử của họ, thật sự không dám nghĩ họ là “người”. Bởi vì không thể tìm được chất người trong những hình hài ấy, những lối sống ấy!
Napoléon đã nói: “Thắng vạn quân không bằng thắng chính mình”. Việc biết và chế ngự được cái tôi là một điều hết sức khó khăn, đòi hỏi tất cả sự hiểu biết, ý chí, sức mạnh, và quyết tâm của mỗi người. Như người lính khi xông pha tên đạn, khi điều binh khiển tướng phải biết dùng sự hiểu biết, ý chí, sức mạnh, quyết tâm và sự khôn ngoan mới mong thắng được kẻ địch. Khí giới tối tân, và sự tiếp tế hậu cần như những đòn bẩy tâm lý để thắng lúc ấy mới hy vọng thắng trận.
Vậy để là người, và để có khả năng trị được cái tôi, bạn cần nhìn lại con người “tự nhiên” của mình. Con người dưới cái nhìn thực vật như một con heo, con chó chẳng hạn. Với góc nhìn này, bạn phải biết kìm hãm những đam mê của mình. Những cái thích, cái ham muốn không thuộc về mình. Bạn phải có can đảm làm chủ nó lúc đó bạn mới có thể ngồi vào bàn ăn với bạn bè mà không ăn uống nhồm nhoàm, ngấu nghiến, chộp dật. Và bạn không phát ngôn một cách bừa bãi, văng tục, chửi thề một cách vô tội vạ. Bạn sẽ không khua chân, múa tay, phùng mang, trợn mắt, và rút dao, rút súng với người này, người khác một cách vô lý, thiếu ý thức. Vì bạn là một người.
Và bạn phải tự chủ cảm tình của mình. Hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Tự chủ những giận hờn, những xung khắc, những nóng nảy, những khó chịu, những lời dèm pha, và những lời phê phán thiếu trách nhiệm đối với những người mà bạn cho là không hợp với bạn, không cùng phe phái với bạn. Vì bạn là một người.
Sau cùng bạn phải tập ý thức trách nhiệm và bổn phận đạo đức - đạo đức xã hội, cũng như đạo đức tâm linh. Thí dụ, bạn ra đường phải tuân thủ luật đi đường. Làm ăn, buôn bán phải thật thà, thành tín. Làm con phải hiếu thảo… Đó là những luật lệ của lương tâm của con người mà Thượng Đế đã “in” vào trong lòng, trong trí của bạn khi chào đời. Dù bạn cố tình quên hay cố tình từ chối thì những luật lệ ấy vẫn xuất hiện mỗi khi bạn toan tính hay thực hiện điều gian ác. Tiếng bình dân gọi là “tiếng nói lương tâm”. Vì bạn là một người.
Tóm lại, để là một người, bạn phải biết làm chủ bạn, làm chủ cái tôi của bạn. Cái tôi ấy là con người tự nhiên. Cái tôi ấy là những cảm tình, những đam mê đang cuồng nhiệt trong bạn. Và cái tôi ấy là những tiếng lương tâm đang nhắc nhở bạn mỗi ngày.
Hiểu được cái tôi. Ý thức được cái tôi. Và làm chủ được cái tôi như vậy là bạn làm chủ được bạn, và bạn là người. Chỉ sau khi đã là người rồi, bạn mới hy vọng có thể trở thành người hữu ích cho nhân loại, và mới thực sự bước vào hành trình “thánh nhân hóa” con người cũng như cuộc đời của bạn.
Bài giảng tại Santa Marta: Hãy giúp Giáo Hội đừng chiều theo con đường trục lợi
Đặng Tự Do 5/29/2015
Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng đức tin chân thật cởi mở, và tha thứ cho tha nhân, cũng như nài xin Chúa giúp các Kitô hữu và Giáo Hội chống lại một dạng tôn giáo ích kỷ, cằn cỗi và trục lợi. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu 29 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta.
Chúa Giêsu lên án chủ nghĩa vị kỷ tôn giáo
Lấy ý từ các bài đọc trong ngày, Đức Thánh Cha đã suy tư về ba cách sống, sử dụng những hình ảnh như cây vả không sinh trái, những kẻ buôn bán trong đền thờ, và con người có đức tin. Ngài nói rằng cây vả tượng trưng cho đời sống cằn cỗi, không thể đem lại điều gì và chẳng tốt lành gì cho tha nhân.
“Cây vả này sống cho bản thân mình, yên ổn, ích kỷ, không muốn gặp rắc rối gì. Và Chúa Giêsu nguyền rủa cây vả bởi nó cằn cỗi, bởi nó đã không trao ra chính mình để sinh hoa trái. Nó tượng trưng cho con người chẳng làm gì để giúp đỡ tha nhân, một người luôn chỉ biết sống cho chính mình khi không còn thiếu điều gì. Cuối cùng, những người này trở nên rối loạn tâm thần, tất cả những kẻ ấy đều như thế. Chúa Giêsu đã lên án dạng linh đạo vô sinh, thứ chủ nghĩa vị kỷ tinh thần [hồn ai nấy giữ] trong đó: ‘Tôi sống cho bản thân mình, cầu xin cho tôi đừng thiếu thốn sự gì, còn những kẻ khác thì hãy cứ tự lo cho mình đi’”
Đừng biến tôn giáo thành một doanh nghiệp
Đức Thánh Cha nói tiếp rằng lối sống thứ hai là của những người trục lợi, những kẻ buôn bán trong đền thờ, bận rộn đổi tiền và bán thú vật dùng cho hiến tế. Ngài nói rằng đây là những người biến tôn giáo thành một doanh nghiệp, bởi họ dùng nơi thánh để mua bán và đổi chác. Có cả chuyện một tư tế thúc giục các tín hữu hãy dâng cúng và thu được khối tiền, kể cả tiền của người nghèo. Ngài nhấn mạnh rằng, Chúa Giêsu đã không nhẹ giọng khi đuổi các con buôn ra khỏi đền thờ, nhưng mắng rằng, “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, nhưng các ngươi đã biến thành hang trộm cướp.”
“Những người hành hương lên đền thờ là để xin Chúa chúc lành, và dâng lễ vật. Những người này đã bị bóc lột! Các tư tế không dạy dỗ họ cầu nguyện cũng chẳng màng huấn giáo họ … bởi đây hang trộm cướp. Trả tiền rồi vào đi … các tư tế thực hiện những nghi lễ một cách vô hồn không có chút lòng đạo đức nào. Tôi không biết... nhưng có lẽ sẽ tốt cho chúng ta nếu cha thử nghĩ xem liệu chúng ta có gặp chuyện thế này ở đâu đó hay không. Chuyện người ta dùng những sự của Chúa để trục lợi cho mình ấy mà.’
Đức tin biết giúp đỡ người khác làm nên những phép lạ
Đức Thánh Cha nói tiếp về lối sống thứ ba, là phong cách sống đức tin như Chúa Giêsu đã chỉ ra. Có đức tin và cầu nguyện với Thiên Chúa sẽ giúp mang đến những phép lạ.
“Đây là phong cách sống của người có đức tin. ‘Lạy Cha, con phải làm gì?’ Hãy xin cùng Chúa, là Đấng sẽ giúp anh chị em làm việc thiện với đức tin. Nhưng có một điều kiện: khi anh chị em bắt đầu cầu nguyện cho điều này, nếu anh chị em đang nuôi lòng oán giận với ai, hãy tha thứ cho người đó. Đây là điều kiện độc nhất, bởi Cha trên trời cũng tha thứ tội lỗi của chúng ta vậy. Đó là lối sống thứ ba. Đó là đức tin, một đức tin giúp đỡ người khác, và tiến lại gần Chúa. Đức tin này tạo nên những phép lạ.’
Đức Thánh Cha kết luận bài giảng bằng lời cầu nguyện rằng ‘Xin Chúa dạy cho chúng ta phong cách sống đức tin này, xin Ngài giúp tất cả chúng ta và Giáo Hội đừng bao giờ chiều theo lối sống cằn cỗi và trục lợi.’
Đặng Tự Do 5/29/2015
Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng đức tin chân thật cởi mở, và tha thứ cho tha nhân, cũng như nài xin Chúa giúp các Kitô hữu và Giáo Hội chống lại một dạng tôn giáo ích kỷ, cằn cỗi và trục lợi. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu 29 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta.
Chúa Giêsu lên án chủ nghĩa vị kỷ tôn giáo
Lấy ý từ các bài đọc trong ngày, Đức Thánh Cha đã suy tư về ba cách sống, sử dụng những hình ảnh như cây vả không sinh trái, những kẻ buôn bán trong đền thờ, và con người có đức tin. Ngài nói rằng cây vả tượng trưng cho đời sống cằn cỗi, không thể đem lại điều gì và chẳng tốt lành gì cho tha nhân.
“Cây vả này sống cho bản thân mình, yên ổn, ích kỷ, không muốn gặp rắc rối gì. Và Chúa Giêsu nguyền rủa cây vả bởi nó cằn cỗi, bởi nó đã không trao ra chính mình để sinh hoa trái. Nó tượng trưng cho con người chẳng làm gì để giúp đỡ tha nhân, một người luôn chỉ biết sống cho chính mình khi không còn thiếu điều gì. Cuối cùng, những người này trở nên rối loạn tâm thần, tất cả những kẻ ấy đều như thế. Chúa Giêsu đã lên án dạng linh đạo vô sinh, thứ chủ nghĩa vị kỷ tinh thần [hồn ai nấy giữ] trong đó: ‘Tôi sống cho bản thân mình, cầu xin cho tôi đừng thiếu thốn sự gì, còn những kẻ khác thì hãy cứ tự lo cho mình đi’”
Đừng biến tôn giáo thành một doanh nghiệp
Đức Thánh Cha nói tiếp rằng lối sống thứ hai là của những người trục lợi, những kẻ buôn bán trong đền thờ, bận rộn đổi tiền và bán thú vật dùng cho hiến tế. Ngài nói rằng đây là những người biến tôn giáo thành một doanh nghiệp, bởi họ dùng nơi thánh để mua bán và đổi chác. Có cả chuyện một tư tế thúc giục các tín hữu hãy dâng cúng và thu được khối tiền, kể cả tiền của người nghèo. Ngài nhấn mạnh rằng, Chúa Giêsu đã không nhẹ giọng khi đuổi các con buôn ra khỏi đền thờ, nhưng mắng rằng, “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, nhưng các ngươi đã biến thành hang trộm cướp.”
“Những người hành hương lên đền thờ là để xin Chúa chúc lành, và dâng lễ vật. Những người này đã bị bóc lột! Các tư tế không dạy dỗ họ cầu nguyện cũng chẳng màng huấn giáo họ … bởi đây hang trộm cướp. Trả tiền rồi vào đi … các tư tế thực hiện những nghi lễ một cách vô hồn không có chút lòng đạo đức nào. Tôi không biết... nhưng có lẽ sẽ tốt cho chúng ta nếu cha thử nghĩ xem liệu chúng ta có gặp chuyện thế này ở đâu đó hay không. Chuyện người ta dùng những sự của Chúa để trục lợi cho mình ấy mà.’
Đức tin biết giúp đỡ người khác làm nên những phép lạ
Đức Thánh Cha nói tiếp về lối sống thứ ba, là phong cách sống đức tin như Chúa Giêsu đã chỉ ra. Có đức tin và cầu nguyện với Thiên Chúa sẽ giúp mang đến những phép lạ.
“Đây là phong cách sống của người có đức tin. ‘Lạy Cha, con phải làm gì?’ Hãy xin cùng Chúa, là Đấng sẽ giúp anh chị em làm việc thiện với đức tin. Nhưng có một điều kiện: khi anh chị em bắt đầu cầu nguyện cho điều này, nếu anh chị em đang nuôi lòng oán giận với ai, hãy tha thứ cho người đó. Đây là điều kiện độc nhất, bởi Cha trên trời cũng tha thứ tội lỗi của chúng ta vậy. Đó là lối sống thứ ba. Đó là đức tin, một đức tin giúp đỡ người khác, và tiến lại gần Chúa. Đức tin này tạo nên những phép lạ.’
Đức Thánh Cha kết luận bài giảng bằng lời cầu nguyện rằng ‘Xin Chúa dạy cho chúng ta phong cách sống đức tin này, xin Ngài giúp tất cả chúng ta và Giáo Hội đừng bao giờ chiều theo lối sống cằn cỗi và trục lợi.’
Bài giảng tại Santa Marta: Sự giàu có không chia sẻ tạo ra băng hoại
Đặng Tự Do 5/29/2015
Nếu anh chị em giàu có, anh chị em phải chắc chắn rằng sự giàu có của anh chị em phục vụ “công ích”. Một sự dư dật của cải trong lối sống ích kỷ là “buồn bã”, đánh cắp đi “niềm hy vọng”, và là nguồn gốc “của tất cả các loại băng hoại” lớn nhỏ. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong thánh lễ sáng thứ Hai 25 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta.
Đức Thánh Cha đã trình bày những suy tư về một trong những đoạn nổi tiếng nhất của Phúc Âm trong đó Chúa Giêsu gặp một người đàn ông trẻ tuổi giàu có. Anh nhiệt tình muốn theo Ngài và bảo đảm với Ngài rằng anh ta sẽ luôn luôn sống đúng theo các điều răn. Nhưng khi Chúa Giêsu nói với anh rằng còn một điều cần thiết cuối cùng là hãy bán đi mọi của cải và bố thí cho người nghèo và sau đó theo Ngài thì thái độ nhiệt thành và sự sẵn sàng của người thanh niên nhanh chóng thay đổi. Đột nhiên, “niềm vui và hy vọng” trong người thanh niên giàu có tan biến đi, vì anh ta không muốn từ bỏ sự giàu có của mình.
“Sự dính bén đến của cải là căn nguyên của tất cả các loại băng hoại, ở khắp mọi nơi: băng hoại cá nhân, tham nhũng trong kinh doanh, ngay cả những khoản tiền hối lộ trong thương mại, các loại bớt xén khi mua bán, tham nhũng chính trị, tham nhũng trong giáo dục ... Tại sao? Vì những người mà cuộc sống gắn liền với quyền lực và của cải tin rằng họ đang ở trên thiên đường. Họ đang đóng cửa, họ không có chân trời, không có hy vọng. Nhưng cuối cùng họ sẽ phải bỏ lại tất cả mọi thứ.”
Đức Thánh Cha nói tiếp:
“Có một bí ẩn trong sự sở hữu của cải. Sự giàu sang có khả năng dụ dỗ, đưa chúng ta đến một sự mê hoặc và làm cho chúng ta tin rằng chúng ta đang ở một thiên đường trên trái đất.” Nhưng thiên đường trần thế là một nơi không có "chân trời", tương tự như khu phố mà Đức Thánh Cha đã từng thấy vào những năm của thập niên bảy mươi, trong đó những người giàu có đã xây dựng những bức tường và hàng rào để bảo vệ tài sản mình khỏi bị trộm cắp.
“Sống mà không có chân trời là một cuộc sống vô sinh, sống không có hy vọng là một cuộc sống buồn tênh. Sự gắn bó với của cải làm cho chúng ta buồn và làm cho chúng ta vô sinh. Tôi nói ‘gắn bó’, tôi không nói về ‘sự quản lý tốt của cải’ cho lợi ích chung, cho tất cả mọi người. Và nếu Chúa ban của cải cho một người thì đó là để chúng được sử dụng vì lợi ích của tất cả, không phải cho bản thân người đó, không phải để người ấy đóng kín con tim, để rồi sau đó trở thành băng hoại và buồn bã.”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng: “Tài sản không đi kèm lòng quảng đại làm cho chúng ta tin rằng chúng ta có quyền năng như Thiên Chúa. Và cuối cùng nó lấy mất đi cái quý nhất là hy vọng”
Để kết luận, Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu đã chỉ ra trong Tin Mừng con đường đúng để sống.
“Mối phúc đầu tiên: ‘Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó’, nghĩa là lột bỏ sự gắn bó của cải thế gian này và bảo đảm rằng sự giàu có Chúa ban cho chúng ta được dùng cho thiện ích chung. Đó là cách duy nhất. Hãy mở bàn tay anh chị em ra, hãy mở rộng tâm hồn anh chị em, hãy rộng chân trời. Nếu anh chị em có đôi tay khép kín, con tim đóng lại như người phú hộ mở hết tiệc này đến tiệc khác và mặc toàn quần áo đắt tiền, anh chị em không có chân trời, anh chị em không nhìn thấy những người khác đang có nhu cầu và anh chị em sẽ kết thúc như người phú hộ ấy là xa cách Thiên Chúa”
Đặng Tự Do 5/29/2015
Nếu anh chị em giàu có, anh chị em phải chắc chắn rằng sự giàu có của anh chị em phục vụ “công ích”. Một sự dư dật của cải trong lối sống ích kỷ là “buồn bã”, đánh cắp đi “niềm hy vọng”, và là nguồn gốc “của tất cả các loại băng hoại” lớn nhỏ. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong thánh lễ sáng thứ Hai 25 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta.
Đức Thánh Cha đã trình bày những suy tư về một trong những đoạn nổi tiếng nhất của Phúc Âm trong đó Chúa Giêsu gặp một người đàn ông trẻ tuổi giàu có. Anh nhiệt tình muốn theo Ngài và bảo đảm với Ngài rằng anh ta sẽ luôn luôn sống đúng theo các điều răn. Nhưng khi Chúa Giêsu nói với anh rằng còn một điều cần thiết cuối cùng là hãy bán đi mọi của cải và bố thí cho người nghèo và sau đó theo Ngài thì thái độ nhiệt thành và sự sẵn sàng của người thanh niên nhanh chóng thay đổi. Đột nhiên, “niềm vui và hy vọng” trong người thanh niên giàu có tan biến đi, vì anh ta không muốn từ bỏ sự giàu có của mình.
“Sự dính bén đến của cải là căn nguyên của tất cả các loại băng hoại, ở khắp mọi nơi: băng hoại cá nhân, tham nhũng trong kinh doanh, ngay cả những khoản tiền hối lộ trong thương mại, các loại bớt xén khi mua bán, tham nhũng chính trị, tham nhũng trong giáo dục ... Tại sao? Vì những người mà cuộc sống gắn liền với quyền lực và của cải tin rằng họ đang ở trên thiên đường. Họ đang đóng cửa, họ không có chân trời, không có hy vọng. Nhưng cuối cùng họ sẽ phải bỏ lại tất cả mọi thứ.”
Đức Thánh Cha nói tiếp:
“Có một bí ẩn trong sự sở hữu của cải. Sự giàu sang có khả năng dụ dỗ, đưa chúng ta đến một sự mê hoặc và làm cho chúng ta tin rằng chúng ta đang ở một thiên đường trên trái đất.” Nhưng thiên đường trần thế là một nơi không có "chân trời", tương tự như khu phố mà Đức Thánh Cha đã từng thấy vào những năm của thập niên bảy mươi, trong đó những người giàu có đã xây dựng những bức tường và hàng rào để bảo vệ tài sản mình khỏi bị trộm cắp.
“Sống mà không có chân trời là một cuộc sống vô sinh, sống không có hy vọng là một cuộc sống buồn tênh. Sự gắn bó với của cải làm cho chúng ta buồn và làm cho chúng ta vô sinh. Tôi nói ‘gắn bó’, tôi không nói về ‘sự quản lý tốt của cải’ cho lợi ích chung, cho tất cả mọi người. Và nếu Chúa ban của cải cho một người thì đó là để chúng được sử dụng vì lợi ích của tất cả, không phải cho bản thân người đó, không phải để người ấy đóng kín con tim, để rồi sau đó trở thành băng hoại và buồn bã.”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng: “Tài sản không đi kèm lòng quảng đại làm cho chúng ta tin rằng chúng ta có quyền năng như Thiên Chúa. Và cuối cùng nó lấy mất đi cái quý nhất là hy vọng”
Để kết luận, Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu đã chỉ ra trong Tin Mừng con đường đúng để sống.
“Mối phúc đầu tiên: ‘Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó’, nghĩa là lột bỏ sự gắn bó của cải thế gian này và bảo đảm rằng sự giàu có Chúa ban cho chúng ta được dùng cho thiện ích chung. Đó là cách duy nhất. Hãy mở bàn tay anh chị em ra, hãy mở rộng tâm hồn anh chị em, hãy rộng chân trời. Nếu anh chị em có đôi tay khép kín, con tim đóng lại như người phú hộ mở hết tiệc này đến tiệc khác và mặc toàn quần áo đắt tiền, anh chị em không có chân trời, anh chị em không nhìn thấy những người khác đang có nhu cầu và anh chị em sẽ kết thúc như người phú hộ ấy là xa cách Thiên Chúa”
Bài giảng tại Santa Marta: Những Kitô hữu trần tục không thể vừa có cả Thiên Đàng lẫn Thế Gian
Đặng Tự Do 5/28/2015
Thật đáng buồn khi thấy những Kitô hữu vừa muốn “theo Chúa Giêsu vừa muốn những sự thuộc về thế gian này”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Ba 26 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta. Ngài nhấn mạnh rằng Kitô hữu được mời gọi đưa ra sự chọn lựa quyết liệt trong cuộc sống: anh chị em không thể là một Kitô hữu “nửa vời”, muốn “cả thiên đàng lẫn thế gian”.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha trình bày những suy tư trên câu hỏi thánh Phêrô đưa ra với Chúa Giêsu: ông và các tông đồ sẽ được hồi đáp những gì khi theo Chúa Giêsu? Thánh Phêrô đã đưa ra câu hỏi này sau khi Chúa bảo người thanh niên giàu có hãy bán hết của cải của anh và phân phát cho người nghèo.
Một Kitô hữu không thể có cả thiên đàng lẫn thế gian; đừng để mình dính bén vào của cải
Đức Thánh Cha ghi nhận rằng, Chúa Giêsu đã trả lời trái với sự mong đợi: Ngài không hứa ban giàu có cho các môn đệ, nhưng là hứa ban Nước Trời đi kèm với “bách hại và thập giá”.
“Vì thế khi một Kitô hữu dính bén vào của cải thế gian, người ấy đưa ra một ấn tượng rất xấu về người Kitô hữu muốn được cả hai: cả thiên đàng lẫn thế gian. Tiêu chí lựa chọn [của người môn đệ Chúa] chính xác là điều Chúa Giêsu đã nói: thập giá và bách hại, là từ bỏ mình và vác thánh giá mỗi ngày... Các môn đệ bị cám dỗ để vừa muốn theo Chúa nhưng lại muốn mặc cả. Cuộc mặc cả này kết thúc như thế nào đây?”
Đức Thánh Cha nhắc đến một đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu kể lại việc bà mẹ của hai tông đồ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu bảo đảm cho hai người con bà được hầu cận hai bên Ngài.
Đức Thánh Cha khôi hài rằng: “À! cho đứa này làm thủ tướng cho tôi - còn đứa kia làm bộ trưởng kinh tế… Bà đã chọn lợi lộc trần thế khi theo Chúa Giêsu”.
Đức Thánh Cha ghi nhận rằng khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống “tâm hồn các môn đệ được thanh tẩy, họ mới hiểu mọi sự. Theo Chúa Giêsu một cách nhưng không là sự đáp lại tình yêu và ơn cứu độ nhưng không của Ngài ban cho chúng ta”. Đức Thánh Cha cảnh cáo rằng “Khi ta muốn cùng đi cùng ở với cả Chúa Giêsu và thế gian, với cả sự khó nghèo và sự giàu sang thì đó là Kitô giáo nửa vời còn mải mê thu tích của cải đời này. Đó là tinh thần thế gian”
Sự giàu có, phù hoa và kiêu ngạo làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu
Lặp lại những lời của tiên tri Êlia, Đức Thánh Cha Phanxicô ám chỉ những kitô hữu loại này là người “khập khễnh trên hai chân” vì người ấy “không biết mình muốn gì”. Đức Thánh Cha khẳng định rằng để hiểu điều này, chúng ta phải nhớ điều Chúa nói “kẻ trước hết sẽ nên chót hết và người sau hết sẽ nên trước hết”, nghĩa là “ai tin hay ai là người cao trọng nhất” phải là “người tôi tớ và trở nên nhỏ bé nhất”.
“Theo Chúa Giêsu, theo quan điểm người ta thường tình, không phải là lựa chọn tốt vì đó là phục vụ như Ngài đã làm. Nếu Chúa ban cho anh chị em cơ hội trở nên người ‘trước hết’, thì anh chị em phải hành động giống như người chót hết, nghĩa là, phục vụ anh chị em mình. Và nếu Chúa ban cho anh chị em khả năng có nhiều của cải, thì anh chị em phải phục vụ, nghĩa là trao ban cho tha nhân. Có ba thứ, ba bước làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu là sự giàu có, phù hoa và lòng kiêu ngạo. Đó là tại sao ba điều này rất nguy hiểm! Sự giàu có ngay lập tức tạo nên hư danh và anh chị em nghĩ rằng mình quan trọng. Và khi anh chị em nghĩ mình quan trọng như thế thì anh chị em đánh mất đi cái đầu của mình và đánh mất chính mình”.
Một Kitô hữu trần tục là một dấu chỉ phản chứng.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Điều Chúa muốn nơi chúng ta là ‘lột sạch’ những bám víu trần tục. Chúa Giêsu đã mất nhiều thời gian mới làm cho các tông đồ hiểu được điều này ‘bởi vì họ không hiểu’. Chúng ta cũng phải xin Ngài dạy chúng ta “khoa học phục vụ này”, “khoa học về sự khiêm nhường, khoa học để trở nên chót hết hầu phục vụ anh chị em mình trong Giáo Hội”.
“Thật là buồn khi thấy một kitô hữu nửa vời cho dù đó là một giáo dân, một linh mục, hay một giám mục. Thật buồn khi anh chị em thấy một người vừa theo Chúa Giêsu vừa đam mê những sự thế gian. Và đây là một dấu chỉ phản chứng làm cho người ta xa Chúa Giêsu. Giờ đây, chúng ta tiếp tục cử hành Hy Tế Thánh Thể, trong khi suy gẫm về câu hỏi của Phêrô. ‘Chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy thì chúng con sẽ nhận được gì?’ Và hãy nghĩ về câu trả lời của Chúa Giêsu. Phần thưởng Ngài sẽ ban cho chúng ta là trở nên giống như Ngài. Đây là “ân thưởng” của chúng ta. Ân thưởng to lớn là được nên giống như Chúa Giêsu!”
Đặng Tự Do 5/28/2015
Thật đáng buồn khi thấy những Kitô hữu vừa muốn “theo Chúa Giêsu vừa muốn những sự thuộc về thế gian này”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Ba 26 tháng Năm tại nhà nguyện Santa Marta. Ngài nhấn mạnh rằng Kitô hữu được mời gọi đưa ra sự chọn lựa quyết liệt trong cuộc sống: anh chị em không thể là một Kitô hữu “nửa vời”, muốn “cả thiên đàng lẫn thế gian”.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha trình bày những suy tư trên câu hỏi thánh Phêrô đưa ra với Chúa Giêsu: ông và các tông đồ sẽ được hồi đáp những gì khi theo Chúa Giêsu? Thánh Phêrô đã đưa ra câu hỏi này sau khi Chúa bảo người thanh niên giàu có hãy bán hết của cải của anh và phân phát cho người nghèo.
Một Kitô hữu không thể có cả thiên đàng lẫn thế gian; đừng để mình dính bén vào của cải
Đức Thánh Cha ghi nhận rằng, Chúa Giêsu đã trả lời trái với sự mong đợi: Ngài không hứa ban giàu có cho các môn đệ, nhưng là hứa ban Nước Trời đi kèm với “bách hại và thập giá”.
“Vì thế khi một Kitô hữu dính bén vào của cải thế gian, người ấy đưa ra một ấn tượng rất xấu về người Kitô hữu muốn được cả hai: cả thiên đàng lẫn thế gian. Tiêu chí lựa chọn [của người môn đệ Chúa] chính xác là điều Chúa Giêsu đã nói: thập giá và bách hại, là từ bỏ mình và vác thánh giá mỗi ngày... Các môn đệ bị cám dỗ để vừa muốn theo Chúa nhưng lại muốn mặc cả. Cuộc mặc cả này kết thúc như thế nào đây?”
Đức Thánh Cha nhắc đến một đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu kể lại việc bà mẹ của hai tông đồ Giacôbê và Gioan xin Chúa Giêsu bảo đảm cho hai người con bà được hầu cận hai bên Ngài.
Đức Thánh Cha khôi hài rằng: “À! cho đứa này làm thủ tướng cho tôi - còn đứa kia làm bộ trưởng kinh tế… Bà đã chọn lợi lộc trần thế khi theo Chúa Giêsu”.
Đức Thánh Cha ghi nhận rằng khi Chúa Thánh Thần Hiện Xuống “tâm hồn các môn đệ được thanh tẩy, họ mới hiểu mọi sự. Theo Chúa Giêsu một cách nhưng không là sự đáp lại tình yêu và ơn cứu độ nhưng không của Ngài ban cho chúng ta”. Đức Thánh Cha cảnh cáo rằng “Khi ta muốn cùng đi cùng ở với cả Chúa Giêsu và thế gian, với cả sự khó nghèo và sự giàu sang thì đó là Kitô giáo nửa vời còn mải mê thu tích của cải đời này. Đó là tinh thần thế gian”
Sự giàu có, phù hoa và kiêu ngạo làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu
Lặp lại những lời của tiên tri Êlia, Đức Thánh Cha Phanxicô ám chỉ những kitô hữu loại này là người “khập khễnh trên hai chân” vì người ấy “không biết mình muốn gì”. Đức Thánh Cha khẳng định rằng để hiểu điều này, chúng ta phải nhớ điều Chúa nói “kẻ trước hết sẽ nên chót hết và người sau hết sẽ nên trước hết”, nghĩa là “ai tin hay ai là người cao trọng nhất” phải là “người tôi tớ và trở nên nhỏ bé nhất”.
“Theo Chúa Giêsu, theo quan điểm người ta thường tình, không phải là lựa chọn tốt vì đó là phục vụ như Ngài đã làm. Nếu Chúa ban cho anh chị em cơ hội trở nên người ‘trước hết’, thì anh chị em phải hành động giống như người chót hết, nghĩa là, phục vụ anh chị em mình. Và nếu Chúa ban cho anh chị em khả năng có nhiều của cải, thì anh chị em phải phục vụ, nghĩa là trao ban cho tha nhân. Có ba thứ, ba bước làm cho chúng ta xa Chúa Giêsu là sự giàu có, phù hoa và lòng kiêu ngạo. Đó là tại sao ba điều này rất nguy hiểm! Sự giàu có ngay lập tức tạo nên hư danh và anh chị em nghĩ rằng mình quan trọng. Và khi anh chị em nghĩ mình quan trọng như thế thì anh chị em đánh mất đi cái đầu của mình và đánh mất chính mình”.
Một Kitô hữu trần tục là một dấu chỉ phản chứng.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng: “Điều Chúa muốn nơi chúng ta là ‘lột sạch’ những bám víu trần tục. Chúa Giêsu đã mất nhiều thời gian mới làm cho các tông đồ hiểu được điều này ‘bởi vì họ không hiểu’. Chúng ta cũng phải xin Ngài dạy chúng ta “khoa học phục vụ này”, “khoa học về sự khiêm nhường, khoa học để trở nên chót hết hầu phục vụ anh chị em mình trong Giáo Hội”.
“Thật là buồn khi thấy một kitô hữu nửa vời cho dù đó là một giáo dân, một linh mục, hay một giám mục. Thật buồn khi anh chị em thấy một người vừa theo Chúa Giêsu vừa đam mê những sự thế gian. Và đây là một dấu chỉ phản chứng làm cho người ta xa Chúa Giêsu. Giờ đây, chúng ta tiếp tục cử hành Hy Tế Thánh Thể, trong khi suy gẫm về câu hỏi của Phêrô. ‘Chúng con bỏ mọi sự mà theo Thầy thì chúng con sẽ nhận được gì?’ Và hãy nghĩ về câu trả lời của Chúa Giêsu. Phần thưởng Ngài sẽ ban cho chúng ta là trở nên giống như Ngài. Đây là “ân thưởng” của chúng ta. Ân thưởng to lớn là được nên giống như Chúa Giêsu!”
Lees Sandwiches Thu Hồi 213,192 pounds Sản Phẩm (vb)
GARDEN GROVE, Calif. - Một công ty thực phẩm tại California có tên là Lee Bros. Foodservice Inc. -- hiện điều hành các tiệm Lees Sandwiches -- đang phải thu hồi nhiều sản phẩm.
Việc sử dụng sai trái một dấu thanh tra đã buộc công ty thu hồi 213,192 pounds (tương đương 96,702 kilogram, tức hơn 96 tấn) các sản phẩm thịt heo, thịt bò, thịt gà...
Các thịt này cũng chưa được thanh tra, theo lời Sở Thanh Tra An Toàn Thực Phẩm của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ.
Các sản phẩm này được bán trong khi mang dấu thanh tra của một cơ sở khác, có tên là “Establishment number 18995.”
Trang web chính phủ Mỹ
http://www.fsis.usda.gov/
ghi rằng các sản phẩm chưa thanh tra có khả năng gây hại sức khỏe, và sản xuất từ ngày 18-3-2014 tới ngày 18-5-2015.
Các sản phẩm phải thu hồi đã được bán ở nhiều nơi trong các tiểu bang Arizona, California, Nevada, Oklahoma, Oregon và Texas.
Các sản phẩm thu hồi có thê ngoaì nhãn hiệu có chữ “Est. 11041” hay “P-11041” bên trong dấu kiểm tra của Bộ Nông Nghiệp.
Liệt kê có bánh bao thịt heo và trứng, bánh bao trứng cút và trứng cút, bánh patechaud thịt heo, bánh pate chaud thịt gà, thịt khô bò...
Khách hàng có câu hỏi về an toàn thực phẩm có thể vào liên lạc ở đây:
http://www.fsis.usda.gov/reportproblem.
GARDEN GROVE, Calif. - Một công ty thực phẩm tại California có tên là Lee Bros. Foodservice Inc. -- hiện điều hành các tiệm Lees Sandwiches -- đang phải thu hồi nhiều sản phẩm.
Việc sử dụng sai trái một dấu thanh tra đã buộc công ty thu hồi 213,192 pounds (tương đương 96,702 kilogram, tức hơn 96 tấn) các sản phẩm thịt heo, thịt bò, thịt gà...
Các thịt này cũng chưa được thanh tra, theo lời Sở Thanh Tra An Toàn Thực Phẩm của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ.
Các sản phẩm này được bán trong khi mang dấu thanh tra của một cơ sở khác, có tên là “Establishment number 18995.”
Trang web chính phủ Mỹ
http://www.fsis.usda.gov/
ghi rằng các sản phẩm chưa thanh tra có khả năng gây hại sức khỏe, và sản xuất từ ngày 18-3-2014 tới ngày 18-5-2015.
Các sản phẩm phải thu hồi đã được bán ở nhiều nơi trong các tiểu bang Arizona, California, Nevada, Oklahoma, Oregon và Texas.
Các sản phẩm thu hồi có thê ngoaì nhãn hiệu có chữ “Est. 11041” hay “P-11041” bên trong dấu kiểm tra của Bộ Nông Nghiệp.
Liệt kê có bánh bao thịt heo và trứng, bánh bao trứng cút và trứng cút, bánh patechaud thịt heo, bánh pate chaud thịt gà, thịt khô bò...
Khách hàng có câu hỏi về an toàn thực phẩm có thể vào liên lạc ở đây:
http://www.fsis.usda.gov/reportproblem.
Xin Phổ Biến
May 4, 2015
(714) 890-1418
[email protected]
ĐIỀU TRA NỘI BỘ CỦA TỔNG HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM MIỀN NAM CALIFORNIA PHÁT HIỆN CHỦTỊCH, NINA TRẦN PHƯƠNG CHÂU, VÀ THỦ QUỸ, HELEN PHAN NGUYỄN, ĐÃ GIAN LẬN, TRỘM CẮP, BIỂN THỦ TÀI CHÍNH CỦA HỘI; THSV ĐÃ BÁO CẢNH SÁT ĐỊA PHƯƠNG VÀ CÁCH CHỨC CẢ HAI
Garden Grove, CA – Sau thời gian dài điều tra nội bộ, Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam Miền Nam Cali (THSV) đã báo sở cảnh sát thành phố Garden Grove về hai nghi phạm là đương kim chủ tịch, Nina Trần Phương Châu, và thủquỹ, Helen Phan Nguyễn, đã gian lận, trộm cắp, và biển thủ $118,000.00 từ ngân quỹ của hội. Nina Trần và Helen Nguyễn đều là tình nguyện viên và được bầu vào ban chấp hành THSV từ năm 2013. Nina Trần cũng đã từng giữ chức vụ phó chủ tịch ngoại vụ trong ban chấp hành nhiệm kỳ trước đó.Khi duyệt xét bản báo cáo tài chính của Hội Tết Sinh Viên 2013, những thành viên cố vấn THSV đã rất quan tâm đến sự quản lý chi thu tài chính dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Nina Trần. THSV đã có những buổi họp nội bộ để giải quyết những quan tâm đến khả năng và cách thức điều hành Hội Tết của ban chấp hành. Trong lúc đó, THSV cũng phát hiện Nina Trần đã xử dụng thẻ tài khoản ngân hàng (debit card) của Hội Tết Sinh Viên một cách bất bình thường. Các cốvấn THSV họp với ban chấp hành THSV vài lần vào tháng 8 và 9 năm 2014 về việc này nhưng không thấy có hành động và giải thích thoả đáng từ ban chấp hành THSV.Tháng 11 năm 2014, THSV phát hiện Nina Trần và Helen Nguyễn đã dùng ngân khoản của THSV trả thẻ tín dụng cá nhân và rút tiền mặt nhiều lần từ ngân hàng. THSV cho Nina Trần và Helen Nguyễn 4 tuần để đưa ra bản chi thu tài chính của hội mà cho đến nay vẫn chưa thấy hai cô đưa ra đầy đủ tài liệu và chi tiết. THSV đã đóng các chương mục ngân hàng do Nina Trần và Helen Nguyễn đứng tên để tránh sự tiếp tục xử dụng ngân khoản bất hợp pháp. Cùng lúc đó, ban chấp hành THSV được thông báo là cố vấn của hội sẽ lập ban điều tra nội bộ để tiến hành điều tra việc lạm dụng ngân quỹ.Vào cuối tháng 4 năm 2015, ban điều tra đã hoàn tất cuộcđiều tra và lập ra bản báo cáo về sự gian lận, trộm cắp, biển thủ ngân quỹ THSV lên tổng số $118,000.00 dựa trên những báo cáo ngân hàng từ tháng 11/2012 đến tháng 11/2014. Nina Trần và Helen Nguyễn đã tự xử dụng ngân khoản không hợp pháp và ngoài phạm vi của vai trò. Nina Trần đã tự xử dụng và trộm cắp $103,000.00. THSV đã thu lại được $33,224.00 từ Nina Trần trong lúc điều tra; tổng số chưa được hoàn lại là $70,00.00. Helen Nguyễn xử dụng $15,000.00 từngân khoản của hội không hợp pháp và ngoài phạm vi của vai trò.THSV đã báo cảnh sát thành phố Garden Grove và Công TốViên Tiểu Bang California. Nina Trần và Helen Nguyễn đều bị cách chức vai trò ban chấp hành từ ngày 3 tháng 5 năm 2015. THSV sẽ cố gắng thu hồi số tiền đã mất và sẽ bổ nhiệm ban chấp hành tạm thời để quản lý quy tắc tài chính và đạođức của hội, nhằm tránh sự lạm dụng ngân khoản trong tương lai.Đây thật sự là điều đáng tiếc xảy ra cho THSV, khi THSV phải điều tra về hai cá nhân đang làm thiện nguyện viên của hội. Tuy nhiên, hai người này không phản ánh đến hàng trăm sinh viên và học sinh khác đã tham gia hội trong suốt những năm qua và đã đóng góp rất nhiều trong cộng đồng. THSV sẽluôn giữ tinh thần phục vụ cộng đồng, bảo vệ truyền thống dân tộc Việt Nam, cũng như tiếp tục phát triển và đào tạo những nhà lãnh đạo giới trẻ trong sạch và đạo đức cho cộng đồng chúng ta.
For Immediate Release
May 4, 2015
(714) 890-1418
[email protected]
INTERNAL INVESTIGATION EXPOSES POSSIBLE FRAUD, THEFT, AND EMBEZZLEMENT BY PRESIDENT NINA TRAN AND TREASURER HELEN NGUYEN; UVSA FILES REPORT WITH LOCAL POLICE AND REMOVES BOTH FROM OFFICE
GARDEN GROVE, CA – After an extensive internal investigation, the Union of the Vietnamese Student Associations of Southern California (UVSA) filed a police report with the Garden Grove Police Department for suspected fraud, theft, and embezzlement of approximately $118,000.00 by its current president, Nina Tran, and treasurer, Helen Nguyen. Both have served as non-paid executive board members of the organization since June 2013. Nina Tran also served as External Vice President in the previous term.Serious concerns about the financial management of UVSA under Nina Tran’s leadership arose during mandated financial reviews of the 2013 Tet Festival, an internal meeting was held to address concerns about the executive board’s ability to move forward with the festival. Further irregularities were found related to a Tet Festival debit bank card used by Nina Tran. This was brought to the Executive Board’s attention several times between August and September 2014 but no record of actions were taken or explanation given by the Executive Board.In November 2014, Nina Tran and Helen Nguyen were confronted with irregularities ranging from personal credit card bill payments to repeated cash withdrawals from ATMs. Nina Tran and Helen Nguyen were given four weeks to provide documentation of expenses and spending of UVSA funds, which to this date has not been fully produced. Additionally, all existing bank accounts under their names were closed to prevent further access to organizational funds. The Executive Board was informed that there would be an internal investigation of suspected financial mismanagement. A UVSA Oversight Committee was formed to conduct the investigation and minimize negative impact on the organization’s programs and operations.The investigation came to a close on April 24, 2015 and found evidence of fraud, theft, and embezzlement of UVSA charitable funds in the amount of approximately $118,000.00 based on financial documents examined between November 2012 and November 2014. The findings confirm unauthorized use of UVSA charitable funds by two executive board members. Nina Tran is responsible for approximately $103,000.00 in stolen funds and unauthorized expenditures. This includes $33,224.00 that has been recovered by UVSA during the investigation; the outstanding amount is $70,000.00. Helen Nguyen, UVSA Treasurer, is responsible for approximately $15,000.00 in unauthorized expenditures.UVSA has filed a report with the Garden Grove Police Department and California Attorney General. Nina Tran and Helen Nguyen have been removed from their Executive Board positions as of May 3, 2015 and UVSA will make every effort to recover the stolen funds. Moving forward, UVSA will appoint an interim Board of Directors to create a culture of transparency and ethics, provide oversight, and to implement internal controls to prevent individuals from taking advantage of the organization again in the future.It is unfortunate for UVSA to undergo this type of investigation and discover misconduct by two individuals in the organization. However, these two individuals do not reflect the greater good of the hundreds of student and youth leaders throughout the organization. UVSA remains committed to community service, preserving the Vietnamese culture, and developing leaders for our community.
May 4, 2015
(714) 890-1418
[email protected]
ĐIỀU TRA NỘI BỘ CỦA TỔNG HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM MIỀN NAM CALIFORNIA PHÁT HIỆN CHỦTỊCH, NINA TRẦN PHƯƠNG CHÂU, VÀ THỦ QUỸ, HELEN PHAN NGUYỄN, ĐÃ GIAN LẬN, TRỘM CẮP, BIỂN THỦ TÀI CHÍNH CỦA HỘI; THSV ĐÃ BÁO CẢNH SÁT ĐỊA PHƯƠNG VÀ CÁCH CHỨC CẢ HAI
Garden Grove, CA – Sau thời gian dài điều tra nội bộ, Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam Miền Nam Cali (THSV) đã báo sở cảnh sát thành phố Garden Grove về hai nghi phạm là đương kim chủ tịch, Nina Trần Phương Châu, và thủquỹ, Helen Phan Nguyễn, đã gian lận, trộm cắp, và biển thủ $118,000.00 từ ngân quỹ của hội. Nina Trần và Helen Nguyễn đều là tình nguyện viên và được bầu vào ban chấp hành THSV từ năm 2013. Nina Trần cũng đã từng giữ chức vụ phó chủ tịch ngoại vụ trong ban chấp hành nhiệm kỳ trước đó.Khi duyệt xét bản báo cáo tài chính của Hội Tết Sinh Viên 2013, những thành viên cố vấn THSV đã rất quan tâm đến sự quản lý chi thu tài chính dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Nina Trần. THSV đã có những buổi họp nội bộ để giải quyết những quan tâm đến khả năng và cách thức điều hành Hội Tết của ban chấp hành. Trong lúc đó, THSV cũng phát hiện Nina Trần đã xử dụng thẻ tài khoản ngân hàng (debit card) của Hội Tết Sinh Viên một cách bất bình thường. Các cốvấn THSV họp với ban chấp hành THSV vài lần vào tháng 8 và 9 năm 2014 về việc này nhưng không thấy có hành động và giải thích thoả đáng từ ban chấp hành THSV.Tháng 11 năm 2014, THSV phát hiện Nina Trần và Helen Nguyễn đã dùng ngân khoản của THSV trả thẻ tín dụng cá nhân và rút tiền mặt nhiều lần từ ngân hàng. THSV cho Nina Trần và Helen Nguyễn 4 tuần để đưa ra bản chi thu tài chính của hội mà cho đến nay vẫn chưa thấy hai cô đưa ra đầy đủ tài liệu và chi tiết. THSV đã đóng các chương mục ngân hàng do Nina Trần và Helen Nguyễn đứng tên để tránh sự tiếp tục xử dụng ngân khoản bất hợp pháp. Cùng lúc đó, ban chấp hành THSV được thông báo là cố vấn của hội sẽ lập ban điều tra nội bộ để tiến hành điều tra việc lạm dụng ngân quỹ.Vào cuối tháng 4 năm 2015, ban điều tra đã hoàn tất cuộcđiều tra và lập ra bản báo cáo về sự gian lận, trộm cắp, biển thủ ngân quỹ THSV lên tổng số $118,000.00 dựa trên những báo cáo ngân hàng từ tháng 11/2012 đến tháng 11/2014. Nina Trần và Helen Nguyễn đã tự xử dụng ngân khoản không hợp pháp và ngoài phạm vi của vai trò. Nina Trần đã tự xử dụng và trộm cắp $103,000.00. THSV đã thu lại được $33,224.00 từ Nina Trần trong lúc điều tra; tổng số chưa được hoàn lại là $70,00.00. Helen Nguyễn xử dụng $15,000.00 từngân khoản của hội không hợp pháp và ngoài phạm vi của vai trò.THSV đã báo cảnh sát thành phố Garden Grove và Công TốViên Tiểu Bang California. Nina Trần và Helen Nguyễn đều bị cách chức vai trò ban chấp hành từ ngày 3 tháng 5 năm 2015. THSV sẽ cố gắng thu hồi số tiền đã mất và sẽ bổ nhiệm ban chấp hành tạm thời để quản lý quy tắc tài chính và đạođức của hội, nhằm tránh sự lạm dụng ngân khoản trong tương lai.Đây thật sự là điều đáng tiếc xảy ra cho THSV, khi THSV phải điều tra về hai cá nhân đang làm thiện nguyện viên của hội. Tuy nhiên, hai người này không phản ánh đến hàng trăm sinh viên và học sinh khác đã tham gia hội trong suốt những năm qua và đã đóng góp rất nhiều trong cộng đồng. THSV sẽluôn giữ tinh thần phục vụ cộng đồng, bảo vệ truyền thống dân tộc Việt Nam, cũng như tiếp tục phát triển và đào tạo những nhà lãnh đạo giới trẻ trong sạch và đạo đức cho cộng đồng chúng ta.
For Immediate Release
May 4, 2015
(714) 890-1418
[email protected]
INTERNAL INVESTIGATION EXPOSES POSSIBLE FRAUD, THEFT, AND EMBEZZLEMENT BY PRESIDENT NINA TRAN AND TREASURER HELEN NGUYEN; UVSA FILES REPORT WITH LOCAL POLICE AND REMOVES BOTH FROM OFFICE
GARDEN GROVE, CA – After an extensive internal investigation, the Union of the Vietnamese Student Associations of Southern California (UVSA) filed a police report with the Garden Grove Police Department for suspected fraud, theft, and embezzlement of approximately $118,000.00 by its current president, Nina Tran, and treasurer, Helen Nguyen. Both have served as non-paid executive board members of the organization since June 2013. Nina Tran also served as External Vice President in the previous term.Serious concerns about the financial management of UVSA under Nina Tran’s leadership arose during mandated financial reviews of the 2013 Tet Festival, an internal meeting was held to address concerns about the executive board’s ability to move forward with the festival. Further irregularities were found related to a Tet Festival debit bank card used by Nina Tran. This was brought to the Executive Board’s attention several times between August and September 2014 but no record of actions were taken or explanation given by the Executive Board.In November 2014, Nina Tran and Helen Nguyen were confronted with irregularities ranging from personal credit card bill payments to repeated cash withdrawals from ATMs. Nina Tran and Helen Nguyen were given four weeks to provide documentation of expenses and spending of UVSA funds, which to this date has not been fully produced. Additionally, all existing bank accounts under their names were closed to prevent further access to organizational funds. The Executive Board was informed that there would be an internal investigation of suspected financial mismanagement. A UVSA Oversight Committee was formed to conduct the investigation and minimize negative impact on the organization’s programs and operations.The investigation came to a close on April 24, 2015 and found evidence of fraud, theft, and embezzlement of UVSA charitable funds in the amount of approximately $118,000.00 based on financial documents examined between November 2012 and November 2014. The findings confirm unauthorized use of UVSA charitable funds by two executive board members. Nina Tran is responsible for approximately $103,000.00 in stolen funds and unauthorized expenditures. This includes $33,224.00 that has been recovered by UVSA during the investigation; the outstanding amount is $70,000.00. Helen Nguyen, UVSA Treasurer, is responsible for approximately $15,000.00 in unauthorized expenditures.UVSA has filed a report with the Garden Grove Police Department and California Attorney General. Nina Tran and Helen Nguyen have been removed from their Executive Board positions as of May 3, 2015 and UVSA will make every effort to recover the stolen funds. Moving forward, UVSA will appoint an interim Board of Directors to create a culture of transparency and ethics, provide oversight, and to implement internal controls to prevent individuals from taking advantage of the organization again in the future.It is unfortunate for UVSA to undergo this type of investigation and discover misconduct by two individuals in the organization. However, these two individuals do not reflect the greater good of the hundreds of student and youth leaders throughout the organization. UVSA remains committed to community service, preserving the Vietnamese culture, and developing leaders for our community.
Vui
Buồn Cựu Chủng Sinh
Chuyện có thật 100% như sau:
Có 1 Ông "Tu ra" đã có gia đình và hiện cư ngụ tại Houston, TX thường tự khoe mình cùng 1 lớp với Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt (Đức Tổng đã về hưu). Ông được Cha chính xứ của một Nhà Thờ nọ ở Houston cho giữ 1 chức vụ rất quan trọng trong GX, bất cứ 1 cuộc họp nào của GX đều phải có mặt của Ông (Ông không phải Chủ Tịch Hội Đồng Mục Vụ) và Ông còn là Cố Vấn tối cao cho Cha xứ và nhà dòng của Cha xứ này, (không phải nhà dòng mà Ông tu ra) khi về Việt Nam, Ông được các Cựu Chủng Sinh trải thảm đỏ đón tiếp vì Ông là lớp đàn Anh lại còn là lớp nổi tiếng có những vị Giám Mục, các lớp đàn Anh, đàn Em nhìn Ông với muôn ngàn kính phục, vì Ông là 1 thương gia đang thành công trên đất Mỹ, không những thế Ông lại còn là một Cố Vấn tối cao cho Cha xứ và nhà dòng nọ, nên ai cũng phải tin tưởng, nhưng cuộc đời có ai học được chữ NGỜ.
Vào tháng 4, 2014, có 1 Linh Mục lớp đàn em của Ông đã được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá cho một giáo phận nọ. Nhân dịp Ngài ghé Houston chơi mấy ngày, Ngài và Anh Em Cựu Chủng Sinh muốn gặp nhau để cùng trò chuyện vui buồn trong những năm tháng mài đũng quần trong chủng viện. Đức Cha và Anh Em Cựu Chủng Sinh đã email mời Ông tới để tâm tình, học hỏi, nhưng lần nào cũng được Ông trả lời lại là rất bận công việc, mặc dù chỉ mất vài phút lái xe. Chả lẽ.
- Vì bận Cố Vấn cho Cha Xứ, cho nhà dòng nọ để lo kinh tài ?
- Sợ phải trả TIỀN uống cà phê vì mình là lớp đàn Anh ?
- Có phải thật sự Ông cùng lớp với Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt không ?
- Hay ở ngay cạnh căn cứ Long Bình Biên Hòa. Nổ quá nên phải trốn ?
- Lại kiểu "Thấy người sang bắt quàng làm họ" ?
Cựu Chủng Sinh Long Xuyên
Chuyện có thật 100% như sau:
Có 1 Ông "Tu ra" đã có gia đình và hiện cư ngụ tại Houston, TX thường tự khoe mình cùng 1 lớp với Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt (Đức Tổng đã về hưu). Ông được Cha chính xứ của một Nhà Thờ nọ ở Houston cho giữ 1 chức vụ rất quan trọng trong GX, bất cứ 1 cuộc họp nào của GX đều phải có mặt của Ông (Ông không phải Chủ Tịch Hội Đồng Mục Vụ) và Ông còn là Cố Vấn tối cao cho Cha xứ và nhà dòng của Cha xứ này, (không phải nhà dòng mà Ông tu ra) khi về Việt Nam, Ông được các Cựu Chủng Sinh trải thảm đỏ đón tiếp vì Ông là lớp đàn Anh lại còn là lớp nổi tiếng có những vị Giám Mục, các lớp đàn Anh, đàn Em nhìn Ông với muôn ngàn kính phục, vì Ông là 1 thương gia đang thành công trên đất Mỹ, không những thế Ông lại còn là một Cố Vấn tối cao cho Cha xứ và nhà dòng nọ, nên ai cũng phải tin tưởng, nhưng cuộc đời có ai học được chữ NGỜ.
Vào tháng 4, 2014, có 1 Linh Mục lớp đàn em của Ông đã được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá cho một giáo phận nọ. Nhân dịp Ngài ghé Houston chơi mấy ngày, Ngài và Anh Em Cựu Chủng Sinh muốn gặp nhau để cùng trò chuyện vui buồn trong những năm tháng mài đũng quần trong chủng viện. Đức Cha và Anh Em Cựu Chủng Sinh đã email mời Ông tới để tâm tình, học hỏi, nhưng lần nào cũng được Ông trả lời lại là rất bận công việc, mặc dù chỉ mất vài phút lái xe. Chả lẽ.
- Vì bận Cố Vấn cho Cha Xứ, cho nhà dòng nọ để lo kinh tài ?
- Sợ phải trả TIỀN uống cà phê vì mình là lớp đàn Anh ?
- Có phải thật sự Ông cùng lớp với Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt không ?
- Hay ở ngay cạnh căn cứ Long Bình Biên Hòa. Nổ quá nên phải trốn ?
- Lại kiểu "Thấy người sang bắt quàng làm họ" ?
Cựu Chủng Sinh Long Xuyên
LUẬT SƯ CỦA ĐỨC ÔNG NGUYỄN MINH HIỀN NÓI THÂN CHỦ VẪN GIỮ TIỀN TRONG TÀI KHOẢN RIÊNG NHƯNG KHÔNG MẤT.. ĐANG TÌM TỔ CHỨC TỪ THIỆN ĐỂ CHO !
Thursday, April 23, 2015
VietPress USA (23-4-2015): Vụ án Đức Ông NGUYỄN MINH HIỀN thuộc Giáo phận San Jose vừa bị Cảnh Sát Hoa Kỳ bắt hôm Thứ Bảy 18-4-2015 tại Fort Lauderdale,, Tiểu bang Florida và bị đưa ra Tòa án Liên Bang lần đầu tiên vào sáng Thứ Hai 20-4-2015; nay được Luật sư David Cohen đại diện cho Đức Ông Hiền phổ biến tin tức cho biết thân chủ của ông giữ tiền của giáo dân đóng góp vì họ tin tưởng đưa cho ông cho đến khi nào tìm ra tổ chức thiện nguyện thích hợp để trao tặng chứ không hề mất.
Tại phiên Tòa đầu tiên, theo thông báo của Abraham Simmons là phát ngôn viên của Biện lý Liên bang Melinda Haag cho biết, Đức ông Nguyễn Minh Hiền bị cáo buộc vi phạm 14 tội danh về gian lận Ngân Hàng số tiền US$19,000.00 và 4 tội danh trốn thuế số tiền thu lợi cá nhân lên trên US$1.1 Triệu. (Xem tin của VietPress USA đã loan tại Link: http://www.vietpressusa.com/2015/04/chuyen-ang-xon-xao-uc-ong-cong-giao.html ).
Như vậy một mình Linh mục Hiền đã nắm các chức vụ rất quan trọng, gồm:
- Linh mục Đại Diện Pháp Lý của Tòa Án Giáo Hội Vatican để xử xét các vụ việc liên quan đến Giáo Luật Công giáo; đối với giáo dân và cả hàng giáo sĩ.
- Đại diện Tòa Giám Mục San Jose đối với Giáo sĩ và giáo dân Mỹ gốc Việt thuộc Giáo Phận San Jose.
- Linh mục Chánh xứ giáo xứ Thánh Patrick, sau nầy đổi tên là Giáo xứ Đức Mẹ La-Vang.
- Điều hành quản lý Trường học của Giáo xứ Saint Patrick.
- Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tại San Jose.
- Phẩm trật là "Đức Ông" do Giáo Hoàng Benedicto Thứ 16 vinh phong.
Trước khi Linh mục Hiền được bổ nhiệm làm Chánh xứ tại nhà thờ Saint Patrick San Jose thì ở đó đã có nhà thờ xây lại vào năm 1967 sau khi nhà thờ cũ bị động đất ở San Francisco làm sụp đổ vào ngày 18-4-1906. Thời gian trước khi Lm Hiền đến Giáo xứ Saint Patrick thì ngôi thánh đường được sử dụng chung cho giáo dân Mỹ, giáo dân Mễ và Giáo dân Việt.
Ngươi Việt ngày càng đông trong những năm ngành điện tử tại Silicon Valley bùng phát nên thánh đường làm lễ phân chia giờ của giáo dân Việt với thánh lễ Mỹ và Mễ tỏ ra khó khăn và không đủ chỗ. Thế nên những người Công giáo gốc Việt đã tự quyên góp tiền và xin phép Đức Giám Mục cho phép gây quỹ xây dựng Trung Tâm Công Giáo Việt Nam. Đức Giám Mục đầu tiên của Giáo phận San Jose là Roland Pierre DuMaine (làm Giám Mục San Jose từ 27-01-1981 đến 27-11-1999) đã đồng ý vào đầu năm 1999 và cho quỹ xây dựng Trung Tâm Công Giáo Việt Nam một số tiền để mua khu đất ở đường South White, San Jose.
Đức Giám Mục Patrick Joseph McGrath đến nhận Giáo Phận San Jose ngày 27-11-1999 thay cho Giám Mục đầu tiên là Roland Pierre DuMaine về nghỉ hưu (http://en.wikipedia.org/wiki/Pierre_DuMaine) thì Lm Nguyễn Minh Hiền được Đức Giám Mục Patrick Joseph McGrath) bổ nhiệm làm Chánh xứ tại Nhà thờ Saint Patrick, San Jose. Lm Hiền kiêm luôn Trường Học của Nhà thờ Saint Patrick. Nhà thờ Saint Patrick cũng như Trường học đã thâm thủng nợ nên Lm Hiền đã nổ lực hoạt động, trả hết nợ và được Tòa Giám Mục tin tưởng.
Qua sự tin tưởng nầy, Lm Hiền thay vì giúp Hội đồng các Giáo Dân thực hiện chương trình xây dựng ngôi Đại Giáo Đường Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tại San Jose; thì Lm Hiền lại làm tờ trình đề nghị Tòa Giám Mục rút lại chương trình nầy và thu hồi lại tiền bạc; cũng như chấm dứt vai trò của Hội đồng Giáo Dân lâu nay vận động chương trình xây dựng Trung Tâm Công Giáo Việt Nam.
Tiếp theo là Lm Hiền được Giám Mục Grath bổ nhiệm chức vụ Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam San Jose và số tiền đã gây quỹ, sổ sách tiền bạc nay chỉ có Lm Hiền quản lý và báo cáo với Tòa Giám Mục và tuyệt nhiên giáo dân không còn hay biết gì nữa.
Quyền hạn của Lm Hiền càng lớn lao hơn khi được Giám Mục địa phận San Jose đề nghị lên Đức Giáo Hoàng Benedicto Thứ 16 phong cho Lm Nguyễn Minh Hiền chức phẩm "Đức Ông" (Monsignor) vào tháng 2-2011. Đức Ông Hiền còn là đại diện của Giám Mục giáo phận San Jose và có nhiều quyền hạn đối với hàng giáo sĩ người Mỹ gốc Việt trong vùng Bay Area.
Khi trên những chức vụ và quyền bính nầy, Lm Nguyễn Minh Hiền về lập văn phòng và ở riêng một cõi tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam trên đường South White, San Jose và ít ai được biết Đức Ông làm gì.
Linh mục Công giáo Nguyễn Minh Hiền, 55 tuổi, được thụ phong Linh mục từ năm 1985 và đã phục vụ tại Giáo Phận San Jose được 20 năm. Lm Nguyễn Minh Hiền đã phục vụ với tư cách Đại Diện Tư Pháp cho Giáo Hội tại Giáo phận San Jose từ năm 2001 đến 2008 trước khi được cử làm Linh mục Chánh xứ tại giáo xứ Thánh Patrick San Jose vào năm 2008. Linh mục Hiền phục vụ trong chức vụ nầy cho đến năm 2011.
Điều đáng chú ý theo Bản Tuyên Bố của Giám Mục McGrath ghi rằng Đức Ông Hiền đã yêu cầu cấp giấy nghỉ phép cho Đức Ông kể từ ngày 01-7-2011 và tới đúng một năm sau hết phép trở về thì Đức Ông Hiền được bổ nhiệm là Linh mục Phó của giáo xứ Thánh Nicholas từ ngày 01-7-2012. Đường đường là một "Đức Ông", nay đi làm Cha Phó cho một giáo xứ nhỏ hơn thì chắc phải có vấn đề!
Sau khi "Đức Ông" Hiền đi làm Cha Phó vào ngày 01-7-2012 thì vào sáng Thứ Năm 30-8-2012, tức 2 tháng sau, thánh đường Saint Patrick tại số 389 East Santa Clara Street, trung tâm San Jose, đã bị cháy nặng. Sau vụ cháy nầy, thánh đường Saint Patrick được làm lại và Giáo xứ Saint Patrick San Jose được Tòa Giám Mục cho phép đổi tên thành Giáo xứ Đức Mẹ La-Vang.
Đi làm Cha Phó vẫn chưa yên, vì Giám Mục McGrath ghi trong Thông Báo rằng vào tháng 10-2012 Sở Thuế Vụ Liên Bang Hoa Kỳ IRS đã liên lạc với Giáo phận và IRS yêu cầu tuyệt đối bảo mật đối với cuộc điều tra nầy.
Chẳng hiểu lý do nào, từ ngày 06-12-2013. Đức Ông Nguyễn Minh Hiền đột ngột rời bỏ các nhiệm sở nên đã bị cắt hết chức vụ kể cả chức Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam trên đường South White, San Jose. Đức Ông đã bỏ nhiệm sở, không khai báo đi đâu; không bàn giao ngân sách kế toán nên nay gọi bằng "Ông Nguyễn Minh Hiền".
Bản Cáo trạng nói rằng từ năm 2005 đến 2008, Linh Mục Nguyễn Minh Hiền yêu cầu giáo dân viết chi phiếu đóng góp cho Trung Tâm Công Giáo Việt Nam nhưng lại chuyển các đóng góp này vào trương mục cá nhân của ông ở Ngân hàng và chi phí cho nhiều sinh hoạt cá nhân.
Bản cáo trạng cũng ghi rằng Ông Nguyễn Minh Hiền đã trốn thuế lợi tức cá nhân vào các năm gồm: năm 2008 là US$337,516; năm 2009 là US$376,500; năm 2010 là US$335,456;và năm 2011 là US$93,012 với tổng cộng là US$1,142,484.00.
Phát ngôn viên Sở Thuế Liên Bang cho hay Đức Ông Hiền sẽ được áp tải về Tòa Án Liên Bang ở San Jose, Bắc California để được xét xử. Trong khi Giám đốc Truyền thông giáo phận, bà Liz Sullivan cho biết Đức Ông Hiền đã nghỉ nhiệm vì lí do cá nhân từ ngày 6 tháng 12 năm 2013.
Hôm nay Thứ Năm 23-4-2015, các báo đăng tải lời tuyên bố của Luật sư bênh vực cho Đức Ông Nguyễn Minh Hiền là Luật sư David Cohen, đã cho biết rằng thân chủ của ông có giữ tiền của giáo dân đóng góp vì họ tin tưởng đưa cho ông cho đến khi nào tìm ra tổ chức thiện nguyện thích hợp để trao tặng. Vì vậy, số tiền đó không thể coi là thu nhập cá nhân.
Luật sư David Cohen nói thêm rằng “Sự thật ở đây, thân chủ của tôi là người Việt Nam, cũng như các giáo dân trong giáo xứ tin tưởng để ông giữ tiền,” luật sự Cohen nói. “Ông vẫn giữ số tiền đó trong trương mục của mình không thiếu một xu. Ông lái chiếc Toyota đời 2007 bình dị, ông đâu có sống vương giả.”!
Điều đáng ghi nhận qua lời của Luật sư thấy rõ rằng Đức Ông Hiền nhận tiền đóng góp của Giáo dân để xây nhà thờ Trung Tâm Công Giáo Việt Nam chứ không phải gởi cho ông Nguyễn Minh Hiền cất giữ riêng để ông Hiền chờ khi nào ông tìm ra được tổ chức thiện nguyện thích hợp để trao tặng!"
Làm tới chức phẩm "Đức Ông", nắm nhiều chức vụ, giữ tiền một mình rồi bỏ nhiệm sở trốn đi đâu không khai báo, không bàn giao sổ sách giấy tờ, tiền bạc kể từ khi đi phép suốt một năm trở về.. rồi tiếp theo Nhà Thờ Saint Patric cháy và nhiều hồ sơ kế toán trong thời gian Linh mục Hiền là Chánh xứ nay không có ai biết.. Đó là lý do mà người ta nói rằng Tòa Giám Mục San Jose hợp tác với Sở Thuế Vụ IRS truy nã Đức Ông Nguyễn Minh Hiền.. và nay Luật sư David Cohen thay mặt thân chủ đã công nhận "có giữ tiền trong tài khoản cá nhân, không tiêu đồng nào, đang chờ tìm ra được tổ chức thiện nguyện thích hợp để trao tặng!"
Nếu Tòa án xét có tội, tin tức nói rằng cvó thể ông Nguyễn Minh Hiền có tới 35 cuốn lịch để ngồi bốc mệt nghỉ.
Hạnh Dương. Dịch và tổng hợp.
www.vietpressusa.com
Các báo Hoa Kỳ:http://sanfrancisco.cbslocal.com/2015/04/21/san-jose-priest-accused-of-pocketing-thousands-from-parishioner-donations/
http://kron4.com/2015/04/20/san-jose-priest-indicted-on-charges-of-bank-fraud-and-tax-evasion/
Thursday, April 23, 2015
VietPress USA (23-4-2015): Vụ án Đức Ông NGUYỄN MINH HIỀN thuộc Giáo phận San Jose vừa bị Cảnh Sát Hoa Kỳ bắt hôm Thứ Bảy 18-4-2015 tại Fort Lauderdale,, Tiểu bang Florida và bị đưa ra Tòa án Liên Bang lần đầu tiên vào sáng Thứ Hai 20-4-2015; nay được Luật sư David Cohen đại diện cho Đức Ông Hiền phổ biến tin tức cho biết thân chủ của ông giữ tiền của giáo dân đóng góp vì họ tin tưởng đưa cho ông cho đến khi nào tìm ra tổ chức thiện nguyện thích hợp để trao tặng chứ không hề mất.
Tại phiên Tòa đầu tiên, theo thông báo của Abraham Simmons là phát ngôn viên của Biện lý Liên bang Melinda Haag cho biết, Đức ông Nguyễn Minh Hiền bị cáo buộc vi phạm 14 tội danh về gian lận Ngân Hàng số tiền US$19,000.00 và 4 tội danh trốn thuế số tiền thu lợi cá nhân lên trên US$1.1 Triệu. (Xem tin của VietPress USA đã loan tại Link: http://www.vietpressusa.com/2015/04/chuyen-ang-xon-xao-uc-ong-cong-giao.html ).
Như vậy một mình Linh mục Hiền đã nắm các chức vụ rất quan trọng, gồm:
- Linh mục Đại Diện Pháp Lý của Tòa Án Giáo Hội Vatican để xử xét các vụ việc liên quan đến Giáo Luật Công giáo; đối với giáo dân và cả hàng giáo sĩ.
- Đại diện Tòa Giám Mục San Jose đối với Giáo sĩ và giáo dân Mỹ gốc Việt thuộc Giáo Phận San Jose.
- Linh mục Chánh xứ giáo xứ Thánh Patrick, sau nầy đổi tên là Giáo xứ Đức Mẹ La-Vang.
- Điều hành quản lý Trường học của Giáo xứ Saint Patrick.
- Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tại San Jose.
- Phẩm trật là "Đức Ông" do Giáo Hoàng Benedicto Thứ 16 vinh phong.
Trước khi Linh mục Hiền được bổ nhiệm làm Chánh xứ tại nhà thờ Saint Patrick San Jose thì ở đó đã có nhà thờ xây lại vào năm 1967 sau khi nhà thờ cũ bị động đất ở San Francisco làm sụp đổ vào ngày 18-4-1906. Thời gian trước khi Lm Hiền đến Giáo xứ Saint Patrick thì ngôi thánh đường được sử dụng chung cho giáo dân Mỹ, giáo dân Mễ và Giáo dân Việt.
Ngươi Việt ngày càng đông trong những năm ngành điện tử tại Silicon Valley bùng phát nên thánh đường làm lễ phân chia giờ của giáo dân Việt với thánh lễ Mỹ và Mễ tỏ ra khó khăn và không đủ chỗ. Thế nên những người Công giáo gốc Việt đã tự quyên góp tiền và xin phép Đức Giám Mục cho phép gây quỹ xây dựng Trung Tâm Công Giáo Việt Nam. Đức Giám Mục đầu tiên của Giáo phận San Jose là Roland Pierre DuMaine (làm Giám Mục San Jose từ 27-01-1981 đến 27-11-1999) đã đồng ý vào đầu năm 1999 và cho quỹ xây dựng Trung Tâm Công Giáo Việt Nam một số tiền để mua khu đất ở đường South White, San Jose.
Đức Giám Mục Patrick Joseph McGrath đến nhận Giáo Phận San Jose ngày 27-11-1999 thay cho Giám Mục đầu tiên là Roland Pierre DuMaine về nghỉ hưu (http://en.wikipedia.org/wiki/Pierre_DuMaine) thì Lm Nguyễn Minh Hiền được Đức Giám Mục Patrick Joseph McGrath) bổ nhiệm làm Chánh xứ tại Nhà thờ Saint Patrick, San Jose. Lm Hiền kiêm luôn Trường Học của Nhà thờ Saint Patrick. Nhà thờ Saint Patrick cũng như Trường học đã thâm thủng nợ nên Lm Hiền đã nổ lực hoạt động, trả hết nợ và được Tòa Giám Mục tin tưởng.
Qua sự tin tưởng nầy, Lm Hiền thay vì giúp Hội đồng các Giáo Dân thực hiện chương trình xây dựng ngôi Đại Giáo Đường Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tại San Jose; thì Lm Hiền lại làm tờ trình đề nghị Tòa Giám Mục rút lại chương trình nầy và thu hồi lại tiền bạc; cũng như chấm dứt vai trò của Hội đồng Giáo Dân lâu nay vận động chương trình xây dựng Trung Tâm Công Giáo Việt Nam.
Tiếp theo là Lm Hiền được Giám Mục Grath bổ nhiệm chức vụ Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam San Jose và số tiền đã gây quỹ, sổ sách tiền bạc nay chỉ có Lm Hiền quản lý và báo cáo với Tòa Giám Mục và tuyệt nhiên giáo dân không còn hay biết gì nữa.
Quyền hạn của Lm Hiền càng lớn lao hơn khi được Giám Mục địa phận San Jose đề nghị lên Đức Giáo Hoàng Benedicto Thứ 16 phong cho Lm Nguyễn Minh Hiền chức phẩm "Đức Ông" (Monsignor) vào tháng 2-2011. Đức Ông Hiền còn là đại diện của Giám Mục giáo phận San Jose và có nhiều quyền hạn đối với hàng giáo sĩ người Mỹ gốc Việt trong vùng Bay Area.
Khi trên những chức vụ và quyền bính nầy, Lm Nguyễn Minh Hiền về lập văn phòng và ở riêng một cõi tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam trên đường South White, San Jose và ít ai được biết Đức Ông làm gì.
Linh mục Công giáo Nguyễn Minh Hiền, 55 tuổi, được thụ phong Linh mục từ năm 1985 và đã phục vụ tại Giáo Phận San Jose được 20 năm. Lm Nguyễn Minh Hiền đã phục vụ với tư cách Đại Diện Tư Pháp cho Giáo Hội tại Giáo phận San Jose từ năm 2001 đến 2008 trước khi được cử làm Linh mục Chánh xứ tại giáo xứ Thánh Patrick San Jose vào năm 2008. Linh mục Hiền phục vụ trong chức vụ nầy cho đến năm 2011.
Điều đáng chú ý theo Bản Tuyên Bố của Giám Mục McGrath ghi rằng Đức Ông Hiền đã yêu cầu cấp giấy nghỉ phép cho Đức Ông kể từ ngày 01-7-2011 và tới đúng một năm sau hết phép trở về thì Đức Ông Hiền được bổ nhiệm là Linh mục Phó của giáo xứ Thánh Nicholas từ ngày 01-7-2012. Đường đường là một "Đức Ông", nay đi làm Cha Phó cho một giáo xứ nhỏ hơn thì chắc phải có vấn đề!
Sau khi "Đức Ông" Hiền đi làm Cha Phó vào ngày 01-7-2012 thì vào sáng Thứ Năm 30-8-2012, tức 2 tháng sau, thánh đường Saint Patrick tại số 389 East Santa Clara Street, trung tâm San Jose, đã bị cháy nặng. Sau vụ cháy nầy, thánh đường Saint Patrick được làm lại và Giáo xứ Saint Patrick San Jose được Tòa Giám Mục cho phép đổi tên thành Giáo xứ Đức Mẹ La-Vang.
Đi làm Cha Phó vẫn chưa yên, vì Giám Mục McGrath ghi trong Thông Báo rằng vào tháng 10-2012 Sở Thuế Vụ Liên Bang Hoa Kỳ IRS đã liên lạc với Giáo phận và IRS yêu cầu tuyệt đối bảo mật đối với cuộc điều tra nầy.
Chẳng hiểu lý do nào, từ ngày 06-12-2013. Đức Ông Nguyễn Minh Hiền đột ngột rời bỏ các nhiệm sở nên đã bị cắt hết chức vụ kể cả chức Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo Việt Nam trên đường South White, San Jose. Đức Ông đã bỏ nhiệm sở, không khai báo đi đâu; không bàn giao ngân sách kế toán nên nay gọi bằng "Ông Nguyễn Minh Hiền".
Bản Cáo trạng nói rằng từ năm 2005 đến 2008, Linh Mục Nguyễn Minh Hiền yêu cầu giáo dân viết chi phiếu đóng góp cho Trung Tâm Công Giáo Việt Nam nhưng lại chuyển các đóng góp này vào trương mục cá nhân của ông ở Ngân hàng và chi phí cho nhiều sinh hoạt cá nhân.
Bản cáo trạng cũng ghi rằng Ông Nguyễn Minh Hiền đã trốn thuế lợi tức cá nhân vào các năm gồm: năm 2008 là US$337,516; năm 2009 là US$376,500; năm 2010 là US$335,456;và năm 2011 là US$93,012 với tổng cộng là US$1,142,484.00.
Phát ngôn viên Sở Thuế Liên Bang cho hay Đức Ông Hiền sẽ được áp tải về Tòa Án Liên Bang ở San Jose, Bắc California để được xét xử. Trong khi Giám đốc Truyền thông giáo phận, bà Liz Sullivan cho biết Đức Ông Hiền đã nghỉ nhiệm vì lí do cá nhân từ ngày 6 tháng 12 năm 2013.
Hôm nay Thứ Năm 23-4-2015, các báo đăng tải lời tuyên bố của Luật sư bênh vực cho Đức Ông Nguyễn Minh Hiền là Luật sư David Cohen, đã cho biết rằng thân chủ của ông có giữ tiền của giáo dân đóng góp vì họ tin tưởng đưa cho ông cho đến khi nào tìm ra tổ chức thiện nguyện thích hợp để trao tặng. Vì vậy, số tiền đó không thể coi là thu nhập cá nhân.
Luật sư David Cohen nói thêm rằng “Sự thật ở đây, thân chủ của tôi là người Việt Nam, cũng như các giáo dân trong giáo xứ tin tưởng để ông giữ tiền,” luật sự Cohen nói. “Ông vẫn giữ số tiền đó trong trương mục của mình không thiếu một xu. Ông lái chiếc Toyota đời 2007 bình dị, ông đâu có sống vương giả.”!
Điều đáng ghi nhận qua lời của Luật sư thấy rõ rằng Đức Ông Hiền nhận tiền đóng góp của Giáo dân để xây nhà thờ Trung Tâm Công Giáo Việt Nam chứ không phải gởi cho ông Nguyễn Minh Hiền cất giữ riêng để ông Hiền chờ khi nào ông tìm ra được tổ chức thiện nguyện thích hợp để trao tặng!"
Làm tới chức phẩm "Đức Ông", nắm nhiều chức vụ, giữ tiền một mình rồi bỏ nhiệm sở trốn đi đâu không khai báo, không bàn giao sổ sách giấy tờ, tiền bạc kể từ khi đi phép suốt một năm trở về.. rồi tiếp theo Nhà Thờ Saint Patric cháy và nhiều hồ sơ kế toán trong thời gian Linh mục Hiền là Chánh xứ nay không có ai biết.. Đó là lý do mà người ta nói rằng Tòa Giám Mục San Jose hợp tác với Sở Thuế Vụ IRS truy nã Đức Ông Nguyễn Minh Hiền.. và nay Luật sư David Cohen thay mặt thân chủ đã công nhận "có giữ tiền trong tài khoản cá nhân, không tiêu đồng nào, đang chờ tìm ra được tổ chức thiện nguyện thích hợp để trao tặng!"
Nếu Tòa án xét có tội, tin tức nói rằng cvó thể ông Nguyễn Minh Hiền có tới 35 cuốn lịch để ngồi bốc mệt nghỉ.
Hạnh Dương. Dịch và tổng hợp.
www.vietpressusa.com
Các báo Hoa Kỳ:http://sanfrancisco.cbslocal.com/2015/04/21/san-jose-priest-accused-of-pocketing-thousands-from-parishioner-donations/
http://kron4.com/2015/04/20/san-jose-priest-indicted-on-charges-of-bank-fraud-and-tax-evasion/
Bao Giờ Sẽ Tới Phiên Giáo Xứ Chúng Ta?
Đức Ông Nguyễn Minh Hiền thuộc Giáo Phận San Jose vừa bị Chính Quyền Liên Bang Hoa Kỳ Truy Tố.
Đức Giám Patrick McGrath của giáo phận San Jose, California, trong ngày thứ Hai 20 tháng 4 năm 2015 đã chính thức ra thông cáo đăng trong mạng lưới điện toán của giáo phận San Jose về việc chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ bắt giữ Đức Ông Nguyễn Minh Hiền
Xem thông báo của tòa Giám Mục San Jose
Đức Ông Nguyễn Minh Hiền, chịu chức Linh Mục năm 1985, nguyên là Chánh Xứ Giáo xứ Việt Nam San Jose, nguyên Giám Đốc Trung Tâm CGVN, và nguyên Tổng Quản đặc trách Mục Vụ cho người CGVN tại San Jose, vừa bị Bồi Thẩm Đoàn Liên Bang HK tại Florida quyết định truy tố về các tội danh liên quan đến việc trốn thuế và giả mạo ngân hàng.
Ông Abraham Simmons, phát ngôn viên của Phòng Công Tố cho biết rằng từ năm 2005 đến 2008, Đức Ông Hiền đã ký thác 14 chi phiếu đóng góp tiền cho giáo xứ vào trương mục của riêng mình. Tổng cộng 14 tấm chi phiếu này lên đến 19.000 đollars. Và từ năm 2008 đến 2011, Đức Ông đã không khai thuế lợi tức của mình lên tới 1.1 triệu đollars cho Sở Thuế Liên Bang.
Đức Ông Hiền đã bị bắt giữ tại Fort Lauderdale, Florida vào thứ Bẩy, ngày18-4-2015 và bị đưa ra trước Đại Bồi Thẩm Đoàn ngày thứ Hai, 20-4 vừa qua. Đức Ông bị truy tố về 14 tội danh lường gạt ngân hàng và 4 tội danh trốn thuế.
Bản cáo trạng ghi rõ rằng Đức Ông Hiền đã trốn thuế lợi tức cá nhân vào các năm:
-năm 2008 là 337.516 đollars,
-năm 2009 là 376.500 đollars,
- năm 2010 là 335.456 đollar
-năm 2011 là 93.012 đollars.
Phát ngôn viên Sở Thuế Vụ Liên Bang cho hay Đức Ông Hiền sẽ được áp tải về Tòa Án Liên Bang ở San Jose bắc California để được xét xử.
Tính đến nay, Đức Ông Hiền, 55 tuổi, đã phục vụ tại Giáo Phận San Jose được 20 năm. Từ năm 2001 đền 2011, LM Hiền giữ chức vụ Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo San Jose Tháng 2, 2011, Lm. Nguyễn Minh Hiền được Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI vinh thăng Đức Ông cùng với 4 linh mục khác trong GP San Jose. Đến tháng 7, 2012, Đức Ông đột ngột bị Địa Phận San Jose thuyên chuyển khỏi hai chức vụ Chánh Xứ GXVN và Giám Đốc Trung Tâm CG, mất luôn chức Đại Diện Giám Mục đặc trách người Công Giáo Việt Nam tại San Jose. Từ đó giáo dân Việt Nam tại San Jose không biết Đức Ông Hiền ở đâu, làm việc gì ?
Tòa Giám Mục San Jose cho biết thêm Đức Ông Hiền đã được nghỉ nhiệm vụ dài hạn từ ngày 6-12-2013.
ĐGM Patrick McGrath của GP San Jose đã công bố một văn thư, trong đó có viết rằng: “Giáo Phận đã hợp tác với Sở Thuế trong việc điều tra về việc làm của Đức Ông Nguyễn Minh Hiền kể từ tháng 10-2012.” Văn thư còn cho biết thêm là việc công bố kết quả cuộc điều tra là trách nhiệm của Sở Thuế và thể theo lời yêu cầu của cơ quan này, Giáo Phận đã hạn chế tối đa việc liên lạc với Đức Ông trong tiến trình điều tra.
Dưới đây là bản tin của Đài ABC đã loan vào sáng ngày 21-4-2015:
Xem bản tin của đài ABC loan vào ngày 21-4-2015
Đức Ông Nguyễn Minh Hiền thuộc Giáo Phận San Jose vừa bị Chính Quyền Liên Bang Hoa Kỳ Truy Tố.
Đức Giám Patrick McGrath của giáo phận San Jose, California, trong ngày thứ Hai 20 tháng 4 năm 2015 đã chính thức ra thông cáo đăng trong mạng lưới điện toán của giáo phận San Jose về việc chính quyền Liên Bang Hoa Kỳ bắt giữ Đức Ông Nguyễn Minh Hiền
Xem thông báo của tòa Giám Mục San Jose
Đức Ông Nguyễn Minh Hiền, chịu chức Linh Mục năm 1985, nguyên là Chánh Xứ Giáo xứ Việt Nam San Jose, nguyên Giám Đốc Trung Tâm CGVN, và nguyên Tổng Quản đặc trách Mục Vụ cho người CGVN tại San Jose, vừa bị Bồi Thẩm Đoàn Liên Bang HK tại Florida quyết định truy tố về các tội danh liên quan đến việc trốn thuế và giả mạo ngân hàng.
Ông Abraham Simmons, phát ngôn viên của Phòng Công Tố cho biết rằng từ năm 2005 đến 2008, Đức Ông Hiền đã ký thác 14 chi phiếu đóng góp tiền cho giáo xứ vào trương mục của riêng mình. Tổng cộng 14 tấm chi phiếu này lên đến 19.000 đollars. Và từ năm 2008 đến 2011, Đức Ông đã không khai thuế lợi tức của mình lên tới 1.1 triệu đollars cho Sở Thuế Liên Bang.
Đức Ông Hiền đã bị bắt giữ tại Fort Lauderdale, Florida vào thứ Bẩy, ngày18-4-2015 và bị đưa ra trước Đại Bồi Thẩm Đoàn ngày thứ Hai, 20-4 vừa qua. Đức Ông bị truy tố về 14 tội danh lường gạt ngân hàng và 4 tội danh trốn thuế.
Bản cáo trạng ghi rõ rằng Đức Ông Hiền đã trốn thuế lợi tức cá nhân vào các năm:
-năm 2008 là 337.516 đollars,
-năm 2009 là 376.500 đollars,
- năm 2010 là 335.456 đollar
-năm 2011 là 93.012 đollars.
Phát ngôn viên Sở Thuế Vụ Liên Bang cho hay Đức Ông Hiền sẽ được áp tải về Tòa Án Liên Bang ở San Jose bắc California để được xét xử.
Tính đến nay, Đức Ông Hiền, 55 tuổi, đã phục vụ tại Giáo Phận San Jose được 20 năm. Từ năm 2001 đền 2011, LM Hiền giữ chức vụ Giám Đốc Trung Tâm Công Giáo San Jose Tháng 2, 2011, Lm. Nguyễn Minh Hiền được Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI vinh thăng Đức Ông cùng với 4 linh mục khác trong GP San Jose. Đến tháng 7, 2012, Đức Ông đột ngột bị Địa Phận San Jose thuyên chuyển khỏi hai chức vụ Chánh Xứ GXVN và Giám Đốc Trung Tâm CG, mất luôn chức Đại Diện Giám Mục đặc trách người Công Giáo Việt Nam tại San Jose. Từ đó giáo dân Việt Nam tại San Jose không biết Đức Ông Hiền ở đâu, làm việc gì ?
Tòa Giám Mục San Jose cho biết thêm Đức Ông Hiền đã được nghỉ nhiệm vụ dài hạn từ ngày 6-12-2013.
ĐGM Patrick McGrath của GP San Jose đã công bố một văn thư, trong đó có viết rằng: “Giáo Phận đã hợp tác với Sở Thuế trong việc điều tra về việc làm của Đức Ông Nguyễn Minh Hiền kể từ tháng 10-2012.” Văn thư còn cho biết thêm là việc công bố kết quả cuộc điều tra là trách nhiệm của Sở Thuế và thể theo lời yêu cầu của cơ quan này, Giáo Phận đã hạn chế tối đa việc liên lạc với Đức Ông trong tiến trình điều tra.
Dưới đây là bản tin của Đài ABC đã loan vào sáng ngày 21-4-2015:
Xem bản tin của đài ABC loan vào ngày 21-4-2015
Hãy Chống Lại Cái Xấu
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Có một người mang biếu tôi mấy quả quýt, họ nói: “Quýt này con để dành ăn nên không có thuốc đâu!”. Nghe mà xót xa! Hóa ra quýt bán cho khách hàng thì phun thuốc, bất chấp độc hại, miễn là lợi nhuận kinh tế ra sao? Còn quýt để dành ăn mới sạch, mới bảo đảm an toàn thực phầm? Xem ra vì lợi nhuận mà người ta bất chấp tất cả, họ coi thường tính mạng của tha nhân. Phải chăng đạo đức xã hội đã xuống cấp đến mức con người không còn áy náy khi làm hại người khác để thu quén cho bản nhân?
Biết xấu vẫn làm là căn bệnh nan y của thời đại hôm nay. Nhưng còn một căn bệnh nữa đó là thấy việc xấu vẫn làm ngơ, dửng dưng, bàng quan cũng không kém phần trầm kha.
Có rất nhiều người thấy kẻ xấu ăn trộm nhà hàng xóm hay người bạn đi cùng vẫn làm ngơ, coi như không thấy. Họ là người ích kỷ.
Có rất nhiều cha mẹ thấy con cái đi đàng tội lỗi, vẫn im lặng như đang đồng lõa. Họ là người thiếu trách nhiệm.
Có rất nhiều bạn trẻ thấy bạn bị hãm hại, đánh đập vẫn đứng yên, khoanh tay đứng nhìn. Họ là người nhu nhược.
Người làm điều xấu thì đáng ghét và người im lặng trước sự xấu thì đáng khinh. Thế nên, khi nhìn thấy người làm điều xấu mình cũng cảm thấy nuối tiếc cho họ. Họ đã đánh mất đi hình ảnh đẹp của họ nơi chúng ta. Nhưng còn đáng buồn hơn khi nhìn thấy người tốt dửng dưng với cái xấu, với tệ nạn xấu đang tràn lan.
Làm người phải biết phân biệt cái đúng, cái sai. Khi nhỏ, ta thấy bạn bè quay cóp trong giờ kiểm tra trong khi chính mình phải học vất vả, ta dễ xem thường bạn bè. Khi ra đường ta thấy ai đó vượt đèn đỏ, lượn lách đánh võng, thấy đám côn đồ dối trá, lừa lọc bà cụ bán nước ven đường, ta thấy chướng mắt. Đó là những cái sai, cái xấu mà ta không bao giờ chấp nhận. Nhưng liệu rằng, bản thân ta đã bao giờ làm điều gì đó ngăn chặn những cái xấu ấy, hay chúng ta vẫn yên lặng cho qua để yên ổn bản thân?
Năm xưa Chúa Giê-su đã không dửng dưng trước cái xấu. Ngài đã hành động trong giận dữ mà người ta nói là “cơn giận thánh”. Ngài không thể chấp nhận sự dữ tồn tại. Ngài không thể khoanh tay nhìn cái xấu hoành hành. Phúc âm kể rằng: khi Chúa Giê-su vào trong đền thờ và Ngài thấy người ta buôn bán, cãi nhau, lừa đảo làm ô uế đền thờ. Chúa đã tức giận. Chúa đã xua đuổi con buôn khỏi đền thờ. Chúa không chấp nhận biến nhà Chúa thành nơi buôn bán, lừa lọc. Cho dù việc làm của Chúa đụng đến cái ăn của nhiều người. Từ các thượng tế đến dân buôn. Họ sẽ mất mối lợi từ đền thờ. Họ sẽ cùng nhau chống lại Chúa. Nhưng Chúa không lùi bước khi phải đương đầu với sự dữ. Ngài đã làm tất cả để bảo vệ đền thờ.
Cuộc sống này sẽ bớt đi cái xấu nếu chúng ta dám nói không với tội lỗi. Và càng đẹp hơn nếu chúng ta cùng liên kết với nhau xua đuổi sự dữ. Xin đừng lãnh cảm với đồng loại. Hãy dám nói sự thật để bảo vệ công lý. Hãy can đảm ngăn chặn những việc xấu của anh em, của bè bạn và của những người đang chung sống với chúng ta. Có thể chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Nhưng chân lý sẽ thắng. Sự dữ sẽ bị đẩy lui nếu ai ai cũng đồng lòng tiêu diệt sự xấu để trả lại nền văn minh tình thương cho cuộc sống. Nhất là cho công lý và hòa bình được thực hiện trên quê hương chúng ta. Amen
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
http://memaria.net/20150303064037DN.html
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Có một người mang biếu tôi mấy quả quýt, họ nói: “Quýt này con để dành ăn nên không có thuốc đâu!”. Nghe mà xót xa! Hóa ra quýt bán cho khách hàng thì phun thuốc, bất chấp độc hại, miễn là lợi nhuận kinh tế ra sao? Còn quýt để dành ăn mới sạch, mới bảo đảm an toàn thực phầm? Xem ra vì lợi nhuận mà người ta bất chấp tất cả, họ coi thường tính mạng của tha nhân. Phải chăng đạo đức xã hội đã xuống cấp đến mức con người không còn áy náy khi làm hại người khác để thu quén cho bản nhân?
Biết xấu vẫn làm là căn bệnh nan y của thời đại hôm nay. Nhưng còn một căn bệnh nữa đó là thấy việc xấu vẫn làm ngơ, dửng dưng, bàng quan cũng không kém phần trầm kha.
Có rất nhiều người thấy kẻ xấu ăn trộm nhà hàng xóm hay người bạn đi cùng vẫn làm ngơ, coi như không thấy. Họ là người ích kỷ.
Có rất nhiều cha mẹ thấy con cái đi đàng tội lỗi, vẫn im lặng như đang đồng lõa. Họ là người thiếu trách nhiệm.
Có rất nhiều bạn trẻ thấy bạn bị hãm hại, đánh đập vẫn đứng yên, khoanh tay đứng nhìn. Họ là người nhu nhược.
Người làm điều xấu thì đáng ghét và người im lặng trước sự xấu thì đáng khinh. Thế nên, khi nhìn thấy người làm điều xấu mình cũng cảm thấy nuối tiếc cho họ. Họ đã đánh mất đi hình ảnh đẹp của họ nơi chúng ta. Nhưng còn đáng buồn hơn khi nhìn thấy người tốt dửng dưng với cái xấu, với tệ nạn xấu đang tràn lan.
Làm người phải biết phân biệt cái đúng, cái sai. Khi nhỏ, ta thấy bạn bè quay cóp trong giờ kiểm tra trong khi chính mình phải học vất vả, ta dễ xem thường bạn bè. Khi ra đường ta thấy ai đó vượt đèn đỏ, lượn lách đánh võng, thấy đám côn đồ dối trá, lừa lọc bà cụ bán nước ven đường, ta thấy chướng mắt. Đó là những cái sai, cái xấu mà ta không bao giờ chấp nhận. Nhưng liệu rằng, bản thân ta đã bao giờ làm điều gì đó ngăn chặn những cái xấu ấy, hay chúng ta vẫn yên lặng cho qua để yên ổn bản thân?
Năm xưa Chúa Giê-su đã không dửng dưng trước cái xấu. Ngài đã hành động trong giận dữ mà người ta nói là “cơn giận thánh”. Ngài không thể chấp nhận sự dữ tồn tại. Ngài không thể khoanh tay nhìn cái xấu hoành hành. Phúc âm kể rằng: khi Chúa Giê-su vào trong đền thờ và Ngài thấy người ta buôn bán, cãi nhau, lừa đảo làm ô uế đền thờ. Chúa đã tức giận. Chúa đã xua đuổi con buôn khỏi đền thờ. Chúa không chấp nhận biến nhà Chúa thành nơi buôn bán, lừa lọc. Cho dù việc làm của Chúa đụng đến cái ăn của nhiều người. Từ các thượng tế đến dân buôn. Họ sẽ mất mối lợi từ đền thờ. Họ sẽ cùng nhau chống lại Chúa. Nhưng Chúa không lùi bước khi phải đương đầu với sự dữ. Ngài đã làm tất cả để bảo vệ đền thờ.
Cuộc sống này sẽ bớt đi cái xấu nếu chúng ta dám nói không với tội lỗi. Và càng đẹp hơn nếu chúng ta cùng liên kết với nhau xua đuổi sự dữ. Xin đừng lãnh cảm với đồng loại. Hãy dám nói sự thật để bảo vệ công lý. Hãy can đảm ngăn chặn những việc xấu của anh em, của bè bạn và của những người đang chung sống với chúng ta. Có thể chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Nhưng chân lý sẽ thắng. Sự dữ sẽ bị đẩy lui nếu ai ai cũng đồng lòng tiêu diệt sự xấu để trả lại nền văn minh tình thương cho cuộc sống. Nhất là cho công lý và hòa bình được thực hiện trên quê hương chúng ta. Amen
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
http://memaria.net/20150303064037DN.html
NGHỀ NÀO KIẾM TIỀN DỄ?
Là những người Công Giáo, cũng như một số Tôn Giáo bạn từ trong nước Việt Nam đến Hải Ngoại. Nhất là sau biến cố đau thương 30 tháng 4 năm 1975. Không ai mà không biết đến người Mẹ thứ hai của chúng ta đó là ĐỨC MẸ LA VANG. Thật vậy, hiện nay có rất nhiều nhà thờ Việt Nam ở Hải Ngoại lấy tước hiệu là ĐỨC MẸ LA VANG.
Chúng ta thấy có hiện tượng TRĂM HOA ĐUA NỞ ở rất nhiều nhà Dòng, Giáo Xứ Việt Nam tại Hải Ngoại, mỗi năm Bề Trên các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức kính Đức Mẹ La Vang tại địa phương mình đang làm Mục Vụ với những cái tên thật kêu, thật nổ như ĐẠI HỘI này…..! ĐẠI HỘI kia……! HÀNH HƯƠNG này……! HÀNH HƯƠNG nọ…….! Song song với những bích chương quảng cáo thật rầm rộ trên những truyền thông, truyền hình, báo chí là có những Đức Cha này, Đức Cha kia, Linh Mục này, Linh Mục nọ, Thuyết Trình viên này, thuyết trình viên kia, dàn Ca Sĩ của trung tâm nổi tiếng này, trung tâm nổi tiếng kia. Chúa, Mẹ, Các Thánh, thức ăn, sổ số được rao bán thật náo nhiệt. (Không biết có náo loạn không?) Không những thế lại còn những lều đạo đức để xin khấn ơn này, xin khấn ơn nọ, lều bảo trợ này, lều bảo trợ kia. TIỀN TIỀN TIỀN vào như nước.
Không biết những SỐ TIỀN của giáo dân khi đi đến những nhà lều xin khấn, Giáo Xứ và Giáo Phận địa phương có được hưởng SỐ TIỀN này không? Hay các Cha Xứ và nhà Dòng lấy hết. Nghe nói SỐ TIỀN xin khấn này nhiều nhiều nhiều lắm....Không dưới 5 con SỐ. Quá Trời.
XIN HỎI: Có thật sự các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức những Đại Hội này, Hành Hương kia tại địa phương mình đang làm Mục Vụ để con dân từ muôn phương qui tụ về bên Đức Mẹ La Vang cảm tạ Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta muôn ơn lành. Hay chỉ vì thấy nhà Dòng này tổ chức thành công quá, Dòng tôi không chịu thua cũng phải tổ chức. Giáo Xứ này tổ chức kiếm được nhiều TIỀN nhỉ. Tại sao Giáo Xứ ta lại ngồi khoanh tay.
Thời buổi KIM TIỀN ngày nay. Người dân Việt Nam ta có câu ví von:
KHÔNG NGHỀ NÀO KIẾM TIỀN DỄ BẰNG NGHỀ CỦA MẤY ÔNG LINH MỤC.
Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại
Là những người Công Giáo, cũng như một số Tôn Giáo bạn từ trong nước Việt Nam đến Hải Ngoại. Nhất là sau biến cố đau thương 30 tháng 4 năm 1975. Không ai mà không biết đến người Mẹ thứ hai của chúng ta đó là ĐỨC MẸ LA VANG. Thật vậy, hiện nay có rất nhiều nhà thờ Việt Nam ở Hải Ngoại lấy tước hiệu là ĐỨC MẸ LA VANG.
Chúng ta thấy có hiện tượng TRĂM HOA ĐUA NỞ ở rất nhiều nhà Dòng, Giáo Xứ Việt Nam tại Hải Ngoại, mỗi năm Bề Trên các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức kính Đức Mẹ La Vang tại địa phương mình đang làm Mục Vụ với những cái tên thật kêu, thật nổ như ĐẠI HỘI này…..! ĐẠI HỘI kia……! HÀNH HƯƠNG này……! HÀNH HƯƠNG nọ…….! Song song với những bích chương quảng cáo thật rầm rộ trên những truyền thông, truyền hình, báo chí là có những Đức Cha này, Đức Cha kia, Linh Mục này, Linh Mục nọ, Thuyết Trình viên này, thuyết trình viên kia, dàn Ca Sĩ của trung tâm nổi tiếng này, trung tâm nổi tiếng kia. Chúa, Mẹ, Các Thánh, thức ăn, sổ số được rao bán thật náo nhiệt. (Không biết có náo loạn không?) Không những thế lại còn những lều đạo đức để xin khấn ơn này, xin khấn ơn nọ, lều bảo trợ này, lều bảo trợ kia. TIỀN TIỀN TIỀN vào như nước.
Không biết những SỐ TIỀN của giáo dân khi đi đến những nhà lều xin khấn, Giáo Xứ và Giáo Phận địa phương có được hưởng SỐ TIỀN này không? Hay các Cha Xứ và nhà Dòng lấy hết. Nghe nói SỐ TIỀN xin khấn này nhiều nhiều nhiều lắm....Không dưới 5 con SỐ. Quá Trời.
XIN HỎI: Có thật sự các Dòng, các Linh Mục Chánh Xứ tổ chức những Đại Hội này, Hành Hương kia tại địa phương mình đang làm Mục Vụ để con dân từ muôn phương qui tụ về bên Đức Mẹ La Vang cảm tạ Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta muôn ơn lành. Hay chỉ vì thấy nhà Dòng này tổ chức thành công quá, Dòng tôi không chịu thua cũng phải tổ chức. Giáo Xứ này tổ chức kiếm được nhiều TIỀN nhỉ. Tại sao Giáo Xứ ta lại ngồi khoanh tay.
Thời buổi KIM TIỀN ngày nay. Người dân Việt Nam ta có câu ví von:
KHÔNG NGHỀ NÀO KIẾM TIỀN DỄ BẰNG NGHỀ CỦA MẤY ÔNG LINH MỤC.
Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại
NHÀ BẾP CỦA GIÁO XỨ ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Những ai đã từng đi tham dự các Thánh Lễ cuối tuần của ngày Thứ Bảy và Chúa Nhật tại Giáo Xứ Đức Mẹ Lộ Đức thì chắc chắn cũng đã một, hoặc nhiều lần thưởng thức những món ăn của những Ông Bà đầu bếp đã tình nguyện đến Giáo Xứ nấu nướng bán cho chúng ta và các cháu thiếu nhi ăn uống trong những ngày cuối tuần, hoặc những tiệc lớn, tiệc nhỏ, của những ngày lễ kỷ niệm của Giáo Xứ cũng như của Giáo Dân trong hơn 20 năm qua để kiếm TIỀN cho Giáo Xứ.
Thành thật cám ơn tất cả những Ông Bà đã và đang còn chịu trách nhiệm làm thiện nguyện CAI QUẢN nhà bếp này, mặc dù trong quá khứ đã từng có những tiếng BẤC tiếng CHÌ nhưng vì muốn Giáo Xứ có TIỀN nên tất cả đều bỏ ngoài tai.
Cách nay mấy tuần, Cha Xứ có triệu tập một phiên họp mời các Ông Bà đã và đang chịu trách nhiệm CAI QUẢN nhà bếp và các Hội Đoàn trong Giáo Xứ đến dự phiên họp vào ngày thứ Bảy để lắng nghe ý kiến và chia sẻ những điều tích cực cũng như tiêu cực về sinh hoạt của nhà bếp Giáo Xứ. Không hiểu vì lý do gì, những Ông Bà đã và đang chịu trách nhiệm CAI QUẢN nhà bếp lại không đến tham dự phiên họp ?
Được biết phiên họp rất là sôi nổi và rất là hào hứng về nhiều vấn đề được nói ra trong nhà bếp mà bao nhiêu năm nay không mấy ai biết, cũng như không dám nói ra như:
- Tất cả những nồi niêu son chảo tốt, những con dao sắc bén của nhà bếp đều bị Ông Bà CAI QUẢN cất dấu nếu tuần đó có Hội Đoàn khác tới bán giúp.
- Có những Ông Bà, Anh Chị giúp làm thiện nguyện trong nhà bếp, bụng đói, muốn ăn cũng phải bỏ TIỀN túi ra mua nếu không muốn những Ông Bà CAI QUẢN nhà bếp nhìn với ánh mắt........?
- Những Ông Bà CAI QUẢN lợi dụng nhà bếp nấu nướng rồi mang về nhà, hoặc.......?
- Trong nhà bếp thì quá dơ bẩn, lại có những thịt đã bị hư, rau không còn tươi nhưng vẫn cứ nấu nướng bán cho mọi người ăn.
- Có món ăn, các em thiếu nhi mua xong vất bỏ vào thùng rác hết. Thầy Cô Giáo hỏi: Cha Mẹ cho các con TIỀN để mua thức ăn cho đỡ đói. Tại sao không ăn mà lại vứt bỏ đi hết, tội chết các con ạ, các em đã trả lời: Món ăn này cứng quá, ăn không nổi.
- Những máy nước uống (Water Fountain) bị tháo đi để mọi người, nhất là các em thiếu nhi phải xin Cha Mẹ TIỀN mà mua những chai nước mỗi khi khát nước, nếu các em không có TIỀN thì.......? Thật là DÃ MAN VÔ NHÂN ĐẠO.
Thưa quí Cha, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh, cùng những Ông Bà đã và đang CAI QUẢN NHÀ BẾP GIÁO XỨ .
- Quí Cha cùng Quí vị sinh lợi ra những ĐỒNG TIỀN cho Giáo Xứ Đức Mẹ Lộ Đức bằng những cách làm ăn buôn bán như thế sao?
- Quí Cha cùng Quí Vị biết luật lệ về vệ sinh an toàn thực phẩm tại Hoa Kỳ rất khắt khe, nhất là đối với các sản phẩm liên quan đến thịt. Nếu một ngày nào đó nhân viên của chính phủ "Heath Department, Bộ Y Tế" bất ngờ tới thanh tra NHÀ BẾP GIÁO XỨ không biết quí Cha, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh, cùng những Ông Bà đã và đang CAI QUẢN NHÀ BẾP GIÁO XỨ nghĩ như thế nào?
Quí Cha cùng Quí Vị thường nói: Các em thanh thiếu niên trong Giáo Xứ chúng ta là những con người đầy tương lai hứa hẹn của Gia Đình, của đất nước, và của Giáo Hội. Ấy vậy mà miếng ăn thì bị.....? Và một giọt nước cũng bị.....? Ngược lại.
Khi quí Cha đang dâng Thánh Lễ, nếu có bị ho, hoặc mới ăn mặn, chỉ cần giơ 1 ngón tay làm hiệu là có người dâng lên ngay 1 ly nước lạnh để uống. Ôi hạnh phúc thay.
Giáo Dân Giáo Xứ Đức Mẹ Lộ Đức
Những ai đã từng đi tham dự các Thánh Lễ cuối tuần của ngày Thứ Bảy và Chúa Nhật tại Giáo Xứ Đức Mẹ Lộ Đức thì chắc chắn cũng đã một, hoặc nhiều lần thưởng thức những món ăn của những Ông Bà đầu bếp đã tình nguyện đến Giáo Xứ nấu nướng bán cho chúng ta và các cháu thiếu nhi ăn uống trong những ngày cuối tuần, hoặc những tiệc lớn, tiệc nhỏ, của những ngày lễ kỷ niệm của Giáo Xứ cũng như của Giáo Dân trong hơn 20 năm qua để kiếm TIỀN cho Giáo Xứ.
Thành thật cám ơn tất cả những Ông Bà đã và đang còn chịu trách nhiệm làm thiện nguyện CAI QUẢN nhà bếp này, mặc dù trong quá khứ đã từng có những tiếng BẤC tiếng CHÌ nhưng vì muốn Giáo Xứ có TIỀN nên tất cả đều bỏ ngoài tai.
Cách nay mấy tuần, Cha Xứ có triệu tập một phiên họp mời các Ông Bà đã và đang chịu trách nhiệm CAI QUẢN nhà bếp và các Hội Đoàn trong Giáo Xứ đến dự phiên họp vào ngày thứ Bảy để lắng nghe ý kiến và chia sẻ những điều tích cực cũng như tiêu cực về sinh hoạt của nhà bếp Giáo Xứ. Không hiểu vì lý do gì, những Ông Bà đã và đang chịu trách nhiệm CAI QUẢN nhà bếp lại không đến tham dự phiên họp ?
Được biết phiên họp rất là sôi nổi và rất là hào hứng về nhiều vấn đề được nói ra trong nhà bếp mà bao nhiêu năm nay không mấy ai biết, cũng như không dám nói ra như:
- Tất cả những nồi niêu son chảo tốt, những con dao sắc bén của nhà bếp đều bị Ông Bà CAI QUẢN cất dấu nếu tuần đó có Hội Đoàn khác tới bán giúp.
- Có những Ông Bà, Anh Chị giúp làm thiện nguyện trong nhà bếp, bụng đói, muốn ăn cũng phải bỏ TIỀN túi ra mua nếu không muốn những Ông Bà CAI QUẢN nhà bếp nhìn với ánh mắt........?
- Những Ông Bà CAI QUẢN lợi dụng nhà bếp nấu nướng rồi mang về nhà, hoặc.......?
- Trong nhà bếp thì quá dơ bẩn, lại có những thịt đã bị hư, rau không còn tươi nhưng vẫn cứ nấu nướng bán cho mọi người ăn.
- Có món ăn, các em thiếu nhi mua xong vất bỏ vào thùng rác hết. Thầy Cô Giáo hỏi: Cha Mẹ cho các con TIỀN để mua thức ăn cho đỡ đói. Tại sao không ăn mà lại vứt bỏ đi hết, tội chết các con ạ, các em đã trả lời: Món ăn này cứng quá, ăn không nổi.
- Những máy nước uống (Water Fountain) bị tháo đi để mọi người, nhất là các em thiếu nhi phải xin Cha Mẹ TIỀN mà mua những chai nước mỗi khi khát nước, nếu các em không có TIỀN thì.......? Thật là DÃ MAN VÔ NHÂN ĐẠO.
Thưa quí Cha, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh, cùng những Ông Bà đã và đang CAI QUẢN NHÀ BẾP GIÁO XỨ .
- Quí Cha cùng Quí vị sinh lợi ra những ĐỒNG TIỀN cho Giáo Xứ Đức Mẹ Lộ Đức bằng những cách làm ăn buôn bán như thế sao?
- Quí Cha cùng Quí Vị biết luật lệ về vệ sinh an toàn thực phẩm tại Hoa Kỳ rất khắt khe, nhất là đối với các sản phẩm liên quan đến thịt. Nếu một ngày nào đó nhân viên của chính phủ "Heath Department, Bộ Y Tế" bất ngờ tới thanh tra NHÀ BẾP GIÁO XỨ không biết quí Cha, Hội Đồng Mục Vụ, Hội Đồng Tài Chánh, cùng những Ông Bà đã và đang CAI QUẢN NHÀ BẾP GIÁO XỨ nghĩ như thế nào?
Quí Cha cùng Quí Vị thường nói: Các em thanh thiếu niên trong Giáo Xứ chúng ta là những con người đầy tương lai hứa hẹn của Gia Đình, của đất nước, và của Giáo Hội. Ấy vậy mà miếng ăn thì bị.....? Và một giọt nước cũng bị.....? Ngược lại.
Khi quí Cha đang dâng Thánh Lễ, nếu có bị ho, hoặc mới ăn mặn, chỉ cần giơ 1 ngón tay làm hiệu là có người dâng lên ngay 1 ly nước lạnh để uống. Ôi hạnh phúc thay.
Giáo Dân Giáo Xứ Đức Mẹ Lộ Đức
Xin Quí Vị Đọc Những Tài Liệu Của Hội Bác Ái Phanxicô
From: Luat Pham <[email protected]>
Date: 2015-03-22 21:17 GMT-05:00
Subject: Fw: Lời nhắc nhở trong mùa chay
To:
On Sunday, March 22, 2015 9:12 PM, Luat Pham <[email protected]> wrote:
Cháu Khương, Nguyệt, Chí và Thiện thân mến,
Bác đã đọc lá thư hồi âm của các con với văn kiện đính kèm khoảng một tiếng đồng hồ sau khi bác gởi thư cho các con, và bác buồn, rất buồn và tội nghiệp cho các con hơn trước nữa. Vì có lẽ các con chưa kịp đọc, suy niệm và thấu hiểu 2 giáo luật trước nên đã trả lời thư của bác với văn kiện và lời lẽ thật đau lòng và rất vội vã. Các con hãy tìm một Linh Mục để Ngài giải thích lại cho các con giáo luật thứ 5: Chớ giết người, nhất là người đó là một Linh Mục, vị Linh Mục đã rất yêu thương các con.
Và các con cũng siêng năng lần hạt Mân Côi, bác khuyên các con nên suy gẫm lại mầu nhiệm thứ tư của Năm Sự Sáng: Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được lắng nghe và thực hành lời Chúa. Đừng phân bua nữa, hãy suy gẫm lời Chúa trong thinh lặng và lắng nghe. Ăn năn sám hối đi các con, không muộn đâu, ngày giờ đã gần đến rồi.
Bác gởi lại 2 giáo luật này cho các con, và bác nhắc thêm cho con một giáo luật nữa sau khi đọc văn kiện đính kèm mà con gởi cho bác. Thật tội nghiệp cho các con, Lạy Cha, Xin Tha Cho Họ, Vì Họ Không Biết Việc Họ Làm.
Các con hãy cùng nhau đọc và suy niệm 3 giáo luật này và đừng viết thư để phân trần với bác nữa; dùng thời gian ấy để kiểm điểm lại tâm hồn của mình. Các con không cần phải trả lời cho bác vì bác không viết ra các giáo luật ấy mà các con chỉ cần phải trả lời cho Người Chủ của các giáo luật đó thôi, ngày các con gặp Ngài:
1. Điều răn thứ 5: Chớ giết người – Người ta cũng có thể giết người bằng miệng lưỡi, khi mà ta xúi giục ai đó đi giết người, hoặc bằng cách khiêu khích, vu cáo, mạ lỵ: “Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo, lưỡi thì sắc bén tựa gươm đao” (Tv 66,6). Tệ hại hơn nữa, nạn nhân ấy là một Linh Mục: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/NamThanh/DucTin/51NamDucTin-Bai-35.htm
2. Điều răn thứ 7: Chớ lấy của người - Tệ hại hơn nữa, lấy của những người bần cùng trong xã hội, những trẻ mồ côi tật nguyền:http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/GiaoAnThemSucII/Bai13.htm
3. Điều răn thứ 8: Chớ làm chứng dối - Tôn trọng sự thật, không nói, không làm điều gian dối và tôn trọng danh dự người khác. Nhất là, người ấy là một vị Linh Mục: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/GiaoAnThemSucII/Bai15.htm
Bác đã, đang và sẽ tiếp tục cầu nguyện cho các con.
"Lạy Cha, Xin Tha Cho Họ, Vì Họ Không Biết Việc Họ Làm." (Lc 23:34).
Amen.
On Saturday, March 21, 2015 11:48 PM, Khuong Kevin Tran <[email protected]> wrote:
Subject: Lời nhắc nhở trong mùa chay
Bac Luat men,
Chau xin gui loi cam on den Bac vi nhung loi quan tam cua Bac trong email ngay hom nay. Nhung viec xa ra cung dem nhieu noi buon va dau long den moi nguoi trong Hoi Dong Quan Tri va nhung nguoi quan tam den Hoi. Rieng minh chau, ngan loi xin loi den Bac vi chau chua nho / biet Bac la ai. Chau rat cam men khi duoc email va loi quan tam cua Bac hom nay. Cung xin gui Bac nhung tin thuc cua Hoi Bac Ai Phanxico va xin cung tam su nhung kho quan cua HDQT trong viec da xay ra.
Men chuc Bac binh an va xin cung thiep thuc cau nguyen cho nhau,
Than men,
Khuong
From: Luat Pham [mailto:[email protected]]
Sent: Saturday, March 21, 2015 10:58 PM
To: [email protected]
Subject: Lời nhắc nhở trong mùa chay
Cháu Khương (Giám Đốc của Hội Bác Ái Phanxicô) thân mến,
Bác đã đọc và rất đau lòng về những chuyện lộn xộn của Hội Bác Ái Phanxicô trong những ngày tháng qua trên các mạng lưới của toàn thế giới. Trong mùa chay Thánh này, bác nhắc cho con 2 trong 10 giới luật của Chúa mà con đã được dậy bảo khi con đang còn là một thày tu của một Nhà Dòng Công Giáo:
1. Thứ 5: Chớ giết người – Người ta cũng có thể giết người bằng miệng lưỡi, khi mà ta xúi giục ai đó đi giết người, hoặc bằng cách khiêu khích, vu cáo, mạ lỵ: “Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo, lưỡi thì sắc bén tựa gươm đao” (Tv 66,6). Tệ hại hơn nữa, nạn nhân ấy là một Linh Mục: http://www.simonhoadalat.com/ HOCHOI/NamThanh/DucTin/ 51NamDucTin-Bai-35.htm
2. Thứ 7: Chớ lấy của người - Tệ hại hơn nữa, lấy của những người bần cùng trong xã hội, những trẻ mồ côi tật nguyền:http://www.simonhoadalat.com/ HOCHOI/GIAOLUAT/ TuSachGiaoLyGP/ GiaoAnThemSucII/Bai13.htm
Bác sẽ cầu nguyện cho cháu và Hội Đồng Quản Trị (Nguyệt, Chí và Thiện).
"Lạy Cha, Xin Tha Cho Họ, Vì Họ Không Biết Việc Họ Làm." (Lc 23:34).
Amen.
From: Luat Pham <[email protected]>
Date: 2015-03-22 21:17 GMT-05:00
Subject: Fw: Lời nhắc nhở trong mùa chay
To:
On Sunday, March 22, 2015 9:12 PM, Luat Pham <[email protected]> wrote:
Cháu Khương, Nguyệt, Chí và Thiện thân mến,
Bác đã đọc lá thư hồi âm của các con với văn kiện đính kèm khoảng một tiếng đồng hồ sau khi bác gởi thư cho các con, và bác buồn, rất buồn và tội nghiệp cho các con hơn trước nữa. Vì có lẽ các con chưa kịp đọc, suy niệm và thấu hiểu 2 giáo luật trước nên đã trả lời thư của bác với văn kiện và lời lẽ thật đau lòng và rất vội vã. Các con hãy tìm một Linh Mục để Ngài giải thích lại cho các con giáo luật thứ 5: Chớ giết người, nhất là người đó là một Linh Mục, vị Linh Mục đã rất yêu thương các con.
Và các con cũng siêng năng lần hạt Mân Côi, bác khuyên các con nên suy gẫm lại mầu nhiệm thứ tư của Năm Sự Sáng: Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi. Ta hãy xin cho được lắng nghe và thực hành lời Chúa. Đừng phân bua nữa, hãy suy gẫm lời Chúa trong thinh lặng và lắng nghe. Ăn năn sám hối đi các con, không muộn đâu, ngày giờ đã gần đến rồi.
Bác gởi lại 2 giáo luật này cho các con, và bác nhắc thêm cho con một giáo luật nữa sau khi đọc văn kiện đính kèm mà con gởi cho bác. Thật tội nghiệp cho các con, Lạy Cha, Xin Tha Cho Họ, Vì Họ Không Biết Việc Họ Làm.
Các con hãy cùng nhau đọc và suy niệm 3 giáo luật này và đừng viết thư để phân trần với bác nữa; dùng thời gian ấy để kiểm điểm lại tâm hồn của mình. Các con không cần phải trả lời cho bác vì bác không viết ra các giáo luật ấy mà các con chỉ cần phải trả lời cho Người Chủ của các giáo luật đó thôi, ngày các con gặp Ngài:
1. Điều răn thứ 5: Chớ giết người – Người ta cũng có thể giết người bằng miệng lưỡi, khi mà ta xúi giục ai đó đi giết người, hoặc bằng cách khiêu khích, vu cáo, mạ lỵ: “Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo, lưỡi thì sắc bén tựa gươm đao” (Tv 66,6). Tệ hại hơn nữa, nạn nhân ấy là một Linh Mục: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/NamThanh/DucTin/51NamDucTin-Bai-35.htm
2. Điều răn thứ 7: Chớ lấy của người - Tệ hại hơn nữa, lấy của những người bần cùng trong xã hội, những trẻ mồ côi tật nguyền:http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/GiaoAnThemSucII/Bai13.htm
3. Điều răn thứ 8: Chớ làm chứng dối - Tôn trọng sự thật, không nói, không làm điều gian dối và tôn trọng danh dự người khác. Nhất là, người ấy là một vị Linh Mục: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/GIAOLUAT/TuSachGiaoLyGP/GiaoAnThemSucII/Bai15.htm
Bác đã, đang và sẽ tiếp tục cầu nguyện cho các con.
"Lạy Cha, Xin Tha Cho Họ, Vì Họ Không Biết Việc Họ Làm." (Lc 23:34).
Amen.
On Saturday, March 21, 2015 11:48 PM, Khuong Kevin Tran <[email protected]> wrote:
Subject: Lời nhắc nhở trong mùa chay
Bac Luat men,
Chau xin gui loi cam on den Bac vi nhung loi quan tam cua Bac trong email ngay hom nay. Nhung viec xa ra cung dem nhieu noi buon va dau long den moi nguoi trong Hoi Dong Quan Tri va nhung nguoi quan tam den Hoi. Rieng minh chau, ngan loi xin loi den Bac vi chau chua nho / biet Bac la ai. Chau rat cam men khi duoc email va loi quan tam cua Bac hom nay. Cung xin gui Bac nhung tin thuc cua Hoi Bac Ai Phanxico va xin cung tam su nhung kho quan cua HDQT trong viec da xay ra.
Men chuc Bac binh an va xin cung thiep thuc cau nguyen cho nhau,
Than men,
Khuong
From: Luat Pham [mailto:[email protected]]
Sent: Saturday, March 21, 2015 10:58 PM
To: [email protected]
Subject: Lời nhắc nhở trong mùa chay
Cháu Khương (Giám Đốc của Hội Bác Ái Phanxicô) thân mến,
Bác đã đọc và rất đau lòng về những chuyện lộn xộn của Hội Bác Ái Phanxicô trong những ngày tháng qua trên các mạng lưới của toàn thế giới. Trong mùa chay Thánh này, bác nhắc cho con 2 trong 10 giới luật của Chúa mà con đã được dậy bảo khi con đang còn là một thày tu của một Nhà Dòng Công Giáo:
1. Thứ 5: Chớ giết người – Người ta cũng có thể giết người bằng miệng lưỡi, khi mà ta xúi giục ai đó đi giết người, hoặc bằng cách khiêu khích, vu cáo, mạ lỵ: “Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo, lưỡi thì sắc bén tựa gươm đao” (Tv 66,6). Tệ hại hơn nữa, nạn nhân ấy là một Linh Mục: http://www.simonhoadalat.com/ HOCHOI/NamThanh/DucTin/ 51NamDucTin-Bai-35.htm
2. Thứ 7: Chớ lấy của người - Tệ hại hơn nữa, lấy của những người bần cùng trong xã hội, những trẻ mồ côi tật nguyền:http://www.simonhoadalat.com/ HOCHOI/GIAOLUAT/ TuSachGiaoLyGP/ GiaoAnThemSucII/Bai13.htm
Bác sẽ cầu nguyện cho cháu và Hội Đồng Quản Trị (Nguyệt, Chí và Thiện).
"Lạy Cha, Xin Tha Cho Họ, Vì Họ Không Biết Việc Họ Làm." (Lc 23:34).
Amen.
Thông báo về Linh Mục Trịnh Tuấn Hoàng
Kính gửi quý ân nhân, cộng tác viên của Linh mục Trịnh Tuấn Hoàng và quý Đồng hương,
Thưa quý vị,
Vào đầu tháng 1, 2015, cha Trịnh Tuấn Hoàng có gửi đơn xin được cử hành lễ giỗ cho cha Trương Bủu Diệp tại Nhà Thờ Elizabeth Ann Seaton. Cũng trong dịp này, cha Hoàng và hội Bác Ái Phanxico đang chuẩn bị một cuộc gây quỹ tại nhà hàng Kim Sợn để tiếp tục các chương trình giúp đỡ trẻ mồi côi tàn tật và người đau bệnh nghèo khó tại Việt Nam và Campuchia. Trong khì đang được cứu xét đon của cha Hoàng, Linh mục Tiến sĩ chánh xứ Paul E. Lockey đã được nghe từ một nguồn tin không xác thực về cha Hoàng nên đã có những hiểu lầm, Cha Lockey đã gửi ra một bức thư đề ngày 28 tháng 1, 2015 cho biết đơn xin làm lễ của cha Hoàng chưa được giải qưyết và cha Hoàng không được phép gây quỹ tại khu vực thuộc địa phận Galveston-Houston và nhắc nhở cáo giáo dân không nên tham gia và hỗ trợ công việc của cha Hoàng và Hội Bác Ái Phanxico.
Lá thư này được dịch ra bằng tiếng Việt không đúng với nguyên văn. Bản dịch viết rằng “Tổng Địa phận Galveston-Houston không cho phép cha Hoàng được cử hành các Bí Tích và những công việc mục vụ trong toàn địa phận”. Bản dịch này và lá thư của cha Lockey đã được phổ biến rộng rãi không chỉ trong địa phận Galveston-Houston mà còn gửi tới giáo dân, đồng hương mọi tôn giáo và được tung lên internet và một số cơ quan truyền thông, báo chí. Từ đó đưa ra việc đồn thổi rộng rãi là cha Trịnh Tuấn Hoàng đã bị rút chén thánh.
Cha Trịnh Tuấn Hoàng và chúng tôi đã liên lạc với cha Lockey và giải thích cho cha biết sự thật, cha Lockey đã tỏ ra rất buồn. Để làm vấn đề sáng tỏ, và trả công bằng cho cha Trịnh Tuấn Hoàng, cha Lockey đã gửi ra lá thư thứ hai đề ngày 6 tháng 2, 2015 và cải chính rằng đơn xin làm lễ của cha Hoàng đã được chấp thuận. Trong thư này cha Lockey cũng đã xác nhận rằng: “ Cha Trịnh Tuấn Hoàng là một linh mục luôn biết yêu thương và quan tâm đến người khácvà những công việc mục vụ mà ngài làm đã giúp đỡ cho rất nhiều người qua nhiều cách thức, cả bên Hoa Kỳ và vùng Viễn đông. Cha Hoàng là môt Linh mục có uy tín trong cộng đồng của ngài.” Và cho Lockey nói rằng trong lúc này cha Hoàng chưa được gây quỹ trong khu vực giáo phận Galveston-Houston, nhưng cha Lokey kêu gọi mọi người hãy cầu nguyện cho cha Hoàng và những công việc đem ánh sáng yêu thương của Chúa đến cho người cha Hoàng từng giúp đỡ.
Tiếc rằng là thư thứ hai của cha Lockey vì một lý do nào đó mà không được phổ biến rộng rãi và tin đồn thất thiệt là cha Trịnh Tấn Hoàng đã bị rút chén Thánh ngày càng lan thổi gây hoang mang và xúc động khắp nơi, nhất là cho những ân nhân, thiện nguyện viên từng làm việc với cha Hoàng nên chúng tôi xin được đưa đầy đủ tin tức về vấn đề này để dư luận được sáng tỏ. Cha Hoàng hiện đã ngưng hợp tác với hội Bác Ái Phanxinco và cha đã vâng lời cha Bề trên Dòng Phanxico trở về nhà dòng và chuẩn bị cho việc nhận nhiệm sở mới. Mọi thắc mắc liên qua đế vấn đề này, xin liên lạc với chúng tôi qua điện thoại số Hoặc email: [email protected]
Xin chân thành cám ơn toàn thể quý vị đã quan tâm
Ký tên,
Tammy Nguyen
Một số cộng tác viên với cha Trịnh Tuấn Hoàng
Cũng xin kính chuyển tiếng nói của quý Cha, Quý Sơ từ Việt Nam, những người đã làm việc với cha Hoàng nhiều năm qua trong Link dưới đây:
https://www.youtube.com/watch?v=vzIUx-8jkxE
https://www.youtube.com/watch?v=vzIUx-8jkxE
Và đính kèm trong attachment là Thư của Cha Lockey và Hai Thông Báo Quan Trọng chủa Nhà Thờ Thánh Elizabeth Ann Seaton.
Chân thành cám ơn
Tammy Nguyễn
Kính gửi quý ân nhân, cộng tác viên của Linh mục Trịnh Tuấn Hoàng và quý Đồng hương,
Thưa quý vị,
Vào đầu tháng 1, 2015, cha Trịnh Tuấn Hoàng có gửi đơn xin được cử hành lễ giỗ cho cha Trương Bủu Diệp tại Nhà Thờ Elizabeth Ann Seaton. Cũng trong dịp này, cha Hoàng và hội Bác Ái Phanxico đang chuẩn bị một cuộc gây quỹ tại nhà hàng Kim Sợn để tiếp tục các chương trình giúp đỡ trẻ mồi côi tàn tật và người đau bệnh nghèo khó tại Việt Nam và Campuchia. Trong khì đang được cứu xét đon của cha Hoàng, Linh mục Tiến sĩ chánh xứ Paul E. Lockey đã được nghe từ một nguồn tin không xác thực về cha Hoàng nên đã có những hiểu lầm, Cha Lockey đã gửi ra một bức thư đề ngày 28 tháng 1, 2015 cho biết đơn xin làm lễ của cha Hoàng chưa được giải qưyết và cha Hoàng không được phép gây quỹ tại khu vực thuộc địa phận Galveston-Houston và nhắc nhở cáo giáo dân không nên tham gia và hỗ trợ công việc của cha Hoàng và Hội Bác Ái Phanxico.
Lá thư này được dịch ra bằng tiếng Việt không đúng với nguyên văn. Bản dịch viết rằng “Tổng Địa phận Galveston-Houston không cho phép cha Hoàng được cử hành các Bí Tích và những công việc mục vụ trong toàn địa phận”. Bản dịch này và lá thư của cha Lockey đã được phổ biến rộng rãi không chỉ trong địa phận Galveston-Houston mà còn gửi tới giáo dân, đồng hương mọi tôn giáo và được tung lên internet và một số cơ quan truyền thông, báo chí. Từ đó đưa ra việc đồn thổi rộng rãi là cha Trịnh Tuấn Hoàng đã bị rút chén thánh.
Cha Trịnh Tuấn Hoàng và chúng tôi đã liên lạc với cha Lockey và giải thích cho cha biết sự thật, cha Lockey đã tỏ ra rất buồn. Để làm vấn đề sáng tỏ, và trả công bằng cho cha Trịnh Tuấn Hoàng, cha Lockey đã gửi ra lá thư thứ hai đề ngày 6 tháng 2, 2015 và cải chính rằng đơn xin làm lễ của cha Hoàng đã được chấp thuận. Trong thư này cha Lockey cũng đã xác nhận rằng: “ Cha Trịnh Tuấn Hoàng là một linh mục luôn biết yêu thương và quan tâm đến người khácvà những công việc mục vụ mà ngài làm đã giúp đỡ cho rất nhiều người qua nhiều cách thức, cả bên Hoa Kỳ và vùng Viễn đông. Cha Hoàng là môt Linh mục có uy tín trong cộng đồng của ngài.” Và cho Lockey nói rằng trong lúc này cha Hoàng chưa được gây quỹ trong khu vực giáo phận Galveston-Houston, nhưng cha Lokey kêu gọi mọi người hãy cầu nguyện cho cha Hoàng và những công việc đem ánh sáng yêu thương của Chúa đến cho người cha Hoàng từng giúp đỡ.
Tiếc rằng là thư thứ hai của cha Lockey vì một lý do nào đó mà không được phổ biến rộng rãi và tin đồn thất thiệt là cha Trịnh Tấn Hoàng đã bị rút chén Thánh ngày càng lan thổi gây hoang mang và xúc động khắp nơi, nhất là cho những ân nhân, thiện nguyện viên từng làm việc với cha Hoàng nên chúng tôi xin được đưa đầy đủ tin tức về vấn đề này để dư luận được sáng tỏ. Cha Hoàng hiện đã ngưng hợp tác với hội Bác Ái Phanxinco và cha đã vâng lời cha Bề trên Dòng Phanxico trở về nhà dòng và chuẩn bị cho việc nhận nhiệm sở mới. Mọi thắc mắc liên qua đế vấn đề này, xin liên lạc với chúng tôi qua điện thoại số Hoặc email: [email protected]
Xin chân thành cám ơn toàn thể quý vị đã quan tâm
Ký tên,
Tammy Nguyen
Một số cộng tác viên với cha Trịnh Tuấn Hoàng
Cũng xin kính chuyển tiếng nói của quý Cha, Quý Sơ từ Việt Nam, những người đã làm việc với cha Hoàng nhiều năm qua trong Link dưới đây:
https://www.youtube.com/watch?v=vzIUx-8jkxE
https://www.youtube.com/watch?v=vzIUx-8jkxE
Và đính kèm trong attachment là Thư của Cha Lockey và Hai Thông Báo Quan Trọng chủa Nhà Thờ Thánh Elizabeth Ann Seaton.
Chân thành cám ơn
Tammy Nguyễn
From: HoangTuan Trinh < [email protected]>
Date: February 17, 2015 at 12:18:10 PM EST
Subject: THONG BAO EMAIL
THÔNG BÁO
Kính chào quý Ân nhân và quý đồng hương hải ngoại.
Tôi là linh mục Phanxicô Trịnh Tuấn Hoàng, xin Cám ơn quý vị đã cho phép tôi được cùng đồng hành với quý vị để giúp đỡ trẻ em mồ côi khuyết tật trong suốt 12 nãm qua. Nay xin thông báo đến toàn thể quý ông bà và anh chị em là tôi đã mãn nhiệm kỳ 12 nãm, và không còn làm việc với Hội Bác Ái Phanxicô nữa. Thông báo này có hiệu lực kể từ ngày 16/02/2015.
Trong thời gian tới tôi sẽ trực tiếp làm linh hướng cho một Hội từ thiện khác, và sẽ được thông báo thêm sau, rất mong đón nhận sự giúp đỡ của quý Ân nhân và quý đồng hương.
Rất quý mến,
Linh mục Phanxicô Trịnh Tuấn Hoàng: (714) 213-2111
Best regards - Rat quy men,
Rev. Hoang Tuan Trinh
Cell: (714) 213-2111
Date: February 17, 2015 at 12:18:10 PM EST
Subject: THONG BAO EMAIL
THÔNG BÁO
Kính chào quý Ân nhân và quý đồng hương hải ngoại.
Tôi là linh mục Phanxicô Trịnh Tuấn Hoàng, xin Cám ơn quý vị đã cho phép tôi được cùng đồng hành với quý vị để giúp đỡ trẻ em mồ côi khuyết tật trong suốt 12 nãm qua. Nay xin thông báo đến toàn thể quý ông bà và anh chị em là tôi đã mãn nhiệm kỳ 12 nãm, và không còn làm việc với Hội Bác Ái Phanxicô nữa. Thông báo này có hiệu lực kể từ ngày 16/02/2015.
Trong thời gian tới tôi sẽ trực tiếp làm linh hướng cho một Hội từ thiện khác, và sẽ được thông báo thêm sau, rất mong đón nhận sự giúp đỡ của quý Ân nhân và quý đồng hương.
Rất quý mến,
Linh mục Phanxicô Trịnh Tuấn Hoàng: (714) 213-2111
Best regards - Rat quy men,
Rev. Hoang Tuan Trinh
Cell: (714) 213-2111
Thơ Gởi Qúy Cơ Quan Truyền Thông
Houston, ngày 12 tháng 3 năm 2015
Kính gửi quý cơ quan Báo chí, Truyền thông Việt Nam Hải Ngoại
Thưa quý vị,
Chúng tôi, một số những thiện nguyện viên từng sinh hoạt với Linh Mục Phanxicô Trịnh Tuấn Hoàng trong nhiều năm, nhận thấy trong mấy tuần vừa qua một số cơ quan truyền thông chỉ phổ biến một trong hai BẢN THÔNG BÁO QUAN TRỌNG của Nhà Thờ Thánh Elizabeth Ann Seton, thuộc Giáo Phận Galveston-Houston trong đó có bản dịch của lá thư đề ngày 28 tháng 01, 2015 của Linh mục Chánh Xứ, Tiến sĩ Paul E. Lockey. Bản dịch này đã không phản ảnh trung thực nguyên văn của lá thư cha Lockey khiến dư luận rất xôn xao, gây ra hoang mang và gây ảnh hưởng không tốt cho Linh mục Phanxico Trịnh Tuấn Hoàng và các công việc của ngài làm. Để trấn an dư luận và trả công bằng cho cha Hoàng, cha Lockey đã viết lá thư thứ 2 đề ngày 02 tháng 6, 2015. Giáo xứ Thánh Elizabeth đã gửi ra một THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ 2. Trong Thông báo này có bản dịch thư thứ hai của cha Lockey. Mặc dù bản dịch này cũng có chỗ không phản ảnh sự thật, nhất là trong phần nói về việc gây quỹ của Hội Bác Ái Phanxico, nhưng ít nhất cũng nói lên sự thật về cha Hoàng. Có một điều bất thường là THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ 2 NÀYKHÔNG ĐƯỢC PHỔ BIẾN. Chúng tôi xin đính kèm hai văn bản nói trên và nguyên bản lá thư thứ nhất của Cha Lockey để kính nhờ quý cơ quan truyền thông cho phổ biến cả hai để dư luận được sáng tỏ.
Như quý vị thấy, thư thứ nhất của cha Lockey, câu thứ ba, dòng thứ ba, thư viết: “… Tổng Giáo phận chưa cho phép cha Trịnh Tuấn Hoàng được cử hành các Bí Tích và làm những công việc mục vụ trong toàn Tổng Địa phận….” Xin trích nguyên văn: “… the Archdiocese of Galveston-Houston has not given permission to Rev. Hoàng Tuấn Trịnh, OFM, to perform any Sacrament and do any kind of pastoral Archdiocese.” (Ngưng trích).
Nhưng Bản dịch trong THÔNG BÁO QUAN TRỌNG thứ nhất, câu thứ 5, dòng thứ 10, xin trích: “…Tổng Địa Phận Galveston-Houston không cho phép Linh Mục Phanxico Trịnh Tuấn Hoàng được cử hành các Bí Tích và làm những công việc mục vụ trong toàn Tổng Địa Phận.” Ngưng trích.
Đây là lý do chính gây hoang mang, hiểu lầm và đồn thổi là cha Hoàng đã bị rút Chén Thánh. Cũng xin nói cho rõ, cha Hoàng xin phép để đưọc cử hành Lễ Giỗ của cha Trương Bửu Diệp, một thủ tục cần thiết của một vị Linh mục khi đến một Giáo phận khác. Trong thời gian này, vì có người đã lên nói chuyện với cha Lockey và đã khiến cho cha Lockey hiểu lầm nên ngài gửi lá thư thứ nhất nói trên, xác định là đơn xin của cha Hoàngchưa được phê chuẩn chứ không phải là không được phép.
Sau khi một số giáo dân và chính cha Trịnh Tuấn Hoàng đã gọi điện thoại giải thích, cha Lockey đã gửi ra một lá thư thứ hai. Lá thư này cùng bản dịch đã được đăng trong THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ mà chúng tôi xin được gọi là THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ 2 cho dễ hiểu.
Chúng tôi xin trích dẫn một phần THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ 2 của Nhà Thờ Thánh Elizabeth Ann Seton có in nguyên văn lá thư thứ hai của cha Lockey đề ngày 06 tháng 02, 2015 và bản dịch sau đây:
Trích:
“Trong những ngày vừa qua, đã có một số vấn đề xáo trộn xảy ra liên quan đến Hội Từ Thiện Bác Ái Phanxico và cha Trịnh Tuấn Hoàng, tôi đã quen biết cha Hoàng một số năm và tôi luôn nhận thấy ngài là một linh mục luôn biết yêu thương và quan tâm đến người khác, và những công việc mục vụ của ngài đã giúp đỡ cho rất nhiều người qua nhiều cách thức, cả ở bên Hoa Kỳ và Viễn Đông. Cha Hoàng là một linh mục có uy tín trong Hội Dòng của ngài.
Trong một vài ngày qua, tôi đã nhận được tin là cha Hoàng đã được phép để cử hành các Bí Tích tại Giáo Xứ Thánh Elizabeth Ann Seton vào ngày 28 tháng 02, 2015. Nghĩa là ngài đã có phép để dâng Thánh Lễ Giỗ cầu nguyện cho cha Trương Bửu Diệp. Trong thời gian này, Hội Từ Thiện Bác Ái Phanxico vẫn không được phép gây quỹ trong toàn khu vực của Tổng Địa Phận Galveston-Houston”. (Ngưng trích).
Nguyên văn bằng tiếng Anh của Lá thư thứ hai:
Trích:
“ In the last few days, there has been some confusion about the Franciscan Charity and Fr. Hoang Tuan Trinh. I have known Fr. Hoang for a number of years, and I have always experienced him as a loving and caring priest, who ministry has assisted many people in many ways, both here in United States and the Far East, Fr. Hoang is a good standing with his community.
In the last few days, I have received the news that Fr. Hoang is granted permission to celebrate the Sacrements at St. Elizabeth Ann Seton Catholich Church on Frebrury 28, 2015, for a memorial mass for Fr. Trương Bưu Diệp. At this time, the Franciscan Charity has not been granted permission for a fundraising event within the boundaries of the Archdioces of Galveston-Houston”. (Ngưng trích)
Như thế, cha Hoàng chưa bao giờ bị treo chén như một số người đồn thổi. Việc gây quỹ của cha và Hội Bác Ái Phanxico trong lúc này theo lá thư thứ hai của cha Lockey thì chưa được phép gây quỹ tại Giáo Phận Galveston. Một lần nữa, bản dịch thứ hai cũng đã gây hiểu lầm không ít cho một vị linh mục đã hy sinh và nhiệt tình giúp đỡ những người nghèo khổ, khốn cùng tại VN. Hiện chúng tôi được biết, cha Hoàng đã theo lệnh cha Bề trên dòng Phanxico đang trong thời gian tĩnh tâm hai tháng trước khi nhận nhiệm sở mới.
Cũng cần nói cho rõ, nếu là một hội Bác Ái ngoài địa phận, việc được phép gây quỹ tại khu vực của Tổng Địa Phận không phải là chuyện dễ dàng. Việc này không riêng gì đối với cha Hoàng, hội Bác Ái Phanxico mà đối với tất cả những hội bác ái khác ngoài Địa Phận.
Chúng tôi mong mỏi quý cơ quan truyền thông phổ biến đầy đủ thư của chúng tôi và cả hai THÔNG BÁO QUAN TRỌNG 1 & 2 của cha Lockey để dư luận được biết toàn bộ sự thật, chứ không phải một nửa của sự thật
Kính chúc quý vị sức khoẻ dồi dào và cơ quan luôn thăng tiến.
Kính thư,
Tammy Nguyễn, (thay mặt cho một số cộng tác viên)
7006 Piney Meadow Ct., Houston, TX. 77041
Email: [email protected]
PS. Đính kèm hai hình cha Hoàng đang làm lễ giỗ cha Bửu Diệp tại nhà thờ Thánh Elizabeth Ann Seton thuộc Tổng Điạ Phận Galveston-Houston ngày 28 tháng 02, 2015 vừa qua để kính tưòng.
Houston, ngày 12 tháng 3 năm 2015
Kính gửi quý cơ quan Báo chí, Truyền thông Việt Nam Hải Ngoại
Thưa quý vị,
Chúng tôi, một số những thiện nguyện viên từng sinh hoạt với Linh Mục Phanxicô Trịnh Tuấn Hoàng trong nhiều năm, nhận thấy trong mấy tuần vừa qua một số cơ quan truyền thông chỉ phổ biến một trong hai BẢN THÔNG BÁO QUAN TRỌNG của Nhà Thờ Thánh Elizabeth Ann Seton, thuộc Giáo Phận Galveston-Houston trong đó có bản dịch của lá thư đề ngày 28 tháng 01, 2015 của Linh mục Chánh Xứ, Tiến sĩ Paul E. Lockey. Bản dịch này đã không phản ảnh trung thực nguyên văn của lá thư cha Lockey khiến dư luận rất xôn xao, gây ra hoang mang và gây ảnh hưởng không tốt cho Linh mục Phanxico Trịnh Tuấn Hoàng và các công việc của ngài làm. Để trấn an dư luận và trả công bằng cho cha Hoàng, cha Lockey đã viết lá thư thứ 2 đề ngày 02 tháng 6, 2015. Giáo xứ Thánh Elizabeth đã gửi ra một THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ 2. Trong Thông báo này có bản dịch thư thứ hai của cha Lockey. Mặc dù bản dịch này cũng có chỗ không phản ảnh sự thật, nhất là trong phần nói về việc gây quỹ của Hội Bác Ái Phanxico, nhưng ít nhất cũng nói lên sự thật về cha Hoàng. Có một điều bất thường là THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ 2 NÀYKHÔNG ĐƯỢC PHỔ BIẾN. Chúng tôi xin đính kèm hai văn bản nói trên và nguyên bản lá thư thứ nhất của Cha Lockey để kính nhờ quý cơ quan truyền thông cho phổ biến cả hai để dư luận được sáng tỏ.
Như quý vị thấy, thư thứ nhất của cha Lockey, câu thứ ba, dòng thứ ba, thư viết: “… Tổng Giáo phận chưa cho phép cha Trịnh Tuấn Hoàng được cử hành các Bí Tích và làm những công việc mục vụ trong toàn Tổng Địa phận….” Xin trích nguyên văn: “… the Archdiocese of Galveston-Houston has not given permission to Rev. Hoàng Tuấn Trịnh, OFM, to perform any Sacrament and do any kind of pastoral Archdiocese.” (Ngưng trích).
Nhưng Bản dịch trong THÔNG BÁO QUAN TRỌNG thứ nhất, câu thứ 5, dòng thứ 10, xin trích: “…Tổng Địa Phận Galveston-Houston không cho phép Linh Mục Phanxico Trịnh Tuấn Hoàng được cử hành các Bí Tích và làm những công việc mục vụ trong toàn Tổng Địa Phận.” Ngưng trích.
Đây là lý do chính gây hoang mang, hiểu lầm và đồn thổi là cha Hoàng đã bị rút Chén Thánh. Cũng xin nói cho rõ, cha Hoàng xin phép để đưọc cử hành Lễ Giỗ của cha Trương Bửu Diệp, một thủ tục cần thiết của một vị Linh mục khi đến một Giáo phận khác. Trong thời gian này, vì có người đã lên nói chuyện với cha Lockey và đã khiến cho cha Lockey hiểu lầm nên ngài gửi lá thư thứ nhất nói trên, xác định là đơn xin của cha Hoàngchưa được phê chuẩn chứ không phải là không được phép.
Sau khi một số giáo dân và chính cha Trịnh Tuấn Hoàng đã gọi điện thoại giải thích, cha Lockey đã gửi ra một lá thư thứ hai. Lá thư này cùng bản dịch đã được đăng trong THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ mà chúng tôi xin được gọi là THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ 2 cho dễ hiểu.
Chúng tôi xin trích dẫn một phần THÔNG BÁO QUAN TRỌNG SỐ 2 của Nhà Thờ Thánh Elizabeth Ann Seton có in nguyên văn lá thư thứ hai của cha Lockey đề ngày 06 tháng 02, 2015 và bản dịch sau đây:
Trích:
“Trong những ngày vừa qua, đã có một số vấn đề xáo trộn xảy ra liên quan đến Hội Từ Thiện Bác Ái Phanxico và cha Trịnh Tuấn Hoàng, tôi đã quen biết cha Hoàng một số năm và tôi luôn nhận thấy ngài là một linh mục luôn biết yêu thương và quan tâm đến người khác, và những công việc mục vụ của ngài đã giúp đỡ cho rất nhiều người qua nhiều cách thức, cả ở bên Hoa Kỳ và Viễn Đông. Cha Hoàng là một linh mục có uy tín trong Hội Dòng của ngài.
Trong một vài ngày qua, tôi đã nhận được tin là cha Hoàng đã được phép để cử hành các Bí Tích tại Giáo Xứ Thánh Elizabeth Ann Seton vào ngày 28 tháng 02, 2015. Nghĩa là ngài đã có phép để dâng Thánh Lễ Giỗ cầu nguyện cho cha Trương Bửu Diệp. Trong thời gian này, Hội Từ Thiện Bác Ái Phanxico vẫn không được phép gây quỹ trong toàn khu vực của Tổng Địa Phận Galveston-Houston”. (Ngưng trích).
Nguyên văn bằng tiếng Anh của Lá thư thứ hai:
Trích:
“ In the last few days, there has been some confusion about the Franciscan Charity and Fr. Hoang Tuan Trinh. I have known Fr. Hoang for a number of years, and I have always experienced him as a loving and caring priest, who ministry has assisted many people in many ways, both here in United States and the Far East, Fr. Hoang is a good standing with his community.
In the last few days, I have received the news that Fr. Hoang is granted permission to celebrate the Sacrements at St. Elizabeth Ann Seton Catholich Church on Frebrury 28, 2015, for a memorial mass for Fr. Trương Bưu Diệp. At this time, the Franciscan Charity has not been granted permission for a fundraising event within the boundaries of the Archdioces of Galveston-Houston”. (Ngưng trích)
Như thế, cha Hoàng chưa bao giờ bị treo chén như một số người đồn thổi. Việc gây quỹ của cha và Hội Bác Ái Phanxico trong lúc này theo lá thư thứ hai của cha Lockey thì chưa được phép gây quỹ tại Giáo Phận Galveston. Một lần nữa, bản dịch thứ hai cũng đã gây hiểu lầm không ít cho một vị linh mục đã hy sinh và nhiệt tình giúp đỡ những người nghèo khổ, khốn cùng tại VN. Hiện chúng tôi được biết, cha Hoàng đã theo lệnh cha Bề trên dòng Phanxico đang trong thời gian tĩnh tâm hai tháng trước khi nhận nhiệm sở mới.
Cũng cần nói cho rõ, nếu là một hội Bác Ái ngoài địa phận, việc được phép gây quỹ tại khu vực của Tổng Địa Phận không phải là chuyện dễ dàng. Việc này không riêng gì đối với cha Hoàng, hội Bác Ái Phanxico mà đối với tất cả những hội bác ái khác ngoài Địa Phận.
Chúng tôi mong mỏi quý cơ quan truyền thông phổ biến đầy đủ thư của chúng tôi và cả hai THÔNG BÁO QUAN TRỌNG 1 & 2 của cha Lockey để dư luận được biết toàn bộ sự thật, chứ không phải một nửa của sự thật
Kính chúc quý vị sức khoẻ dồi dào và cơ quan luôn thăng tiến.
Kính thư,
Tammy Nguyễn, (thay mặt cho một số cộng tác viên)
7006 Piney Meadow Ct., Houston, TX. 77041
Email: [email protected]
PS. Đính kèm hai hình cha Hoàng đang làm lễ giỗ cha Bửu Diệp tại nhà thờ Thánh Elizabeth Ann Seton thuộc Tổng Điạ Phận Galveston-Houston ngày 28 tháng 02, 2015 vừa qua để kính tưòng.
GIEO GIÓ, GẶT BÃO
Ông "cha" Trịnh tuấn Hoàng
Thưa các bạn,
Thú thật, thoạt kỳ thủy đọc thoáng qua tôi cũng muốn cho qua luôn như khi đọc các email. Tuy nhiên, vì lá thư của Đức Cha George, Giám mục phụ tá giáo phận Houston Galveston còn mới toanh đây nên tôi bèn không viết không chịu được.
Ai mà chả biết ông "cha" Trịnh tuấn Hoàng(TTH). Tôi không dám đặt tên riêng cho ổng là Triệu tấn Hàng nhưng có lẽ cũng đâu đó. Tên là người.
Tôi cũng không cho phép tôi gọi ổng là " CHA" mặc dù tôi là tín đồ. Nói như vậy để minh định lập trường và giới hạn của tôi. Cũng như không có chuyện "chống cha là chống Chúa " để đội cho tôi cái nón cối bự sư cha.
Cũng vậy, hồi tháng 12 vừa qua tình cờ đi tìm bài hát về Noel, tôi thấy có cái video của TN Paris chủ đề Thánh ca Giáng Sinh (Gloria) lấy nhà thờ San Barbara để trình diễn. Tôi đã viết một bài khá dài về trách nhiệm của từng thành phần trong đó và tôi nêu lên sự lợi dụng lẫn lạm dụng nhà Chúa: Tội MẠI THÁNH hay còn gọi là buôn thần bán thánh. Không thể lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện được.
Theo như sự tìm hiểu của cá nhân. Được biết ông TTH sang Mỹ theo bố diện tỵ nạn (HO). Ổng đi tu và chịu chức linh mục dòng Phanxicô bên Mỹ. Ổng là sáng lập viên hội bác ái Phanxicô. Hội hoạt động ra sao, tôn chỉ như thế nào tôi không thắc mắc. Chỉ biết làm việc bác ái thì đúng là giáo lý và là tôn chỉ của mọi tín đồ.
Sự thể sẽ không có gì big deal nếu không xảy ra cái vụ tổ chức gây quỹ mà không ông ta cho treo cờ vàng cũng như không làm nghi thức chào quốc kỳ. Lúc đó tôi ra mặt phản đối.
Anh chàng chủ tịch cộng đồng là một anh ta ru (tu ra) đi đâu cũng vỗ ngực xưng tên và nhận mình là một tín đồ. Thương lượng gì đó với ông ta rồi thằng cha chủ tịch lên đài phát thanh (tiếng Viêt) khoe nhắng lên là : "cha đã cho phép chúng ta chào cờ rồi." Tôi nổi nóng, kiếm thằng chủ tịch mắng nó một trận. Đại khái như sau:
- Vậy mà cũng đòi là chính trị. Cách Mạng Trắng (tên cuốn sách của y) với chả đen. Tao hỏi, mày là chủ nhà mà có cái thằng cha căng chú kiết nào đó nó muốn vào nhà mày mà trước khi nó bước vào nhà mày, nó bắt mày phải gỡ bỏ hình ảnh của ông bà mày trên bàn thờ xuống thì mày nghĩ sao? Gặp tao thì: XÉO. Sao có chuyện đẻ ngược đẻ ngạo vậy cà?
Thằng cha chủ tịch CĐ này bị "bể" vì vụ vợ chồng nó đi VN chụp hình chụp ảnh với thằng Nguyễn minh Triết và Nguyễn thanh Sơn. Đảng Cộng Hòa đưa nó ra tranh cử dân biểu Tiểu Bang với đối thủ là 1 đương kim dân biểu người VN thuộc đảng Dân Chủ. Tôi nghĩ thầm, đảng Cộng Hòa đưa con gà chết ra thì chỉ có thua đến bại. Mà quả như vậy. Có nhiều chuyện nó như là con rối trên bàn cờ chính trị của Houston.
Anh TTH và cái hội này có lẽ cũng làm nhiều chuyện không được minh bạch ra sao đó nên hồi 14/7/2014 ĐGM phụ tá đã ra một thông cáo gởi đến các xứ đạo VN và nhà thờ Mỹ có cộng đồng người VN khuyến cáo không được quyên góp gây quỹ về bất cứ trường hợp nào nếu không phải vì nhu cầu của giáo xứ đều phải có phép và thư giới thiệu của Giáo phận. Kỳ dư là bất hợp pháp.
Mới đây, hội bác ái PXC lại lấy danh nghĩa tổ chức lễ giỗ cho cha Trương Bửu Diệp ở nhà thờ Elizabeth Ann Seton nhưng đó chỉ là bình phong còn bên trong mục đích là gây quỹ cho hội. Lập lòe đánh lận con đen. Tòa GM lại có một thông cáo nữa (15/2/1015) ghi đích danh ông TTH v/v này. Nói thẳng là không được phép (thư tòa GM viết rất khéo và lịch sự bằng 2 ngôn ngữ). Cho nên ông ta mới có cái thư phản ứng mà quý vị thấy dưới đây.
Tôi lấy làm lạ, ông ta là sáng lập viên của cái hội này mà bây giờ anh lại phán là mãn nhiệm kỳ 12 năm??? Dấu đầu lòi đuôi. Something wrong.
Còn nhiều chuyện về ông này lắm lắm. Chẳng hạn như là đức vâng lời, việc đi lại, cách xử dụng tiền bạc. Cách hành xử của ông ta với anh em trong nhà dòng khi ông ta về VN làm việc bác ái...
Biết trước là sẽ có nhiều phản ứng khi tôi viết những dòng này nhưng thiết nghĩ, trung ngôn nghịch nhĩ. Mình không lên tiếng thì ai nói đây. Nhiệm vụ của ngôn sứ là phải nói tiếng nói trung thực của lương tâm cho dù hậu quả có đi đến đâu.
MƯA NGUỒN
Ông "cha" Trịnh tuấn Hoàng
Thưa các bạn,
Thú thật, thoạt kỳ thủy đọc thoáng qua tôi cũng muốn cho qua luôn như khi đọc các email. Tuy nhiên, vì lá thư của Đức Cha George, Giám mục phụ tá giáo phận Houston Galveston còn mới toanh đây nên tôi bèn không viết không chịu được.
Ai mà chả biết ông "cha" Trịnh tuấn Hoàng(TTH). Tôi không dám đặt tên riêng cho ổng là Triệu tấn Hàng nhưng có lẽ cũng đâu đó. Tên là người.
Tôi cũng không cho phép tôi gọi ổng là " CHA" mặc dù tôi là tín đồ. Nói như vậy để minh định lập trường và giới hạn của tôi. Cũng như không có chuyện "chống cha là chống Chúa " để đội cho tôi cái nón cối bự sư cha.
Cũng vậy, hồi tháng 12 vừa qua tình cờ đi tìm bài hát về Noel, tôi thấy có cái video của TN Paris chủ đề Thánh ca Giáng Sinh (Gloria) lấy nhà thờ San Barbara để trình diễn. Tôi đã viết một bài khá dài về trách nhiệm của từng thành phần trong đó và tôi nêu lên sự lợi dụng lẫn lạm dụng nhà Chúa: Tội MẠI THÁNH hay còn gọi là buôn thần bán thánh. Không thể lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện được.
Theo như sự tìm hiểu của cá nhân. Được biết ông TTH sang Mỹ theo bố diện tỵ nạn (HO). Ổng đi tu và chịu chức linh mục dòng Phanxicô bên Mỹ. Ổng là sáng lập viên hội bác ái Phanxicô. Hội hoạt động ra sao, tôn chỉ như thế nào tôi không thắc mắc. Chỉ biết làm việc bác ái thì đúng là giáo lý và là tôn chỉ của mọi tín đồ.
Sự thể sẽ không có gì big deal nếu không xảy ra cái vụ tổ chức gây quỹ mà không ông ta cho treo cờ vàng cũng như không làm nghi thức chào quốc kỳ. Lúc đó tôi ra mặt phản đối.
Anh chàng chủ tịch cộng đồng là một anh ta ru (tu ra) đi đâu cũng vỗ ngực xưng tên và nhận mình là một tín đồ. Thương lượng gì đó với ông ta rồi thằng cha chủ tịch lên đài phát thanh (tiếng Viêt) khoe nhắng lên là : "cha đã cho phép chúng ta chào cờ rồi." Tôi nổi nóng, kiếm thằng chủ tịch mắng nó một trận. Đại khái như sau:
- Vậy mà cũng đòi là chính trị. Cách Mạng Trắng (tên cuốn sách của y) với chả đen. Tao hỏi, mày là chủ nhà mà có cái thằng cha căng chú kiết nào đó nó muốn vào nhà mày mà trước khi nó bước vào nhà mày, nó bắt mày phải gỡ bỏ hình ảnh của ông bà mày trên bàn thờ xuống thì mày nghĩ sao? Gặp tao thì: XÉO. Sao có chuyện đẻ ngược đẻ ngạo vậy cà?
Thằng cha chủ tịch CĐ này bị "bể" vì vụ vợ chồng nó đi VN chụp hình chụp ảnh với thằng Nguyễn minh Triết và Nguyễn thanh Sơn. Đảng Cộng Hòa đưa nó ra tranh cử dân biểu Tiểu Bang với đối thủ là 1 đương kim dân biểu người VN thuộc đảng Dân Chủ. Tôi nghĩ thầm, đảng Cộng Hòa đưa con gà chết ra thì chỉ có thua đến bại. Mà quả như vậy. Có nhiều chuyện nó như là con rối trên bàn cờ chính trị của Houston.
Anh TTH và cái hội này có lẽ cũng làm nhiều chuyện không được minh bạch ra sao đó nên hồi 14/7/2014 ĐGM phụ tá đã ra một thông cáo gởi đến các xứ đạo VN và nhà thờ Mỹ có cộng đồng người VN khuyến cáo không được quyên góp gây quỹ về bất cứ trường hợp nào nếu không phải vì nhu cầu của giáo xứ đều phải có phép và thư giới thiệu của Giáo phận. Kỳ dư là bất hợp pháp.
Mới đây, hội bác ái PXC lại lấy danh nghĩa tổ chức lễ giỗ cho cha Trương Bửu Diệp ở nhà thờ Elizabeth Ann Seton nhưng đó chỉ là bình phong còn bên trong mục đích là gây quỹ cho hội. Lập lòe đánh lận con đen. Tòa GM lại có một thông cáo nữa (15/2/1015) ghi đích danh ông TTH v/v này. Nói thẳng là không được phép (thư tòa GM viết rất khéo và lịch sự bằng 2 ngôn ngữ). Cho nên ông ta mới có cái thư phản ứng mà quý vị thấy dưới đây.
Tôi lấy làm lạ, ông ta là sáng lập viên của cái hội này mà bây giờ anh lại phán là mãn nhiệm kỳ 12 năm??? Dấu đầu lòi đuôi. Something wrong.
Còn nhiều chuyện về ông này lắm lắm. Chẳng hạn như là đức vâng lời, việc đi lại, cách xử dụng tiền bạc. Cách hành xử của ông ta với anh em trong nhà dòng khi ông ta về VN làm việc bác ái...
Biết trước là sẽ có nhiều phản ứng khi tôi viết những dòng này nhưng thiết nghĩ, trung ngôn nghịch nhĩ. Mình không lên tiếng thì ai nói đây. Nhiệm vụ của ngôn sứ là phải nói tiếng nói trung thực của lương tâm cho dù hậu quả có đi đến đâu.
MƯA NGUỒN
12 câu nói muôn đời giá trị của Khổng Tử.
Là nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng lịch sử Trung Quốc, Khổng Tử đã để lại cho đời nhiều câu nói có giá trị đến muôn đời sau.
1.Biết có lỗi mà không sửa thì đó chính là lỗi.
2.Người không có chữ tín sẽ chẳng làm nên việc gì.
3.Sự nghiệp chớ nên cầu mong không có chông gai, trắc trở vì không có chúng thì ý chí sẽ không kiên định.
4.Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi.
5.Đừng mong người khác thuận theo ý mình vì nếu được người khác thuận ý sẽ tất sinh tự kiêu.
6.Làm việc đừng mong dễ thành công. Vì nếu dễ thành công thì bản thân thường kiêu ngạo.
7.Không nhìn điều sai trái, không nghe điều xằng bậy, không nói điều sai, không làm điều càn quấy.
8.Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác. Đối với quê hương, gia đình nên tránh gây thù, chuốc oán.
9.Người không có nhận thức sâu xa sẽ có ngày sẽ gặp phiền muộn, âu lo.
10.Mọi thứ đều từ hư vô mà ra.
11.Dùng thì đừng nghi, nghi thì đừng dùng.
12.Ngồi bàn tiệc đừng ra vẻ anh hùng vì rượu đã làm cho nhiều người gục ngã.
Là nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng lịch sử Trung Quốc, Khổng Tử đã để lại cho đời nhiều câu nói có giá trị đến muôn đời sau.
1.Biết có lỗi mà không sửa thì đó chính là lỗi.
2.Người không có chữ tín sẽ chẳng làm nên việc gì.
3.Sự nghiệp chớ nên cầu mong không có chông gai, trắc trở vì không có chúng thì ý chí sẽ không kiên định.
4.Có kiến thức thì không nghi ngờ, có lòng nhân thì không ưu tư, có dũng cảm thì không sợ hãi.
5.Đừng mong người khác thuận theo ý mình vì nếu được người khác thuận ý sẽ tất sinh tự kiêu.
6.Làm việc đừng mong dễ thành công. Vì nếu dễ thành công thì bản thân thường kiêu ngạo.
7.Không nhìn điều sai trái, không nghe điều xằng bậy, không nói điều sai, không làm điều càn quấy.
8.Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác. Đối với quê hương, gia đình nên tránh gây thù, chuốc oán.
9.Người không có nhận thức sâu xa sẽ có ngày sẽ gặp phiền muộn, âu lo.
10.Mọi thứ đều từ hư vô mà ra.
11.Dùng thì đừng nghi, nghi thì đừng dùng.
12.Ngồi bàn tiệc đừng ra vẻ anh hùng vì rượu đã làm cho nhiều người gục ngã.
The Birds of Paradise
7 lời khuyên đáng suy ngẫm của KHỔNG TỬ
Nghịch lý cuộc đời !
1. Cha mẹ chỉ biết cho, chẳng biết đòi. Con cái thích vòi mà không biết trả.
2. Cha mẹ dạy điều hay, kêu lắm lời. Bước chân vào đời ngớ nga ngớ ngẩn.
3. Cha nỡ coi khinh, mẹ dám coi thường. Bước chân ra đường phi trộm thì cướp.
4. Cha mẹ ngồi đấy không hỏi, không han. Bước vào cơ quan cúi chào thủ trưởng.
5. Con trai chào trăm câu không bằng nàng dâu một lời thăm hỏi.
6. Khôn ...đừng cãi người già, chớ có dại mà chửi nhau với trẻ.
7. Mỗi cây mỗi hoa, đừng trách mẹ cha nghèo tiền nghèo của.
8. Cái gì cũng cho con tất cả, coi chừng ra mả mà cười.
9. Đồng tiền trên nghĩa, trên tình, mái ấm gia đình trở thành mái lạnh.
10. Gian nhà, hòn đất, mất cả anh em. Mái ấm bỗng nhiên trở thành mái nóng.
11. Bố mẹ không có của ăn của để, con rể khinh luôn.
12. Ngồi bên bia rượu hàng giờ, dễ hơn đợi chờ nửa giây đèn đỏ.
13. Củi mục khó đun, chồng cùn sống bậy, con cái mất dạy, phí cả một đời.
14. Hay thì ở, dở ra tòa, chia của chia nhà, con vào xóm "bụi".
15. Ngồi cùng thiên hạ, trăm việc khoe hay. Mẹ ốm bảy ngày không lời thăm hỏi.
16. Bài hát Tây Tàu hát hay mọi nhẽ. Lời ru của mẹ chẳng thuộc câu nào.
17. Khấn Phật, cầu Trời, lễ bái khắp nơi, nhưng quên ngày giỗ Tổ.
18. Vào quán thịt cầy, trăm ngàn coi nhẹ, góp giỗ cha mẹ suy tị từng đồng.
19. Giỗ cha coi nhẹ, nuôi mẹ thì không. Cả vợ lẫn chồng đi làm từ thiện.
20. Một miếng ngọt bùi khi còn cha mẹ, một miếng bánh đa hơn mười ba mâm báo hiếu.
21. Cha mẹ còn thơm thảo bát canh rau. Đừng để mai sau xây mồ to, mả đẹp.
22. Bảy mươi còn phải học bảy mốt. Mới nhảy vài bước chớ vội khoe tài.
23. Đi chùa công đức vài trăm không tiếc, tiếc từng hào phụng dưỡng mẹ cha
1. Cha mẹ chỉ biết cho, chẳng biết đòi. Con cái thích vòi mà không biết trả.
2. Cha mẹ dạy điều hay, kêu lắm lời. Bước chân vào đời ngớ nga ngớ ngẩn.
3. Cha nỡ coi khinh, mẹ dám coi thường. Bước chân ra đường phi trộm thì cướp.
4. Cha mẹ ngồi đấy không hỏi, không han. Bước vào cơ quan cúi chào thủ trưởng.
5. Con trai chào trăm câu không bằng nàng dâu một lời thăm hỏi.
6. Khôn ...đừng cãi người già, chớ có dại mà chửi nhau với trẻ.
7. Mỗi cây mỗi hoa, đừng trách mẹ cha nghèo tiền nghèo của.
8. Cái gì cũng cho con tất cả, coi chừng ra mả mà cười.
9. Đồng tiền trên nghĩa, trên tình, mái ấm gia đình trở thành mái lạnh.
10. Gian nhà, hòn đất, mất cả anh em. Mái ấm bỗng nhiên trở thành mái nóng.
11. Bố mẹ không có của ăn của để, con rể khinh luôn.
12. Ngồi bên bia rượu hàng giờ, dễ hơn đợi chờ nửa giây đèn đỏ.
13. Củi mục khó đun, chồng cùn sống bậy, con cái mất dạy, phí cả một đời.
14. Hay thì ở, dở ra tòa, chia của chia nhà, con vào xóm "bụi".
15. Ngồi cùng thiên hạ, trăm việc khoe hay. Mẹ ốm bảy ngày không lời thăm hỏi.
16. Bài hát Tây Tàu hát hay mọi nhẽ. Lời ru của mẹ chẳng thuộc câu nào.
17. Khấn Phật, cầu Trời, lễ bái khắp nơi, nhưng quên ngày giỗ Tổ.
18. Vào quán thịt cầy, trăm ngàn coi nhẹ, góp giỗ cha mẹ suy tị từng đồng.
19. Giỗ cha coi nhẹ, nuôi mẹ thì không. Cả vợ lẫn chồng đi làm từ thiện.
20. Một miếng ngọt bùi khi còn cha mẹ, một miếng bánh đa hơn mười ba mâm báo hiếu.
21. Cha mẹ còn thơm thảo bát canh rau. Đừng để mai sau xây mồ to, mả đẹp.
22. Bảy mươi còn phải học bảy mốt. Mới nhảy vài bước chớ vội khoe tài.
23. Đi chùa công đức vài trăm không tiếc, tiếc từng hào phụng dưỡng mẹ cha
Bài giảng của Linh mục Giu-se Nguyễn văn Toản tại Saigon
Ca Doan Thanh Tam - Ai Bao Di Tu La Kho - Dong Da Minh 201107086
Dòng Nhạc Gợi Nhớ
Xin bấm vào trang mạng dưới đây để nghe lại những dòng nhạc gợi nhớ...
http://www.taberd75.com/music/am_nhac.html
Xin bấm vào trang mạng dưới đây để nghe lại những dòng nhạc gợi nhớ...
http://www.taberd75.com/music/am_nhac.html
Du Lịch Vatican
Hình ảnh của VATICAN
Trong này có 13 hình, xin bấm từng tấm mà xem. Khi hình hiện ra rồi, giữ con chuột và soay theo hướng mình muốn coi. Rất là hay, xem coi cho biết Vatican từng chi tiết nhỏ. Ngồi tại nhà mà xem Vatican như thế nào. Máy chụp này thật là hay. Coi xong mỗi hình, bấm nút back là xem hình khác.
http://www.vatican.va/various/basiliche/san_giovanni/vr_tour/index-en.html
Hình ảnh của VATICAN
Trong này có 13 hình, xin bấm từng tấm mà xem. Khi hình hiện ra rồi, giữ con chuột và soay theo hướng mình muốn coi. Rất là hay, xem coi cho biết Vatican từng chi tiết nhỏ. Ngồi tại nhà mà xem Vatican như thế nào. Máy chụp này thật là hay. Coi xong mỗi hình, bấm nút back là xem hình khác.
http://www.vatican.va/various/basiliche/san_giovanni/vr_tour/index-en.html